Thực trạng môi trường và các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm ở Công ty xi măng Bút Sơn

Đặt vấn đề Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, vấn đề xây dựng hạ tầng cơ sở là trọng tâm. Nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển công nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu. Xi măng là một trong những nguyên liệu cơ bản để xây dựng các công trình công nghiệp và dân dụng của nhà nước, nhân dân. Đến năm 2000 nhà nước ta đã có 60 công ty xi măng và đã sản xuất một lượng xi măng khá lớn ( trên 11 triệu tấn một năm ) và theo dự tính nhu cầu xi măng sẽ tăng 4-5 lần mới đáp

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng môi trường và các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm ở Công ty xi măng Bút Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứng được yêu cầu xây dựng cơ bản trong cả nước. Các công trình công nghiệp,đường sá,cầu cống,các công trình văn hóa,thể thao kể cả nhu cầu xây dựng của nhân dân vì vậy trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 nhiều nhà máy xi măng được xây dựng với công nghệ hiện đại sản xuất bằng lò quay thay thế dần công nghệ lò đứng đã lạc hậu. Tuy nhiên không thể thay thế trong một thời gian ngắn vì vậy việc sản xuất xi măng bằng lò đứng vẫn tiếp tục hoạt động trong điều kiện hiện nay.Vấn đề sản xuất xi măng trong những năm qua đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản về xây dựng trong thời kỳ hiện nay nhưng bên cạnh kết quả đạt được vấn đề ô nhiễm môi trường cũng đáng lo ngại . Không những công nhân trực tiếp sản xuất chịu ảnh hưởng của tác động môi trường do nhiệt, tiếng ồn, bụi,hơi khí độc và mùi hôi thối của nước thải mà còn ảnh hưởng đến nhân dân vùng lân cận. Để tìm hiểu thêm ảnh hưởng của môi trường lao động đến công nhân sản xuất xi măng ở công ty xi măng Bút Sơn chúng em thực hiện đề tài: “ Thực trạng môi trường và các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm ở công ty xi măng Bút Sơn” nhằm mục đích: 1. Đánh giá thực trạng môi trường không khí, nước gồm các yếu tố vi khí hậu, bụi, tiếng ồn, các khí độc hại và nước sinh hoạt, nước thải của công ty. 2. Tìm hiểu một số biện pháp của công ty nhằm hạn chế tác động của môi trường đến sức khoẻ của công nhân và nhân dân vùng lân cận. Thực hiện đề tài này giúp em hoàn thiện thêm về kiến thức đã được thầy cô trang bị trong 4 năm học ở trường, đồng thời giúp em hiểu thêm phương pháp thực hiện 1 đồ án tốt nghiệp, làm quen với nghiên cứu khoa học, tạo nhiều thuận lợi trong công tác sau này. Chương i Tổng quan tài liệu 1.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường trong các ngành sản xuất công nghiệp ở nước ta. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải, trong những thập niên gần đây vấn đề ô nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng và không chỉ trong phạm vi của một Quốc gia mà vượt ra ngoài biên giới, mang tính toàn cầu. Ô nhiễm do hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải, do sinh hoạt của con người và cả thiên nhiên cũng góp phần đáng kể (núi lửa, bão lụt, băng tan) trong đó các ngành hoạt động công nghiệp gây ô nhiễm môi trường là nặng nề nhất.[1] Môi trường lao động bao gồm toàn bộ các yếu tố có tại nơi làm việc tác động đến việc thực hiện quá trình lao động. Đó là các yếu tố vất lý (tiếng ồn, nhiệt độ cao, ánh sáng, độ ẩm…), hoá học, lý-hoá (bụi), sinh học… Trong sản xuất công nghiệp con người thường xuyên phải tiếp xúc với các yếu tố độc hại, trong khi đó khả năng thích nghi và chống đỡ của cơ thể lại có hạn, cho nên đến một thời điểm nào đó, cơ thể sẽ giảm sút sức đề kháng, suy yếu sức khoẻ, phát sinh các bệnh tất và giảm khả năng lao động. Theo đánh giá của Viện y học lao động và Vệ sinh môi trường (năm 1999) thì môi trường lao động từng lúc, từng nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, có tới 40% số công nhân lao động trong môi trường nhiễm các yếu tố độc