Thực trạng & những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh

lời nói đầu Thế giới bước sang thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính chất toàn cầu. Nó chứa đựng trong mình cả niềm vui nỗi bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, nỗi đau nhân loại là nghèo đói vẫn còn trầm trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn. Nghèo, đói luôn là nỗi bất hạnh của loài người, là một nghịch lý trên con đường phát triển. Trong khi thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn về tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm tăng đáng kể của cải v

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ật chất xã hội, tăng vượt bậc sự giàu có của con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại chính là sự nghèo đói. Thực tế hiện nay trong hơn 6 tỷ người của thế giới, thường xuyên có 2,8 tỷ người sống dưới mức sống 2USD/ngày, đặc biệt có 1,2 tỷ người sống dưới mức 1USD/ngày. ở nước ta, sau 15 đổi mới, nền kinh tế đang từng bước khởi sắc và đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh khối dân cư giàu có và trung lưu ngày một gia tăng, vẫn còn một bộ phận lớn dân cư nghèo đói. Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam còn rất cao (11% năm 2000) đang là một thách thức lớn đối với sự phát triển và trở thành mối quan tâm chung, vấn đề cấp bách phải giải quyết của toàn xã hội. Do đó giải quyết vấn đề giảm nghèo tạo tiền đề cho phát triển kinh tế – xã hội, chuyển nước ta từ một nước nghèo trở thành một nước giàu có, văn minh. Quán triệt qua điểm của Đảng huyện Thuận Thành đã luôn quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển. Tuy đã đạt được những thành tựu tốc độ tăng trưởng khá trong nhiều năm vẫn có một khoảng cách về thu nhập khá lớn. Mục tiêu của Thuận Thành là tiến tới xoá hẳn tình trạng đói nghèo vào năm 2010. Đây là một việc hết sức khó khăn đòi hỏi phải có sự phối hợp nỗ lực của toàn thể cộng đồng cũng như ý trí vươn lên của chính người nghèo. Qua quá trình học tập tại trường và qua một thời gian nghiên cứu thực tế em đã nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Thuận Thành nói riêng và của Việt Nam nói chung. Chính vì vậy em đã chọn và nghiên cứu đề tài này: “Thực trạng và những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh”. Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 phần chính sau: Phần I: Một số vấn đề lý luận chung về xoá đói giảm nghèo. Phần II: Phân tích thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở huyện Thuận Thành Phần III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu xoá đói giảm nghèo ở Thuận Thành trong thời gian tới. Do nhận thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, của các bạn để bài viết này hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! phần I Một số vấn đề lý luận chung về xoá đói giảm nghèo I- Các quan niệm về đói, nghèo. 1- Quan niệm về đói, nghèo. Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ lực lưọng sản xuất quyết định. Bằng lao động sản xuất, con người khai thác thiên nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở và những nhu cầu khác. Năng xuất lao động ngày càng cao thì của cải ngày càng nhiều, các nhu cầu sống được đáp ứng đầy đủ hơn, trái lại năng xuất lao động thấp, của cải vật chất thu được ít, con người rơi vào cảnh nghèo đói. Tuy nhiên, ở trong các thời đại khác nhau, cũng có nhiều cách lý giải khác nhau về quan niệm, nguyên nhân và cách giải quyết đối với hiện tượng nghèo đói. Trong thời kỳ tiền sử mông muội, loài người trong khi bức ra, tách khỏi thế giới động vật trong giới tự nhiên để trở thành người và tổ chức thành đời sống xã hội thì cùng với bước ngoặc vĩ đại ấy, con người đã phải thường xuyên đối mặt với đói nghèo. ở đây, nghèo đói là hệ quả trực tiếp của lạc hậu, mông muội là điển hình của sự thống trị của tự nhiên đối với con người. Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghiã Mác-Lênin, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc nước ta, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những tư tưởng quý báu về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội là xa lạ với nghèo đói, bần cùng và lạc hậu. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất hơn nữa, thực hành tiết kiệm. “Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Đây là con đường lâu dài và chắc chắn đối với công tác xoá đói giảm nghèo nói riêng và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân nói chung. Đặc biệt là tư tưởng của Người: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”. Theo Người, xoá đói phải tiến tới giảm nghèo và tăng giàu. Đói, nghèo là một cửa ải phải vượt qua, phải tiến tới giàu có, giàu có nữa giàu có mãi, “dân có giàu thì nước mới mạnh”. Cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như một xã hội giàu có, phồn thịnh về kinh tế, lành mạnh về xã hội, văn minh và văn hoá. Quan niệm trên đây chứa đựng ý nghĩa giải phóng to lớn sức sản xuất, giải phóng tư tưởng và tiềm năng xã hội, hướng tới một sự phát triển năng động của toàn xã hội vì hạnh phúc của con người. Nếu điểm xuất phát tới chủ nghĩa xã hội lại quá thấp và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là mới mẻ, đang từng bước phải tìm tòi về con đường, cách đi, mô hình, cách làm ... như ở nước ta thì vấn đề nghèo đói vẫn còn tồn tại là vấn đề khó tránh khỏi. Đối với Việt Nam để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước trên thế giới và trong khu vực, con đường phải đi của chúng ta là phát triển rút ngắn đồng thời gắn liền với việc giảm tối đa cái giá phải trả - trong đó có việc phải xoá đói giảm nghèo. ở Việt Nam,đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2- Các khái niện về đói nghèo. 2.1- Các khái niệm về nghèo. * Khái niệm về nghèo khổ của UNDP – 1998. Năm 1998, UNDP công báo một bản báo cáo nhan đề “Khắc phục sự nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo như sau: Sự nghèo khổ của con người : Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ. Sự nghèo khổ về tiền tệ : Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu. Sự nghèo khổ cực độ: Nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản tối thiểu. Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở những nước khác nhau. Sự nghèo khổ tương đối: Sự nghèo khổ được xác định theo những chuẩn mực có thể thay đổi với thời gian ở nước này hay nước khác. Ngưỡng này có thể tăng lên đồng thời với thu nhập. Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định bằng một chuẩn mực nhất định. Chẳng hạn như ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là 1USD/người/ngày. * Khái niệm về nghèo đói của Ngân hàng thế giới (WB). Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ hàng hoá lương thực hàng ngày trong năm 1993 và được gọi là “ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm”. Ngưỡng nghèo này thưòng thấp bởi vì nó không tính đến số tiền chi tiêu cho những sản phẩm phi lương thực khác. Ngưỡng nghèo thứ hai là “ ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả chi tiêu cho lương thực thực phẩm và chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực. Xuất phát từ nhu cầu calo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người: WB đã đưa ra con số phổ biến được sử dụng là 2100 kilo calo cho một người mỗi ngày. Mỗi gia đình Việt Nam phải mất bao nhiêu tiền để mua được một rổ hàng hoá lương thực đủ để cung cấp 2100 calo cho mỗi người một ngày. Vì vậy, nghèo đói theo định nghĩa của WB là những hộ không có khả năng chi trả cho số hàng hoá lương thực của mình để đủ cung cấp 2100 calo cho mỗi người một ngày. * Khái niệm về nghèo đói trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tháng 9/1993. Nghèo tuyệt đối: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con ngưòi, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương. Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng. 2.2- Các khái niệm về đói. Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Hay có thể nói đói là một nấc thấp nhất của nghèo. Tài liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phân loại đói làm hai dạng (theo mốc đánh giá năm 1993): Thiếu đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập dưới mức thu nhập là 12 kg gạo/người/tháng. Hay là tình trạng của một bộ phận dân cư ở nông thôn có thu nhập dưới mức 20.400 đồng/người/tháng và ở thành thị là 24.500 đồng/người/tháng. Đói gay gắt: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập dưới mức 8 kg gạo/người/tháng và ở thành thị là 16.300 đồng/ngưòi/tháng. Ngoài ra còn có khái niệm khác nhằm làm rõ hơn tình trạng nghèo đói ở Việt Nam. Nghèo đói kinh niên: (tương ứng với nghèo truyền từ đời này qua đời khác) là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho tới thời điểm đang xét. Nghèo đói cấp tính: (hay còn gọi là nghèo mới ) là bộ phận dân cư rơi vào tình trạng nghèo đói đột xuất vì nhiều nguyên nhân như phá sản và các rủi ro khác, tại thời điểm đang xét. II- Các quan niệm về xoá đói, giảm nghèo. 1- Khái niệm về xoá đói, giảm nghèo. 1.1- Khái niệm về xoá đói. Xoá đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. 1.2- Khái niệm giảm nghèo. Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn. ở khía cạnh khác giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người. ở góc độ nước nghèo: giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang trình độ sản xuất mới, cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiến tiến của thời đại. ở góc độ người nghèo: giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng. 2- Phương pháp tính thu nhập bình quân đầu người. N= = Trong đó: N: Thu nhập bình quân một người trong hộ; Q: Tổng thu nhập (tổng doanh thu); ồN: Số người trong hộ; Qc: Tổng chi phí (gồm chi phí vật chất cho sản xuất, kể cả tiền công thuê mướn lao động và các khoản nộp thuế, lệ phí theo quy định nếu có); QT: Tổng thu nhập thuần tuý. (Thu nhập bình quân đầu người bằng tổng doanh thu trừ tổng chi phí vật chất chia cho số người trong hộ). 3- Các tiêu thức và chuẩn mực đánh giá nghèo đói. 3.1- Các tiêu thức đánh giá nghèo đói. Để xác định ngưỡng nghèo có nhiều chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá khác nhau. Tiêu thức về chỉ tiêu chất lượng cuộc sống (PQLI) chỉ số PQLI bao gồm ba mục tiêu cơ bản là tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và tỷ lệ mù chữ. Tiêu thức về chỉ tiêu phát triển con người (HDI) do UNDP đưa ra của hệ thống ba mục tiêu: tuổi thọ, tình trạng biết chữ người lớn, thu nhập bình quân trên đầu người trong năm. Tiêu thức về chỉ tiêu nhu cầu dinh dưỡng: Tính mức tiêu dùng quy ra kilocalo cho một người trong một ngày. Tiêu thức về thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người: đây là chỉ tiêu chính mà hiện nay nhiều nước và tổ chức quốc tế đang dùng để xác định giàu nghèo. Tại đại hội lần thứ II của Uỷ ban giảm nghèo khổ khu vực (ESAP) họp tại BangKoc tháng 9/1995, Ngân hàng thế giới đưa ra chuẩn mực nghèo khổ chung của toàn cầu là thu nhập bình quân đầu ngươì dưới 370 USD/ người/năm. Tóm lại, sự kết hợp chỉ tiêu GDP, HDI, và PQLI cho phép nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác và khách quan hơn. Bởi nó cho phép đánh giá khách qua, toàn diện của con người trên các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội. 3.2- Mức chuẩn đánh giá nghèo đói. a- Mức chuẩn nghèo đói đối với quốc tế (đánh giá nước giàu, nước nghèo). ở một khía cạnh khác nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực, một vùng, một miền. Các chỉ số xác định thế nào là nghèo cho biết trình độ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và trình độ lực lượng sản xuất nói riêng ở vùng, miền, quốc gia đó ở tại một thời điểm nhất định. Ví dụ: với chỉ số nghèo là 400 USD/người/ năm cho biết đây là nước đang phát triển. Với chỉ số nghèo là 13.000 USD/người/năm cho biết đây là nước phát triển. Như vậy trên thế giới tương đương với ba nhóm nước có ba dạng nghèo khác nhau: Nghèo ở các nước có trình độ kinh tế phát triển cao; nghèo ở các nước có trình độ phát triển kinh tế chậm và nghèo ở các nước có trình độ phát triển kinh tế trung bình. Việc phân định ba dạng nghèo như vậy có ý nghĩa rất lớn trong việc xem xét đánh giá nghèo ở mỗi nước thuộc dạng nào, tương ứng với trình độ phát triển kinh tế – xã hội nào để có cách nhìn tổng quát trong quá trình giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo. Với cách đánh giá nghèo như trên, nghèo ở Việt Nam mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản này nhưng nổi bật ở hai đặc trưngsau: - Nghèo dai dẳng kéo dài, nghèo từ đời nay sang đời khác. - Nghèo có cấp độ rất lớn, khoảng cách giữa thu nhập quan sát được với ngưỡng nghèo được quy định ở Việt Nam và trên thế giới là rất lớn. Biểu hiện là, Việt Nam vẫn còn một bộ phận dân cư bị đói. Đây là hai đặc trưng phản ánh thực trạng ở Việt Nam là nước còn rất nghèo, nằm trong nhóm nước đang phát triển với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém. Đồng thời hai đặc trưng này chi phối rất nhiều đến trình độ xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay. Nếu căn cứ vào GDP trên đầu người/ năm ở vào thời điểm năm 1990 để phân tích cho thấy: Trên 25.000 USD : nước cực giàu Trên 20.000 – 25000 USD : nước giàu Trên 10000 – 20000 USD : nước khá giàu Trên 2500 – 10000 USD : nước trung lưu Trên 500 – 2500 USD : nước nghèo Dưới 500 USD : nước cực nghèo Việt Nam mới đạt được 386 USD/người/năm (Năm2000) được xếp thứ 110/171 trên thế giới, nằm trong nhóm cực nghèo. b- Mức chuẩn nghèo đói đối với Việt Nam Bộ Lao động Thương binh – Xã hội là cơ quan thuộc Chính phủ được nhà nước giao trách nhiệm nghiên cứu và công bố chuẩn nghèo của cả nước qua từng thời kỳ. Tiêu chuẩn nghèo đói năm 1997 là : - Hộ đói: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 13 kg/tháng, (tương đương 45.000đ). - Hộ nghèo: Là hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo: + Vùng nông thôn miền núi. hải đảo: dưới 15kg/người/tháng(tương đương 55.000đ) + Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20kg/người/tháng (tương đương 70.000đ) + Vùng thành thị: dưới 25kg/người/tháng(tương đương 90.000đ) - Xã nghèo: là xã có tỷ lệ hộ đói nghèo từ 40% trở lên và thiếu cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, nước sạch, chợ). Chuẩn nghèo mới được điều chỉnh năm 2000 như sau: - Hộ nghèo : Là hộ có thu nhập bình quân + Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 80.000đ/người/tháng. + Vùng nông thôn đồng bằng: dưới 50.000đ/người/tháng. + Vùng thành thị:dưới 150.000đ/người/tháng. - Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên và chưa đủ cơ sở hạ tầngthiết yếu (điện, đường, trường, trạm, nước sạch, chợ). Ngân hàng thế giới dựa theo mức nhu cầu calo tiêu thụ hàng ngày là 2.100 calo/ người/ ngày và đồng thời cũng tính đến việc thay đổi giá cả theo từng vùng của một số nhóm hàng hoá lương thực, thực phẩm thiết yếu đã đưa ra một tiêu chuẩn để đánh giá nghèo đói tại Việt Nam là: Tính bình quân: 1.090.000 đồng/ người/ năm Tính riêng: Đô thị là 1.203.000 đồng/ người/ năm Nông thôn là 1.040.000 đồng/ người/ năm. Ta thấy mức tiêu chuẩn này cao hơn mức tiêu chuẩn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội nhiều, dẫn đến một tình trạng