Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình CNH-HĐH ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay - kinh nghiệm và giải pháp

MỞ ĐẦU 1.Sự cần thiết của đề tài. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước có ý nghĩa, tác dụng to lớn và toàn diện về phương diện KT-XH, song cũng không kém phần khó khăn phức tạp. Để thực hiện CNH, HĐH thành công cần phải có các điều kiện như vốn, nguồn nhân lực, tiềm lực khoa học và công nghệ . . . trong các điều kiện đó, NNL đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy đầu tư cho phát triển NNL được coi là “chìa khoá” của tăng trưởng và phát triển. Vận dụng lý luậ

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình CNH-HĐH ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay - kinh nghiệm và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đó vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta chỉ rõ: “ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho sự nghiệp CNH, HĐH và còn là điều kiện để phát huy nguồn lực con người-yếu tố cơ bản của sự phát triển xã hội, tăng trưởng nhanh và bền vững“. Giải quyết vấn đề NNL trong quá trình CNH, HĐH bao gồm nhiều vấn đề trong đó có vấn đề đào tạo và sử dụng NNL. Đây là nhiệm vụ chung của cả nước, và của mỗi địa phương. Trong thời gian qua Bắc Ninh đã và đang có những cố gắng giải quyết vấn đề đào tạo và sử dụng NNL và đã thu được kết quả nhất định. Song cho đến nay, về cơ cấu, chất lượng NNL của tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Để đánh giá đúng thực trạng về đào tạo và sử dụng NNL thời gian qua ở Bắc Ninh, Học viên chọn đề tài: “Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay-kinh nghiệm và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu. Từ đó góp phần định rõ phương hướng và có những giải pháp cụ thể cho hoạt động đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực ở địa phương có hiệu quả hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn. -Đánh giá thực trạng đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH, thành tựu và hạn chế trong đào tạo và sử dụng NNL hiện nay ở Bắc Ninh; -Đề xuất một số giải pháp, chính sách đào tạo và sử dụng NNL có hiệu quả phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH trong thời gian tới ở Bắc Ninh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. -Luận văn lấy việc đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh làm đối tượng nghiên cứu. -Về giáo dục, đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực từ 1997 (khi tái lập tỉnh) đến nay. -Trong luận văn này sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa hẹp. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. -Cơ sở lý luận: Lý luận Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các lý thuyết kinh tế hiện đại về NNL, về đào tạo và sử dụng NNL. -Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đồng thời có sự kết hợp phương pháp lịch sử với phương pháp logic, phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê, so sánh v.v. ..trong quá trình nghiên cứu. 5. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn. -Làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo và sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH. -Làm rõ thực trạng về đào tạo và sử dụng NNL ở tỉnh Bắc Ninh trong quá trình CNH, HĐH (1997-nay). -Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đào tạo và sử dụng có hiệu quả NNL cho sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh . 6. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần: Mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung được chia làm ba chương như sau: Chương I. Những vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chương II. Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh (1997- nay). Chương III. Phương hướng và giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh . Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ. 1.1. Một số khái niệm cơ bản về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. 1.1.1. Nguồn nhân lực. -Khái niệm NNL có nhiều ý kiến, theo Begg, Fischer và Dornbusch: NNL là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập cao trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, NNL là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai. Cách hiểu này còn hạn hẹp, chỉ giới hạn trong trình độ chuyên môn của con người và chưa đặt ra giới hạn về mặt phạm vi không gian của NNL . -Theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc cho rằng: xét trên bình diện quốc gia hay địa phương NNL được xác định là “ tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương, tức là nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung) bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH “ [15,tr:269]. Theo cách hiểu này, NNL là nguồn lao động sẵn sàng tham gia lao động trong phạm vi quốc gia, vùng hay địa phương. Một cách chung nhất, có thể hiểu NNL là bộ phận dân số trong độ tuổi nhất định theo qui định của pháp luật có khả năng tham gia lao động. NNL là tổng hợp những năng lực cả về thể lực và trí lực của nhóm người, một tổ chức, một địa phương hay một quốc gia. Độ tuổi lao động được qui định cụ thể ở mỗi nước có khác nhau. Ở Việt Nam hiện nay, theo qui định của Bộ luật lao động, tuổi lao động của nam từ 15 đến 60 và của nữ từ 15 đến 55 tuổi. -Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện khoa học Lao động và các vấn đề xã hội, xem xét NNL dưới hai góc độ: năng lực xã hội và tính năng động xã hội [3,tr.1-3]. Ở góc độ thứ nhất, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét NNL dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển NNL để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực xã hội của NNL thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại xem xét NNL dưới dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó, phải chuyển NNL sang trạng thái động, thành vốn nhân lực, tức là nâng cao tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải pháp giải phóng triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác, phát huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn. Vì vậy, NNL được hiểu là “tổng hoà trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội của con người(thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người” [3,tr:11]. -Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam thể hiện trong chương trình cấp Nhà nước KX-07, NNL được hiểu là "số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc" [14, tr.28]. Như vậy, NNL đựơc biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng: Về số lượng: NNL phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể có được của cá nhân và quy định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Số lượng NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT-XH. Nếu số lượng không tương xứng với sự phát triển (thừa hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình CNH, HĐH. Nếu thừa sẽ dẫn đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu thì không có đủ lực lượng nhân lực cho quá trình CNH, HĐH và phát triển kinh tế đất nước. Về chất lượng, NNL đựơc biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh thần thái độ, động cơ, ý thức lao động, văn hoá lao động công nghiệp, phẩm chất tốt đẹp của người công dân đó là yêu nước, yêu CNXH. Trong ba mặt: thể lực, trí lực, tinh thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là phương thức để chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. Ý thức tinh thần đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt động chuyển hoá của trí lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan trọng hàng đầu của NNL bởi nó có con người mới có thể nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa học vào quá trình hoạt động sản xuất và cải biến xã hội. Mác và Ăng ghen đã nói "Tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc của họ" [18, tr.438]. -Từ những quan niệm của các tác giả nước ngoài và các tác giả trong nước, có thể hiểu NNL là tổng hợp những con người cụ thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực; tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách)và tính năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng, quốc gia. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển. Nói cách khác, NNL bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia vào nền sản xuất xã hội theo Luật lao động quy định. NNL có nội hàm rộng bao gồm các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và cả nền văn hoá. Do vậy, có thể cụ thể hoá các yếu tố cấu thành NNL theo các nhóm sau đây: +Qui mô dân số, lao động và sức trẻ; +Trình độ dân trí và chuyên môn kỹ thuật của NNL liên quan và phụ thuộc vào sự phát triển nền giáo dục-đào tạo và dạy nghề một quốc gia; +Tính năng động xã hội và sức sáng tạo của con người, yếu tố liên quan đến chính sách giải phóng sức lao động, tạo động lực phát triển, phát huy tài năng; +Truyền thống lịch sử và nền văn hoá hun đúc lên bản lĩnh, ý chí, tác phong của con người trong lao động. 1.1.2. Lực lượng lao động. Là bộ phận dân số trong độ tuổi qui định, thực tế có tham gia lao động(đang có việc làm) và những người chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm. Như vậy, có một bộ phận dân số được tính vào NNL nhưng không nằm trong lực lượng lao động. Đó là những người không có việc làm nhưng không tìm kiếm việc làm, những người đang đi học và những người thuộc tình trạng khác, ví dụ người nghỉ hưu trước tuổi. 1.1.3. Vốn con người.. Là phạm trù chỉ các kỹ năng và năng lực con người khi được sử dụng vào lao động hay bằng cách nào đó đóng góp cho nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế coi vốn con người đơn giản là lao động, một trong ba nhân tố của sản xuất và xem nó như một loại hàng hoá có thể trao đổi được. Trong lý thuyết phát triển con người, các phân tích phân biệt niềm tin xã hội, kiến thức chia sẻ được và sự sáng tạo của cá nhân như là ba khả năng của con người áp dụng vào hoạt động kinh tế. Thuật ngữ vốn con người trong lý thuyết phát triển con người chỉ sự tổ hợp của cả ba yếu tố đó. Do vậy, vốn con người sẽ bằng không nếu không có lao động, không có việc làm hay không có hàng hoá sản xuất ra. Với tư cách là tiềm năng lao động của mỗi vùng miền hay mỗi quốc gia thì NNL là tài nguyên cơ bản nhất. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX(năm 2001) của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: lấy con người và NNL là một trong ba khâu đột phá đi vào CNH, HĐH đất nước: ”Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH là điều kiện để phát huy NNL con người-yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [8,tr:108-109]. 1.1.4. Phát triển nguồn nhân lực. Phát triển NNL được nhiều tác giả bàn đến và đã có nhiều cách hiểu mới được bổ sung theo thời gian. Cho đến nay, xuất phát từ những cách tiếp cận khác nhau vẫn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Nadler & Nadler(1990) cho rằng phát triển NNL và giáo dục, đào tạo(theo nghĩa rộng) là những thuật ngữ có cùng nội hàm. Hai tác giả này định nghĩa: “ Phát triển NNL là làm tăng kinh nghiệm học được trong một khoảng thời gian xác định để tăng cơ hội nâng cao năng lực thực hiện công việc “ [33, tr.1-3]. UNESCO sử dụng khái niệm phát triển NNL(theo nghĩa hẹp): là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Tổ chức lao động của thế giới (ILO) lại cho rằng phát triển NNL bao hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó vào việc làm có hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Liên hợp quốc sử dụng khái niệm phát triển NNL theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH và nâng cao chất lượng cuộc sống. 1.1.5. Đào tạo NNL. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay cho thấy đầu tư cho NNL được coi trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Đầu tư phát triển NNL được hiểu ở cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống và giáo dục đào tạo, trong đó giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng nhất. Khái niệm giáo dục luôn gắn với khái niệm đào tạo. Theo từ điển tiếng Việt, đào tạo được hiểu là: "Đào tạo, là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định góp phần của mình vào việc phát triển kinh tế xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Tuỳ theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ nhau với những nội dung do đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học, kỹ thuật-công nghệ và văn hoá của đất nước. Có nhiều hình thức đào tạo; đào tạo cấp tốc, đào tạo chính quy và không chính quy". Về cơ bản, đào tạo là hoạt động giảng dạy của nhà trường, gắn việc truyền thụ tri thức với giáo dục đạo đức và nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo của một người ngoài việc phụ thuộc vào hoạt động nêu trên còn do việc tự đào tạo của người đó thể hiện ra ở việc tự học và tham gia vào các hoạt động xã hội, lao động sản xuất, tự rút kinh nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo biến thành quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì việc đào tạo mới có hiệu quả cao. Đào tạo là một mắt xích trong chu trình phát triển NNL. Nó phải đáp ứng yêu cầu cung cấp NNL cho xã hội ở các lĩnh vực sau: -Nhân lực trong lĩnh vực khoa học-công nghệ, ngành nghề, kinh tế, kỹ thuật. -Nhân lực trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nhà nước. -Nhân lực trong lĩnh vực quản lý doanh nghiệp. Thực tế cho thấy dù nhân lực ở lĩnh vực nào đi chăng nữa cũng phải đảm bảo được yêu cầu của công việc như trình độ chuyên môn, kỹ thuật (tức các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, thái độ, phong cách, năng lực sáng tạo để có khả năng thực hiện một loạt các công việc trong phạm vi ngành nghề theo sự phân công lao động xã hội. Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đào tạo NNL là quá trình tác động, dạy và rèn luyện con người thông qua việc tổ chức truyền thụ tri thức và những kinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người để gây dựng họ trở thành người có hiểu biết đạt đến một trình độ chuyên môn nghề nghiệp nhất định, có khả năng đảm nhận một sự phân công lao động xã hội trong từng thời kỳ của quá trình phát triển KT-XH. Đào tạo NNL tạo nên sự chuyển biến về chất của NNL, biến những tiềm năng nhân lực của quốc gia thành những lực lượng lao động hiện thực phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH, việc đào tạo NNL cần phải đảm bảo đựơc yêu cầu, mục tiêu sau: -Đổi mới chất lượng đào tạo nhân lực theo hướng phù hợp với việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. -Đào tạo phải gắn kết thường xuyên và chặt chẽ với sử dụng NNL và phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động và thị trường lao động. Đào tạo NNL theo yêu cầu, mục tiêu nêu trên cần được thực hiện với nhiều loại hình và nhiều phương thức khác nhau sao cho mọi người có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao và đào tạo lại đều có thể được đáp ứng. Việc đào tạo có thể được thực hiện tại các trường dạy nghề, trường Đại học, Cao đẳng, các Trung tâm do Nhà nước hoặc tư nhân quản lý, hoặc các trường, lớp thuộc doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế, hay tại các lớp dạy nghề do các tổ chức xã hội và các làng nghề truyền thống tổ chức. Việc đào tạo NNL có thể được thực hiện theo các cấp trình độ tuỳ theo yêu cầu đổi mới của nền sản xuất-xã hội và nhu cầu của người học như đào tạo bán lành nghề-lành nghề-trình độ cao; đào tạo trình độ sơ cấp-THCN-cao đẳng-đại học và sau Đại học. 1.1.6. Sử dụng NNL. Trong tiếng Việt khái niệm sử dụng NNL được dùng khá phổ biến, và về thực chất sử dụng NNL chỉ bao hàm một số thành tố của quá trình quản lý NNL như: tuyển chọn, bố trí, sử dụng, đánh giá, trả công, trả lương và thăng thưởng. Trong các tài liệu truyền thống, dùng người đúng có nghĩa là sử dụng được thế mạnh của con người, dùng người vào đúng chỗ, đúng lúc, phát huy được động lực làm việc của con người. Nếu mở rộng khái niệm sử dụng NNL, nội hàm của sử dụng NNL sẽ trùng với nội hàm khái niệm quản lý NNL. NNL được đề cập đến như một nguồn vốn tổng hợp với hệ thống các yếu tố cấu thành: sức lực, trí tuệ, khối lượng cùng đặc trưng về chất lượng lao động như trình độ văn hoá, kỹ thuật, kinh nghiệm nghề nghiệp, thái độ phong cách làm việc, tính năng động xã hội và sức sáng tạo. Đó là sức lao động, như Mác đã nói: khả năng mà con người có thể thông qua lao động để biến thành hiện thực, từ đó có thể đóng góp vào sự nghiệp CNH và sự phát triển KT-XH. Tuy nhiên, khi nói NNL tức là nói sức lao động, do vậy nó còn ở trạng thái khả năng, ở trạng thái tĩnh, nó phải được chuyển sang trạng thái động tức là phải được đem phân bố, sử dụng nó một cách có hiệu quả, phải làm thế nào để NNL dưới dạng khả năng đó thành hiện thực, thành vốn nhân lực. Sử dụng NNL tức là quá trình tạo điều kiện cho người tham gia vào hoạt động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, tinh thần phục vụ các nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Quá trình lao động sản xuất đó là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực lượng sản xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ chức nền sản xuất cùng những cách thức của sự phát triển KT-XH. Bởi vậy, sử dụng NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất cả các khả năng của con người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao động trong quá trình phát triển KT-XH. Quá trình sử dụng NNL luôn gắn kết với sản xuất nên kết quả của nó phụ thuộc vào những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý sản xuất, những cải tiến về công nghệ và phụ thuộc rất lớn vào việc hoàn thiện giáo dục đào tạo (đặc biệt là đào tạo nghề). Trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, việc khai thác sử dụng NNL có thể được xem xét trên các khía cạnh sau: Một là, NNL được biểu hiện ra là nguồn lao động nó bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội và các thế hệ nối tiếp, vì vậy sử dụng NNL trước hết là sử dụng lực lượng lao động trong sản xuất kinh doanh. Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả nhất NNL hiện có là yêu cầu cơ bản và chủ yếu của sử dụng NNL. Hai là, con người khi tham gia vào quá trình phát triển KT-XH không chỉ sử dụng lao động giản đơn mà còn phải sử dụng cả lao động trí óc cho xã hội ngày càng phát triển. Ngày nay thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển kinh tế tri thức, thì vai trò của lao động trí tuệ của con người thể hiện ngày càng rõ nét. Đúng như dự báo của Mác và Ăng ghen: Khoa học do lao động trí tuệ của con người sáng tạo ra sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức khoa học đang thấm sâu vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất và trở thành một nhân tố có ý nghĩa quyết định sự phát triển. Do đó có thể khẳng định lao động trí tuệ, lao động qua đào tạo là yếu tố giữ vai trò quan trọng hàng đầu của NNL, do vậy cần coi trọng và phát huy tiềm năng của NNL qua đào tạo. Ba là, sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã và đang làm thay đổi tính chất, nội dung của lao động, cơ cấu lao động và việc làm và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không còn đi đôi với tiến trình phát triển việc làm. Điều đó đòi hỏi phải chuyển từ sử dụng lao động theo chiều rộng sang khai thác sử dụng theo chiều sâu. Việt Nam là một nước chậm phát triển, thực hiện CNH sau, NNL khá dồi dào nhưng chất lượng và trình độ còn thấp, vì vậy trong quá trình sử dụng NNL chúng ta phải chú ý sử dụng lao động theo hướng kết hợp cả số lượng và chất lượng. Như vậy, để khai thác phát huy và nâng cao hiệu quả NNL cần phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của NNL và sự phát triển KT-XH trong từng thời kỳ của quốc gia. 1.2. Sự cần thiết khách quan của đào tạo và sử dụng NNL đối với quá trình CNH, HĐH. NNL và CNH, HĐH có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Trong nền kinh tế thị trường, thực chất của mối quan hệ này là mối quan hệ về cung cầu lao động. Trong mối quan hệ đó yếu tố con người bao giờ cũng giữ vị trí quyết định. Điều này thể hiện ở chỗ: Con người là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Con người là lực lượng sản xuất hàng đầu, có khả năng biến các nguồn lực khác thành động lực phát triển. Con người với tất cả những phẩm chất tích cực của mình là động lực cơ bản của sự nghiệp CNH, HĐH. Mối quan hệ này thể hiện: 1.2.1. Sự tác động của đào tạo và sử dụng NNL đối với quá trình CNH, HĐH. NNL, nhất là NNL qua đào tạo là yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của nhận thức, lĩnh hội và sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào quá trình sản xuất, thúc đẩy CNH, HĐH và phát triển KT-XH như Lênin nói: "Nếu không có các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất thì không thể nào có bước chuyển lên xã hội XHCN" [20, tr.362], đặc biệt là NNL chất lượng cao, một yếu tố không thể thiếu của quá trình CNH, HĐH được LêNin viết: "Việc điện khí hoá không phải do những người mù chữ thực hiện được mà chỉ biết chữ thôi thì không đủ... điều đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại mà nếu không có nền học vấn hiện đại đó thì chủ nghĩa Cộng sản chỉ là nguyện vọng mà thôi" [20, tr.364-365]. Theo LêNin cái quyết định cho sự thắng lợi của trật tự xã hội mới đối với xã hội cũ là năng suất lao động cao cho nên cần phải thực hiện sự phát triển NNL. Từ ý tưởng đó có thể thấy để nâng cao năng xuất lao động trước hết phải nâng cao trình độ tiến bộ của nền giáo dục và văn hoá của đông đảo quần chúng nhân dân, tiếp đến phải nâng cao tinh thần kỷ luật của người lao động, nâng cao tài khéo léo và trình độ thành thạo của NNL. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho quá trình CNH, HĐH đất nước là nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất, tiềm lực khoa học công nghệ, các nguồn lực ngoài nước. Nhưng trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất". Nguồn lao động dồi dào, con ngươì Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ... đó là nguồn lực quan trọng" [4. tr.5]. Sở dĩ như vậy vì NNL qua đào tạo là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định mục tiêu, nội dung và các giải pháp đúng đắn để tiến hành CNH, HĐH. Mặt khác NNL qua đào tạo có ưu thế hơn hẳn các nguồn lực khác là nó không bao giờ cạn: "Tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết" [32, tr.41]. Chính vì vậy Đảng ta đã xác định: "Phương hướng chủ yếu phát triển trí tuệ của con người Việt Nam thể hiện trong các lĩnh vực khoa học công nghệ đào tạo để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài" [7, tr.28]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII nhấn mạnh: "Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát triển Giáo dục đào tạo, lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh và bền vững" [6, tr.19]. Thực tiễn của nước ta và các nước đi trước đã chứng minh quá trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng trước hết tuỳ thuộc vào chất lượng NNL bởi nền kinh tế thế giới đã phát triển theo hướng kinh tế tri thức, yếu tố tri thức đã chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản phẩm, tỷ lệ lao động giản đơn trong sản phẩm chỉ còn 1/10, trí tuệ được coi là thước đo trình độ CNH và động lực của quá trình phát triển. Mặt khác trong xu thế toàn cầu hoá và việc mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế hiện nay, các nước có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, khắc phục sự thiếu vốn qua con đường nhập khẩu hoặc gia tăng nguồn vốn bằng cách vay từ ngân hàng, quỹ phát triển của thế giới, nhưng không thể khắc phục hoàn toàn sự yếu kém về NNL qua nhập khẩu lao động hay vay mượn khả năng sáng tạo của con người. Vì vậy, Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm tới việc đầu tư phát triển NNL qua đào tạo. Nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt nam đã chỉ ra rằng: "Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam, coi phát triển Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp CNH, HĐH" [8, tr.91]. Chúng ta cần ý thức sâu sắc rằng đầu tư cho Giáo dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển; Giáo dục đào tạo phải thật sự trở thành quốc sách hàng đầu, hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người kịp thời và phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH. Xét một cách tổng thể việc đào tạo NNL phải đáp ứng yêu cầu giải quyết mối quan hệ cung - cầu lao động cả số lượng, chất lượng, cơ cấu, hạn chế tối đa việc dư thừa bất hợp lý về lao động đã đào tạo trên tất cả các lĩnh vực. Trước hết phải đào tạo được những con người có khả năng để đảm nhận và hoàn thành công việc ở cương vị công tác theo sự phân công lao động của xã hội. Đó là những con người vừa có tài vừa có đức. Theo tiêu chí của tài và đức thì hệ thống các cơ sở đào tạo NNL phải làm thế nào để người học sau khi được đào tạo phải được trang bị kiến thức văn hoá, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo thực hành, có năng lực hợp tác trong mọi hoạt động, có năng lực nhận thức, vận dụng công nghệ tiên tiến hiện đại, hiểu và biết vận dụng đường lối chính sách của Đảng, biết lựa chọn các giải pháp tối ưu cho các hoạt động của mình... đồng thời phải có phẩm chất đạo đức tốt, biết đặt lợi ích của cộng đồng xã hội lên trên lợi ích cá nhân, có ý thức trách nhiệm cao đối với công việc, ý thức tự hào và phát huy truyền thống dân tộc, ý chí vươn lên để thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. 1.2.2. Sự tác động của CNH, HĐH đến đào tạo và sử dụng NNL. Thứ nhất, Đối với đào tạo NNL: Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã và đang mở ra cơ hội lớn đồng thời đòi hỏi rất nhiều ở giáo dục, đào tạo NNL Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định chỉ có thể thực hiện bằng con đường "phát triển rút ngắn" mới thu hẹp được khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của nước ta so với các nước khác trên thế giới. Tiến trình đó đòi hỏi hoạt động giáo dục đào tạo phải có NNL đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và cơ cấu trình độ, đặc biệt phải có NNL trình độ cao. -Trong tiến trình CNH, HĐH đặt ra yêu cầu mới cho đào tạo NNL. Với tư cách là người sử dụng NNL qua đào tạo, nó đòi hỏi phải tuyển chọn để thu hút được một đội ngũ lao động có trình độ học vấn cao, tay nghề giỏi để thực hiện vai trò quyết định của NNL. Ăng ghen nhấn mạnh "Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên một mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới và hoá học phù trợ thì không đủ, còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó nữa" [20, tr.474]. -CNH, HĐH còn là điều kiện vật chất cần thiết cho việc định hướng đào tạo và phát triển NNL. Điều đó thể hiện ở chỗ: + CNH, HĐH là điều kiện vật chất tồn tại cần thiết để cải biến nếp nghĩ, nếp làm, vốn còn mang nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ của một bộ phận đáng kể lực lượng lao động xã hội mà trong đào tạo nhất thiết phải tính đến. + Trong mỗi giai đoạn phát triển của CNH, HĐH sự biến đổi về kinh tế, kỹ thuật và công nghệ lại luôn thúc đẩy sự phát triển chất lượng của NNL và đòi hỏi NNL qua đào tạo ngày càng nhiều và với chất lượng cao. + CNH, HĐH còn là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện. Điều đó tác động không nhỏ đến mục tiêu đào tạo toàn diện NNL cho CNH, HĐH đất nước. Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH nhanh chóng đổi mới đưa kỹ thuật công nghệ của nền sản xuất lên trình độ tiên tiến, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm, công nghiệp, dịch vụ ngày càng tăng trong GDP và chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tỷ trọng và số tuyệt đối của lao động nông nghiệp giảm, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp và dịch vụ tăng. Đặc biệt CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đòi hỏi việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu về chất lượng mà ngày càng phải tiến dần tới sự đáp ứng yêu cầu về số lượng, quy mô, cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo cho các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và các lĩnh vực quản lý xã hội và sản xuất kinh doanh ở nông thôn. Trên cơ sở đó nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sử dụng lao động và sức cạnh tranh của lao động nước ta. Vì vậy việc đào tạo NNL phải làm tốt công tác dự báo, phải điều chỉnh quy hoạch đào tạo; bồi dưỡng thường xuyên NNL bao gồm cả đào tạo cao đẳng, đại học, THCN và đào tạo nghề với các cấp trình độ bán lành nghề, lành nghề, trình độ cao cho các ngành, các lĩnh vực KT-XH để khắc phục sự bất cập về trình độ, quy mô, cơ cấu của NNL hiện nay để có thể tiếp thu sử dụng công nghiệp hiện đại mới. Vấn đề này đã đựơc nêu trong kết luận của Hội nghị Trung ương 6, khoá IX: "Điều chỉnh cơ cấu đào tạo, tăng nhanh dạy nghề và THCN. Hiện đại hoá một số trường dạy nghề nhằm chuẩn bị đội ngũ công nhân bậc cao có trình độ tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và công nghệ cao" [9, tr.129]. Như vậy, vấn đề đào tạo NNL ở nước ta vừa phải đáp ứng yêu cầu chất lượng, vừa phải đáp ứng yêu cầu số lượng, quy mô, cơ cấu trình độ và thực tiễn phát triển của các ngành nghề trong các lĩnh vực khác nhau, trên địa bàn lãnh thổ khác nhau. Điều đó có nghĩa là đào tạo NNL phải gắn với nhu cầu thực tiễn: nhu cầu NNL cần sử dụng để giải quyết sự mất cân đối "rất thiếu nhưng rất thừa nhân lực hiện nay" như định hướng của Hội nghị Trung ương 6, khoá IX: "Nâng cao chất lượng và hiệu quả Giáo dục, phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển KT-XH, đào tạo sử dụng" [9, tr.126]. Thứ hai, Đối với sử dụng NNL: Đào tạo và sử dụng NNL là hai mặt của sự phát triển. Khi xác định chiến lược phát triển đất nước, đẩy mạnh CNH, HĐH Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm._. cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước là con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên, cơ sở vật chất và tiềm lực khoa học kỹ thuật vốn có và các nguồn lực ngoài nước (vốn, thị trường, công nghệ, kinh nghiệm quản lý). Nhưng các nguồn lực đó tự nó không thể tham gia vào các quá trình KT-XH bởi phần lớn mới ở dạng tiềm năng. Để thực hiện được mục tiêu của CNH chúng ta không thể không khai thác, sử dụng phát huy tối đa nguồn lực lâu bền và quan trọng nhất đó là NNL vì chỉ có con người mới có thể tác động khai thác các nguồn lực đó biến nó ở dạng tiềm năng thành hiện thực. Hơn nữa, nguồn lực con người không chỉ quyết định sử dụng hiệu quả việc khai thác các nguồn lực tự nhiên mà còn góp phần tạo ra các nguồn lực mới. Như Mác- Ănghen đã nói: "Những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông và nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn đáp ứng đựơc nhu cầu khai thác sử dụng các nguồn lực tự nhiên cho sự phát triển xã hội..." [18, tr.474-475]. Đào tạo NNL đông đảo có trình độ chuyên môn là một vấn đề quan trọng nhưng việc sử dụng NNL đó như thế nào để phát huy được mọi tiềm năng của nó, đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo lại càng quan trọng hơn. Điều này đã được khẳng định thông qua kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong khu vực và thế giới. Vấn đề thực tiễn đặt ra cho nước ta hiện nay là với một nguồn lực lao động dồi dào nhưng còn nhiều bất cập về trình độ, cơ cấu, sự phân bổ lao động trong các ngành, vùng chưa hợp lý nhưng lại phải khắc phục sự tụt hậu quá xa về kinh tế kỹ thuật; bởi vậy cần phải có chính sách phân công lao động hợp lý để có thể thu hút được tất cả lực lượng lao động xã hội, tạo điều kiện cho mọi người có việc làm, có cơ hội để cống hiến sức lực trí tuệ của mình cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Lực lượng lao động phải được xem như một tổng thể nằm trong một cơ cấu lao động thống nhất. Ở đó, mỗi cá nhân người lao động được sử dụng đúng trình độ chuyên môn kỹ thuật, đúng công việc mà mình yêu thích theo hướng toàn dụng lao động. Mặt khác dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, lao động trí tuệ trở thành đặc trưng, với ý nghĩa đó việc khai thác phát huy tiềm năng lao động trí tuệ trở thành yêu cầu cơ bản nhất của sử dụng NNL qua đào tạo để bảo đảm năng suất, hiệu quả lao động cao. Trong điều kiện nền kinh tế mở, quan hệ phân công và hợp tác lao động quốc tế ngày càng mở rộng, việc sử dụng NNL càng mang tính mở rộng, tính quốc tế hoá cao. Nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài ở mỗi quốc gia trên thế giới hiện nay rất đa dạng về chủng loại, cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn, do vậy việc xuất khẩu lao động là một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng cần được chú ý tới trong việc khai thác sử dụng lao động. Xuất khẩu lao động dư thừa trong nước, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho Nhà nước và mặt khác đây còn là con đường để đào tạo nguồn lao động cho đất nước. Do đó Nhà nước cần có chính sách khuyến khích cho hoạt động xuất khẩu lao động để khai thác lợi thế nguồn lao động dồi dào phục vụ quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói chung và quá trình CNH, HĐH ở Bắc Ninh nói riêng hiện nay đòi hỏi phải đào tạo NNL chất lượng cao và sử dụng NNL một cách hiệu quả, mà CNH, HĐH với tư cách thuộc phía cầu của NNL trên thị trường lao động ở nước ta. 1.3. Nội dung của đào tạo và sử dụng NNL được đào tạo. 1.3.1. Nội dung của đào tạo NNL. Nước ta bắt đầu thực hiện CNH, HĐH với một xuất phát điểm thấp. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Mặt bằng dân trí thấp, số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như số người có học vấn đại học và sau đại học còn ít, phần đông số người lao động chưa qua đào tạo về nghề nghiệp. Đây là một khó khăn lớn cho việc tiếp thu khoa học công nghệ mới nhằm đạt tới mục tiêu CNH, HĐH. Mặt khác do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển theo hướng kinh tế tri thức với sự xuất hiện của nhiều ngành nghề mới nên lợi thế về lao động giản đơn đang giảm dần nhường chỗ cho lao động trí tuệ. Do đó nội dung giáo dục đào tạo nhằm chuẩn bị NNL chất lượng cho tương lai được xác định theo hướng "Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội, tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý trí tự lực tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc" [7, tr.114]. Thực tế, sự nghiệp CNH, HĐH đang đặt ra yêu cầu và đòi hỏi rất cao và đa dạng, phong phú cả về mặt nội dung và phương thức đối với việc đào tạo NNL ở nước ta hiện nay. Nội dung đào tạo NNL ở nước ta không chỉ là những kiến thức về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ mà còn bao hàm cả đạo đức, truyền thống dân tộc. Nội dung các tri thức cấu thành chương trình đào tạo, cũng phải bao hàm sự kế thừa các yếu tố truyền thống, tiếp cận các trí thức hiện đại và tính tới sự phát triển. Đào tạo chuyên môn, trình độ học vấn cho mỗi người là rất quan trọng để tạo điều kiện cho họ có khả năng lao động, khả năng đảm nhận một công việc nào đó trong xã hội. Còn đào luyện "Đức" chính là tạo ra cái gốc, yếu tố cơ bản đem lại sức khoẻ về tinh thần để làm người có văn hoá, có tri thức. Đến lượt nó lại trở thành động lực thúc đẩy người lao động có những quyết định đúng đắn và hiệu quả trong hoạt động của họ, giúp họ biết hợp tác với ai, biết làm cái gì, làm vì ai và sẽ làm như thế nào. Nội dung của đào tạo NNL được thực hiện qua nhiều cấp bậc học với các mức độ khác nhau. Nhưng luận văn tập trung nghiên cứu đào tạo THCN, dạy nghề, đào tạo đại học, cao đẳng có thể khái quát qua các cấp bậc sau đây: -Thứ nhất: Đối với các cấp bậc phổ thông đặc biệt là THPT: Đối với bậc học này cần cung cấp kiến thức nền tảng khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, giáo dục ý thức công dân, định hướng giá trị: chân- thiện-mỹ và giáo dục hướng nghiệp để các em có thể ra quyết định đúng đắn cho việc lựa chọn bước đường tiếp theo cho tương lai, theo học nghề gì, chọn trường chuyên nghiệp hoặc trường cao đẳng, đại học nào cho phù hợp với khả năng của mình và yêu cầu của xã hội. -Thứ hai: Đối với các trường THCN-dạy nghề-cao đẳng-đại học: Đào tạo là quá trình kết hợp giữa đào tạo ban đầu và tự đào tạo, giữa truyền thụ tri thức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp với giáo dục đạo đức nhân văn để cung cấp nhân lực cho tất cả các lĩnh vực hoạt động KT-XH nên việc xác định nội dung đào tạo NNL trong hệ thống các trường nêu trên cần được đề cập tới các vấn đề sau: +Coi trọng giáo dục ý thức công dân đặc biệt hình thành niềm tin lý tưởng cộng sản, ý thức bảo vệ tổ quốc, rèn luyện sức khoẻ thông qua hệ thống các môn học chung. +Cung cấp các kiến thức thiết thực với nhu cầu thực tế của các ngành trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đặc biệt chú ý tới các ngành và lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghệ cao và du lịch. Gắn liền với việc truyền thụ tri thức là việc hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa học để người học có thể tiếp tục tự hoàn thiện về nhân cách và trình độ chuyên môn sau thời gian được đào tạo trong trường biết phát hiện và lý giải được những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra cho nghề nghiệp. Thực tiễn cho thấy kết quả của đào tạo không chỉ tính bằng lượng kiến thức được truyền đạt mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của năng lực sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học; khả năng thích hợp và khả năng biến tri thức thành kỹ năng lao động. +Cung cấp các kiến thức công cụ như ngoại ngữ và tin học nhằm tạo điều kiện cho sinh viên trong việc giao lưu, học hỏi, tiếp cận các tri thức khoa học hiện đại trên thế giới. +Rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau thông qua các giờ thực hành, xâm nhập thực tế theo chuyên ngành đào tạo, các cuộc gặp gỡ, trao đổi và học hỏi các doanh nhân thành đạt trong các lĩnh vực và nghề nghiệp hoặc các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực chuyên ngành nghiệp vụ được đào tạo. Kết hợp tốt việc giảng dạy lý thuyết với thực hành để sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường có thể giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành đào tạo mình được đảm nhận một cách có hiệu quả. Để chuẩn bị NNL chất lượng cao cho sự phát triển nền kinh tế tri thức cần giúp đỡ cho sinh viên cập nhật các kỹ năng mới, nhất là sử dụng công nghệ thông tin viễn thông, kỹ năng giải quyết, xử lý các vấn đề sự cố phát sinh, kỹ năng làm việc theo nhóm... +Ngoài các nhóm nội dung cơ bản nói trên cần chú ý tới việc rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp, đạo đức lương tâm nghề nghiệp, văn hoá ứng xử trong hợp tác lao động ở mỗi cương vị công tác mà người lao động được đảm nhiệm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Đối với các cơ sở đào tạo lao động xuất khẩu cần có nội dung bổ trợ tìm hiểu về pháp luật, truyền thống văn hoá, phong tục tập quán từng vùng của nước nhập khẩu lao động và cách giao tiếp ứng xử sao cho phù hợp với nước họ và tập quán quan hệ quốc tế. Cần bồi dưỡng về ngoại ngữ ở một trình độ nhất định cho đối tượng này. -Thứ ba: Đối với bậc đào tạo nhân tài: Trên cơ sở tuyển chọn các sinh viên xuất sắc ở các trường vào cuối năm thứ nhất, hoặc tuyển lựa các học sinh có điểm cao trong kỳ thi vào đại học sau đó tuyển chọn tiếp để đào tạo thành lớp sinh viên tài năng các ngành nghề quan trọng cho đất nước. Nội dung đào tạo lớp sinh viên tài năng này phải mang tính hiện đại, nhất là phải hướng vào việc phát triển năng lực tư duy sáng tạo, năng lực tự nghiên cứu, học tập và làm việc độc lập cũng như hợp tác, đồng thời hướng vào việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong việc dự đoán, nhận định năng lực và khai thác được tài năng của đối tác. Ngoài ra còn phải chú ý rèn luyện đạo đức. Như Bác Hồ của chúng ta từng dạy "Có tài mà không có đức thì vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó" [16, tr.252-253]. Như vậy, nội dung đào tạo NNL cần được xác định theo xu hướng phát triển của thời đại để có thể đào tạo cho xã hội một đội ngũ lao động mới có đủ đức, tài, năng động sáng tạo, thích nghi với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. 1.3.2. Nội dung sử dụng NNL được đào tạo. Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ cùng với những đòi hỏi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới trong việc khai thác và phát huy tiềm năng NNL. Ngày nay ở hầu hết các quốc gia con người được coi là trung tâm của quá trình sản xuất nên đã diễn ra quá trình tìm kiếm những cách thức và giải pháp tối ưu sử dụng NNL. Nhưng do đặc điểm tình hình KT-XH khác nhau nên việc xác định nội dung, giải pháp và bước đi có sự khác nhau ở mỗi quốc gia, địa phương. Quá trình khai thác sử dụng NNL ở nước ta bao gồm nhiều vấn đề như tạo việc làm, phân bố sử dụng hợp lý lực lượng lao động, phát huy tiềm năng trí tuệ và yếu tố tinh thần dân tộc, tạo ra những kích thích và động lực của lao động để đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và hiệu quả. Để khơi dậy và phát huy tiềm năng con người nói chung việc sử dụng NNL phải được tiến hành đồng bộ từ Giáo dục đào tạo, phổ cập nghề, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc sống lao động đến vấn đề tự do lao động và đựơc hưởng thụ xứng đáng giá trị lao động đến vấn đề đào tạo NNL. Trong đó Giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng NNL là cơ sở, điều kiện để sử dụng NNL có hiệu quả. Sử dụng có hiệu quả NNL sẽ tạo điều kiện mở rộng, cải thiện môi trường đào tạo tốt hơn để nâng cao chất lượng NNL. Ở các nước khác nhau, NNL được biểu hiện ra là nguồn lao động bao gồm toàn bộ những người lao động đang có khả năng phục vụ cho xã hội. Trong nguồn lao động đó có những người đã qua đào tạo và cả những người chưa được đào tạo; những người lao động sản xuất kinh doanh, nhà quản lý, khoa học, những người làm công tác dịch vụ, văn phòng... Từ khía cạnh này có thể hiểu nội dung sử dụng NNL, trước hết bao hàm việc phân bố hợp lý, khai thác sử dụng hết lực lượng lao động, giải quyết việc làm cho mọi người có nhu cầu làm việc và sử dụng các biện pháp kích thích hiệu quả đến nguồn lao động; kết hợp khai thác sử dụng với đào tạo bồi dưỡng NNL để nâng cao hiệu quả sử dụng, nâng cao chất lượng việc làm và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng. Trên cơ sở đó làm tăng thu nhập góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống cho người lao động. Sự thành công của CNH, HĐH ở nước ta nói chung và từng địa phương nói riêng không chỉ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng NNL mà còn phụ thuộc vào sử dụng hợp lý và hiệu quả; đặc biệt là khai thác hiệu quả NNL đã qua đào tạo. Việc thu hút toàn bộ lực lượng lao động vào hoạt động kinh tế không chỉ phải dừng lại ở chỗ thông qua phân công lao động tạo cho mỗi người đều có việc làm mà cần phải chú ý phân bố, sử dụng theo cơ cấu hợp lý và phù hợp về trình độ trong các ngành: nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ của nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH; trong các lĩnh vực như hành chính sự nghiệp, sản xuất kinh doanh (theo hướng lao động trong khu vực hành chính sự nghiệp ngày càng giảm xuống) và trong các vùng (thành thị - nông thôn, các vùng kinh tế trọng điểm) thuộc lãnh thổ quốc gia, đồng thời cũng cần phải tính đến tỷ lệ lao động trong tổng lực lượng lao động sẽ xuất khẩu ra nước ngoài. Nếu không có sự phân bố lao động một cách hợp lý thì nguồn lực lao động dù có đông đảo cũng không thể trở thành động lực để phát triển mà nhiều khi còn là gánh nặng của nền kinh tế. Ngoài những vấn đề trên, việc toàn dụng lao động còn phải tính tới khả năng khai thác thời gian lao động trong tổng số thời gian mà người lao động có thể làm việc. Cho nên trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, Nhà nước cũng cần phải tạo các cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích phát triển các ngành nghề tạo nhiều việc làm, trong đó có nhiều việc làm có chất lượng để bảo đảm cho người lao động có việc làm thường xuyên và hạn chế tình trạng bỏ việc một cách tuỳ tiện. Trên cơ sở phân công hợp lý toàn bộ lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế, nhà nước và các cơ sở trực tiếp sử dụng lao động cần tính đến việc tìm ra các biện pháp quản lý chặt chẽ lao động, các biện pháp kích thích tới người lao động để nâng cao hiệu quả sử dụng NNL của mình. Thực tế lịch sử phát triển của con người và xã hội loài người đã cho thấy: con người cùng với tri thức của họ là nguồn lực không bao giờ cạn. Bởi vậy song song với quá trình khai thác sử dụng lao động, các cơ sở tuyển dụng lao động cần kết hợp một cách linh hoạt, mềm dẻo các hình thức và nguyên tắc phân phối tạo điều kiện cho người lao động được tham gia các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ tay nghề và nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo. Nói cách khác là vừa biết khai thác vừa biết tái tạo, bồi đắp NNL để đáp ứng yêu cầu phát triển trong tương lai. Nhìn chung, việc sử dụng NNL trong điều kiện hiện nay phải tính tới tất cả các vấn đề: toàn dụng lao động, phân bố hợp lý, nâng cao hiệu quả sử dụng và bồi đắp NNL. 1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến đào tạo và sử dụng NNL. 1.4.1. Chính sách và biện pháp về đào tạo NNL. -Chính sách phát triển NNL bao gồm hầu hết những giải pháp tác động đến quá trình tăng cường năng lực của từng con người và tổ chức, quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn năng lực đó cho phát triển. Đó là những lĩnh vực và chính sách về điều tiết dân số, sức khoẻ và dinh dưỡng, giáo dục và đào tạo, việc làm và thu nhập, nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân v.v . . .Do đó chính sách phát triển, đào tạo NNL cần hoàn thiện gồm những nhóm chính sách như sau: +Chính sách phát triển giáo dục cơ sở có ý nghĩa tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền đề cần thiết cho phát triển đào tạo NNL và là một