Thực trạng, quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối

Phụ lục Lời mở đầu 3 I ) Lí luận chung về phân phối 4 1 ) Bản chất và vị trí của phân phối 4 1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái SX XH 4 1.2. Phân phối là một mặt của QHSX 4 2) Lý luận của chủ nghĩa Mac- Lenin về phân phối 5 3 ) Quan điểm của chủ tịch hồ chí minh và đảng ta về phân phối 5 3.1. Quan điểm của Hồ chủ tịch về phân phối 5 3.2. Quan điểm của Đảng về phân phối thu nhập 6 4 ) Quan điểm của kinh tế học hiện đại về phân phối 7 4.1. Lí thuyết trường phái kinh tế

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng, quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường XH ở các nước CHLB Đức 7 4.2. Lí thuyết phân phối thu nhập của trường phái chính hiện đại 8 5 ) Nguyên tắc phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 9 5.1. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng của phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 9 5.2. Những nguyên tắc phân phối trong nền KTTT định hướng XHCN 10 5.2.1. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả ktế 10 5.2.2. Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản 10 5.2.3. Phân phối thông qua phúc lợi XH 11 II ) Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam 11 1 ) Thực trạng các chính sách phân phối 11 1.1. Chính sách tiền lương 11 1.2. Chính sách thuế 12 1.2.1. Thuế giá trị gia tăng (GTGT) 13 1.2.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) 13 1.2.3. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 14 1.2.4. Thuế tiêu thụ đặc biệt 14 1.3. Chính sách giải quyết việc làm 15 1.4. Chính sách giải quyết việc làm 16 1.5. Chính sách bảo hiểm XH 17 2) Đánh giá kết quả chung và những vấn đề đặt ra trong phân phối thu nhập 18 III) Quan điểm và giải pháp thực hiện công bằng trong phân phối trong thời gian tới 18 1) Quan điểm về phân phối và điều tiết thu nhập nền kinh tế thị trường định hoá XH chủ nghĩa. 18 1.1.Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải lấy nguyên tắc phân phối XHCN làm chủ đạo 18 1.2. Phân phối và điều tiết thu nhập trong nền KTTT định hướng XHCN cần kết hợp hài hoà lợi ích ktế để tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng ktế 19 1.3.Cần giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ XH. 19 1.4.Đặc biệt quan tâm đến tầng lớp dân cưcó thu nhập thấp, các vùng còn kém phát triển 20 2) Giải pháp thực hiện công bằng phân phối trong thời gian tới. 20 2.1.Cải cách chính sách tiền lương 20 2.2.Cải cách chính sách thuế thu nhập hợp lý 21 2.2.1. Hoàn thiện thuế thu nhập cá nhân 21 2.2.2 Hoàn thiện thuế thu nhập doanh nghiệp 22 2.2.3. Hoàn thiện thuế tiêu thụ đặc biệt 22 3) Hoàn thiện các chính sách xã hội 22 3.1. Tập trung nguồn lực tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo 22 3.2. Hoàn thiện chính sách an sinh XH 24 Kết luận 25 Lời mở đầu Sau đại hội Đảng nền kinh tế nước ta chuyển dần sang nền kttt định hướng XHCN. Trong nền kinh tế nhiều thành phần này mỗi thành phần dựa trên 1 kiểu ktế nhất định trong đó QHSảN XUấT chiếm vị trí quan trọng. Mặt khác sở hữu lại quyết định lại phân phối vậy nên phân phối thu nhập trong nền ktế thị trường cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ktế. Nó là vấn đề rộng lớn liên quan đến các hoạt động ktế-VH-XH của nhà nước và nhân dân lao động. Nó tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển tình hình ktế XH, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh XH công bằng văn minh. ở VN trong những năm qua đã có những cố gắng trong vấn đề giải quyết các vấn đề tiền lương, lợi tức, địa tô, bảo hiểm trợ cấp XH nhằm tháo gỡ những khó khăn trong phân phối lưu thông dể “cởi trói” cho việc sản xuất. Tuy nhiên vấn đề phân phối thu nhập còn nhiều khiếm khuyết đã kèm luôn sự phát triển của nền ktế nước ta. Hiện nay Đảng ta đang hướng tới mục đích phát triển bền vững và công bằng XH. Vì