có sự khác biệt lớn trong cách đánh giá tình trạng nghèo đói. Theo tiêu chuẩn này thì Việt Nam có đến một nửa dân số (51%) được coi là nghèo đói, trong một nửa số nghèo này tức là khoảng 25% tổng số dân thuộc diện nghèo đói về lương thực, nghĩa là dù họ có dùng toàn bộ thu nhập của mình để tiêu dùng cho nhu cầu lương thực, thực phẩm cơ bản thì vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ calo cơ bản hàng ngày. Về mặt cơ cấu, mức độ nghèo khó ở nông thôn cao hơn nhiều so với thành thị, cũng theo tiêu chuẩn của Ngân hàng thế giới, số dân nghèo khổ ở nông thôn chiếm tới 54%, cao gấp đôi so với các vùng đô thị. Như vậy, có khoảng 90% tổng số người nghèo tập trung ở nông thô. Mức độ nghèo khổ cũng không đồng đều giữa các khu vực. Đối với các vùng xa xôi hẻo lánh tại Bắc Trung Bộ, số người nghèo chiếm tới 71% dân số. Tại các vùng trung du, miền núi phía Bắc, tỷ lệ này là 59% dân số. Đây là các vùng có tỷ lệ nghèo khổ cao hơn mức trung bình của cả nước. Hai vùng này chiếm khoảng 40% số người nghèo tại Việt Nam, tuy chúng chỉ chiếm 29% dân số cả nước. Tỷ lệ nghèo thấp nhất là 33% tại vùng Đông Nam Bộ, nơi có trung tâm kinh tế mạnh nhất của cả nước là thành phố Hồ Chí Minh. Bốn vùng khác nhau là cao nguyên Trung bộ, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và Duyên hải miền Trung đều có tỷ lệ nghèo đói thấp hơn một chút so với mức trung bình chung của cả nước, chiếm khoảng từ 48-50%. 4- ý nghĩa của xoá đói giảm nghèo đối với các vấn đề trong đời sống xã hội. Đói nghèo là vấn đề mang tính chất toàn cầu, tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm đến vấn đề xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy xoá đói giảm nghèo là một bộ phận trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tất cả các nước, đó cũng là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Chính vì lẽ đó xoá đói giảm nghèo và các vấn đề trong đời sống xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể trong quá trình phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo có mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề văn hoá củng cố an ninh chính trị xã hội và một số chính sách khác có liên quan. 4.1-Xoá đói giảm nghèo đối với sự phát triển kinh tế. Nghèo đói đi liền với lạc hậu, chậm phát triển là trở ngại lớn đối với phát triển. Nói cách khác, xoá đói giảm nghèo là tiền đề của phát triển. Ngược lại sự phát triển kinh tế - xã hội vững chắc gắn với tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là nhân tố đảm bảo thành công trong công tác xoá đói giảm nghèo. Thông qua hiện trạng nghèo, đói người ta thường nhận thấy sự phát triển chậm của lực lượng sản xuất, sự lạc hậu của kỹ thuật, trình độ thấp kém của phân công lao động xã hội. Nó dẫn tới năng xuất lao động xã hội mức tăng trưởng kinh tế luôn ở những chỉ số thấp. Thất nghiệp gia tăng, thu nhập không đủ cho chi dùng vật phẩm tối thiểu, do đó càng không thể có điều kiện chi dùng cho những nhu cầu văn hoá tinh thần để vượt qua ngưỡng tồn tại sinh học, vươn tới việc thoả mãn nhu cầu phát triển chất lượng con người. Đó là hiện trạng nghèo đói về kinh tế của dân cư. Nhìn từ góc độ xã hội, nghèo đói của dân cư biểu hiện qua tỷ lệ lao động thất nghiệp (tuyệt đối và tương đối), chỉ số về tổng số sản phẩm quốc nội, thu nhập bình quân theo đầu người, mức độ thấp kém của đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội, kể cả phát triển giáo dục, khoa học - kỹ thuật, văn hoá và các lĩnh vực khác y tế, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và phúc lợi xã hội. Nghèo đói càng gay gắt thì phát triển kinh tế càng bị kìm hãm. Trình độ phát triển càng chậm chạp thì càng thiếu điều kiện và khả năng từ bên trong để khắc phục đói nghèo. 4.2-Đối với vấn đề chính trị - xã hội. Nghèo đói về kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các mặt xã hội chính trị. Các tệ nạn xã hội phát sinh như chộm cắp, cướp giật, ma tuý, mại dâm... đạo đức bị suy đồi, an ninh xã hội không được đảm bảo đến một mức nhất định có thể dẫn đến rối loạn xã hội. Nếu nghèo đói không được chú ý giải quyết, tỷ lệ và cấp độ của nghèo đói vượt quá giới hạn an toàn sẽ dẫn đến hậu quả về mặt chính trị, ở mức cao hơn là khủng hoảng chính trị, đặc biệt nguy cơ “diễn biến hoà bình” và “chiến tranh biên giới mềm”. Nghèo đói về kinh tế luôn dẫn tới những sức ép căng thẳng về chính trị xã hội. Trong quá trình hội nhập sự lệ thuộc của nước nghèo đối với nước giàu là điều khó tránh khỏi, bắt đầu từ kinh tế rồi xâm nhập vào văn hoá, hệ tư tưởng và chính trị. Thực tế đã cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế thế giới đã quốc tế hoá như ngày nay, mỗi quốc gia, dân tộc chỉ có thể giữ vững chế độ chính trị độc lập tự do chủ quyền của mình với một tiềm lực kinh tế khá mạnh. Ngày nay, không một quốc gia, dân tộc nào có thể giải quyết được các vấn đề phát triển trong một mô hình đóng kín, biệt lập như một ốc đảo. Muốn phát triển được phải mở cửa, hội nhập hợp tác song phương và đa phương nhưng phải trên cơ sở giữ vững chủ quyền và không đánh mất bản sắc dân tộc. Do đó, chỉ khi nào làm chủ chiến lược và sách lược phát triển, định hình những điều kiện và bước đi trong chiến lược phát triển và có thể khai thác mọi nhân tố tiềm lực từ bên trong nhằm vào nhân tố tiềm lực từ bên trong nhằm vào mục tiêu phát triển thì quá trình tham gia hợp tác cạnh tranh với bên ngoài thì mới có tác dụng tích cực, hiệu quả và đạt tới sự phát triển bền vững. Nghèo đói của dân cư (nhất là các tầng lớp cơ bản của xã hội ) đang là lực cản kinh tế - xã hội lớn nhất đối với các nước nghèo hiện nay trong quá trình phát triển. Và không có khuôn mẫu duy nhất nào có thể sao chép, áp dụng hệt như nhau cho việc giải quyết bài toán kinh tế - xã hội này. Như vậy, nghèo đói và lạc hậu sóng đôi với nhau, là xiềng xích trói buộc các nước nghèo, là một trong những vấn dề bức xúc nhất hiện nay mà mỗi quốc gia dân tộc và cộng đồng quốc tế phải cùng hợp tác giải quyết. 4.3-Đối với các vấn đề về văn hoá. Từ nghèo đói về kinh tế dẫn tới nghèo đói văn hoá. Nguy cơ này rất tiềm tàng và thực sự là một chướng ngại vật đối với sự phát triển không chỉ ở từng người, từng hộ gia đình mà còn cả cộng đồng, kìm hãm sự phát triển xã hội. ở một trình độ phát triển thấp, nghèo đói về kinh tế là sự nổi trội gay gắt nhất. Do đó mục tiêu phấn đấu là đạt được sự giàu có. Nhưng sự giàu có chỉ thuần về vật chất, kinh tế mà vắng bóng sự phát triển văn hoá, tinh thần, sự định hướng giá trị sẽ chỉ kích thích tính thiển cận, chủ nghĩa thực dụng, sự thiếu hụt hoặc lệch chuẩn về mặt nhân văn, nhân cách con người .