hại. Nhiều nghiên cứu đã thống nhất rằng tình trạng sức khoẻ của người lao động là thước đo tổng hợp trạng thái của môi trường. Khi các yếu tố môi trường tác dụng xấu đối với sức khỏe và khả năng lao động của con người thì được coi là yếu tố tác hại nghề nghiệp. Hiện nay người ta chia ra 4 loại yếu tố tác hại nghề nghiệp chủ yếu đến người lao động đó là - Tác hại nghề nghiệp liên quan đến vấn đề sản xuất: do công nghệ và nguyên liệu sản xuất làm phát sinh ra các yếu tố tác hại như các yếu tố vật lý (nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió, bụi, tiếng ồn…); hoá học (hơi khí độc hại như CO, SO2, HF, CO2…) sinh học ( nấm mốc,vi khuẩn, ký sinh trùng…) ảnh hưởng đến sức khoẻ người công nhân. -Tác hại nghề nghiệp có liên quan đến quá trình lao động như: thời gian làm việc, cương độ lao động, chế độ nghỉ ngơi thiếu hợp lý… -Tác hai nghề nghiệp liên quan đến tình trạng vệ sinh chung và tình trạng thiết bị sản xuất: nhà xưởng, phương tiện bảo hộ lao động, vị trí làm việc chưa hợp lý… -Tác hại nghề nghiệp liên quan đến tâm lý người lao động: căng thẳng tâm lý, lượng thông tin và công việc quá tải… Trong công nghiệp các yếu tố gây ô nhiễm thường gặp ở các cơ sở sản xuất là nhiệt độ, độ ẩm cao, tiếng ồn, bụi và các hoá chất độc hại trong môi trường không khí.[6,4-32] 1.1.1. Ô nhiễm nhiệt. Nước ta thuộc nước nhiệt đới, gió mùa, nóng và ẩm (hàng năm có > 273 ngày nắng nóng, nhiệt độ ngoài trời trong bóng dâm >200C và độ ẩm thường xuyên khoảng 80%) Đặc biệt, về mùa hè trong những ngày nóng bức, nhiệt độ ngoài trời có khi lên đến 380-400C, nhiệt độ của các vật bị nung nóng có thể lên tới 450C. Đây là điều kiện thuận lợi để phát sinh ô nhiễm nhiệt tại môi trường lao động. Nhiều nghiên cứu cho thấy nhiệt độ hầu hết ở các công trường, xí nghiệp đều vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP).[2] Tại các cơ sở sản xuất nhiệt độ ngoài trời và trong nhà có mái che có sự chênh lệch lớn. Trong điều kiện các nhà xưởng, nơi làm việc thoáng, có cửa ra vào và cửa sổ rộng, không khí được giao lưu thì nhiệt độ trong nhà thấp hơn ngoài trời. Nhưng ngược lại nếu trong nhà đóng kín, có các máy móc hoạt động thì nhiệt độ trong nhà lại cao hơn ngoài trời. Một số ngành nghề phải lao động trong môi trường có nhiệt độ cao như sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ, luyện kim, đúc khuôn… nguồn nhiệt thường phát sinh từ các lò nung luyện,bức xạ mặt trời, bức xạ nhiệt phát ra từ các động cơ máy móc thiết bị. ở các phân xưởng nung xi măng, về mùa hè,nhiệt độ nơi làm việc lên tới 520C, độ ẩm 98% .ở nhà máy xi măng Bỉm Sơn, khi nhiệt độ ngoài trời 36,90C thì trong phân xưởng nung cao hơn ngoài trời 3,340C, độ ẩm lại thập hơn 4,16%, nhiệt độ Yaglou cao hơn 3,090.[20,3-20] Theo một số tác giả Liên Xô(cũ) lao động trong môi trường nhiệt độ cao, hiệu quả làm việc giảm 30-44 % nhất là trong điều kiện độ ẩm cao.[4,9-16] Bảng 1.1 . Cảm giác nhiệt và khả năng lao động theo độ ẩm và nhiệt độ. Nhiệt độ (0C) Độ ẩm tương đối(%) Khả năng lao động 21 40 85 91 Dễ chịu nhất Dễ chịu khi nghỉ ngơi Mệt và suy nhược 26 20 65 80 100 Không có cảm giác khó chịu Khó chịu Cần nghỉ Không lao động nặng được 32 25 50 65 81 90 Không có cảm giác khó chịu. Không lao động nặng được. Không lao động gì được. Tăng nhiệt độ cơ thể. Nguy hiểm cho sức khoẻ. Ngoài ra ô nhiễm nhiệt còn hợp lực với các yếu tố khác: bụi, tiếng ồn, lao động thể lực nặng…và làm tăng tác động bất lợi của môi trường đến sức khoẻ của người lao động. Do đó những công nhân ở những cơ sở có ô nhiễm bụi, hơi khí độc và vi khí hậu nóng có tỷ lệ bệnh mắt, hô hấp, mũi- họng và ngoài da thường cao hơn so với những công nhân chỉ tiếp xúc riêng với yếu tố vi khí hậu nóng.[18] 1.1.2.