nhân tố cơ bản của phát triển NNL. Vì vậy, trong việc đánh giá phát triển NNL của một quốc gia, trước hết người ta dựa vào trình độ phát triển giáo dục phổ thông(tỷ lệ biết chữ, trình độ phổ cập giáo dục-số năm giáo dục bắt buộc, tỷ lệ đi học của trẻ em trong các nhóm tuổi của mỗi cấp học . . .), coi đó là nhân tố thuận lợi hay trở ngại cho việc đầu tư và hoạt động kinh doanh. Trong số các chính sách phát triển giáo dục thì chính sách phổ cập giáo dục là trọng tâm và trở thành những chính sách phát triển NNL của nhiều quốc gia trên thế giới. Tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển KT-XH và điều kiện cụ thể, mỗi quốc gia đặt mục tiêu phổ cập giáo dục cho một thời kỳ nhất định, thông thường trước hết là phổ cập tiểu học, sau đó là các cấp học tiếp theo(căn cứ vào sự phân cấp hệ thống giáo dục phổ thông theo 2 hoặc 3 cấp) hoặc phổ cập về số năm đi học bắt buộc. +Chính sách về quy mô đào tạo: Mục tiêu là nhằm điều tiết quy mô đào tạo chung và của từng cấp độ đào tạo khác nhau, theo đó có thể khuyến khích mở rộng hoặc thu hẹp quy mô đào tạo ở một cấp nhất định nào đó. +Chính sách về cơ cấu đào tạo: Mục tiêu của chính sách này là nhằm điều tiết hai loại hình cơ cấu đào tạo là cơ cấu về trình độ đào tạo và cơ cấu ngành nghề đào tạo. +Chính sách tài chính trong phát triển đào tạo NNL có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quản lý phát triển NNL. Hiện nay ở nước ta chính sách tài chính trong phát triển đào tạo NNL có những nội dung chủ yếu sau: Đa dạng hoá các nguồn tài chính nhằm huy động ngày càng nhiều và đa dạng các nguồn tài chính cho phát triển đào tạo. Ưu tiên tăng nhanh chi ngân sách nhà nước cho phát triển đào tạo NNL. -Một số biện pháp về đào tạo NNL: +Xây dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch cụ thể đào tạo NNL gắn với sử dụng NNL theo mục tiêu phát triển đất nước trong quá trình CNH, HĐH. +Xây dựng kế hoạch và các giải pháp khả thi để điều chuyển lực lượng lao động trong ngành giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của hệ thống. Việc điều chuyển không nên thực hiện trên cơ sở áp đặt mà kết hợp những ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ với quyền lợi và chế độ ưu đãi với sự cam kết của cá nhân và tổ chức. Những sinh viên nghèo, có hoàn cảnh khó khăn có thể được đào tạo miễn phí để trở thành giáo viên đi công tác một thời gian nhất định tại các vùng sâu, vùng xa kết hợp với chế độ cử tuyển trên cơ sở hợp đồng với nơi nhận, cơ quan cấp kinh phí và sinh viên. Việc chuyển cán bộ phải đi kèm với chế độ đãi ngộ thoả đáng. -Cải cách chế độ tiền lương, làm cho mức lương của cán bộ làm việc trong khu vực giáo dục và đào tạo không thấp hơn khu vực khác; cán bộ nghiên cứu có năng lực sáng tạo cao phải có thu nhập cao hơn hẳn so với mức thu nhập chung. -Để có thể đổi mới tác phong làm việc, văn hoá trong nghiên cứu khoa học, trong giảng dạy cần hình thành những đơn vị nghiên cứu, những trường đại học theo mô hình mới, hợp tác và mời những cộng tác viên người nước ngoài, từng bước thay đổi tác phong,văn hoá làm việc theo hướng hiện đại. -Phân cấp cho các cơ sở đào tạo những chức trách và quyền lực nhất định trong đãi ngộ, trả lương giáo viên; các trường đại học, cao đẳng, THCN và dạy nghề cần được tự chủ trong quản lý NNL và chịu trách nhiệm thông qua cơ chế công khai, cơ chế hội đồng; các cơ sở giáo dục phổ thông được tham gia vào nhiều khâu của quá trình quản lý, trong đó có trả công, trả lương để tăng cường hiệu quả quản lý. -Xã hội hoá huy động các nguồn lực tài chính cho giải quyết việc làm. Tăng hỗ trợ kinh phí Nhà nước cho các chương trình dự án giải quyết việc làm. khuyến khích các doanh nghiệp hỗ trợ kinh phí cho người lao động tự tạo việc làm, tìm kiếm việc làm. 1.4.2. Nguồn và chất lượng đầu vào của NNL. Ở nước ta hiện nay, giáo dục phổ thông là nền tảng sẽ tạo ra nguyên liệu cho giáo dục đào tạo NNL, giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề trực tiếp tạo ra NNL. Giáo dục phổ thông có ảnh hưởng lớn đối với đào tạo NNL cả về số lượng và chất lượng đầu vào, do đó ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng đào tạo NNL. Thực tế cho thấy nếu số lượng học sinh phổ thông có nguyện vọng dự thi vào các trường nghề, THCN và cao đẳng, đại học quá ít hoặc quá nhiều với trình độ học lực thấp sẽ không chỉ gây khó khăn cho việc tuyển lựa sinh viên vào các trường mà còn ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng nghề và phương pháp học tập tự nghiên cứu để nắm bắt được tri thức mới, nâng cao trình độ tay nghề. 1.4.3 Trình độ cơ sở vật chất và khả năng tài chính ở các cơ sở đào tạo. Cơ sở đào tạo NNL đều phải dựa trên những điều kiện cơ sở vật chất nhất định để cho các hoạt động giảng dạy trong các trường đào tạo NNL, thực hiện được cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật chất. Ngoài nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lý trong các trường, còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng mở mang trường lớp, các thiết bị văn phòng, máy tính, dụng cụ vật tư kỹ thuật cho thí nghiệm thực hành, các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có chất lượng cao, giáo trình và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo. Thực tế đã chứng minh để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể thiếu điều kiện trang thiết bị và xưởng thực hành. Không có các điều kiện trên việc tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa lạ, sinh viên không được làm quen với các thao tác nghề, những kiến thức lý thuyết thu nhận được sẽ mai một dần theo năm tháng, kỹ năng của người thợ không được hình thành. Hơn nữa, nếu không có nguồn tài chính để bổ sung các thiết bị hiện đại cho sinh viên thực hành sẽ không đáp ứng khoa học công nghệ hiện nay và cũng không thể đáp ứng yêu cầu phát triển NNL theo hướng kinh tế tri thức. 1.4.4. Trình độ đội ngũ giáo viên giảng dạy và cán bộ quản lý. Các mục tiêu của giáo dục đào tạo sẽ không thực hiện được nếu không có đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ mạnh. Chất lượng của đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định chất lượng sản phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy người học làm trung tâm của đào tạo. Mọi sự bất cập về số lượng, chất lượng, trách nhiệm của người thầy so với yêu cầu đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết quả đào tạo. Đối với sinh viên, tấm gương về đạo đức, nhân cách, tài năng của người thầy có tác dụng rất lớn đối với việc hình thành nhân cách, tài năng của họ. Muốn có trò giỏi (NNL có chất lượng) ắt phải có thầy giỏi, bởi trong thực tế người thầy không thể cho học sinh của mình cái mà mình chưa có được. Trình độ chuyên môn của thầy yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề cho sinh viên không đầy đủ, thậm chí còn sai lệch, học sinh thông minh nhưng không có thầy giỏi dẫn dắt thì sự thông minh ấy không thể trở thành nhân tài được. Vì vậy phải xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đồng thời phải chú trọng việc nâng cao trình độ giáo viên trong các trường, tạo điều kiện cho họ được cập nhật với các tri thức khoa học hiện đại và phát triển đội ngũ giáo viên tài năng. Trong các nhà trường để hoạt động đào tạo đạt được kết quả, ngoài đội ngũ cán bộ giảng dạy không thể thiếu đội ngũ cán bộ quản lý với năng lực, trình độ, trách nhiệm cao trong bộ máy quản lý hành chính. Thực tế cho ta thấy mọi hoạt động trong nhà trường cần được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất. Vì vậy cần phải có hệ thống quản lý từ Ban giám hiệu đến các phòng, ban chức năng để thực hiện các công việc từ quản lý con người đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn luyện ý thức đạo đức cho sinh viên, cũng như hoạt động giảng dạy, hoạt động phục vụ cho giảng dạy, hạch toán thu chi, mua sắm và vận hành, bảo quản các trang thiết bị, cơ sở vật chất... Một bộ phận nào đó trong hệ thống trên bị trục trặc hay suy yếu đều ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận khác, do đó ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phí đào tạo NNL. Nhưng việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ thống trên lại phụ thuộc vào trình độ năng lực và ý thức trách nhiệm của chính những con người được quyền phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Cho nên phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực trình độ phù hợp với công việc và ý thức trách nhiệm cao. 1.4.5.Chất lượng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và trình độ trang thiết bị kỹ thuật-công nghệ trong sản xuất kinh doanh. -Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đào tạo NNL có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thực hiện quy hoạch phát triển trên các vùng lãnh thổ sẽ tạo ra nhu cầu lớn cho thu hút lao động, đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu lao động và tổ chức điều chỉnh phân bố lao động. Việc xây dựng những công trình kinh tế lớn của quốc gia, mở mang và nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở vật chất, xây dựng và phát triển các khu kinh tế với những mô hình thích hợp ở các vùng chậm phát triển, tăng cường các hoạt động đầu tư nước ngoài và liên doanh liên kết rộng với các cơ sở kinh tế địa phương... đều tạo khả năng thu hút nguồn lao động lớn và đặt ra yêu cầu lớn về đào tạo NNL. Chiến lược phát triển KT-XH thời kỳ 2001-2010 của nước ta yêu cầu chú trọng đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế tạo, xây dựng một số ngành công nghệ kỹ thuật cao, nâng cao từng bước trình độ công nghệ trong mọi ngành sản xuất, phát triển công nghiệp nhỏ và dịch vụ nông thôn theo hướng văn minh hiện đại, nâng chất lượng và giá trị nông sản hàng hoá để tăng sức cạnh tranh, phát triển đa dạng thương mại dịch vụ, phát triển du lịch sớm trở thành mũi nhọn... Nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp- công nghiệp-dịch vụ sang công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp từ 70% năm 2000 xuống 50% vào năm 2010 và nâng tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ nhưng trong đó đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động được đào tạo theo ngành và trình độ phù hợp với định hướng phát triển kinh tế. Rõ ràng chuyển dịch cơ cấu kinh tế như phân tích đã đặt ra những thách thức đối với NNL và do đó trực tiếp tác động tới đào tạo NNL cả về quy mô, cơ cấu và trình độ cũng như việc phân bổ, khai thác sử dụng hợp lý NNL trong quá trình CNH, HĐH. -Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các ngành kinh tế, cùng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, các trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất và kinh doanh cũng ngày càng thay đổi theo hướng hiện đại, do đó đòi hỏi phải có NNL phù hợp để trước hết có thể sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị hiện có để nâng cao hiệu quả đầu tư sau đó là sự tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng một cách sáng tạo các thiết bị công nghệ mới. Thực tế cho thấy đầu tư xây dựng cơ bản tăng nhưng thiếu người lao động và thiếu sự đồng bộ giữa trình độ công cụ lao động với trình độ chuyên môn của người lao động thì hiệu quả lao động không cao, gây lãng phí vốn đầu tư trong xã hội. Tính đồng bộ giữa trình độ công nghệ cao với trình độ kỹ thuật và công nhân lành nghề đòi hỏi hoạt động đào tạo phải đáp ứng đủ và đúng chuyên môn, ngành nghề, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề để có thể làm chủ các công nghệ mới. Trong xu thế hội nhập hiện nay, muốn nhập khẩu công nghệ cao hơn phải tổ chức đào tạo NNL tốt hơn; đã có rất nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập trong khi trình độ chuyên môn người lao động trong nước còn non yếu. Nếu thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề thì không thể ứng dụng được công nghệ mới, do đó phải đào tạo NNL. Việc đào tạo NNL không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng mà còn phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng sao cho việc sắp xếp, phân công đó phải đảm bảo sự hợp lý, đúng người đúng việc như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy "Xem người ấy xứng với việc gì, nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ cũng không được việc" [16, tr.274-275]. 