… Đi vào lối sống, sự sùng bái giàu có vật chất có nguy cơ phát triển cái xấu, cái ác, làm nghèo nàn biến dạng cái chân thiện mỹ. Nếu tình trạng đó xảy ra ở lớp trẻ sẽ càng nguy hại, đẩy tới sự nghèo nàn, cằn cỗi, về văn hoá nhân cách. Nó kìm hãm sự phát triển không kém gì lực cản đói nghèo về kinh tế, thậm chí còn tệ hại hơn vì nó thẩm lậu vào những yếu tố phản phát triển, chứa chấp các mầm mống của bệnh hoạn, suy thoái. “Nghèo đói về kinh tế dễ nhận thấy và ít ai dám coi thường nó. Cũng do đó, giàu về kinh tế dễ trở thành một khát vọng đam mê thậm chí cực đoan, làm giàu bằng mọi giá, bất chấp mọi thủ. Nghèo đói về văn hoá khó nhận thấy hơn và rễ rơi vào sự nhận thức muộn màng, có khi phải trả giá”. Do đó trong khi tập trung mọi nỗ lực chống đói nghèo về kinh tế, cần sớm cảnh báo xã hội những nguy cơ tác hại của đói nghèo văn hoá. Không sớm dự phòng nó một cách chủ động, xã hội khó tránh khỏi sự thua thiệt bởi phải trả giá đắt cho sự thiếu hụt văn hoá. 4.4-Xoá đói giảm nghèo với một số vấn đề khác có liên quan. Xoá đói giảm nghèo là một bộ trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó, nó có mối quan hệ với rất nhiều các chính sách phát triển kinh tế xã hội vùng sâu, vùng xa, chính sách đào tạo nghề cho người lao động, chính sách đầu tư ... và nhiều chính sách khác. Tất cả chính sách đó đều có mối quan hệ tác động qua lại với chương trình xoá đói giảm nghèo. Chẳng hạn với chính sách giải quyết việc làm cho người lao động, xoá đối giảm nghèo là làm sao cho người lao động đặc biệt là lao động ở các hộ nghèo có công ăn việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống và như vậy là việc xoá đói giảm nghèo đã gián tiếp tác động đến việc giải quyết công ăn việc cho người lao động, hơn thế nữa còn giải quyết việc làm cho một bộ phận lớn lao động, bởi vì ở nước ta hiện nay đa số thất nghiệp là người nghèo. Như vậy, xoá đói giảm nghèo và các chính sách kinh tế xã hội khác có liên quan chặt chẽ với nhau tác động qua lại lẫn nhau. Thực hiện mục tiêu này là góp phần quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Vì vậy đòi hỏi phải được sự quan tâm sâu sắc của toàn Đảng toàn dân và phải tiến hành được thường xuyên, liên tục góp phần phát triển kinh tế - xã hội của toàn đất nước. III- Nguyên nhân của đói nghèo. Con người sinh ra ai cũng muốn được học hành, có cơm ăn, có áo mặc có công cụ sản xuất từ đơn sơ đến hiện đại. Song do môi trường và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên hiện nay trên toàn cầu có 1,5 tỷ người đang phải sống trong tình trạng nghèo đói. Nguyên nhân dẫn đến nghèo đói ở nước ta thì có nhiều, song qua nghiên cứu tổng kết chúng ta có thể đưa ra được 6 nguyên nhân chính (bao gồm cả khách quan và chủ quan) sau: Do trình độ sản xuất: hiện nay ở nước ta, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật rất thấp 14% trong khi đó khu vực thành thị chiếm từ 40 – 60%. Việc đào tạo lao động dó chuyên môn kỹ thuật còn nhiều hận chế như: giáo dục xuống cấp, kinh tế nhiều vùng thấp kém không có điều kiện để theo học. Nhà nước chưa có chính sách quan tâm đào tạo, phân phối sức lao động kỹ thuật cho nông thôn. Do bản thân người nghèo: người nghoo là người thiếu hầu hết các yếu tố để tạo lập lên một cuộc sống bình thường. Hộ thiếu vốn thiếu kỹ năng lao động, thiếu trình độ họ vấn và thiếu cả ý thức vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo đói. Do thất nghiệp: Việt Nam là một nước đang phát triển có cung lao động lớn do dân số tăng nhanh, cầu lao động thấp do trình độ kinh tế kém phát triển thường gây lên tình trạng thất nghiệp cao làm cho các vấn đề xã hội càng trở lên phức tạp kết cục là lại tăng thêm người nghèo. Do điều kiện tự nhiên và môi trường: là một nước nông nghiệp nghèo bởi điều kiện tự nhiên ít thuận lợi thường bị thiên tai và khả năng hạn chế thiên tai là rất hạn chế. Theo ước tính mỗi năm ngân sách tăng khoảng 4000 tỷ trong khi thiệt hại do thiên tai trung bình là 6000 tỷ. Do cơ chế chính sách: hệ thống cơ chế chính ở nước ta hiện nay còn đang khập khễnh chưa đồng bộ chưa thoả đáng. Gần 80% dân số ở nông thôn trong khi đầu tư ngân sách nhà nước vào khu vức này chỉ chiếm 10% conf lại là khu vực đô thị. Do thiếu trình độ để trao đổi thông tin và sản phẩm: hệ thống cơ sở hạ tầng ở nước ta nhất là vùng sâu, vùng xa đang còn lạc hậu kếm phát triển làm cho người dân không có điều kiện phát triển thông tin nắm bắt được nhứng tiến bộ khoa học kỹ thuật và tiếp cận với thị trường làm cho họ ngày càng tụt hậu với sự phát triển. IV. Tổng quan kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo ở một số nước trên thế giới. 1. Bức tranh chung về nghèo đói trên thế giới. Thế kỷ XX đã chứng kiến một sự tiến bộ vượt bậc trong công cuộc giảm nghèo và cải thiện phúc lợi. Trong bốn thập niên vừa qua, tuổi thọ trung bình ở các nước đang phát triển đã tăng trung bình 20 năm, tỷ lệ chết của tre sơ sinh và tỷ lệ sinh giảm hơn một nửa. Từ năm 1965 đến năm 1968, thu nhập bình quân tăng hơn hai lần ở các nước đang phát triển và riêng trong giai đoạn 1990 – 1998, số người trong cảnh nghèo cùng cực đã giảm được 78 triệu người. Tuy vậy, bước sang thế kỷ XXI, nghèo đói vẫn còn là một vấn đề rất lớn của toàn cầu. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, thu nhập trung bình của 20 nước giàu nhất gấp 37 lần mức trung bình của 20 nước nghèo nhất (khoảng cách này tăng đã tăng gấp đôi trong vòng 40 năm qua). Nhưng vấn đề nghèo đói vẫn còn rất nan giải ở trên khắp các hành tinh của chúng ta Tại Mỹ - La tinh và vùng Caribê, 150 triệu người nghèo, 56% nông dân không có nước sạch để uống Tại các nước công nghiệp phát triển GDP thực tế tăng hơn 3%/năm, tuy nhiên vẫn có hơn 100 triệu người nghèo, hơn 5 triệu người không có nhà ở và hơn 30 triệu người không có việc làm. Tại miền Nam châu Phi - Sahara, trong 30 năm qua chi phí quân sự chiếm từ 27% lên tới 43% trong các khoản chi tiêu xã hội. Có 215 triệu người nghèo, 120 triệu người mù chữ và 170 triệu người không đủ ăn, hơn 80 triệu trẻ em đến tuổi đến trường không được đi học. Hàng năm có 1,3 triệu ha đất nông nghiệp bị bỏ hoang. Đông á là một khu vực có GDP tính trên đầu người tăng trung bình 5%, mức cao nhất thế giới. Tuy nhiên, khu vực này vẫn có 170 triệu người nghèo khổ. Báo cáo của Liên hợp quốc cho rằng tình trạng đói, nghèo trên thế giới nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của sự huỷ diệt tài nguyên thiên nhiên, xung đột chủng tộc, phát triển dân số không kiểm soát nổi, phân phối không công bằng trong xã hội, do các nhu cầu thiết yếu bị bỏ qua (bảo hiểm xã hội, nguồn nước, vệ sinh ...) do thiên lệch các khoản chi phí khác như quá tập trung đầu tư vào khu vực quân sự, giảm ngân sách xã hội, trật tự kinh tế bất hợp lý và trở ngại lớn trên con đường đi lên của các nước đang phát triển, đồng thời cũng là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với Liên hợp quốc. Đói, nghèo còn là nguyên nhân chủ yếu gây nên tội phạm, bạo lực, mất an ninh xã hội. Nó không những mang lại hậu quả kinh tế - xã hội nghiêm trọng cho các nước đang phát triển mà còn là nguyên nhân quan trọng của của xung đột, mất ổn định và tàn phá môi trường sinh thái trên thế giới. Vì vậy, giảm bớt và đi đến xoá bỏ nghèo đói trở thành mục tiêu chú ý của toàn nhân loại, trở thành mục tiêu nhiệm vụ nặng nề của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các tổ cức chính phủ trên thế giới. Tất cả đã đang áp dụng mọi biện pháp nhằm ngăn chặn sự gia tăng nghèo đói trên thế giới chúng ta. 2. Một số mô hình giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo trên thế giới. ở các nước trên thế giới, đặc biệt là cac nước có tình hình phát triển kinh tế xã hội khá phức tạp đều phải đối mặt với vấn đề xoá đói giảm nghèo. trong quá trình xoá đói giảm nghèo, cac nước đã tận dụng được lợi thế của mình để phát triển kinh tế xã hội hạ thấp tỷ lệ đói nghèo. Như ở Thái Lan là một nước nằm trong khu vực Đông Nam á có nền kinh tế tương đối “nóng” và phức tạp Thái Lan đã biết khai thác và triệt để lợi thế tiềm năng về du lịch và dịch vụ để phát triển kinh tế. Việc Thái Lan ký kết với một số nước (trong đó có nước ta) về việc bái bỏ thị thực nhập cảnh trong thời gian 1 tháng trở x._.uống có tác dụng thu hút đáng kể người du lịch vào Thái Lan. Đây cúng là bài học về tận dụng lợi thế để phát triển. Đối với Hàn Quốc nơi có đông dân cư có tinh thần và tự lực cao và tinh thần đoàn kết dân tộc mạnh mẽ, người Hàn Quốc đã tận dụng lợi thế này để phát động phong trào xoá đói giảm nghèo với khẩu hiệu: “Chỉ có chính họ (người nghèo) với tinh thần làm việc chăm chỉ tự lực vượt khó khăn và hợp tác tiềm ẩn giữa các thành viên