Ô nhiễm tiếng ồn Kinh tế phát triển, cơ giới hoá càng cao thì sự ô nhiễm tiếng ồn càng lớn. Tiếng ồn là những âm thanh có cường độ và tần số khác nhau, được sắp xếp một cách không có trật tự, gây cảm giác khó chịu cho người nghe, cản trở con người làm việc và nghỉ ngơi. Do vậy, chống tiếng ồn là một trong vấn đề cấp bách để bảo vệ sức khoẻ của nhân dân sống ở các đô thị, cũng như những người tiếp xúc trực tiếp với tiếng ồn có cường độ cao. ở các nước có nền công nghiệp phát triển có từ 1/4 á1/3 số người phải lao động trong môi trường có tiếng ồn ở mức có hại.Theo số liệu khảo sát của Viện bảo hộ lao động ở 11 cơ sở sản xuất công nghiệp thấy có nhiều ngươì phải tiếp xúc với tiếng ồn vượt TCCP, trong đó có tới 10,95% số công nhân bị bệnh điếc nghề nghiệp (ĐNN). Qua điều tra trong ngành phân lân, phân đạm, và super phốt phát, sản xuất vật liệu xây dựng…mức độ tiếng ồn chung vượt TCCP 10 á 25 dB. Điều tra trên 669 tài xế ở xí nghiệp đầu máy Hà Nội đã phát hiện được 9,27% số người có biểu đồ dạng điếc nghề nghiệp trong đó có 4,34% được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (số công nhân có từ 20 năm tuổi nghề trở lên). Bùi Thu và cộng sự nghiên cứu tiếng ồn của một số xe chuyên dụng thấy rằng loại máy kéo DT-75 có tiếng ồn từ 85dB đến 90dB, máy kéo DT-54 từ 98dB đến 120dB. Các loại xe đều có tiếng ồn từ khó chịu (60dB) đến chói tai (90dB). Các loại xe ủi, xe gạt, máy khoan (ở các công ty sản xuất vật liệu xây dựng và sản xuất xi măng (bộ phận khai thác đá) đều có tiếng ồn từ 90 dB trở lên.[19,3-40] Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, nếu bị tác động thường xuyên, tiếng ồn sẽ gây rối loạn chức năng của toàn cơ thể ( thần kinh trung ương, tim mạch, và các cơ quan chức năng khác, đặc biệt là cơ quan thính giác ).Tại các nước tư bản, số công nhân bị rối loạn thần kinh do tiếng ồn ngày càng nhiều. ở Pháp cứ 5 người bị tâm thần thì có 1 người bị tâm thần do tiếng ồn. Tại nơi có nhiều tiếng ồn tỉ lệ viêm dạ dày- tá tràng khá cao và năng suất lao động giảm 60%. Tiếp xúc lâu dài với tiếng ồn sẽ gây ra điếc nghề nghiệp.[30,127-128] Tác động của tiếng ồn với cơ thể phụ thuộc ba yếu tố: bản chất vật lý của tiếng ồn (tiếng ồn luôn thay đổi tần số và cường độ); tính chất công tác của người lao động (phải tiếp xúc thường xuyên với cường độ tiếng ồn cao) và tính cảm thụ tiếng ồn của từng người( phụ nữ, người cao tuổi, ốm mệt dễ nhạy cảm với tiếng ồn mạnh). Cường độ tiếng ồn càng cao thì thời gian tiếp xúc với tiếng ồn càng phải giảm bớt. Nghĩa là khi công nhân làm việc chịu tác động của tiến ồn cao, thời gian làm việc một ca trong ngày được rút ngắn. Quy định thời gian tiếp xúc (giờ) trong ngày của các công nhân tại các cơ sở sản xuất công nghiệp được biểu thị trong bảng 1.2 Bảng 1.2. Thời gian tiếp xúc trong ngày (giờ) ở các cường độ tiếng ồn khác nhau (dBA) Cường độ tiếng ồn (dBA) Thời gian tiếp xúc trong ngày (giờ) Cường độ tiếng ồn (dBA) Thời gian tiếp xúc trong ngày (giờ) 90 8 102 1 ´1/2 92 6 105 1 95 4 107 3/4 97 3 110 1/2 100 2 115* 1/4 *Trị số ngưỡng tối đa, không cho phép tiếp xúc với tiếng ồn là >115 dBA Ngoài cường độ, mức gây hại của tiếng ồn còn phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc với tiếng ồn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh thời gian tiếp xúc với tiếng ồn càng lâu thì tỷ lệ suy giảm thính lực, điếc nghề nghiệp càng cao. Theo báo cáo của Junghans tại Đại hội lần thứ 8 của hiệp hội chống ồn thế giới thì những người có thời gian tiếp xúc với tiếng ồn > 20 năm có tỷ lệ điếc nghề nghiệp cao hơn 10 lần những người tiếp xúc cùng loại ồn nhưng thời gian <5 năm. 1.1.3.