vậy đã và đang không ngừng thực hiện các chính sách về phân phối thu nhập. I ) Lí luận chung về phân phối : 1 ) Bản chất và vị trí của phân phối : 1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái SX XH Qúa trình tái sản xuất XH bao gồm 4 khâu : sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng. Các khâu này có QH chặt chẽ với nhau, trong đó khâu sản xuất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Phân phối không thể vượt quá trình độ hiện có của lực lượng sản xuất. Phân phối có QH mật thiết với trao đổi. Trao đổi là sự tiếp tục của phân phối. Trong nền KTTT, phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị. Người nhận được tiền tệ qua thu nhập và sử dụng nó trong chi trả. Đó cũng chính là quá trình phân phối. Phân phối còn QH mật thiết với tiêu dùng. Việc tăng, giảm sản phẩm phân phối đều có tác động trực tiếp đến tiêu dùng và ngược lại, cơ cấu. Phương thức cũng như trình độ của tiêu dùng cũng ảnh hưởng đến phân phối. Phân phối là 1 khâu độc lập tương đối trong quá trình tái sản xuất, nó luôn có tác động qua lại 1 cách biện chứng với các khâu khác của quá trình tái sản xuất XH. 1.2. Phân phối là 1 mặt của QHSX: Phân phối là 1 mặt của QHSX và do QH sở hữu về TLSX quyết định, CacMac đã nhiều lần chỉ rõ : “ QH phân phối về thực chất cùng đồng nhất với QHSX ấy, rằng chúng cấu thành mặt sau của QHSX ấy “, mỗi PTSX có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó . QHSXnhư thế nào thì QH phân phối như thế ấy. Cơ sở của QH phân phối là QH sở hữu về TLSX và QH trao đổi hoạt động cho nhau. Sự biến đổi của LLSX và QHSX kéo theo sự biến đổi của QH phân phối, QH phân phối có tác động trở lại đối với QH sở hữu và do đó đối với sản xuất có thể làm tăng hay giảm quy mô sở hữu hoặc cùng có thể làm biến dạng tính chất của QH sở hữu. các QH phân phối vừa có tính đồng nhất vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ trong bất cứ XH nào sản phẩm lao động cũng được phân chia thành 1 bộ phận cho tiêu dùng sản xuất, 1 bộ phận để dự trữ và một bộ phận cho tiêu dùng chung của XH và cho tiêu dùng cá nhân. Tính lịch sử của QH phân phối là mỗi XH có QH phân phối là 1 mặt của QHX và cũng như QHSX, QH phân phối có tính chất lịch sử. CacMac đã viết “ QH phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của một QHSX lịch sử nhất định”. Do đó mỗi hình thái phân phối đều biến đi cùng 1 lúc với PTSX nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy. chỉ thay đổi được QH phân phối khi đã cách mạng hoá được QHSX đẻ ra QH phân phối ấy, phân phối có tác động rất lớn đối với sản xuất nên nhà nước cách mạng cần sử dụng phân phối như là 1 công cụ để xây dựng chế độ mới để phát triển KT theo hướng XHCN. 2 ) Lí luận của chủ nghĩa Mac Lenin về phân phối : C.mac và Anggen lúc đương thời đã nghiên cứu 1 cách có hệ thống chế độ phân phối của phương thức SảN XUấT TBCN. Hai ông đã vạch rõ bản chất của PT phân phối này và cho rằng chế độ phân phối TBCN là bất công, nó dựa trên cơ sở QH bóc lột của GCTS và địa chủ đối với GCCN và nhân dân lao động. Vì thế trong thế kỷ XIX, CNXH vẫn chưa ra đời nên nhiệm vụ l‎í luận thực tế nhất, bức thiết nhất không phải là chú trọng trình bày, thiết kế chế độ và nguyên tắc phân phối thu nhập trong CNXH, mà là vạch trần bản chất và phê phán PT phân phối TBCN, đồng thời còn phê phán đấu tranh với mọi sự xuyên tạc của CN cơ hội đối với CNXH. Tuy nhiên, trong quá trình đó, C.Mac và Angghen đã nêu lên quan điểm và nguyên tắc cơ bản về phân phối trong XH tương lai, kế thừa phát triển tư tưởng của C.Mac và Angghen, trong lãnh đạo xây dựng CNXH ở Nga, V.I.Lenin đã làm rõ hơn cụ thể hoá các quan điểm và nguyên tắc phân phối trong CNXH. Theo Lenin, để xây dựng thành công CNXH hiện thực thì nhiệm vụ có y nghĩa trọng đại hơn cả là xây dựng ktế. Trong nhiệm vụ đó, nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn diện đối với sản xuất và phân phối các