nông thôn với sự trợ giúp có hạn của Chính phủ mới có thể phát triển nông thôn thành nơi thịnh vượng để sống” Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo ở Trung Quốc lại cho thấy tăng trưởng kinh tế là cần thiết nhưng không chỉ dựa hoàn toàn vào tăng trưởng kinh tế để xoá đói giảm nghèo. C ác biện pháp giải quyết việc làm, mở rộng hệ thống dạy nghề, áp dụng kỹ thuật mới, giảm nhẹ điều kiện làm việc … là hết sức cần thiết trong xoá đói giảm nghèo. Gắn cải cách kinh tế với công nghiệp nông thôn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế. cải tạo kinh tế thuần nông theo phương trâm “ly nông bất ly hương” đã làm giảm đáng kể lượng người nghèo đói ở nông thôn Trung Quốc. Chính vì vậy, tuy là một nước đông dân nhất trên thế giới nhưng Trung Quốc lại là nước có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất trên thế giới. Trong các thập kỷ qua, các nước Đông á nói chung và Đông Nam á nói riêng đã giải quyết khá tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội, các nước vừa đạt được tốc độ tăng trưởng cao vừa giảm được tỷ lệ đói nghèo đáng kể. ở đây, chúng ta cần quan tâm tới các định chế của những nền kinh tế đó đã được xây dựng như thế nào và tại sao nó vừa có thể thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh vừa cho phép nhân dân được chia sẻ rộng rãi thành công kinh tế và giúp họ thích nghi với những điều kiện kinh tế thay đổi vì đó chính là chìa khoá đưa họ đến sự thành công trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội. Về tổng quát, các nước này đã xây dựng được một nền kinh tế nội tổng thể vững mạnh với những nền tảng định chế giúp đạt được sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào tiến trình tăng trưởng. Hầu hết cá nước đều dành phần đầu tư quan trọng để đạt được trình độ giáo dục và tỷ lệ người biết chữ cao. Các nước đã đề ra các chương trình cải cách ruộng đất tổng hợp và triệt để mà kết quả là sự ra đời của những khu vực nông nghiệp bao gồm chủ yếu hay toàn bộ các nông trại nhỏ. Sau đó là dựa vào xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến dùng nhiều lao động và đến khi có mức tích luỹ tương đối thì dựa chủ yếu vào xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao, sử dụng lao động lành nghề. Các nước này cũng nổi bật với chính quyền địa phương vững mạnh và các tổ chức địa phương nhiều tầng lớp do chính người dân quản lý bao gồm các hợp tác xã, các tổ chức thuỷ lợi, các hiệp hội nông dân và các tổ chức của thanh niên phụ nữ. Như vậy, cùng với tăng trưởng kinh tế, các nước này dần giảm tỷ lệ đói nghèo. Ví dụ như Indonesia đã giảm tỷ lệ nghèo đói từ 60% năm 1970 xuống còn 11% năm 1996. Cùng với giảm tỷ lệ nghèo đói, chất lượng cuộc sống của người dân Indonesia được cải thiện đáng kể, tuổi thọ bình quân tăng lên, giáo dục phổ thông hoá ngày càng được nâng cao. Theo kinh nghiệm của các nước như Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đã khẳng định rằng khu vực nông thôn có khả năng biến đổi hết sức phi thường. Nông thôn tại các nước này trước đây đều hết sức lạc hậu và đói nghèo nhưng với chính sách đúng đắn thì có thể giải quyết một cách cơ bản tình trạng đói nghèo và hỗ trợ rất tích cực cho tiến trình phát triển nông nghiệp nông thôn đều tập trung vào nâng cao năng suất lao động và đa dạng hoá các ngành nghề, cơ hội thu nhập. Từ những kết quả này mà cuộc sống của đại bộ phận người nghèo sẽ được nâng lên và có cơ hội đạt được sự công bằng xã hội hơn trước. Chiến lược trong việc phát triển nông nghiệp nông thôn ở đây là; thứ nhất chủ yếu đặt trọng tâm vào việc tăng năng suất và thu nhập của hộ nông dân nhỏ, đồng thời nhấn mạnh công nghệ tận dụng lao động, tiết kiệm vốn, tạo điều kiện mở rộng thị trường nội địa cho hàng công nghiệp và dịch vụ. Các thị trường này trở thành cơ sở ban đầu cho việc theo đòi hỏi của các ngành của nghiệp nhỏ ở nông thôn, kể cả cung cấp đầu vào cho công nghiệp và chế biến nông sản; hai là tài trợ nhiều cho việc phát triển các dịch vụ kinh tế ở nông thôn, trong đó đặc biệt là kết cấu hạ tầng, điều này quan trọng để mở rộng thị truờng kết nói với các thành viên trong đó lại, làm cho năng suất lao động tăng lên cơ hội phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng và giảm bớt đói nghèo. Ngoài ra, Nhà nước còn cung cấp các dịch vụ xã hội ở nông thôn, đặc biệt là y tế giáo dục. Ngân sách Nhà nước có vai trò quan trọng chủ yếu đối với việc cung cấp các dịch vụ nói trên. Đương nhiên các gia đình cá nhân có đóng góp một phần. Nhờ vậy khu vực nông thôn từng bước biến đổi và phát triển, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện tốt hơn vấn đề công bằng xã hội. Nhìn chung các nước Đông Nam á đầu tư cho giáo dục với tỷ lệ khá cao. Chẳng hạn, ngân sách đầu tư cho giáo dục năm 1992 ở Singapore là 22,9%; Hàn Quốc là 20,1%; ở Malaysia là 19%; ở Thái Lan là 21,1%; ở Philippin là 15%. Đây là một tỷ lệ khá cao và có xu hướng tăng lên. Mục tiêu của đầu tư cho giáo dục là hình thành một đội ngũ lao động lành nghề, có trình độ, do có phần chi tiêu cho giáo dục tiểu học và trung học cơ sở ở các quốc gia này cao hơn bất kỳ một nơi nào khác trên thế giới. Người ta tổng kết rằng tỷ lệ trẻ em đi học tiểu học cao và trung học cơ sở tăng 10% thì thu nhập bình quân đầu người tăng 0,3%. Như vậy, giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các khu vực này. Nhờ vậy các nước này có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Mặt khác giáo dục đào tạo phát triển tác động rất lớn đến công bằng xã hội. Do tình hình của người lao động được nâng cao, năng suất tăng nhanh, do đó thu nhập của họ tăng lên nhanh, điều này góp phần giảm bớt sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Người ta tính được rằng nếu một lao động nông thôn qua trường học, đào tạo từ 5-7 năm thì năng suất lao động của họ tăng lên 10-20%. Năng suất lao động là cơ sở giảm bớt chênh lệch thu nhập. Như vậy, có thể nói việc tăng trưởng, công bằng xã hội và giảm tỷ lệ nghèo đói đạt được ở Đông Nam á trong ba thập kỷ vừa qua được quyết định bởi nhân tố đào tạo nguồn nhân lực (chủ yếu là lao động có trình độ giáo dục trung bình). 3- Những bài học kinh nghiệm rút ra trong công cuộc xoá đói giảm nghèo hiện nay. Thứ nhất: Chính phủ cần có chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, lâu bền và phân phối thu nhập đảm bảo công bằng tương đối. Đối với nước nghèo, nước đang phát triển, điều kiện quan trọng và quyết định để giải quyết thành công vấn đề giảm nghèo đó là Chính phủ phải đảm bảo tưng trưởng kinh tế với tốc độ cao, lâu bền trong thời gian dài, từ vài thập kỷ trở lên. Một số nước Đông Nam á bứt phá khỏi vùng nghèo đói với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình trên 8%/năm suốt ba chục năm. Cùng với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững phải đảm bảo phân phối công bằng trong dân cư. Sự chênh lệch thái quá về thu nhập làm cho người nghèo trở lên nghèo hơn, nghèo khổ tương đối càng bộc lộ rõ hơn. Bởi sự bất bình đẳng quá lớn lại là lực cản đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Và nền kinh tế có sự trục trặc trong quá trình vận hành thì sự bất bình đẳng này sẽ là ngòi nổ cho những biến động rối ren về chính trị và xã hội (kinh nghiệm rút ra từ một số nước Đông Nam á...) Mặt khác đảm bảo sự phân phối công bằng song không đồng nhất với bình quân, vì sự bình quân sẽ triệt tiêu động lực phát triển, do đó sẽ làm cho xã hội nghèo đi. Thứ hai: Dựa vào nguồn tích luỹ trong nước là chính, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài trong quá trình phát triển. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới đã thành công trong việc chuyển từ nền kinh tế lạc hậu sang nền kinh tế phát triển, giảm được tỷ lệ nghèo đói là đã duy trì tỷ lệ tích luỹ trên 30%GNP. Trong quá trình phát triển Nhật, Đài Loan, Hôngkông, Singapore sử dụng các nguồn tích luỹ trong nước là chính, tránh lệ thuộc quá nhiều vào vay nợ nước ngoài nên phần nào ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua. Trong khi đó, Indonesia, Thailan, Hàn Quốc, Philippin lại bước vào sai lầm lệ thuộc quá nhiều vào tư bản nước ngoài trong quá trình phát triển, để lại những món nợ lớn. Sự tăng trưởng kinh tế lại đi kèm với sự gia tăng nghèo đói càng cho thấy sự lệ thuộc vào nước tư bản, vào chính sách phát triển kinh tế của các nước chủ nợ thông qua các tổ chức tài chính quốc tế là một sai lầm nghiêm trọng. Nó không đưa đến sự phát triển, phồn vinh cho nước đi vay nợ mà mục đích làm tăng sự lệ thuộc của nước nghèo (nợ) đối với nước giàu (chủ nợ), nhằm làm lợi cho kẻ giàu đồng thời chút bất hạnh lên những người nghèo. Đây là bài học quý báu rút ra đối với các nước nghèo, nước đang phát triển (Trong đó có Việt Nam) trong quá trình phát triển, vươn lên hội nhập với nền kinh tế thế giới nhất là trong bối cảnh hiện nay. Thứ ba : Nhà nước phải xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội tương xứng với trình độ phát triển về kinh tế. Bên cạnh sự vươn lên của chính người nghèo đòi hổi nhà nước phải có trách nhiệm giúp đỡ cộng đồng dân cư nhất là người nghèo vươn lên, vượt qua ngưỡng nghèo. Sống nghèo không phải mang dấu vết của tội lỗi như quan niệm ở Mỹ. Thực tế cho thấy, ở Mỹ vai trò của nhà nước và cộng đồng xã hội giúp đỡ người nghèo vươn lên chưa tương xứng với trình độ phát triển kinh tế đã lý giả vì sao nước giàu nhất thế giới, nhưng tỷ lệ nghèo đói luôn ở mức cao là 13%. ở một số nước Đông Nam á, do sự thiếu hụt chế độ bảo hiểm xã hội có phần nào quá chú trọng phát triển kinh tế, khi nền kinh tế bị chao đảo, lâm vào khủng hoảng tài chính, hàng loạt người đã lâm vào cảnh nghèo đói. Để khắc phục hậu quả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực ngăn chặn tình trạng nghèo đang có xu hướng gia tăng, Thái Lan đang ra sức cải tiến chế độ bảo hiểm xã hội. Từ 1998, những người lao động bị mất việc làm đều nhận được tiền trợ cấp trong 10 tháng so với 6 tháng trước kia. Chính phủ đã có chương trình bảo đảm chăm sóc y tế miễn phí cho những người thất nghiệp và gia đình họ, xây dựng một chương trình đào tạo cho những người không có việc làm. Indonesia dành khoảng 2,4 tỷ đôla để thiết lập một cơ chế bảo hiểm xã hội trong năm 1998 – 1999 bao gồm: trợ giúp lương thực, trọ cấp y tế, tài trợ cho các trường học, quỹ xúc tiến việc làm... Thứ tư: Chính phủ phải thực sự quan tâm coi xoá đói, giảm nghèo là mục tiêu cơ bản, thường xuyên, lâu dài trong suốt quá trình phát triển. Quan tâm, coi trọng xoá đói giảm nghèo phải mang tính chương trình, chiến lược. Trung Quốc là một nước lớn được đánh giá có thành công lớn trong XĐGN nhờ các chương trình quốc gia. Quan tâm tới nghèo đói một cách thường xuyên, song chưa đủ. Nó đòi hỏi hỏi phải có chương trình phù hợp, thiết thực có căn cứ. Bài học kinh nghiệm quan trọng thứ nhất là: Thận trọng trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm xử lý đồng thời hai vấn đề kinh tế trì trệ và nghèo đói, phải giải quyết từng bước vững chắc, đồng thời cả hai mục tiêu về tăng trưởng kinh tế và chống nghèo đói bằng các chương trình đồng bộ thiết, thực. Đối với người nghèo Nhà nước phải lựa chọn phương thức tác động thích hợp đúng đối tượng. Việc lựa chọn phương thức, lựa chọn đúng đối tượng để giảm nghèo trong quá trình phát triển có ý nghĩa thiết thực. Nhờ sự lựa chọn đó mà người nghèo giảm bớt được sự nghèo đói, xã hội giảm bớt được sự chênh lệch thái quá giàu nghèo. Đây là bài học rút ra ở Trung Quốc và ở các nước Đông Nam á. Trước hết Nhà nước phải tạo môi trường phát triển thuận lợi cho người đồng thời giúp họ có cơ hội, khả năng, điều kiện tiếp cận được các nguồn lực phát triển trên cơ sở tự phấn đấu vươn lên của người nghèo. Ví dụ như giảm thuế cho người nghèo, trợ cấp giá cả nông sản, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, miền núi, lập quỹ tín dụng cho người nghèo... phần II phân tích thực trạng và nguyên nhân đói, nghèo ở thuận thành I- Đặc điểm tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế – xã hội và những ảnh hưởng tới đời sống người dân trong huyện. 1- Đặc điểm và tình hình hoạt động củaUBND huyện. 2.1- Tình hình chung của huyện. Thuận Thành là một trong 8 huyện thị của tỉnh Bắc Ninh, nằm trải dài trên miền đất nam sông Đuống. Có diện tích tự nhiên 11.543,40 ha. Trong đó diện tích canh tác: 7.083,06 ha, dân số toàn huyện 139.954 người có 17 xã và 1 thị trấn với 108 thôn khu phố và 9 phòng ban thuộc huyện. Tình hình lao động của huyện được phân bổ như sau: Lao động công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp 2.859 người chiếm 4%; lao động thương mại, dịch vụ 5.737 người chiếm 8,6%; lao động nông nghiệp 60.241 chiếm 87,4% 2.2-Tình hình tổ chức bộ máy từ huyện tới xã, thị trấn (Có sơ đồ kèm theo) a- Cấp huyện Cơ quan thường trực HĐND Gồm: 1chủ tịch kiêm chức 1 phó chủ tịch thường trực 1 cán bộ giúp việc Với các ban (kinh tế xã hội và ban pháp chế), trưởng phó ban đều kiêm chức. Số đại biểu hội đồng nhân dân nhiệm kỳ (1999 – 2004) là 32 đại biểu (có biểu chất lượng kèm theo). UBND huyện Gồm 9 thành viên Trong đó: 1 chủ tịch 2 phó chủ tịch 6 thành viên được cơ cấu theo các ngành. (Văn phòng UBND, Quân sự, Công an, Tổ chức – LĐXH, Địa chính và Thanh tra) trong đó có 1 là nữ (có biểu chất lượng kèm theo). Tuổi đời bình quân của UBND huyện nhiệm kỳ 1999 – 2004 là 49 tuổi. Trực tiếp lãnh đạo 9 phòng ban chuyên môn với tổng số 77 công chức trong đó có 4 chức danh dân cử và 18 xã, thị trấn. b- Cấp xã, Thị trấn: HĐND ở mỗi xã gồm có: 1chủ tịch kiêm chức 1 Phó chủ tịch chuyên trách Số đại biểu HĐND ở 18 xã, thị trấn nhiệm kỳ 1999 – 2004 là 389 (có biểu chất lượng kèm theo) xã có số lượng đại biểu cao là 25, số lượng đại biểu thấp là 19. UBND ở 18 xã, thị trấn có 119 thành viên xã có số lượng thành viên nhiều nhất là 7. Xã có số lượng thành viên ít nhất là 5. Nhìn chung số lượng các thành viên được bố trí cơ cấu hợp lý theo quy định 174/CP. Tuổi đời bình quân 45 tuổi. UBND cấp xã, thị trấn trực tiếp điều hành 9 chức danh chuyên môn theo tinh thần NĐ 09/CP và các trưởng thôn theo QĐ số 99/ UB của UBND tỉnh Bắc Ninh. UBND và các chức danh của HĐND đều do HĐND ở mỗi cấp bầu ra theo quy định tại điều 41 chương II luật tổ chức HĐND – UBND. HĐND và UBND thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình được thể hiện trong sơ đồ (số 2 và số 3 đính kèm), quy định theo tổ chức HĐND và UBND. Tóm lại trong những năm qua hoạt động công tác chính quyền luôn được cấp trên đánh giá là đơn vị khá của tỉnh. 2.3- Tình hình hoạt động tài chính của huyện trong những năm qua. Là huyện sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, các ngành nghề và sản xuất công nghiệp chưa nhiều, chưa mạnh cho nên nguồn thu cho ngân sách thuế nông nghiệp là chủ yếu. 2.4- Trong thực hiện cải cách hành chính. Tiếp tục thực hiện NQTƯ3 khoá VIII. UBND huyện đã thường xuyên quan tâm tới việc tinh gọn bộ máy, chăm lo đội ngũ công chức thông qua công tác đào tạo bồi dưỡng từ huyện tới cơ sở để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tính tác nghiệp cao cho mỗi công chức cho đến nay co 31 công chức có trình độ đại học chiếm 40%, trình độ trung cấp 46 chiếm 60%, các thủ tục hành chính được cải tiến gọn nhẹ tránh phiền hà cho nhân dân (chế độ tiếp dân, giải quyết đơn thư thuộc thẩm quyền v.v…) đã