Ô nhiễm bụi Trong các yếu tố gây ô nhiễm môi trường lao động, thì ô nhiễm bụi nổi lên hàng đầu. Bụi là những phân tử hữu cơ cứng, nhỏ, lan toả và lơ lửng trong không khí. Người ta chia bụi thành 2 loại tuỳ theo kích thước của nó: loại xon khí (đường kính nhỏ hơn 0,1 micron) gồm khói và xương mù, loại xon khí huyền phù (đường kính lớn hơn 0,1 micron) gồm xon khí huyền phù hạt toả lan thể cứng và xon khí huyền phù hạt toả lan thể lỏng. Bụi được hình thành theo 3 cơ chế: cơ chế thứ nhất là do sự nghiền nát cơ học của các vật rắn, trong trường hợp này được gọi là khí dung phân toả. Cơ chế thứ 2 là do sự ngưng tụ các hạt rắn trong không khí nghĩa là do hơi các kim loại bốc lên gặp không khí tạo thành các oxyt kim loại rất nhỏ lơ lửng trong không khí gọi là khí dung ngưng kết. Cơ chế thứ 3 là do đốt cháy nhiên liệu không hoàn toàn (khói, bồ hóng). Công nhân sản xuất vật liệu xây dựng trong đó có công nhân sản xuất xi măng chủ yếu chịu tác động của bụi thuộc loaị cơ chế thứ nhất là chủ yếu. Theo Nguyễn Khắc Hải tình hình ô nhiễm bụi là rất phổ biến, nồng độ bụi cao,tỷ lệ SiO2 cao (16%) là nguy cơ dễ mắc bệnh bụi phổi. Hiện nay một số biện pháp cải thiện môi trường do ô nhiễm bụi vẫn chưa đảm bảo, hệ thống hút bụi chưa mang lại hiệu quả, thậm chí có nơi chưa có hệ thống hút bụi. Nhiều công trình điều tra cho thấy nồng độ bụi ở nhà máy cơ khí Cẩm Phả, nhà máy công cụ số 1 Hà Nội, Diezen Sông Công, điện cơ Hà Nội, khu cán thép Gia Sàng (Thái Nguyên) đều vượt TCCP từ 5 á125 lần. Các công ty vật liệu xây dựng Cầu Đuống, xi măng Bỉm Sơn, xi măng Hải Phòng, Hà Tiên nồng độ bụi vượt TCCP từ 20 á 435 lần, nhà máy tuyển quặng (Quảng Ninh ) vượt từ 170á1150 lần.[7,13-14] Kết quả điều tra nồng độ bụi ở 6 cơ sở thuộc dự án “ Kế hoạch hành động quốc gia phòng chống BBPSi” năm 2000 cho thấy tình trạng ô nhiễm bụi rất nặng nề số mẫu bụi hô hấp không đạt tiêu chuẩn vệ sinh là 71,6%; số mẫu bụi trọng lượng không đạt tiêu chuẩn chiếm 86,2%. Trong đó hàm lương SiO2 cao nhất là ở nhà máy thép Tân Thuận (84,0%), ở mỏ than Hà Lầm, công ty vật tư thiết bị giao thông Khánh Hoà hàm lượng SiO2 cũng cao (40,3á57,48%). Riêng hợp tác xã khảm trai Chuyên Mỹ tỷ lệ rất thấp (0,9 á1,6%) Hàng năm có khoảng 5000 công nhân được giám định bệnh nghề nghiệp, thì BBPSi chiếm hơn 90%. Thống kê của các tác giả trong và ngoài nước đều cho thấy ngành công nghiệp có tỷ lệ BBPSi cao là gạch chịu lửa, đúc, cơ khí, luyện kim, khai thác than, đá và sản xuất gốm sứ … Sự phát sinh và phát triển BBPSi phụ thuộc nhiều yếu tố: nồng đọ bụi vượt quá TCCP, tỷ lệ bụi hô hấp cao, hàm lượng silic tự do cao, thời gian tiếp xúc dài, lao động thể lực cao(tần số, biên độ hô hấp cao) và yếu tố cá nhân. Do vậy, để đánh giá được những yếu tố này, cần nắm vững kỹ thuật đánh giá ô nhiễm bụi qua nồng độ bụi, kích thước hạt, tỷ lệ bụi hô hấp và hàm lượng silic tự do. Thông thường, bụi phát sinh từ trong quá trình sản xuất đều có đường kính dưới 10 μm, nhiều nhất là loại bụi dưới 5μm (bụi khí). Loại bụi nhỏ này thường tồn tại lâu trong không khí nơi làm việc và là loại bụi chủ yếu gây tác hại đến sức khoẻ con người nói chung và đến cơ quan hô hấp nói riêng . Nồng độ bụi trong không khí càng cao, càng có hại. Thời gian làm việc phải tiếp xúc với bụi lâu, cường độ lao động càng lớn, lượng không khí vào phổi càng cao bụi sẽ vào phổi càng nhiều. Bụi sẽ trở nên nguy hiểm hơn nếu môi trường lao động có thêm ô nhiễm nhiệt, hơi khí độc…. 1.1.4.Ô nhiễm các chất khí thải. Các loại khí thải độc hại do sản xuất công nghiệp thải vào môi trường là nguồn gây ô nhiễm lớn và đáng lo ngại. ở Hà Nội, trong nội thành với mật độ 23.000 dân/1km2 có 300 nhà máy, 15.700 cơ sở sản xuất, hàng ngày thải không khí một lượng khí thải độc hại cao, CO2 cao gấp 1,2 lần tiêu chuẩn cho phép .[8,25-40] Trong các khu công nghiệp được theo dõi, có 3 khu công nghiệp nồng độ khí SO2 vượt tiêu chuẩn cho phép là khu công nghiệp Thượng Đình, Biên Hoà và nhà máy xi măng Hải Phòng. Nồng độ NO2 ở khu công nghiệp Biên Hoà vượt TCCP 1,8 lần ở các xí nghiệp khai thác vật liệu xây dựng (khai thác đá) thường có nồng độ CO, NO2 trong môi trường cao. Tại các mỏ lộ thiên cách xa 50m nơi mỗi lần nổ mìn phá đá, nồng độ CO trong không khí là 0,1%, nồng độ NO2 là 0,02% cao gấp nhiều lần TCCP. ở các xí nghiệp khai thác than, cứ khai thác 100 tấn than thì có từ 500-700m3 khí CH4, 700-1500m3 khí CO2. Khảo sát 275 nhà máy sản xuất công nghiệp trong nghành hoá chất, phân bón, cơ khí luyện kim, vật liệu xây dựng từ 1991-1995 thấy có23,27% các phân xưởng sản xuất bị ô nhiễm hơi khí độc hại (SO2, CO, CO2…) với nồng độ đo vượt TCCP từ 1,5-50 lần. Như vậy, môi trường lao động của nghành công nghiệp nước ta bị ô nhiễm nặng nề bởi các yếu tố vi khí hậu nóng, ồn, bụi và các khí thải độc hại. Những yếu tố này tác động “hợp lực” đến sức khoẻ của người lao động, là nguyên nhân làm phát sinh, phát triển các loại bệnh tật và làm thay đổi cơ cấu bệnh tuỳ theo mức độ tác động của môi trường. 