1.4.6. Thị trường lao động. Việc hình thành và quản lý tốt thị trường lao động hiện nay có vai trò quan trọng đối với đào tạo và sử dụng NNL. Nó cung cấp thông tin cho đào tạo NNL để có thể cung ứng nhu cầu nhân lực cả về quy mô, cơ cấu, chất lượng cho CNH, HĐH đồng thời thông qua thị trường lao động, các cơ quan đơn vị kinh tế có điều kiện để tuyển chọn lao động theo yêu cầu của mình. Thông qua thị trường lao động, người lao động tìm được công việc phù hợp với trình độ chuyên môn và sở trường của mình. Do đó cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng NNL; xác lập được quan hệ cung-cầu lao động, giảm dần sự mất cân đối giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục được tình trạng lãng phí trong đào tạo và sử dụng NNL. Cơ chế chính sách tuyển dụng NNL: đây là yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả đào tạo và khai thác, sử dụng NNL. Trong cơ chế cũ Nhà nước chủ trương kế hoạch hoá từ việc đào tạo NNL, tuyển dụng, sử dụng cho đến khi thôi việc. Việc thực hiện kéo dài chính sách này đã làm nảy sinh những hiện tượng không tích cực như đào tạo và sử dụng không ăn khớp, dư thừa lao động trình độ đại học, thiếu công nhân lành nghề, triệt tiêu động không kích thích người lao động làm việc có hiệu quả, không khuyến khích nâng cao trình độ tay nghề, chạy theo số lượng trong tuyển dụng lao động mà không chú trọng đến hiệu quả. Quan điểm sử dụng hết nguồn lao động xã hội đã dẫn tới tình trạng tuyển dụng ồ ạt làm cho bộ máy làm việc trở nên cồng kềnh, kém hiệu lực. Việc tuyển dụng theo cơ chế phân công việc làm cho sinh viên sau khi tốt nghiệp, mỗi người đều được nhận một chỗ làm việc như nói trên đã không kích thích được ý thức động cơ của người được đào tạo và dễ rơi vào tình trạng không đúng người đúng việc, hiệu quả lao động thấp. Với việc tuyển dụng lao động theo cơ chế thị trường, người lao động nào đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng thì người đó có việc làm. Cơ chế này đã tạo điều kiện cho người lao động có thể nhận được công việc phù hợp với trình độ năng lực của mình nên hiệu quả lao động cao, đồng thời thông qua việc được nhận thù lao lao động tương xứng với trình độ năng lực, người lao động có ý thức cao hơn trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp và do đó lại làm cho kết quả đào tạo NNL được nâng cao hơn nữa về chất. Rõ ràng việc đổi mới cơ chế chính sách tuyển dụng lao động là một nhân tố có tác động tích cực tới đào tạo NNL và nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay. 1.5. Những chỉ tiêu đánh giá về đào tạo và sử d._. -Tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo, coi nó là đầu tư cho phát triển. Trong giai đoạn hiện nay và sắp tới tỉnh cần tăng dần ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo (hơn 15%) và đặc biệt chú ý tới các trường THCN và dạy nghề. -Xây dựng trường dạy nghề thứ hai và mở thêm một số trung tâm dạy nghề tại các khu công nghệ cao và các vùng nông thôn để giảm số lao động đào tạo nghề ngắn hạn, tăng số lao động được đào tạo dài hạn. Phấn đấu mỗi huyện có một trung tâm dạy nghề với cơ sở vật chất phù hợp, đáp ứng yêu cầu cập nhật các nghề mới. -Đối với các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề và trung tâm kỹ thuật tổng hợp, nhất thiết phải được đầu tư thêm các trang thiết bị dạy nghề để học sinh có điều kiện rèn luyện làm quen với các thao tác kỹ năng nghề nghiệp, khắc phục tình trạng học "chay" ở một số trung tâm như hiện nay. Đồng thời phát động phong trào thi đua tự tạo thiết bị dạy học, khơi dậy tinh thần sáng tạo vượt khó khăn trong giảng dạy và học tập. 3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý. Ngoài chất lượng nguồn đào tạo và cơ sở vật chất, việc nâng cao chất lượng đào tạo NNL còn phụ thuộc một phần rất lớn ở trình độ giáo viên và đội ngũ cán bộ quản lý trong các trường đại học, cao đẳng, THCN, trường dạy nghề. Đội ngũ này phải đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề, trong đó tỷ lệ giáo viên có tay nghề cao có trình độ đại học và trên đại học ngày càng tăng. Kinh nghiệm của các nước trong khu vực và thực tế việc tổ chức Hội chợ kỹ thuật công nghệ ở Việt Nam và Hội chợ việc làm ở Bắc Ninh trong thời gian qua cho thấy, trong xu thế phát triển công nghệ thay đổi từng ngày, từng giờ nếu cán bộ giảng dạy không thường xuyên được bồi dưỡng, cập nhật phương pháp giảng dạy, thông tin kiến thức kỹ thuật hiện đại thì sẽ bị tụt hậu và sản phẩm đào tạo là những người thợ cũng không thể coi là phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của đơn vị tuyển dụng lao động trong nước và cạnh tranh trên thị trường lao động nước ngoài. Trong nhiều năm qua ở Bắc Ninh việc đào tạo NNL chưa được quan tâm đúng mức nên việc đào tạo nâng cao trình độ giáo viên cũng chưa được coi trọng, vì vậy để nâng cao trình độ của giáo viên trong thời gian tới tỉnh cần coi trọng việc đào tạo bồi dưỡng chuẩn hóa giáo viên (nhất là giáo viên các trường dạy nghề). Thời gian qua mặc dù nhiều giáo viên ở các cơ sở đào tạo đã tự mình tích cực theo học các lớp bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ sau đại học, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo NNL cho tương lai. Điều đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thu nhập của giáo viên thấp và tỉnh chưa có cơ chế khuyến khích cho việc đi học để nâng cao trình độ. Để nâng cao trình độ giáo viên tỉnh cần giành một phần ngân sách và có cơ chế hỗ trợ cho các giáo viên đi học tập nâng cao trình độ trên đại học, kết hợp với các doanh nghiệp đưa lao động giỏi, lao động trẻ đi tu nghiệp ở nước ngoài. Đồng thời với việc đầu tư bồi dưỡng nâng cao trình độ cho giáo viên, tỉnh Bắc Ninh cần có chính sách đãi ngộ theo đúng giá trị NNL được đào tạo, trọng dụng người tài để vừa giữ, vừa thu hút được giáo viên giỏi về công tác giảng dạy trong các trường đào tạo của tỉnh. Một số vấn đề khác không kém phần quan trọng là xây dựng và phát huy hiệu quả các tập thể chuyên môn mạnh trong các cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất kinh doanh để có thể hòa nhịp trong kết hợp đào tạo lý thuyết với kỹ năng thực hành, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn giáo dục đào tạo với sử dụng và giải quyết việc làm. Cùng với đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ quản lý cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc đào tạo NNL. Điều này được thể hiện thông qua việc quản lý thu - chi tài chính, tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy, quản lý việc thực hiện nội dung chương trình và quy trình đào tạo. Các hoạt động trên được thực hiện tốt sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và hạ thấp mức chi phí đào tạo. Bởi vậy tỉnh cần thực hiện việc liên kết với các cơ sở đào tạo của Trung ương mở lớp hoặc gửi cán bộ quản lý theo học các lớp nghiệp vụ để nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý thuộc các cơ sở đào tạo NNL. 3.2.4. Tạo nhiều việc làm mới để có thể toàn dụng lao động. Có thể nói, tạo nhiều việc làm là một nhiệm vụ bức bách ở Bắc Ninh hiện nay khi số lao động chưa có việc làm và số lao động bổ sung ngày càng gia tăng và chủ yếu lại tập trung ở nông thôn. Để tạo việc làm thu hút được nhiều lao động cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau: Một là, chuyển dịch và phát triển cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn trên cơ sở các lợi thế của địa phương, nhanh chóng hiện thực hóa các dự án đầu tư vào tỉnh, do đó đầu tư phát triển khu vực nông thôn, đẩy nhanh đô thị hóa, phát triển ngành nghề sẽ làm tăng nhu cầu lao động tại chỗ, tăng việc làm, nhanh chóng giảm thiểu số lao động chưa có việc làm và số lao động có việc làm không đầy đủ, thời gian nông nhàn của nông dân, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn đồng thời gắn được lao động với đất đai tài nguyên của tỉnh. Muốn vậy cần: -Nhanh chóng thực hiện việc giải phóng mặt bằng, hoàn thiện hành lang pháp lý và xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất để các dự án đầu tư của các doanh nghiệp trong, ngoài nước vào tỉnh được thực thi có hiệu quả. -Cho phép các tổ chức, cá nhân thuê đất lâu dài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để họ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh hình thành nên các khu công nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn. - Phát triển kinh tế hộ gia đình, làng nghề, phát triển kinh tế trang trại đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp nông thôn. - Tạo điều kiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất (chuyển một phần hợp lý diện tích trồng lúa sang làm vườn hoặc nuôi trồng thủy sản có giá trị kinh tế cao). Hai là, đẩy mạnh việc khôi phục và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống và tạo nghề mới, một hướng đi hiệu quả, vừa tận dụng được nguồn lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, vừa khai thác được nguồn tài nguyên phong phú đa dạng đối với tạo việc làm. Việc phát triển làng nghề ở Bắc Ninh không chỉ tạo việc làm cho người lao động mà còn có thể thu hút thời gian của lao động phụ góp phần tiết kiệm thời gian, tăng thêm thu nhập, giảm thiểu các tệ nạn xã hội. Muốn vậy cần ưu tiên giải quyết về vốn đặc biệt là nguồn vốn lãi suất thấp hỗ trợ đào tạo nghề và giải quyết mặt bằng. Mở rộng thị trường, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi để bảo đảm số lượng và chất lượng tốt cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm trong các làng nghề. Ba là, khuyến khích phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh quy mô vừa và nhỏ, bởi đây là khu vực kinh tế năng động, hiệu quả hoạt động khá cao, đóng góp đáng kể vào GDP của tỉnh, tạo nhiều việc làm và thu hút NNL đáng kể hiện nay. Năm 2001 khu vực này đã thu hút tạo thêm việc làm cho 5.500 lao động. Năm 2002 tạo việc làm thêm cho 6.000 lao động. Năm 2003 tạo việc làm cho 7.000 lao động. Muốn vậy, Uỷ ban Nhân dân tỉnh cần khuyến khích, hỗ trợ khu vực này về vốn thông qua hình thức bảo lãnh tín dụng và vay vốn ưu đãi từ quỹ phát triển, về thông tin kỹ thuật, mặt bằng sản xuất, bảo đảm sự bình đẳng và tạo niềm tin cho các chủ đầu tư, có thể giảm thuế trong thời gian đầu khi sản xuất các mặt hàng mới có hiệu quả kinh tế cao. Bốn là, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Trong nhiều năm qua xuất khẩu lao động được coi là một định hướng quan trọng, mũi nhọn trong việc tạo việc làm cho hiệu quả cao, nhưng hiện nay xuất khẩu lao động đang gặp khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu mà tỉnh đề ra năm 2004 (1.200 lao động). Số lao động đưa sang nước bạn làm việc còn ít, không tương xứng với tiềm năng lao động rất dồi dào của tỉnh, trong khi đó nhu cầu lao động ở nước bạn vẫn rất lớn (như Hàn Quốc, Đài Loan). Vì vậy, cần tập trung tuyên truyền giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước nhận lao động, nâng cao sự hiểu biết về phong tục tập quán, khả năng giao tiếp ngoại ngữ, nâng cao ý thức chấp hành các nguyên tắc trong hợp tác lao động cho người lao động. Hình thành và hoàn thiện mạng lưới chuyên đào tạo NNL cho xuất khẩu. Tập trung đào tạo, chuẩn bị NNL có tay nghề và chất lượng cao (bởi trong số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài mới chỉ có 4% lao động chất lượng cao còn lại là lao động phổ thông) đáp ứng thị trường lao động của khu vực và thế giới, nhất là các ngành xây dựng, điện tử, tin học. Mặt khác cần thực hiện tốt chính sách cho vay vốn thế chấp để người lao động có cơ hội đi xuất khẩu lao động với mức chi phí thấp, duy trì giữ vững thị trường truyền thống và xây dựng các thị trường mới. 3.2.5. Nâng cao hiệu quả sử dụng NNL. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng tác giả đề tài chỉ đề cập tới các vấn đề sau: Một là, tạo lập duy trì mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo, đơn vị tuyển dụng lao động và việc làm. Để phát huy có hiệu quả NNL cần phải đảm bảo sự thống nhất trên cả ba mặt: đào tạo - sử dụng - việc làm. Việc gắn đào tạo với sử dụng trong cơ cấu thống nhất sẽ giúp cho việc xác định đúng quy mô, cơ cấu NNL đào tạo phù hợp với yêu cầu sử dụng để phát triển KT-XH khắc phục tình trạng thừa, thiếu, bất hợp lý và lãng phí trong đào tạo, sử dụng NNL. Muốn vậy phải điều tra xác định nhu cầu việc làm, nhu cầu sử dụng nhân lực được đào tạo, phải nghiên cứu dự báo về xu hướng biến động của thị trường lao động, xu hướng vận động của cơ cấu lao động trong quá trình CNH-HĐH để có cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại các loại hình lao động cho phù hợp. Bắc Ninh có thể thực hiện theo hướng nói trên qua các nội dung sau: -Gắn cơ sở đào tạo với nghiên cứu, thực nghiệm khoa học và lao động sản xuất. Các trường đại học tiến hành hoạt động nghiên cứu và triển khai ở tất cả các lĩnh vực khoa học và công nghệ từ nghiên cứu cơ bản đến nghiên cứu ứng dụng, triển khai, thử nghiệm và áp dụng các kết quả đạt được vào sản xuất, đẩy mạnh công tác giáo dục lao động, hướng nghiệp và dạy nghề ở các trường phổ thông; tăng cường hoạt động thực nghiệm khoa học, lao động sản xuất theo ngành nghề ở các trường chuyên nghiệp; khuyến khích sự liên kết giữa các trường phổ thông với các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp, các cơ sở sản xuất, dịch vụ. Thông qua việc trao đổi trực tiếp với các doanh nghiệp và các cơ sở sử dụng lao động, các nhà trường xây dựng kế hoạch đào tạo về quy mô và cơ cấu ngành nghề. Cách làm này vừa khắc phục được tình trạng người học chỉ theo một số ngành có lợi ích trước mắt, vừa hướng người học tự giác lựa chọn ngành nghề theo cơ cấu lao động và trình độ tỉnh có nhu cầu, vừa bảo đảm cho người học có được việc làm sau khi tốt nghiệp, vừa tạo điều kiện cho cơ sở sử dụng lao động chuyển được lao động cần thiết và phù hợp đảm bảo năng suất lao động cao. Mặt khác việc tạo mối liên thông giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp còn có thể giúp cho các trường khắc phục được những khó khăn về tài chính, về cơ sở vật chất thực hành, thực tập trong đào tạo, nhờ có sự hỗ trợ của các đơn vị tuyển dụng lao động được đào tạo. - Mở rộng các hình thức đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại chỗ cho các địa phương. Việc làm này vừa góp phần quan trọng gắn đào tạo với sử dụng, khắc phục tình trạng mất cân đối trong phân bố sử dụng nhân lực qua đào tạo và tình trạng dư thừa giả tạo lao động qua đào tạo trong tỉnh, vừa tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế miền núi. Tuy nhiên cũng cần phải nhận thức rằng gắn đào tạo với sử dụng và việc làm không có nghĩa là người học sau khi tốt nghiệp ra trường là nghiễm nhiên có việc làm ngay do được phân công mà là nhằm điều chỉnh để tránh sự mất cân đối giữa cung-cầu lao động một cách tổng thể. Từ đó giảm thiểu lãng phí trong đào tạo NNL và giảm sức ép việc làm đối với nền kinh tế của tỉnh. Còn người học sau khi học xong có được việc làm hay không họ phải đối mặt với những thử thách trên thị trường lao động tùy thuộc vào khả năng họ đáp ứng được yêu cầu về kiến thức. Kỹ năng nghề nghiệp do các doanh nghiệp và đơn vị tuyển dụng đưa ra qua các kỳ dự tuyển. Hai là, khơi dậy và nuôi dưỡng tính tích cực của người lao động. Thực tế hoạt động sản xuất cho chúng ta thấy hiệu quả sử dụng NNL phụ thuộc chủ yếu vào cách thức tổ chức và phân công lao động, mức độ lành nghề và thái độ của người lao động đối với công việc họ được đảm nhiệm. Vì vậy bên cạnh việc đầu tư đào tạo, đào tạo lại để người lao động có trình độ chuyên môn thích ứng, các đơn vị sử dụng lao động cần có biện pháp kích thích đối với họ để khơi dậy và phát huy tính tích cực của người lao động. Song kích thích người lao động bằng cách nào? có nhiều hình thức tác động nhưng trong phạm vi đề tài này tác giả đề cập tới biện pháp tác động bằng lợi ích kinh tế. Nếu xuất phát từ góc độ nhu cầu lợi ích kinh tế thì thu nhập thấp từ công việc đang làm là nguyên nhân dẫn đến sự lãng phí nhân lực. Tình trạng làm việc chung thì "cầm chừng…" để giữ chỗ làm còn tâm sức trí tuệ dồn cho việc làm phụ thêm bên ngoài không phải là ít ở nhiều cơ quan xí nghiệp của Bắc Ninh. Nhiều lao động do thu nhập thấp phải từ bỏ công việc chuyên môn được đào tạo để làm những việc khác có thu nhập cao hơn, mặc dù biết là công việc đó về lâu dài không được ổn định. Vì vậy tạo điều kiện để người lao động có việc làm, có thu nhập cao thậm chí có thể làm giàu từ chính nghề nghiệp của mình được coi là có ý nghĩa hơn cả và phù hợp với xu thế hiện nay để nuôi dưỡng và phát huy tính tích cực của người lao động. Nhưng trong thực tế chúng ta không thể ngay lập tức nâng cao thu nhập cho người lao động được bởi nó không thể vượt quá sự đóng góp của lao động vào hiệu quả của nền sản xuất. Do đó việc cần làm là bên cạnh việc tạo ra việc làm thường xuyên cho người lao động, đồng thời làm cho người lao động nhận thức được rằng thu nhập của họ do chính sự đóng góp lao động của họ quyết định. Từ đó có thước đo phân phối theo kết quả lao động và phân phối theo giá trị sức lao động có tính đến cung-cầu sức lao động để trả công tương xứng với sự cống hiến của người lao động. Đồng thời sử dụng các hình thức khen thưởng bằng vật chất như: tiền thưởng, phiếu du lịch, tài trợ toàn phần cho một khóa học bồi dưỡng nâng cao tay nghề đối với những người có ý thức trách nhiệm cao và hoàn thành xuất sắc công việc được giao, hoặc khen thưởng đối với con em người lao động khi đạt thành tích học tập cao, hoặc có thể tài trợ cho những sinh viên là con của người lao động khi theo học các chuyên ngành phù hợp hay liên quan đến hoạt động sản xuất của xí nghiệp để có thể thu nạp họ trong tương lai. Những việc làm đó tác động trực tiếp đến người lao động làm cho họ có ý thức trách nhiệm cao hơn với công việc và tạo ra được năng suất lao động cao hơn. 3.2.6. Hình thành và phát triển thị trường lao động. Thị trường lao động với nghĩa chung nhất là một hệ thống trao đổi giữa người đã có việc làm hoặc tìm kiếm việc làm (cung lao động) với những người sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động (cầu lao động). Sự phát triển của nền kinh tế thị trường tác động mạnh đến cấu trúc việc làm và làm cho cấu trúc việc làm luôn biến động; thay đổi. Tức là cầu lao động biến đổi và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, chất lượng cũng như cơ cấu về cung lao động. Tính linh hoạt này đặt ra cho đào tạo và một mặt phải tập trung mọi nỗ lực trang bị các kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động phù hợp với yêu cầu tuyển dụng, mặt khác phải thường xuyên điều chỉnh chương trình, nội dung đào tạo kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, có khả năng chuyển động để bảo đảm tính linh hoạt và khả năng thích ứng cao hơn của người lao động đối với các điều kiện việc làm khác nhau (như điều kiện áp dụng công nghệ mới, công nghệ cao). Như vậy, cơ sở đào tạo phải tổ chức đào tạo nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động mới tạo ra được khả năng cạnh tranh cao cho sản phẩm của mình. Còn người học muốn có cơ hội và hy vọng tìm kiếm việc làm họ phân nhận biết, phân tích thông tin thị trường lao động, xác định khả năng của mình để quyết định theo học nghề gì? cấp trình độ nào cho phù hợp. Trên thị trường lao động, người lao động tìm kiếm việc làm thông qua quan hệ thỏa thuận với người sử dụng về tiền lương, tiền công dưới hình thức hợp đồng lao động khi anh ta đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng về trình độ, năng lực. Người sử dụng lao động sẽ được đáp ứng yêu cầu tuyển dụng lao động khi anh ta đồng ý trả cho người lao động một khoản tiền và điều kiện làm việc tương ứng. Chính điều này làm cho người sử dụng lao động phải cân nhắc kỹ lưỡng khi anh ta đưa ra yêu cầu tuyển dụng lao động và phải có biện pháp quản lý, tác dụng tích cực để khai thác sử dụng lao động một cách hiệu quả để đảm bảo được lợi ích kinh tế. Khi thị trường lao động được hình thành và phát triển, sự hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường sẽ tác động tới tất cả các chủ thể như: nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động, người đào tạo lao động… làm cho việc đào tạo nhân lực phải dựa trên cơ sở cầu lao động. Việc đào tạo ai, đào tạo nghề gì, cấp trình độ nào, số lượng bao nhiêu phải do cầu quyết định. Một mặt đã làm cho đào tạo ngày càng gắn với sử dụng; mặt khác làm cho việc sử dụng lao động cũng ngày càng hợp lý và hiệu quả cao hơn, đồng thời khắc phục được lãng phí xã hội trong cả đào tạo và sử dụng nhân lực. Rõ ràng đã đến lúc việc đào tạo và sử dụng NNL của cả nước nói chung và Bắc Ninh nói riêng phải tính đến việc vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường để hình thành và phát triển được thị trường lao động. Từ đó, xác lập khung pháp lý cho thị trường lao động, cung cấp thông tin cho thị trường lao động và dịch vụ việc làm sẽ làm cho thị trường hoạt động có hiệu quả: nối được cung với cầu lao động, tạo điều kiện để nhiều người có cơ hội tìm kiếm việc làm phù hợp hơn. Nhờ đó giải quyết được một cách thỏa đáng mối quan hệ đào tạo - sử dụng NNL để phục vụ cho mục tiêu CNH-HĐH. Trước mắt Bắc Ninh cần đẩy mạnh việc tổ chức và nâng cao hiệu quả của các hội chợ việc làm, các trung tâm dịch vụ việc làm tạo cơ sơ cho sự hình thành thị trường lao động. 3.2.7. Tăng cường vai trò của nhà nước và chính quyền địa phương Bắc Ninh đối với việc đào tạo và sử dụng NNL. 3.2.7.1. Đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo, tăng nhanh dạy nghề. Trong điều kiện hiện nay, lợi thế tương đối về lao động giản đơn đã mất dần ý nghĩa, lợi thế đã thuộc về những quốc gia nào có lực lượng lao động được đào tạo có trình độ ngang tầm với đòi hỏi của công nghệ hiện đại. Vì vậy việc đào tạo NNL ở nước ta phải gắn với sự phát triển của khoa học công nghệ, phải tạo ra được đội ngũ lao động phù hợp với trình độ công nghệ hiện đại theo hướng tiếp cận nhanh với kinh tế tri thức. Như phần thực trạng đã chỉ rõ, do cơ cấu của NNL qua đào tạo ở nước ta nói chung và ở Bắc Ninh nói riêng đang có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo đại học, cao đẳng-THCN-dạy nghề. Cho nên trong những năm trước mắt cần phải điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng mở rộng quy mô dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu về số công nhân kỹ thuật rất lớn hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho việc khôi phục và phát triển dạy nghề cụ thể là: -Phát triển và hoàn thiện hệ thống các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề để đáp ứng yêu cầu học nghề cho nhân dân. Khuyến khích các doanh nghiệp mở lớp, mở trường dạy nghề tăng cường hệ thống đào tạo kèm cặp như thợ cả kèm thợ phụ, bồi dưỡng ngoài giờ làm việc theo chuyên ngành gắn với những thay đổi của kỹ thuật công nghệ. -Nhà nước cần tăng dần tỷ trọng đầu tư từ ngân sách hỗ trợ cho các địa phương, điều chỉnh phân bố cơ cấu ngân sách theo hướng ưu tiên hơn cho lĩnh vực dạy nghề, bên cạnh đó cần khuyến khích huy động các nguồn đóng góp của xã hội cho dạy nghề, cho các quỹ khuyến công, khuyến nông. Có chính sách khuyến khích đội ngũ cán bộ trong các trường đại học,.. cao đẳng, các viện nghiên cứu, các trường dạy nghề, mở rộng quy mô nghiên cứu khoa học, gắn khoa học với sản xuất, giảng dạy với thực tiễn để nâng cao chất lượng đào tạo và thúc đẩy KT-XH phát triển. -Uỷ ban nhân dân tỉnh cần tăng cường sự quản lý nhà nước và tăng đầu tư đối với giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo nghề nhằm điều chỉnh những hoạt động chệch hướng để nâng cao chất lượng đào tạo, mở mang các mô hình giáo dục đào tạo mới. Có chính sách hỗ trợ về tài chính đối với việc đào tạo NNL cho vùng miền núi. -Tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo NNL dưới sự quản lý của chính quyền Tỉnh, đồng thời có chính sách và định mức cụ thể để các doanh nghiệp đóng góp cho việc sử dụng lao động theo trình độ đào tạo. -Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo NNL. Huy động vốn đầu tư cho đào tạo nghề thông qua các tổ chức quốc tế UNICEF, UNESCO, WB, và các tổ chức phi chính phủ. 3.2.7.2. Hoàn thiện cơ chế chính sách đào tạo và sử dụng NNL. Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta trong thời gian qua cơ chế chính sách sử dụng NNL cũng đã có những đổi mới căn bản theo hướng gắn với cơ chế thị trường. Cơ chế này đã bước đầu phát huy được vai trò tích cực trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng NNL, tuy nhiên nó cũng bộc lộ những hạn chế và gây lãng phí không nhỏ về NNL. Vì vậy cần phải tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách sử dụng để phát huy được vai trò to lớn của NNL trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH theo các nội dung sau đây: -Thực hiện nhất quán chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động theo cơ chế thị trường. -Có chính sách hỗ trợ cho người sử dụng nhiều lao động và có chính sách khuyến khích cơ sở sử dụng lao động áp dụng công nghệ mới để thu hút và khai thác được NNL đã qua đào tạo khắc phục tình trạng chảy máu chất xám. - Có chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút nhân tài (những nhà khoa học, các nhà quản lý, kinh doanh giỏi, giáo viên giỏi…) về làm việc ở Bắc Ninh. Các giải pháp nêu trên đối với đào tạo và sử dụng NNL có mối quan hệ chặt chẽ với nhau đòi hỏi phải được thực hiện một cách đồng bộ. Kết quả của việc thực hiện thể hiện rõ việc nhận thức và giải quyết một cách linh hoạt, đồng bộ mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng NNL, giữa cung và cầu NNL trong từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Bắc Ninh . KẾT LUẬN Nghiên cứu đề tài “Thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 1997 đến nay-kinh nghiệm và giải pháp” tác giả luận văn đã hoàn thành được những mục tiêu đặt ra trong nghiên cứu và có những đóng góp sau: -Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo và sử dụng NNL trơng quá trình CNH, HĐH với việc làm rõ một số khái niệm cơ bản về việc đào tạo và sử dụng NNL, sự cần thiết khách quan của đào tạo và sử dụng NNL trong CNH, HĐH. Đồng thời luận văn cũng làm rõ những nội dung của đào tạo và sử dụng NNL được đào tạo trong phát triển KT-XH cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình đào tạo và sử dụng NNL. Luận văn cũng làm rõ tác động của đào tạo và sử dụng NNL đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta trong thời gian qua. -Luận văn đã làm rõ chủ trương của Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương về giáo dục, đào tạo và sử dụng NNL. Trên cơ sở đó luận văn đi sâu nghiên cứu và đánh gía thực trạng về đào tạo và sử dụng NNL ở tỉnh Bắc Ninh trong thời gian qua (1997 đến nay). Từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về giáo dục, đào tạo và sử dụng NNL. -Xuất phát từ mục tiêu phát triển KT-XH của tỉnh và những yêu cầu đặt ra trong CNH, HĐH, luận văn đã làm rõ phương hướng đào tạo và sử dụng NNL của tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới. Đó là tiếp tục đào tạo và đào tạo lại NNL cả về số lượng và chất lượng; giải quyết đúng đắn mối quan hệ về NNL và sử dụng có hiệu quả NNL của tỉnh, trong đó đặc biệt là NNL đã qua đào tạo. Để hướng tới giải quyết tốt phương hướng đặt ra trong giáo dục, đào tạo và sử dụng NNL nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của địa phương, luận văn đã đưa ra hệ thống giải pháp nhằm tăng thêm tính hiệu quả về giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH của địa phương đó là:Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo; Xây dựng mới và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường dạy nghề, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ quản lý; Tạo nhiều việc làm mới để có thể toàn dụng lao động; Nâng cao hiệu quả sử dụng NNL; Hình thành và phát triển thị trường lao động; Tăng cường vai trò của nhà nước và chính quyền địa phương Bắc Ninh đối với việc đào tạo và sử dụng NNL. Đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo, tăng nhanh dạy nghề. Hoàn thiện cơ chế chính sách đào tạo và sử dụng NNL. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1-Bộ Nội vụ (2003), Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010. 2-Cục thống kê Bắc Ninh (2004), Niên giám thống kê tỉnh Bắc Ninh, NXB Thống kê Hà Nội, năm 2005, tr.22,28,29,49,74,75,104,105. 3-Nguyễn Hữu Dũng (2003), “ Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam “, tr 1-3,11, NXB Lao động xã hội, Hà Nội. 4-Đảng Cộng sản Việt nam (1990), Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5-Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.124. 6-Đảng Cộng sản Việt Nam (1997) Văn kiện hội nghị lần thứ II, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7-Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 114. 8-Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 108-109, 160. 9-Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 10-Đảng cộng sản Việt Nam(2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX) “ Về văn hoá, xã hội, khoa học-kỹ thuật, giáo dục, đào tạo”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11-Đảng Bộ Bắc Ninh (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVI. 12-Đảng Bộ tỉnh Bắc Ninh (12/2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ XVII, tr.10. 13-Đảng Bộ tỉnh Bắc Ninh (2002), “ Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh”. 14-Phạm Minh Hạc và các tác giả (1996), “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15-Phạm Minh Hạc (2001), “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, tr 269, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16-Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.252,253,274,275. 17-Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh(2002, 2003, 2004, 2005), Thực trạng Lao động việc làm ở Bắc Ninh. 18-Mác- Ăngghen(1995),Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tr 438-474,475. 19-Phạm Thành Nghị và các tác giả(2004), “Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, NXB Khoa học xã hội . 20-V.I.Lênin (1997), Toàn tập, tập 38, tập 41, NXB Tiến bộ Matxcơva,tr 362, 364-365,474. 21-Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh(2005), “Lịch sử Giáo dục tỉnh Bắc Ninh 1945-2005), tr.296. 22-Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh(2005), Chiến lược phát triển Giáo dục đào tạo Bắc Ninh đến 2010, tr.7-10. 23-Sở Giáo dục và Đào tạo Bắc Ninh(2003), “Giáo dục và đào tạo Bắc Ninh trên đường phát triển”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.6. 24-Sở Nội vụ Bắc Ninh(2005), Kết quả điều tra, khảo sát công chức hành chính. 25-Tổng Cục thống kê(2004), Niên giám thống kê(tóm tắt), NXB Thống kê, Hà Nội, tr.21, 26-Từ điển tiếng Việt (1998), NXB Đà Nẵng . 27-Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh(2002), “ Bắc Ninh thế và lực mới trong thế kỷ XXI” NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 28-Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh(2005), Thống kê chất lượng cán bộ, công chức năm 2005. 29-Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh(2005), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010 và một số định hướng chiến lược đến năm 2020. 30-Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh(2005), Định hướng phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020. 31-Hà Yên (2004), “Xuất khẩu lao động-Một thách thức lớn cho khát vọng vươn tới thị trường lao động quốc tế”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (305), tr.25-41. 32-Alvin Toffer (1992), Thăng trầm quyền lực, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội. English 33-Nadler L & Nadler Z.(1990) The Handbook of Human Resource Developmen. John Wiley, New York . MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG TÓM TẮT LUẬN VĂN PHỤ LỤC. DANH MỤC CÁC BẢNG Số TT TÊN BẢNG Trang 1.1. Cơ cấu GDP trong các ngành kinh tế nước ta thời kỳ 1995-2005 34 1.2. Tình hình chuyển dịch cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế ở nước ta thời kỳ 1995-2005 34 1.3. Tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta thời kỳ 1996-2005 35 2.1. Dân số Bắc Ninh thời kỳ 2000-2005 45 2.2. Cơ cấu lao động theo độ tuổi(1/7/2005) 45 2.3. Trình độ học vấn phổ thông ở Bắc Ninh thời kỳ 1997-2005 47 2.4. Tỷ lệ học sinh giỏi trong giáo dục phổ thông ở Bắc Ninh 48 2.5. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động ở Bắc Ninh thời kỳ 1997-2005 48 2.6. Lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế ở Bắc Ninh thời kỳ 1997-2005 52 2.7. GDP phân theo khu vực kinh tế ở Bắc Ninh thời kỳ 1997-2005 55 2.8. Cơ cấu lao động phân theo khu vực kinh tế ở Bắc Ninh thời kỳ 1996-2005 56 2.9. Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp phân theo ngành kinh tế ở Bắc Ninh thời kỳ 1996-2005 56 2.10. Trình độ của người lao động trong một số làng nghề ở Bắc Ninh (1/7/2005) 58 2.11. Số lượng công chức, viên chức hành chính, sự nghiệp tỉnh Bắc Ninh (31/12/2005). 58 2.12. Kết quả điều tra mức độ phù hợp giữa trình độ chuyên môn với yêu cầu công việc của công chức hành chính tỉnh Bắc Ninh (1/11/2005) 59 2.13. Trình độ chuyên môn của công chức hành chính tỉnh Bắc Ninh(31/12/2005) 60 2.14. Trình độ lý luận chính trị của công chức Bắc Ninh(31/12/2005) 61 2.15. Trình độ quản lý của công chức tỉnh Bắc Ninh(31/12/2005) 61 2.16. Trình độ ngoại ngữ của công chức tỉnh Bắc Ninh (31/12/2005) 62 2.17. Trình độ tin học của công chức tỉnh Bắc Ninh (31/12/2005) 62 2.18. Một số chỉ tiêu giáo dục đại học, cao đẳng, THCN và dạy nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 66 3.1. Dự báo cơ cấu ngành kinh tế trong GDP ở Bắc Ninh thời kỳ 2006-2010 77 3.2. Dự báo cơ cấu lao động tỉnh Bắc Ninh đến năm 2010 81 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-T02.doc
Tài liệu liên quan