có tác dụng quan trọng trong các hoạt động ở mỗi cơ quan và cơ sở. Sơ đồ 1: Vị trí chức năng của HĐND và UBND HĐND Và UBND - Chính quyền đại phương - Quản lý địa phương theo hiến pháp và văn bản cơ quan Nhà nước cấp trên HĐND UBND - Quyền lực Nhà nước ở địa phương - Đại diện nhân dân địa phương - Chấp hành Nghị quyết HĐND - Hành chính Nhà nước ở địa phương - Quyết nghị những vấn đề quan trọng của địa phương - Giám sát - Quyết nghị để thực hiện quyền hành pháp ở địa phương - Điều hành - hành chính Sơ đồ 2: Thẩm quyền của HĐND và UBND HĐND cấp huyện UBND huyện HĐND cấp xã, thị trấn UBND cấp xã, thị trấn Thẩm quyền của HĐND và UBND 1- Kinh tế 2- VH - GDXH và đời sống 3- Khoa học công nghệ và môi trường 4- Quốc phòng, an ninh, TTATXH 5- Chính sách dân tộc và tô giáo 6- Thi hành pháp luật 7- Xây dựng CQ và quản lý hành chính 8- Giá sát 1- Kế hạch - ngân sách - tài chính 2- Nông, lâm, ngư, thuỉy lợi, đất đai 3- CN - TTCN 4- Giao thông vận tải 5- Xây dựng và PTQLĐT 6- Thương mại, dịch vụ, du lịch 7- VH, giáo dục Xã HẫI, đời sống 8- Khoa học, CN và môi trường 9- Quốc phòng an ninh 10- Dân tộc và tôn giáo 11- Thi hành pháp luật 12- Xây dựng CQ, quản lý TC, KT, địa giới hành chính 1- Kinh tế 2- Văn hoá - GD, xã hội và đời sống 3- Quốc phòng an ninh, TTATXH 4- Đời sống dân tộc và tôn giáo 5- Thi hành pháp luật 6- Xây dựng CQ và Quản lý địa giới hành chính 7- Giám sát 1- Kế hoạch, ngân sách, tài chính 2- Nông, ngư, lâm, thuỷ lợi đất đai 3- TT - CN 4- Giao thông 5- Thương mại, dịch vụ 6- Văn hoá - GDXH và đời sống 2- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của huyện. 2.1- Tình phát triển kinh tế nông nghiệp: Trong những năm qua, tình hình phát triển nông nghiệp Thuận Thành có tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định và có tỷ trọng đóng góp tương đối cao trong GDP. Cho đến nay nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính, tạo thu nhập và tạo việc làm chủ yếu cho dân cư, đóng góp trên 50% tổng GDP của huyện. Tuy nhiên, nông nghiệp Thuận Thành vẫn còn là một ngành mang tính tự cung tự cấp và độc canh, cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá sinh học nhưng chưa mạnh, diện tích cây lương thực chiếm 83% trong tổng diện tích cây hàng năm trong khi giá trị sản lượng chỉ chiếm 60%. Trong sản xuất nông nghiệp chưa có sự chuyển biến mạnh trong cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi, chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất hàng hoá chính trong nông nghiệp, nguyên nhân chủ yếu là do thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn, giá thấp nên không khuyến khích được người sản xuất. Năng suất cây trồng vật nuôi chưa cao do chất lượng giống, kỹ thuật thâm canh còn nhiều hạn chế. Tiềm năng năng suất còn khá lớn, năng suất lúa Năm 1991 là 19,87 tạ/ha Năm 1996 là 34 tạ/ha Năm 1999 là 38,3 tạ/ha Năm 2000 là 39,5 tạ/ha 2.2-Tình hình phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Trong những năm gần đây công nghiệp Thuận Thành phát triển mạnh có tỷ trọng đóng góp tương đối cao trong GDP toàn huyện giải quyết được số lượng lớn việc làm cho người lao động. Tiểu thủ công nghiệp ở Thuận Thành cơ bản theo mô hình làng nghề với 2 hình thức: làng nghề truyền thống và làng nghề mới. Hiện nay các nghề truyền thống vẫn được phát huy, một số ngành như: may, sản xuất giấy, tấm lợp… từng bước đã giành được chỗ đứng trên địa bàn . Nghề truyền thống như làm tranh Đông hồ đang được chú trọng đầu tư phát triển mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các khu công nghiệp đã được phê duyệt cũng là điều kiện thuận lợi, tạo những bước phát triển mới cho toàn huyện những năm tiếp theo. Cho đến nay sản xuất CN và TTCN ở Thuận Thành đã có nhiều thành tựu quan trọng tạo tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đạt mức tăng trưởng tương đối khá. Trên địa bàn huyện đang từng bước hình thành khu vực tập trung về CN VLXD (gạch ngói, tấm lợp ...). Đây là khâu đột phá đưa nền kinh tế của Thuận Thành phát triển nhanh 2.3-Tình hình phát triển thương mại và dịch vụ. Các khối ngành thương mại và dịch vụ càng ngày càng giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế huyện, tỷ lệ đóng góp vào GDP ngày càng cao. Năm 1990, ngành dịch vụ mới đóng góp 11% giá trị GDP của toàn huyện, năm 1998 chiếm tới 20% và năm 2000, ngành dịch vụ đã đóng góp trên 26% trong tổng GDP. Hệ thống thương mại phân bố khắp huyện đến xã góp phần lưu thông hàng hoá, vật tư, giao lưu thương mại dễ dàng, góp phần kích thích sản xuất phát triển và cải thiện đời sống của nhân dân Hệ thống ngân hàng đã góp phần tích cực đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của huyện. Ngoài ra ngân hàng còn góp phần tích cực trong các chương trình xoá đói giảm nghèo, doanh số cho vay và số lượt người vay ngày càng tăng. Công tác bảo hiểm xã hội phát triển tương đối khá và rộng khắp với nhiều loại hình kinh tế, thu hút lượng tiền vốn lớn, góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề rủi ro đồng thời làm cho hệ thống tài chính lành mạnh hơn. 2.4-Các ngành văn hoá xã hội: * Giáo dục đào tạo: Công tác giáo dục - đào tạo đã được chú ý phát triển từ mẫu giáo đến phổ thông trung học, số lượng trường, lớp học, dụng cụ, học tập mỗi năm một tăng. Chất lượng giáo dục, đào tạo có bước chuyển biến tốt. * Công tác y tế : Cùng với phát triển giáo dục - đào tạo công tác y tế chăm sóc sức khỏe cộng đồng được chú ý phát triển. Bệnh viện tuyến huyện thường xuyên được tăng cường cả cơ sở vật chất và thầy thuốc, đã hỗ trợ tuyến xã một cách tích cực. Việc khám chữa bệnh một cách kịp thời hơn, cơ bản đã ngăn chặn kịp thời hơn các dịch bệnh. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống y tế tuyến huyện, xã đã xuống cấp nhiều, hầu hết trang bị cũ, lạc hậu, thuốc men và dụng cụ y tế còn nhiều thiếu thốn. Chế độ đãi ngộ cán bộ y tế cơ sở còn nhiều vấn đề chưa hợp lý, tình hình xã hội hoá công tác y tế còn chưa mạnh làm cho họ thiếu an tâm phục vụ. 3. Những nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo trong huyện Hiện nay có một số nhân tố gây khó khăn. Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế chậm sẽ dẫn đến hậu quả kinh tế trực tiếp là mất việc làm và giảm thu nhập của nhiều người. Thứ hai, là điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như hạn hán, bão lụt đã làm giảm thu nhập và thu hoạch nông nghiệp. Thứ ba, là việc cắt giảm chi tiêu của Chính phủ đã làm ảnh hưởng khá nhiều đến việc cung cấp các dịch vụ xã hội có liên quan, quan hệ mật thiết với người nghèo 3.1- Thất nghiệp gia tăng: Thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ ngược chiều nhau, khi nền kinh tế suy giảm hoặc phát triển đối với tốc độ chậm lại thì tình trạng thất nghiệp sẽ gia tăng. ở khu vực nông thôn, tình trạng thiếu việc làm vẫn còn xảy ra khoảng 10% điều này rất dễ hiểu bởi vì khoảng 87% lực lượng lao động ở Thuận Thành là lao động nông nghiệp trong khi đó sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao, vào những lúc nông nhàn thì hầu như lao động không có việc làm ngoại trừ một số hộ có nghề phụ. 3.2- Thu nhập của người dân giảm: Hiện nay có hơn 95% người nghèo ở Thuận Thành sống ở nông thôn, do đó ảnh hưởng tới thu nhập và việc làm nông thôn do suy thoái sẽ tác động mạnh tới nghèo khổ. Trong những năm gần đây, hai yếu tố cơ bản góp phần giảm đói nghèo nhanh ở Thuận Thành là năng suất cây trồng tăng và việc đa dạng hoá các nguồn thu nhập cho người nông dân. Sự suy thoái kinh tế không chỉ ảnh hưởng tới thu nhập nông nghiệp của người dân mà còn ảnh hưởng tới cơ hội bổ sung thu nhập cho người dân từ các hoạt động phi nông nghiệp khác