1.1.5.Ô nhiễm môi trường nước và tác hại của nó Nước là nhu cầu thiết yếu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ hoạt động nông nghiệp,dịch vụ và sinh hoạt của nhân dân, trong đó các ngành sản xuất công nghiệp cần rất nhiều nước. Trên thế giới nguồn nước sử dụng trong cuộc sống, trong lao động sản xuất chỉ khoảng 1% tổng lượng nước trên Trái Đất. Theo thống kê ở Mỹ nước sử dụng cho các ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ 50% trong đó nông nghiệp chiếm 40% còn 10% cho các mục đích khác. Trong công nghiệp mỗi ngành, mỗi khu chế xuất có các công nghệ khác nhau cho nên yêu cầu số lượng và chất lượng nước khác nhau. Người ta ước tính để sản xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước (250m3), sản xuất 1 tấn đạm cần 600 tấn nước,1 tấn chất bột cần 1000 tấn nước. Muốn khai thác 1 lít dầu cần 10 lít nước, 1kg len cần 600 lít nước, 1tấn xi măng cần 45 tấn nước, 1 tấn thép cần 200 tấn nước. Công nghệ chế biến lương thực, thực phẩm, công nghệ thuộc da, chế biến rượu, sản xuất bia đều cần rất nhiều nước. Ngành dệt may trong quá trình sản xuất chỉ tính trong 1 tháng đã sử dụng 104.100m3 nước… Con người ngày càng khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Lượng nước ngầm khai thác năm 1990 gấp 30 lần lượng nước khai thác năm 1960, dẫn đến nguy cơ gây suy giảm trữ lượng nước sạch và sẽ gây nên các thay đổi lớn về cân bằng nước. Cho nên vấn đề bảo vệ nguồn nước sạch cho các vùng dân cư trên thế giới đang là nhiệm vụ hàng đầu của các tổ chức môi trường thế giới. Trong 10 năm từ 1980-1990, thế giới đã chi 300 tỷ USD cho chương trình nước đảm bảo cung cấp cho khoảng 79% dân cư đô thị và 41% dân số nông thôn. Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung chất lượng nước. Các tác nhân gây ô nhiễm môi trường nước có thể chia làm 2 loại ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên và ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo. Trong ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo thì ô nhiễm do sản xuất công nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt và càng ngày càng có nguy cơ gây ô nhiễm lớn hơn.[21,17-30] Nước thải công nghiệp ở nước ta hiện nay so với thế giới và so với nước thải sinh hoạt không lớn, nhưng trong nước thải công nghiệp có nhiều hoá chất độc hại như kim loại nặng, các chất hữu cơ, vô cơ có nồng độ cao. Nồng độ BOD5 , COD cao làm giảm trữ lượng ôxy có trong nước làm ảnh hưởng đến sinh vật và hệ sinh thái. Các chất hữu cơ, các chất tẩy rửa sản phẩm, lưu hoá cao su, glycerin là những chất bền vững thậm chí có thể tiêu diệt vi sinh vật, ảnh hưởng đến sự làm sạch của nước.[9] Vùng kinh tế phía nam là vùng kinh tế trọng điểm số 1 về số lượng khu công nghiệp và dự án. Theo tính toán, các khu công nghiệp thải vào sông gồm: sông Đồng Nai khoảng 130.000 m3 nước thải trong đó có khoảng 23,2 tấn cặn lơ lửng, 19,4 tấn BOD; 41,3 tấn COD; 7,5 tấn Nitơ; 1 tấn photpho và nhiều kim loại nặng, cùng với các hoá chất độc hại khác. Theo qui hoạch phát triển dự báo năm 2010 có khoảng 278 tấn cặn lơ lửng, 231 tấn BOD, 493 tấn COD, 89 tấn Nitơ,12 tấn photpho và nhiều kim loại nặng được thải vào nước. Ngành dệt may thải vào môi trường từ 24-30 triệu m3 nước, trong đó có khoảng 90% lượng nước chưa được xử lý, thải trực tiếp vào môi trường. Quá trình sản xuất ngành dệt may sử dụng hàng vạn tấn hoá chất độc hại. Chỉ tính năm 1996 ngành dệt may đã sử dụng 6520 tấn xút (NaOH) nồng độ 80%, 129 