sản phẩm thì chính quyền của người lao động, nền tự do của họ sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách thống trị của CNTB. 3 ) Quan điểm của chủ tịch hồ chí minh và đảng ta về phân phối : 3.1. Quan điểm của Hồ chủ tịch về phân phối : Sau khi giải phóng năm 1954, miền bắc bước vào khôI phục và phát triển kinh tế, tạo cơ sở để đấu tranh thống nhất đất nước. để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc cách mạng này, chủ tịch HCM đã có nhiều bài nói và viết rất quan trọng về phân phối thu nhập. Trong bài nói chuyện tại hội nghị sản xuất cứu đói, chủ tịch HCM căn dặn : “ Dân đủ ăn đủ mặc thì nhiều chính sách của đảng và chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện được… tham ô, lãng phí là có tội, mà tham ô lãng phí gạo cứu đói tội lại càng nặng hơn…”. xây dựngCNXH từ 1 nước nghèo, nông nghiệp lạc hậu, đó là 1 đặc điểm “ to nhất “ của nước ta, chủ tịch HCM y thức rằng, bảo đảm chon dân đủ no là 1 nhiệm vụ quan trọng nhất bởi thế người đã nhắc nhở phải đẩy mạnh sản xuất. Phát triển sản xuất là điều kiện để nâng cao đời sống ND. Phải ra sức sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhưng phải phân phối cho công bằng, hợp lí. Chủ tịch HCM nhắc nhở : “ sản xuất được nhiều, đồng thời phải chú ‎y phân phối cho công bằng. Muốn phân phối cho công bằng, cán bộ phải chí công vô tư, thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt ‎1 phần nào chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác. Tư tưởng phân phối công bằng hợp lí của chủ tịch HCM được gắn liền với yêu cầu phải làm tốt chính sách bảo đảm xã hội. Người phê phán nhiều việc làm sai trái của các cấp chính quyền và 1 số cán bộ Đảng viên. Người nói : “ Quần chúng nhân dân rất thông cảm với hoàn cảnh thiếu hàng, quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối không công bằng, vẫn còn 1 số cán bộ lạm dụng chức quyền, quan liêu, xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm trước quần chúng…” Trong công tác lưu thông, có 2 điều quan trọng phải luôn luôn nhớ : “ không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Người đề nghị phải “ làm đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít, lao động khó được phân phối nhiều, dao động dễ được phân phối ít. Không nên có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ cùng công điểm như nhau. đó là CN bình quân, phải tránh chủ nghĩa bình quân”. 3.2. Quan điểm của Đảng về phân phối thu nhập: Từ khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH đến nay, Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là 1 nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế – xã hội của đất nước, liên quan trực tiếp đến cuộc sống của nhân dân và mọi mặt trong XH. Trên cơ sở đổi mới tư duy ktế nhằm trở lại với nhiều tư tưởng đích thực của CN Mac - Lenin và tư tưởng HCM, Đảng ta xác định phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải trên cơ sở đóng góp thực tế của mỗi người về lao động, tài năng, vốn, tài sản…vào quá trình sản xuất kinh doanh, để thực hiện phân phối công bằng cần phải : - Có sự bình đẳng giữa người góp vốn với người góp sức lao động trong phân chia kết quả sản xuất. - Có sự bình đẳng giữa người góp vốn được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai góp nhiều, được phân chia nhiều, ai góp ít được phân chia ít. - Sự bình đẳng giữa người lao động được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai làm nhiều, làm tốt được hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai làm hỏng phải chịu phạt, mọi người có sức lao động phải lao động. Ngoài ra XH phải điều tiết thu nhập cá nhân giữa người có thu nhập cao, thấp khác nhau nhằm bảo đảm công bằng XH. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng CSVN đã khẳng định: “ Việc thực thi đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi sửa đổi 1 cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu táI sản xuất…áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả ktế. Phải thực hiện phân phối 1 cách công bằng ở cả khâu phân phối hợp lí TLSảN XUấT là ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đã có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Các TLSảN XUấT chủ yếu thuộc quyền sở hữu của nhà nước như tài nguyên, đất đai…phải được phân phối, sử dụng hợp lí trên cơ sở phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng chúng. Trong phân phối kết quả phải thực hiện những hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi XH, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lí, bảo hộ quyền lợi của người lao động. 4 ) Quan điểm của kinh tế học hiện đại về phân phối: 4.1. Lí thuyết trường phiI kinh tế thị trường XH ở các nước CHLB Đức: Tác giả tiêu biểu của trường phái này là A.Muller Armark. Theo ông việc phân phối kết quả sản xuất cho cá nhân phải tương ứng với phần đóng góp của mỗi người. Sau đó thông qua các chính sách XH phù hợp mà giúp đỡ cho những người có thu nhập thấp. Phân phối phải được thực hiện trên cơ sở công bằng theo 2 chiều ngang dọc, công bằng theo chiều ngang là phân phối phải đảm bảo sự công bằng cho những người ngang nhau về đóng góp lao động, đóng góp vống công bằng theo chiều dọc là phải phân phối từ những người có thu nhập cao sang người có thu nhập thấp hay không có thu nhập. Trường phái này cho rằng công bằng trong phân phối phải được thể hiện ở chỗ: 1 mặt thực hiện tiền lương tối thiểu, đảm bảo lương phân biệt thông qua sự thoả thuận tự do, mặt khác thực hiện cân bằng thu nhập, xoá bỏ những khác biệt vô lí trong thu nhập thông qua các biện pháp đánh thuế, mở rộng hình thức công nhân có cổ phần trong doanh nghiệp, áp dụng chính sách tăng việc làm, hỗ trợ cho các nhóm người có thu nhập thấp bằng các biện pháp như ưu đãi thuế đối với các nhà kinh doanh, trả lương bổ sung cho công nhân căn cứ vào mức thu nhập thấp, trợ cấp nhà ở, phát triển hệ thống bảo hiểm XH. Người đứng đầu trường phái này là P.A.Samuelson-nhà kinh tế học người Mỹ. Theo ông, những quyết định lớn về phân phối thu nhập được làm ra tại thị trường. Hoạt động của thị trường có thể dồn nén ktế đến việc sử dụng nguồn lực hiệu quả, đạt được sản lượng tối đa, nhưng nó không nhất thiết phải phân phối sản lượng đó đạt mức có thể chấp nhận được, bởi vậy nhà nước cần phải can thiệp vào phân phối thu nhập thông qua các chính sách phân phối lại trường phái này đã đưa ra. Nguyên tắc phân phối thu nhập trong cơ chế thị trường có sự can thiệp của nhà nước như sau: * Nguyên tắc phân phối thu nhập trong cơ chế thị trường: Phân phối được quyết định bởi các QH cung và cầu trên thị trường. P.A.Samuelson cho rằng hàng hoá được sản xuất cho ai được xác định bởi mối QH cung cầu ở thị trường các yếu tố sản xuất. thị trường này xác định mức lương, tiền thuê đất, lãi suấtt và lợi nhuận, những thứ này đi vào thu nhập của mọi người. Như vậy, phân phối thu nhập trong nhân dân được xác định bởi số lượng các nhân tố có được ( giờ công, diện tích đất,v..v..) và giá của các nhân tố đó (mức lương, tiền thuê đất..) Các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại đã dựa vào lí thuyết sản phẩm tăng thêm trên hạn mức (sản phẩm doanh thu cận biên) để giải thích sự biến đổi của các loại thu nhập. Theo lí thuyết này, sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động là sản lượng có thêm khi ta bổ sung thêm 1 đơn vị lao động và giữ nguyên các yếu tố đầu vào khác. Sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của đất đai là sự thay đổi tổng sản phẩm có được nhờ bổ sung thêm 1 đơn vị đất đai, trong khi các nhân tố khác không đổi, v..v.. quy luật vận động của sản phẩm tăng thêm trên hạn mức là ngày càng giảm. phân phối thu nhập do được giải quyết trên cơ sở sản phẩm tăng thêm trên hạn mức, nên cũng vận động theo quy luật thu nhập giảm dần. Tương tự như vậy, nếu giữ nguyên số lao động