trong các ngành công nghiệp và dịch vụ khác. Trong ngành công nghiệp và dịch vụ, do tốc độ tăng trưởng chậm lại nên dẫn đến tiền lương của người lao động cũng giảm sút, khi tiền lương của họ giảm xuống khi đó việc chi tiêu của họ cho các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày có nguồn gốc từ nông nghiệp sẽ giảm xuống và nó làm cho giá sản phẩm nông nghiệp giảm xuống, điều này gây bất lợi cho người nông dân vốn là những người nghèo nhất trong xã hội. Chính điều đó làm cho quá trình xoá đói giảm nghèo trở lên khó khăn hơn. 3.3- Giảm sút chi tiêu xã hội: Chi tiêu công cộng đối với các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục tỷ lệ thuận với tiềm lực kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái thì việc chi tiêu cho các dịch vụ xã hội sẽ bị cắt giảm. Nếu như cắt giảm chi tiêu không được dự tính cẩn thận để nhằm giảm thiểu những tác động tiêu cực và đảm bảo bền vững trong giai đoạn sắp tới. Những cắt giảm như vậy có thể làm tình hình xấu hơn nhiều. Việc sắp xếp thứ tự ưu tiên chi tiêu một cách kỹ lưỡng đã trở thành điều vô cùng quan trọng khi người nghèo đang bị tác động và các chi tiêu cho y tế và giáo dục đang bị đe doạ. II- Phân tích Thực trạng nghèo đói và những thành tựu đạt được trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo của Thuận Thành trong những năm gần đây. Nhận thức được tầm quan trọng của việc xoá đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của huyện. Quán triệt nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII, lần thứ VIII chủ trương về xoá đói giảm nghèo. Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Thuận Thành đã sớm có kế hoạch cụ thể về triển khai thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn và đã gặt hái được những thành tựu đáng kể như sau: 1- Quy mô và sự biến động quy mô đói nghèo. 1.1- Theo huyện. Năm 2000, theo số liệu điều tra thì số hộ nghèo đói của huyện là 1.654 trên tổng số 30.876 hộ toàn huyện tương đương tỷ lệ hộ nghèo đói của huyện là 5,36%. Như vậy, năm 2000 so với năm 1996, tỷ lệ đói nghèo của huyện đã giảm đáng kể từ 17,89% năm 1996 xuống còn 5,36% năm 2000, bình quân 1 năm giảm 2,506%. Thuận Thành đạt được kết quả cao như vậy là do xác định rõ được các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói ở mỗi sơ cở cùng với việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hôi trên địa bàn huyện tạo môi trường thuận lợi cho các hộ nhân dân nói chung có điều kiện phát triển kinh tế và các hộ ngheo nói riêng tự vươn lên để Xoá đói - Giảm nghèo. Ta có thể thấy rõ hơn qua bảng sau: Bảng 1: Tỷ lệ đói nghèo năm 1996 của huyện Thuận Thành. Chỉ tiêu ĐVT Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số hộ Hộ 29.760 29.881 30.325 30.650 30.876 Hộ đói nghèo Hộ 5.324 4.720 3.269 2.251 1.654 Tỷ lệ hộ đói nghèo % 17,89 15,8 10,78 7,34 5,36 Hộ đói Hộ 1.775 1.525 983 527 308 Tỷ lệ hộ đói % 5,96 5,1 3,24 1,72 1 Hộ nghèo Hộ 3.459 3.195 2.268 1.724 1.346 Tỷ lệ hộ nghèo % 11,93 10,7 7,54 5,62 4,36 Nguồn: Phòng LĐTBXH Thuận Thành Trong những năm vừa qua Thuận Thành thực hiện công tác XĐ - GN đã đạt được kết quả tương đối toàn diện từ nhận thức đến vai trò trách nhiệm ở mỗi cấp mỗi ngành, nhất là ở từng cơ sở đã coi chương trình XĐ - GN là nhiệm vụ chỉ đạo thường xuyên. Tổ chức thực hiện các giải pháp về XĐ - GN được coi trọng, dân chủ hơn và có chiều sâu. 1.2- Theo khu vực. Huyện Thuận Thành gồm có 18 xã, thị trấn trong đó 17 xã và 1 thị trấn Tỷ lệ nghèo đói phân theo khu vực như sau: Theo kết kết quả điều tra về số hộ đói nghèo bảng 1 thì năm 1996 huyện Thuận Thành có 5.324 hộ đói nghèo trong tổng số 29.760 hộ toàn huyện, chiếm tỷ lệ 17,89% tổng số hộ. Trong đó phân theo khu vực có 97,5% hộ đói nghèo ở khu vực nông thôn, còn lại là khu vực thành thị. Bảng 2: Tỷ lệ đói nghèo năm 1996 của huyện Thuận Thành Chỉ tiêu ĐVT Toàn huyện Trong đó Khu vực TT Khu vực NT - Tổng số hộ toàn huyện Hộ 29.760 1753 28.996 - Hộ đói nghèo Hộ 5.324 186 5.138 - Tỷ lệ hộ đói nghèo so với tổng số hộ toàn huyện % 17,89 0,63 17,26 - Hộ đói Hộ 1775 35 1740 - Tỷ lệ hộ đói so với tổng hộ toàn huyện % 5,96 0,12 5,84 - Hộ nghèo Hộ 3.549 151 3398 - Tỷ lệ hộ nghèo so với tổng số hộ toàn huyện % 11,93 0,51 11,42 ( Nguồn: Phòng Lao động – Thương binh và xã hội huyện Thuận Thành ). Phân tích tình hình đói nghèo hiện nay của Thuận Thành cho thấy dự phân háo giàu nghèo ở các vùng nông thôn, thành thị cũng đang diễn ra khá phổ biến và có xu thế ngày càng giãn cách. Các hộ có vốn có kinh nghiệm làm ăn đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên vươn lên làm giàu với mức thu nhập vài chục triệu đồng một năm, trong khi các hộ nghèo vẫn đang nghèo đi do không có vốn, thiếu kiến thức làm ăn. Theo số liệu thống kê, năm 2001 Thuận Thành có khoảng hơn 140 hộ có mức thu nhập từ 20-30 triệu đồng/năm và có khoảng hơn 10 hộ có mức thu nhập trên 30 triệu đồng/năm. Xét theo nghề nghiệp thì tỷ lệ đói nghèo cao nhất thuộc về những người làm ruộng. Đây là những hộ thuần nông, thu nhập của gia đình chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp trong khi đó sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chỉ một đợt hạn hán hay mưa bão là có thể cướp đi toàn bộ thành quả lao động lao động của hộ này và sẽ đưa họ từ mức nghèo xuống đói và từ trung bình xuống nghèo. Ngược lại, những hộ gia đình do có người làm nghề gián tiếp, thương gia hoặc dịch vụ là chủ hộ thì ít có khả năng bị đói nghèo, do thu nhập của những người này mà mức nghèo khổ của của gia đình họ thường thấp hơn mức nghèo đói chung. Những người sống trong các hộ gia đình mà chủ hộ không đi làm, do đã nghỉ hưu hoặc lý do khác thì có nhiều khả năng bị đói nghèo. Những hộ ít có khả năng đói nghèo nhất là những hộ có người chủ hộ làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước, bởi vì hàng tháng họ nhận được lương và các khoản thu khác theo lương gần như cố định do Nhà nước trả và khoản này gần như chắc chắn đảm bảo cho họ có cuộc sống từ mức trung bình trở lên. Mà những người này sống tập trung nhiều ở khu vực thị trấn. 1.3- Theo xã, thị trấn. Thực hiện quyết định số 1143/2000/QĐ- LĐTBXH ngày 1/11/2000 của Bộ trưởng bộ LĐTBXH về việc điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2001-2005 và thực hiện nghị quyết của Ban thường vụ tỉnh uỷ, nghị quyết của HĐND tỉnh và kế hoạch của UBND tỉnh, các cấp, các ngành đoàn thể từ tỉnh đến huyện, thị xã, phường, xã đều có kế hoạch tổ chức thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo, triển khai sâu rộng cuộc vận động trong toàn Đảng, toàn dân giúp nhau xoá đói, giảm nghèo. Tuy vậy quá trình xoá đói giảm nghèo trên địa bàn huyện trong những năm qua diễn ra không đều nhau. Trong năm 2002 tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện theo chuẩn mới điều tra là 12,8%, tỷ lệ hộ nghèo đói tăng từ 5,75% năm 2001 lên 12,8% năm 2001. Nguyên nhân tăng nhanh như vậy một phần do sự thay đổi chuẩn mực đói nghèo. Ta có thể thấy rõ hơn qua bảng sau: Bảng 3: Tổng hợp tình hình đói nghèo ở Thuận Thành năm 2001, 2002 Stt Xã, thị trấn 2001 2002 Lượng tăng % Hộ đói Hộ nghèo Tỷ lệ % Hộ đói nghèo Tỷ lệ % 1 Song Hồ - 28 2,48 29 2,5 0,02 2 Hoài Thượng 15 29 2,27 264 13,6 11,3 3 Đ.Đ.Thành 19 100 5,46 200 9,2 3,74 4 Gia Đông - 144 7,37 213 10,9 3,53 5 An Bình 15 53 4,01 156 9,2 5,19 6 Mão Điền 35 80 4,16 228 8,2 4,04 7 Trạm Lộ 44 78 7,01 215 12,3 5,29 8 Ninh Xá 2 87 4,63 231 11,9 7,27 9 Nghĩa Đạo 13 91 5,49 227 12,8 7,31 10 Nguyệt Đức 15 32 2,87 273 16,5 13,6 11 Đình Tổ 21 96 5,10 375 16,3 11,2 12 Trí Quả 10 70 4,82 140 8,4 3,58 13 T. Thượng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0082.doc