tấn axit sunphuric (H2SO4),220 tấn axit acetic (CH3COOH), 3200 tấn cacbonat natri (Na2CO3). Hiệu suất sử dụng các hoá chất này chỉ có khoảng 70%-80%, còn lại 20%-30% thải theo nước thải vào môi trường nước. Nước bị ô nhiễm ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của công nhân. Nước không thể thiếu trong cuộc sống nhưng nếu nước bị ô nhiễm sẽ đem đến bệnh tật cho con người hàng ngày dùng nó. Phụ thuộc vào nồng độ các chất gây ô nhiễm trong nước và thời gian tiếp xúc mà mức độ độc hại cuả nó đối với người, động thực vật có khác nhau. [16,30-40] Theo thông báo của Tổ chức y tế thế giới có 80% bệnh tật của con người có liên quan đến nước. Nước là môi trường trung gian lây truyền bệnh cho người trực tiếp và gián tiếp bởi các vi sinh vật và côn trùng truyền bệnh dịch, bệnh thường theo đường nước lan tràn trong điều kiện thiếu nước sạch và thiếu phương tiện bảo vệ, nhất là các bệnh về đường tiêu hoá và sau nữa là qua da, niêm mạc, mắt.Theo Tổ chức y tế thế giới, hàng năm tại các nước đang phát triển có khoảng 14 triệu trẻ em đang bị bệnh nặng là hậu quả của việc dùng nước bẩn và có khoảng 340 triệu trẻ em dưới 5 tuổi sống ở các nước đang phát triển kể cả Trung Quốc có số lượt tiêu chảy là 1 tỷ/ năm trung bình 3 lượt trẻ em năm.Theo WHO/COD chương trình khống chế bệnh tiêu chảy, điều tra trên 7350 trẻ em ở 70 nước cho thấy tỷ lệ là 3,4 lượt/ trẻ em/ năm và ước tính hàng năm có khoảng 4 triệu người bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột.[28] Ngoài ra các chất độc hại có trong nước do các hoạt động công nghiệp như chất phóng xạ, DDT… tồn lưu trong nước là nguyên nhân phát sinh bệnh ung thư, quái thai, dị dạng.[10,10-20] Năm 1955 ở Nhật Bản xuất hiện 1 loại bệnh kỳ lạ. Lúc đầu bị cảm sau đó là đau toàn thân tiếp đó là gãy xương và tử vong, chỉ trong 5 năm có 207 người chết về bệnh này. Nguyên nhân gây ra bệnh này là do nước thải có chứa Cadimi, 1kim loại độc. Nước thải có chứa Cadimi trực tiếp vào lúa và lúa cho sản lượng cao, Cadimi tồn tại trong gạo và người ăn vào gây xốp xương, dòn và dễ gãy cuối cùng gây tử vong. Năm 1999 tàu chở dầu của vùng ExongVadenxo đâm vào đá ngầm trong vịnh Prince William Sound làm 11 triệu galon dầu đổ ra biển, hậu quả là làm ô nhiễm 1 vùng biển rộng lớn. Alanxaca con tàu chở dầu Nephon của Singapo cũng năm 1999 chở 22000 tấn dầu lúc cập cảng nhà máy lọc dầu Cát Lái (thuộc Sài Gòn Petro) đã đâm vào cầu cảng làm sập hoàn toàn cầu cảng B, các ống dẫn dầu của cảng bị vỡ, đứt gãy. Dầu từ tàu Neptune và từ ống dẫn dầu bị vỡ đổ thẳng vào sông, váng dầu dày hàng chục mm phủ kín bề mặt của một khúc sông gây ô nhiễm nước và làm chết nhiều loại động vật, thuỷ sinh. Nước bị ô nhiễm không những ảnh hưởng đến sức khoẻ con người mà còn gây tác hại đến môi trường toàn cầu, gây hạn hán, lũ lụt làm thiệt hại nhiều người và của. Theo dự đoán của viện canh nông thế giới đến năm 2020 có khoảng 40% nhân loại sẽ sống ở vùng thiêú nước. Ô nhiễm nước gây thiếu nước sạch sẽ là hiểm hoạ của nhân loại trong thế kỷ 21, cũng là nguyên nhân gây sa mạc hoá, đồng thời gây đói khổ cho hàng tỷ người. Theo Liên hợp quốc mỗi năm có khoảng 5,3 triệu người chết và 3,35 tỷ người mắc bệnh có liên quan tới nước và con số này còn tăng lên nưã. Các quốc gia đang phát triển thường mắc các bệnh “lan truyền theo nước”. Bệnh lan truyền theo nước là những bệnh mà tác nhân lây truyền theo nguồn nước như các bệnh tiêu chảy, thương hàn, ghẻ, bệnh sán lá mang (qua ốc sống trong nước).[12,123-124] Bảo vệ môi trường nước là nhiêm vụ hàng đầu đòi hỏi sự tham gia của các quốc gia cộng đồng và đòi hỏi nhiều biện pháp khoa học và giải pháp công nghệ, tổ chức quản lý, kinh tế và văn hoá xã hội… Hiện nay ở 1 số nhà máy,các khu công nghiệp, khu chế xuất đã đầu tư xây dựng các hệ thống xử lý nước thải trước khi đổ vào môi trường. Tuy nhiên còn nhiều nguyên nhân như kinh phí có hạn, công nghệ xử lý nước chưa đồng bộ, lạc hậu nên phần lớn nước chưa được xử lý trước khi đổ vào môi trường. Đối với các khu công nghiệp, khu chế xuất, nhà máy chuẩn bị xây dựng ngoài dự án xây dựng còn có dự án tác động môi trường, khi các khu này đi vào hoạt động để đảm bảo không khí và nước không bị ô nhiễm. 