mà chỉ biến đổi 1 yếu tố đầu vào khác, chẳng hạn là đất đai, thì số sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của mỗi đơn vị diện tích đất kế tiếp sẽ giảm xuống, làm cho tiền thuê đất giảm xuống…từ quan điểm đó, các nhà ktế trường phái chính hiện đại cho rằng, tại mức xác định giao điểm của mỗi lượng cầu với mức cung của 1 yếu tố sản xuất, sẽ có: - Tiền công bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động - Tiền thuê đất bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của đất đai - Lãi suất sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của TB và cứ tiếp tục như vậy cho bất kỳ yếu tố sản xuất nào. * Sự can thiệp của nhà nước vào phân phối thu nhập: Các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại quan tâm đến sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập, do thị trường là 1 cơ chế điều tiết không biết đến phạm trù đạo đức và nhân đạo, nên nếu cứ để mặc tự khác nhau giữa mọi người, về lao động và tài sản do cơ chế này tự điều tiết thì không thể tránh khỏi sự bất bình đẳng lớn về thu nhập bởi vậy, cần phải có sự can thiệp của nhà nước và phân phối. Mục đích của sự can thiệp này nhằm giảm bớt tình trạng bất bình về thu nhập. Muốn vậy nhà nước phải thiết lập các chương trình tác động đến việc phân phối thu nhập. Thông qua phân phối lại, nhà nước có thể dành 1 phần thu nhập để đảm bảo mức sống tối thiểu về y tế, dinh dưỡng và thu nhập nhằm nâng cao mức sống của người nghèo. Và công cụ để nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập là thuế luỹ tiến và hỗ trợ thu nhập. - Thuế luỹ tiến: là mức thuế đánh vào người nhà giàu có tỷ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. - Hỗ trợ thu nhập gồm: giúp đỡ phúc lợi, trợ cấp y tế, bảo hiểm XH, giúp đỡ năng lượng…mục tiêu của hệ thống này là tạo ra 1 mạng lưới an toàn, bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về ktế. Song họ cho rằng việc phân phối lại có thể làm giảm khoảng cách bất bình đẳng trong XH nhưng cũng trả giá cho tình trạng không hiệu quả. Từ đó họ nêu quan điểm về mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả. Đó chính là sự phân phối “ tối ưu Pareto” và nguyên lí “hàm số phúc lợi XH” của Bergson và Samuelson. - Phân phối “tối ưu Pareto” : nếu sự thay đổi của 1 chính sách phân phối nào đó dẫn đến hoàn cảnh sống của 1 số người trở nên tốt hơn, đồng thời không làm cho hoàn cảnh sống của 1 số người khác trở nên xấu đi. - Hàm số phúc lợi XH : hiệu quả KT là điều kiện “ cần”, còn phân phối hợp lí là điều kiện “đủ” của lợi ích tối đa. Chỉ có đồng thời đưa các nhân tố về phân phối và các nhân tố chi phối phúc lợi khác vào trong 1 hàm phúc lợi XH, chỉ khi giá trị của hàm số này lớn nhất thì mới đạt được tối ưu hoá phúc lợi XH. 5 ) Nguyên tắc phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: 5.1. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng của phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập. Hiệu quả “ công bằng vừa không phải là mâu thuẫn tuyệt đối, vừa không phải là thống nhất tuyệt đối. Hiệu quả tạo ra điều kiện vật chất để thực hiện công bằng, chỉ có không ngừng nâng cao hiệu quả, tăng thêm của cải XH, thì phân phối công bằng mới có điều kiện được thực hiện. Nếu hiệu quả thấp, vật chất thiếu thốn, thì dù mọi người được chia những phần ngang nhau, nhưng tất cả chỉ là sự thiếu thốn. Cái gọi là sự công bằng ấy chỉ là sự “bình quân”, “nghèo túng” tuyệt nhiên không phải là tiêu chuẩn công bằng của CNXH. Vì thế, chỉ có nâng cao hiệu quả, tăng thêm của cải, thì công bằng mới theo đó mà phát triển. Ngược lại, công bằng kích thích hiệu quả. Con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất, vì thế, việc nâng cao hiệu quả suy đến cùng phải dựa vào việc phát huy tính tích cực của người lao động. Nhưng tính tích cực của người lao động có được phát huy đầy đủ hay không lại phụ thuộc vào cảm nhận của họ đối với lợi ích KT của bản thân, tức là phân phối thu nhập có công bằng hay không. vì vậy, phân phối thu nhập phải bảo đảm sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng. đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng CSVN đã xác định: “…thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động XH, thực hiện bình đẳng trong các QHXH, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”. 