1.2. Các yếu tố môi trường không khí ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân sản xuất xi măng. 1.2.1 ảnh hưởng của bụi Như ta đã biết. Bụi là những hạt rắn có kích thước rất nhỏ, lơ lửng trong không khí dài hay ngắn, phụ thuộc vào kích thước, hình thái và tỷ trọng hạt bụi, mức độ chuyển động của không khí. Bụi ở nhà máy xi măng thường là do sự nghiền nát cơ học của vật rắn (đá, thạch cao, đất sét, clinke ). Như vậy bụi tác động lên công nhân sản xuất xi măng thuộc loại bụi khí dung phân toả, bên cạnh đó bụi ở các phân xưởng sản xuất xi măng còn được tạo thành do sự đốt cháy nguyên liệu không hoàn toàn (khói, hồ hóng). ảnh hưởng nhiều nhất đối với công nhân sản xuất xi măng là bụi đá. Trong thành phần của bụi đá có tỷ lệ silic với hình thể không đều, không nhẵn, sắc cạnh và rắn.[13,21-22] Tác hại của bụi đối với cơ thể phụ thuộc vào kích thước, tính khuếch tán, tỷ trọng, diện tích hình thể, độ rắn và tính thầm, trong đó tính hoà tan tức là khả năng của nó lơ lửng trong không khí nhanh hay lâu có ảnh hưởng lớn nhất. Theo Latavet A.A bụi đá thạch anh hình cầu kích thước 10 micron trong 3,3 giây có thể rơi được một quãng đường dài 10 cm, hạt bụi có đường kính từ 10-100 micron chỉ chiếm tỷ lệ 4,7%. Các hạt bụi có đường kính nhỏ hơn 0,1 micron (khói ở các lò nung) trong 5,4 phút chỉ rơi được 10 cm, thường chúng lơ lửng trong không khí rất lâu, do chuyển động Brown. Thời gian rơi nhanh hay chậm của bụi trong không khí không chỉ phụ thuộc vào kích thước hạt bụi mà còn phụ thuộc vào gió. Gió làm hạt bụi không đứng yên. Trong các phân xưởng, tuy gió tự nhiên bị hạn chế, song có trang bị quạt nên các hạt bụi nhỏ khó rơi xuống đất, chúng lơ lửng trong không khí rất lâu ngay trong tầm thở của công nhân. Chúng ta biết rằng không phải tất cả các hạt bụi đều đến được phế nang và ảnh hưởng trực tiếp đến các phế nang. Những hạt bụi to thường được giữ lại ở đường hô hấp trên bởi lông mũi và chất nhầy. Theo nhiều tác giả, nếu thở bằng mũi số hạt bụi giữ lại ở mũi 45-50% số còn lại đi vào phế quản và thực bào hoặc phản xạ ho, tống ra ngoài. Những hạt bụi có đường kính nhỏ vào tận phế nang. Độ bền vững của hạt bụi và khả năng xâm nhập của nó vào cơ thể còn phụ thuộc điện tích của hạt bụi. Bụi đá, bồ hóng , khói thường mang điện tích dương cùng dấu. Theo Panxakhovic I.M và Gordanskaia E.N, tốc độ thực bào đối với bụi phụ thuộc vào điện tích của hạt bụi. Do bụi đá, khói có điện tích dương cùng dấu nên khó kết hợp với nhau tạo thành những hạt bụi to hơn để lắng xuống và vì vậy thời gian lắng xuống châm hơn, khả năng toả lan cao hơn, lơ lửng trong không khí lâu, nên dễ xâm nhập vào đường hô hấp. Tác hại của bụi đối với con người và động vật phụ thuộc vào tính chất của chúng, có loại bụi mang theo bản chất độc hại về hoá học và lý học, có loại chỉ gây trở gại về mặt cơ học do đặc tính bám hút của nó cũng có loại mang theo cả vi khuẩn, ký sinh trùng, vi rút sẽ gây hại nhiều hơn. Rất nhiều phần tử nhỏ bé(bụi) trong môi trường không khí có tính độc hại như bụi kim loại, bụi đá và hyđrocacbon thơm. Hợp chất hydrocacbon thơm là những hợp chất đa vòng, thường xuất hiện trong không khí vùng đô thị, nó là tác nhân gây bệnh ung thư đối với người và động vật. Bụi clinke trong sản xuất xi măng không những gây ảnh hưởng xấu đến người, động vật mà còn có tác động xấu đến thực vật. Đối với thực vật, nó làm rụng lá nhanh, cây chóng già, hình thành các khí hổng trong quả, giảm trọng lượng quả và hạt, nói chung bụi trong sản xuất xi măng làm cho thực vật bị cằn cỗi. Tuy vậy, trừ bụi clinke, bụi đất đá từ các máy nghiền nguyên liệu làm xi măng thì không nguy hiểm lắm. Tác hại của bụi lên cơ thể trên nhiều phương diện, trước