5.2. Những nguyên tắc phân phối trong nền KTTT định hướng XHCN: 5.2.1. Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả ktế: Phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả KT là sự vận dụng nguyên tắc phân phối theo lao động trong điều kiện ktế thị trường định hướng XHCN. Nó được thực hiện trong các thành phần ktế dựa trên chế độ công hữu về TLSảN XUấT. Kết quả lao động cụ thể của mỗi người, của mỗi doanh nghiệp trong các thành phần KT dựa trên chế độ công hữu về TLSảN XUấT chỉ có thể được thừa nhận và làm căn cứ để phân phối khi sản phẩm của đơn vị đó được thị trường thừa nhận, bán được sản phẩm hàng hoá. Hiệu qủa ktế được thể hiện ở kết quả lao động của cá nhân và tập thể trong doanh nghiệp yêu cầu của phân phối theo kết quả lao động như nhau, nhiều lao động mang lại kết quả ngang nhau thì được trả công bằng nhau, nhiều lao động mang lại kết quả khác nhau phải được trả công khác nhau. Quá trình phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả ktế được thực hiện thông qua 2 khâu phân phối với các chủ thể tham gia là nhà nước, doanh nghiệp, người lao động trong doanh nghiệp. - Khâu thứ 1: tổng thu nhập của doanh nghiệp trước hết được phân chia giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước lấy lượng vốn đã giao cho doanh nghiệp sử dụng làm cơ sở để quy định, phần thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp cho nhà nước, phần còn lại là thu nhập thực của doanh nghiệp. Nhà nước thông qua các chính sách, các văn bản pháp quy để quản l‎í tiền lương của doanh nghiệp. - Khâu thứ 2: Phân phối thu nhập trong nội bộ doanh nghiệp với tư cách là chủ thể tiến hành và dựa trên cơ sở kết quả lao động của mỗi người. Kết quả đó có thể xác định bằng thời gian hoàn thành nhiệm vụ được giao bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra theo những quy định cụ thể về chất lượng và do doanh nghiệp đánh giá. đó là công việc nội bộ của cơ sở sản xuất kinh doanh. Hai khâu phân phối trên không thể tách rời nhau, sự kết hợp chúng tạo thành cơ chế phân phối thu nhập của doanh nghiệp, thu nhập cá nhân phải thông qua cả sự kiểm nghiệm, đánh giá của thị trường lẫn của doanh nghiệp. Thu nhập cá nhân và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Phân phối thu nhập qua 2 khâu như trên vừa bảo đảm quyền của chủ sở hữu vốn tàI sản doanh nghiệp, thực hiện chức năng quản lí của nhà nước, vừa đảm bảo quyền tự chủ của doanh nghiệp trong phân phối thu nhập. Bên cạnh đó, phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả, ktế còn được thực hiện dưới hình thức tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng và phúc lợi tập thể. 5.2.2. Phân phối theo mức đóng góp vốn và tài sản: Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phân phối theo mức đóng góp vốn và tàI sản là 1 đòi hỏi tất yếu và cũng là nguyên tắc phân phối cơ bản. Trong thời kì quá độ lên CNXH, tại nhiều hình thức sở hữu, do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần,trong đó nền ktế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và ktế nhà nước cùng với ktế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền KTLD, tương ứng với cơ cấu sở hữu như vậy, đòi hỏi phải thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả ktế làm chủ. Đồng thời, phải thừa nhận nguyên tắc phân phối theo mức đóng góp vốn và tàI sản, đó không chỉ là tất yếu mà còn có y nghĩa thực tế. Hình thức phân phối theo mức đóng góp vốn và tàI sản được thực hiện trong các thành phần ktế và dưới hình thức sau đây: - Trong thành phần ktế tư nhân, bộ phận giá trị mới được phân thành: khoản trả công lao động và quản lí, khoản nộp thuế cho nhà nước, phần còn lại là lợi nhuận của nhà TB, lợi nhuận là 1 hình thức thu nhập dựa vào sự đóng góp vốn và lao động quản lí của nhà TB. - Trong thành phần ktế TB nhà nước: + Nếu là công ty cổ phần: hình thức thu nhập dựa vào đóng góp vốn là lợi tức cổ phần. + Nếu là công ty liên doanh: các bên tham gia được chia nhau lợi nhuận của doanh nghiệp liên doanh. - Các đơn vị ktế , các tổ chức và tầng lớp nhân dân có những khoản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, chưa sử dụng, họ đem gửi vào ngân hàng buộc đem cho vay để nhận lợi tức. - Trong thành phần ktế cá thể, tiểu chủ, người lao động dựa vào TLSX và lao động của bản thân để tiến hành sản xuất. Vì thế, tổng doanh thu sau khi trừ đi chi phí sản xuất đã bỏ ra và nộp thuế cho nhà nước là thu nhập của họ. 5.2.3. Phân phối thông qua phúc lợi XH: Sở dĩ phải có nguyên tắc này, nhiều trong XH ngoài những người có sức lao động và có vốn góp vào QT SảN XUấT, nhờ đó nhận được thu nhập dưới hình thức tiền lương hay tiền công, lợi nhuận, lợi tức thay lợi tức cổ phiếu, còn có những người không có khả năng lao động hay khả năng lao động, mà XH vẫn phải đảm bảo đời sống cho họ. Thêm vào đó, không phải mọi tiêu dùng cá nhân chỉ dựa vào thu nhập theo 2 nguyên tắc phân phối nói trên mà vẫn cần nhận được những khoản thu nhập hay dịch vụ công cộng về y tế, giáo dục, văn hoá… Quỹ phúc lợi được phân thành 2 bộ phận: 1 bộ phận biến thành thu nhập cá nhân như lương hưu, tiền trợ cấp, một bộ phận khác được tiêu dùng chung như các công trình văn hoá, giáo dục, y tế… II ) Thực trạng phân phối thu nhập trong thời gian qua ở Việt Nam : 1 ) Thực trạng các chính sách phân phối : 1.1. Chính sách tiền lương: Tiền lương là hình thức được thực hiện của nguyên tắc phân phối theo lao động, nguyên tắc phân phối chủ yếu trong nền ktế thị trường định hướng XHCN. Vì vậy, Đảng và nhà nước luôn luôn quan tâm đến việc cảI cách hay điều chỉnh tiền lương cho phù hợp nhằm từng bước nâng cao mức sống cho người lao động, thúc đẩy phát triển ktế và thực hiện công bằng XH. Từ năm 1957 đến namư 1993, nhà nước đã 3 lần thực hiện cảI cách tiền lương và từ năm 1993 đến nay đã 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu. Đề án cảI cách tiền lương năm 193 củachính phủ được kỳ họp lần thứ 2 Quốc hội khoá IX thông qua, theo đó mức lương tối thiểu được áp dụng từ ngày 1-4-1993 là 120.000 đ/tháng. đây là mứclương tối thiểu nhất, không có tiền lương tối thiểu vùng và tiền lương tối thiểu ngành. Trong tiền lương tối thiểu đó có quy định 2 khoản: chi cho bảo hiểm XH là 5% và bảo hiểm y tế là 1%, còn lại là 94% chi cho các loại tiêu dùng khác. Cùng với sự tăng trưởng ktế, nhu cầu đời sống của người lao động đòi hỏi ngày càng tăng cao, đồng thời giá cả hàng hoá và dịch vụ trên thị trường cũng không ngừng nâng lên. Vào tháng 1-1997, giá sinh hoạt đã tăng 35% so với tháng 12-1993. Trước tình hình đó, chính phủ đã điều chỉnh mức lương từ 120.000 đ lên 140.000 đ/tháng ( tăng 20% ) Tháng 1-2000, chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 50% so với tháng 12-1993. chính phủ đã điều chỉnh mức lương tối thiểu áp dụng đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách lên 180.000đ/tháng. Đến tháng 1-2001 thì mức lương tối thiểu theo hệ số ngành và vùng để tính vào đơn giá tiền lương. Cụ thể: - Hệ số điều chỉnh theo ngành: 0,8; 1,0; 1,2. - Hệ số điều chỉnh theo vùng: 0,1; 0,2; 1,3. Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp, theo quy định của bộ luật lao động, người sử dụng lao động không được trả công cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu do nhà nước công bố, tức là mức tiền công tối thiểu không được thấp hơn 210.000 đ/tháng. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tiền lương tối thiểu được nhà nước quy định là 30-35 USD/tháng (năm 1992) và được điều chỉnh lên 40-45 USD/tháng vào năm 1996. Từ ngày 1-7-1999 được quy định bằng đồng Việt Nam tương ứng là 556.000 đ/tháng đến 626.000 đ/tháng. Đến 1-2003, mức lương tối thiểu được điều chỉnh lên 290.000 đ/tháng. Tổng quỹ lương nhà nước tăng 13.302 tỷ đồng so với năm 2002. Lần đầu tiên việc chi trả lương được bố trí từ 4 nguồn: khoản chi tiết kiệm 10% chi thường xuyên, một nguồn thu phí, lệ phí để lại đơn vị, 50% số tăng thu ngân sách địa phương và nguồn bổ sung từ ngân sách cấp trên. 1.2. Chính sách thuế: Hệ thống chính sách thuế dần dần được hoàn thiện qua cảI cách thuế bước I và II. Động viên công bằng qua từng chính sách thuế cũng ngày 1 tốt hơn. Cụ thể, năm 1996 thuế, phí, lệ phí đã đóng góp vào GDP là 21,8%, năm 1997 đạt 19,7% GDP, năm 1998 đạt 19,2% GDP, năm 1999 đạt 18,6% GDP, năm 2000 là 19,6% GDP, năm 2001 đạt 20,4% GDP. Thuế, lệ phí, phí đảm bảo từ 95% trở lên trong tổng thu ngân sách nhà nước, đảm bảo chi thường xuyên của ngân sách, đồng thời dành 1 phần ngày càng tăng cho đầu tư phát triển. Sau đây là vai trò của một số loại thuế đối với phân phối: 1.2.1. Thuế giá trị gia tăng (GTGT): Thuế GTGT là thuế nhằm điều tiết thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ. Luật thuế GTGT quy định 26 nhóm hàng, hàng hóa, mặt hàng, dịch vụ liên quan đến nông nghiệp, y tế, dạy học, quốc phòng…Không thuộc diện chịu thuế GTGT. Đó là các hàng hoá, dịch vụ chủ yếu phục vụ nhu cầu đời sống, sản xuất cộng đồng nên nhà nước không đặt vấn đề điều tiết thu nhập, điều tiết tiêu dùng. Về thuế suất, để đảm bảo điều tiết 1 cách công bằng trong giai đoạn đầu chuyển từ thuế doanh thu có 11 mức thuế suất sang thuế GTGT, luật thuế GTGT quy định 4 mức thuế suất khác nhau. Và để đảm bảo công bằng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, thuế GTGT áp dụng 2 phương pháp tính thuế: - Phương pháp tính thuế trực tiếp được áp dụng cho các hộ kinh doanh nhỏ, chưa thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán. - Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho các đơn vị, tổ chức kinh doanh, chấp hành tốt công tác hạch toán kế toán và chế độ sử dụng hoá đơn, chứng từ. 1.2.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 quy định: mọi tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Thuế suất được áp dụng chung nhất cho các doanh nghiệp trong nước là 32% ( hiện nay là 28%), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 25%, đồng thời nếu chuyển lợi nhuận ra khỏi Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài 5%, 7% hay 10%. Luật quy định các cơ sở kinh doanh có thu nhập cao do lợi thế khách quan mang lại còn phải nộp thuế thu nhập bổ sung 25% trên phần thu nhập cao hơn đó, vận dụng động viên công bằng theo chiều dọc đối với các dự án đầu tư mới thuộc các lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn khuyến khích đầu tư áp dụng thuế suất 25%, 20% hay 15% Chính sách thuế TNDN vận dụng công cụ miễn giảm thuế để thực hiện mục tiêu khuyến khích sản xuất cho 1 số ngành và 1 số đối tượng thuộc diện thực hiện chính sách XH như: áp dụng miễn thuế 2 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 2 năm tiếp theo để khuyến khích và động viên công bằng đối với các cơ sở sản xuất mới thành lập, kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế phải nộp cho 3 năm tiếp theo đối với các cơ sở mới thành lập thuộc ngành nghề được ưu đãi, miễn thuế cho các hợp đồng nghiên cứu khoa học, hợp đồng dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ nông nghiệp…miễn thuế cho người kinh doanh có thu nhập thấp. Sau 1 thời gian thực hiện luật thuế TNDN, số thu đã tăng dần qua các năm, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng số thu về thuế và phí. Năm 1999, tỷ trọng số thu về thuế TNDN trong tổng số thu về thuế phí l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28321.doc
Tài liệu liên quan