hết chúng xâm nhập vào đường hô hấp trên và nếu tiếp xúc lâu dài dễ bị bệnh bụi phổi nghề nghiệp. Bụi silic ngoài gây bệnh bụi phổi còn gây rối loạn nghiêm trọng các cơ quan như xơ gan, rối loạn chức phận dạ dày(co bóp yếu, tiết dịch vị kém) nên khó tiêu, viêm loét dạ dày, rối loạn thần kinh chức năng, đau đầu, mệt mỏi, khả năng lao động giảm. Bụi vào mắt gây viêm giác mạc, kết mạc. Bụi sắc cạnh có thể gây loét giác mạc vì chúng gây những vết xước ở giác mạc làm giảm thị lực. Bụi rơi và phủ lên da làm khô da, da thoát mồ hôi kém, ảnh hưởng đến sự thải nhiệt của cơ thể vốn đã nóng do nhiệt độ nơi làm việc của công nhân cao. Bụi có thể gây dị ứng toàn thân nhất là khi độ ẩm không khí cao. Bụi bị nhiễm khuẩn hoặc các chất phóng xạ làm cho da dễ bị viêm, trạng thái bệnh lý ở da ngày càng nặng thêm.Như vậy bụi silic có tác hại đến toàn thân và khu trú chủ yếu ở phổi. Theo Trần Ngọc Liễn khám sức khoẻ cho 232 công nhân tiếp xúc với bụi Amiăng trên 10 năm thấy tỷ lệ công nhân bị viêm mũi họng là 55,8%,ho,khó thở 31,6%, viêm phế quản mạn 9,03%.[11,56-58] Theo thống kê của ban Y tế Bộ Xây dựng, trong số 7197 cán bộ, công nhân xi măng thấy rằng công nhân sản xuất xi măng ở công ty xi măng Bỉm Sơn bệnh viêm mũi họng, phế quản là 61%, công ty xi măng Hà Tiên 23,6%. Tác hại lâu dài và nguy hiểm nhất của bụi là gây bệnh bụi phổi, nhất là bụi chứa hàm lượng silic cao. Trong 25 công nhân xây dựng đường hầm ( khoan đá) tiếp xúc với bụi được khám thì có 10 người bị bệnh bụi phổi, chiếm tỷ lệ 40%. ở nhà máy cơ khí Nghệ An trong 82 công nhân được khám, có 11 công nhân bị bệnh bụi phổi chiếm 13,41%.[17][23,47-49] Theo Doãn Ngọc Hải, số công nhân bị bệnh bụi phổi silic ở một số nhà máy xí nghiệp được thống kê như sau: các xí nghiệp vật liệu xây dựng8,4%, mỏ đá Hoà An(Biên Hoà) 16,06%, mỏ đá Phủ Lý 6,46%, xi măng Hải Phòng 1,06%, công ty xi măng Hà Tiên 2,8%, nhà máy gạch chịu lửa Đồng Nai 19,09%, nhà máy gạch chịu lửa Thái Nguyên 9,77%.[24,10-14] Theo Nguyễn Văn Hoài các công nhân trong nhà máy cơ khí cả nước, mắc bệnh bụi phổi 25,4%. Tính đến năm 2.000 cả nước ta có hơn 10.000 trường hợp mắc bệnh bụi phổi silic chiếm 89% các loại bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm. Trong thực tế các yếu tố môi trường không tác động riêng rẽ mà tác động phối hợp.ở các phân xưởng sản xuất xi măng cũng vậy, các yếu tố nóng, độ ẩm cao, bụi, tiếng ồn và các khí độc cùng phối hợp tác động đến sức khoẻ của công nhân.[14,72-75] Theo Babkin V.O.,Peter B.A.(1988) khi nhiệt độ không khí từ 26,4oC đến 34,4oC ; nồng độ bụi từ 2,6 đến 7,5 mg/m3 và nồng độ chì trong không khí từ 0,004-0,02 mg/m3 cùng với gánh nặng thể lực, tỷ lệ bệnh tật cao hơn hẳn nhóm chứng là 12% trong đó chủ yếu là các bệnh hô hấp, tiêu hoá, tim mạch, thần kinh và cơ xương khớp. Như vậy tác động phối hợp các yếu tố bất lợi của môi trường ảnh hưởng đến khả năng lao động, sức khoẻ giảm,tỷ lệ bệnh tật tăng lên. 1.2.2 ảnh hưởng của nóng ẩm Theo quy ước quốc tế vùng nóng ẩm là vùng trong năm có trên 6 tháng nóng ẩm, trong ngày nóng ẩm có trên 12 giờ nhiệt độ ngoài trời trong bóng dâm là 20oC, độ ẩm trên 80%. Nước ta vào mùa hè, trong những ngày nóng bức nhiệt độ không khí lên tới 38oC-40 oC, nhiệt độ mặt đường đất đá bị hun nóng có khi tới 45 oC, thuộc vào vùng nóng ẩm. Công nhân lái xe xúc,ô tô tải của phân xưởng mỏ, ảnh hưởng của nhiệt độ đối với cơ thể khá lớn. Họ không những chịu ảnh hưởng của bức xạ mặt trời mà còn chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiệt do động cơ hoạt động của các xe. Vì vậy nhiệt độ trong xe thường cao hơn ngoài trời. Do ảnh hưởng của nhiệt độ cao và độ ẩm lớn nên việc thải nhiệt bị hạn chế, hơn thế nữa còn bị hấp thụ nhiệt (nhiệt do bức xạ, dẫn truyền, đối lưu) nhiệt độ cơ thể tăng lên sau ca lao động so với trước ca lao động. Bức xạ nhiệt làm tăng nhanh các chỉ tiêu sinh lý._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29231.doc
Tài liệu liên quan