Thực trạng quản lý chi trả bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội TP. Thanh Hoá 2004 - 2008

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, BHXH là chính sách lớn của đảng và nhà nước, thể hiện tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Ban đầu, khi nền kinh tế đất nước còn khó khăn thì chính sách BHXH chỉ áp dụng với cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình doanh nghiệp ra đời: DNNN, DNTN, CTCP… Điều đó đòi h

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1287 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng quản lý chi trả bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội TP. Thanh Hoá 2004 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỏi Đảng và nhà nước phải có sự điều chỉnh kịp thời nhằm đảm bảo sự công bằng đối với người lao động trong mọi thành phần kinh tế. Như chúng ta đã biết, chi trả BHXH đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Hoạt động này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp BHXH của mình. Quản lý chi trả BHXH nhằm xây dựng những chính sách, chế độ, mức hưởng phù hợp cho người lao động. Đồng thời cũng đảm bảo công tác chi trả được thực hiện đúng, kịp thời và chính xác… để BHXH thực sự trở thành chính sách an sinh xã hội lớn của đất nước. Để tìm hiểu sâu hơn về quản lý chi trả BHXH trên địa bàn thành phố Thanh Hoá nên trong quá trình thực tập tốt nghiệp tại BHXH TP. Thanh Hoá, em đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng quản lý chi trả BHXH tại BHXH TP. Thanh Hoá 2004 - 2008”. Phạm vi nghiên cứu của đề tài nằm trong hoạt động của BHXH TP. Thanh Hoá. Do thời gian thực tập có hạn nên bài viết vẫn còn hạn chế như: Vì các văn ban quy định về quản lý chi trả chưa được hoàn thiện nên trong công tác thực hiện chưa được tốt, số liệu về quản lý chi trả chưa được cập nhật nhanh chóng đã ảnh hưởng một phần nào đến chất lượng của chuyên đề. -> Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài viết: Phương pháp thu thập thông tin( thông tin nghiên cứu được thu thập từ các nguồn như: Báo cáo tài chính các năm của cơ quan, tài liệu về quản lý chi trả BHXH...); phương pháp phân tích số liệu( dùng phương pháp thống kê. tổng hợp để phân tíc các nguồn số liệu...) -> Chuyên đề thực tập tốt nghiệp bao gồm 3 phần lớn: Chương I, Lý luận chung về BHXH và quản lý chi trả BHXH Đây là chương mở đầu giới thiệu khái quát chung về BHXH như: Bản chất, chức năng, hệ thống các chế độ BHXH...Bên cạnh đó, trong chương này bao gồm những quy định về quản lý BHXH. Chương II, Thực trạng công tác quản lý chi trả BHXH Giới thiệu khái quát về BHXH TP. Thanh Hóa, những quy định về quản lý chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay và thực trạng công tác quản lý chi trả BHXH ở BHXH TP. Thanh Hóa Chương III, Một số ý kiến đề xuất trong quản lý chi trả BHXH tại BHXH TP. Thanh Hóa Trong chương này bao gồm: Phương hướng hoạt động của BHXH TP. Thanh Hóa thời gian tới; mốt số đề xuất của bản thân em đối với BHXH TP. Thanh Hóa; BHXH Việt Nam và cơ quan quản lý nhà nước. Chuyên đề thực tập được hoàn thiện với sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của của Thạc sĩ: Tôn Thị Thanh Huyền và các cán bộ trong cơ quan BHXH TP. Thanh Hoá. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BHXH : Bảo hiểm xã hội. BHYT : Bảo hiểm y tế DNNN : Doanh nghiệp nhà nước. DNTN : Doanh nghiệp tư nhân. CTCP : Công ty cổ phần NSDLĐ : Người sử dụng lao động NLĐ : Người lao động TP : Thành phố DN ĐP : Doanh nghiệp địa phương NSNN : Ngân sách nhà nước PHSK : Phục hồi sức khoẻ TNLĐ : Tai nạn lao động BNN : Bệnh nghề nghiệp. Chương I Lý luận chung về BHXH và quản lý chi trả BHXH. I, Khái quát chung về BHXH 1, Bản chất, chức năng và tính chất của BHXH 1.1, Bản chất Như chúng ta đã biết, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động. Vậy, bản chất của BHXH được thể hiện như sau: - BHXH là nhu cầu khách quan của xã hội, đáp ứng nhu cầu của người lao động. Đặc biệt trong thời kì hiện nay, kinh tế ngày càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện hơn. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên. + Bên tham gia: có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động + Bên BHXH: Thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. + Bên được BH: Người lao động và gia đình họ. - Mặt khác, những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, có thể là những rủi ro ngầu nhiên như: Ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp… hoặc là: Thai sản, tuổi già… Những biến cố này chủ yếu mang tính khách quan nằm trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía nhà nước. - BHXH ra đời với mục tiêu nhằm thoã mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Cụ thể hoá như sau: + Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ. + Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật. + Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em. Ngày nay, BHXH đã là một bộ phận hạt nhân của hệ thống an sinh xã hội. 1.2, Chức năng BHXH có các chức năng sau Thứ nhất: Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Chúng ta biết rằng sự đảm bảo này chắc chắn sẽ sảy ra bởi vì đến một mức độ nào đó con người cũng hết tuổi lao động, bị các rủi ro… nên họ sẽ được hưởng trợ cấp với những điều kiện cụ thể, đúng theo quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động. Thứ hai, tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Mà theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc… Thực hiện được chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội. Thứ ba, góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Người lao động luôn được bảo vệ để họ yên tâm gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó họ sẽ tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này như một đòn bẩy kinh tế, kích thích tăng năng suất lao động xã hội. Thứ tư, gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người sử dụng lao động với xã hội. Trong thực tế, lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại. Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết, làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích với nhau. Đối với nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được những khó khăn về đời sống cho người lao động. Góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển tốt hơn. 1.3, Tính chất - Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Ta thấy, trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể gặp phải những biến cố, rủi ro. Sản xuất càng phát triển, những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động ngày càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ thợ nagỳ càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua chính sách BHXH. - BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động. - BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội đồng thời còn có tính dịch vụ, được thể hiện như sau: + Tính kinh tế: quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao động tham gia BHXH. Về mặt kinh tế, họ cũng có lợi nhuận. Mặt khác, BHXH góp phần làm giảm ghánh nặng cho ngân sách nhà nước và quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. + Tính xã hội: BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống đảm bảo xã hội vìvậy tính xã hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH và ngược lại BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao. 2, Những quan điểm cơ bản về BHXH 2.1, Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động gặp phải rủi ro. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và nhà nước. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với con người, nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, nhu cầu an toàn lao động, an toàn xã hội… BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 2.2, Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động thực hiện là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng pháp luật. Người lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu tư để có máy móc, thiết bị hiện đại còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương thỏa đáng cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.v.v...trong đó có rất nhiều trường hợp gắn quá trình lao động với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên tâm. Tích cực lao động sản xuất phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. 2.3, Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH. Mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì mình phải ghánh chịu trực tiếp và trước hết. Chính bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho bản thân mình. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH tùy thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị... của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị xã hội ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông. 2.4, Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố - Tình trạng mất khả năng lao động. - Tiền lương lúc đang đi làm. - Ngành nghề công tác và thời gian công tác. - Tuổi thọ bình quân của người lao động. - Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kì Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng, xã hội vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những người tham gia. Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn múc tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên, do mục đích, bản chất và phương thức BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu. 2.5, Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy nhà nước phải can thiệp để quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động được duy trì bền vững BHXH được thực hiện thông qua một quy trình: Từ việc hoạch định chính sách, giới hạn về đối tượng, xác định phạm vi bảo hiểm cho đến đảm bảo vật chất và việc xét trợ cấp… Vì vậy, nhà nước phải quản lý toàn bộ quy trình này một cách chặt chẽ và thống nhất. Để quản lý BHXH, nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như: Luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc Bộ Xã hội trự tiếp điều hành. 3, Thu và chi Quỹ BHXH Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp các biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. - Thu BHXH: Quỹ BHXH chủ yếu thu từ các nguồn sau đây: + Người sử dụng lao động: Theo luật BHXH năm 2006 quy định cụ thể: đóng 3% vào quỹ ốm đau, thai sản; 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 11% vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần tăng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14%. + Người lao động: đóng hàng tháng là 5% tiền lương, từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi là 8%. + Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm + Các nguồn khác: Cá nhân, các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi. - Chi BHXH: bao gồm những khoản chi sau + Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động theo quy định tại chương III luật BHXH năm 2006. + Đóng BHYT cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng. + Chi cho bộ máy quản lý + Chi khen thưởng cho các cá nhân, tổ chức hoàn thành tốt nhiệm vụ + Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Như vậy, để quỹ BHXH luôn được ổn định và phát triển thì việc cân đối thu- chi BHXH là rất quan trọng. Ngoài ra, BHXH Việt Nam còn kiểm tra và giám sát quá trình thu- chi một cách chặt chẽ, tránh tình trạng thất thoát quỹ BHXH. II, Hệ thống các chế độ BHXH Chúng ta đều biết rằng, Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung, rất khái quát về cả đối tượng và phạm vi, các mối quan hệ và những giải pháp lớn nhằm đạt được những mục tiêu chung đã đề ra đối với BHXH. Chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, sự bố trí sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp cụ thể. Chế độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật, dưới luật, các thông tư, điều lệ… Khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế( ILO) đã nêu trong công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH bao gồm: 1, Chăm sóc y tế Mục đích là khôi phục và cải thiện tình trạng sức khoẻ cho người lao động, tái sản xuất sức lao động và giúp người lao động có thể trở lại làm việc bình thường. Việc thiết kế chế độ này như hiện hành đã tránh được những hiện tượng lạm dụng và bình quân hóa trong khi xét trợ cấp. Ngoài ra, còn cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế để duy trì, khôi phục và cải thiện sức khoẻ, đảm bảo ASXH. 2, Trợ cấp ốm đau Khi người lao động bị ốm đau, tai nạn, rủi ro mà được sự xác nhận của tổ chức y tế, bộ y tế thì họ sẽ được nghỉ việc. Thời gian nghỉ được quy định phụ thuộc vào điều kiện làm việc và mức độ độc hại của môt trường làm việc. Chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau. Việc thiết kế chế độ này như hiện hành đã tránh được hiện tượng lạm dụng và bình quân hoá trong khi xét trợ cấp. Đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng BHXH, đồng thời có tính đến yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH 3, Trợ cấp thất nghiệp Bù đắp, thay thế 1 phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro về việc làm. Khi gặp phải rủi ro thất nghiệp thì sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần người lao động, gây căng thảng cho họ. Chế độ trợ cấp thất nghiệp giúp người lao động tái hoà nhập vào thị trường lao động. Bởi vậy, giải quyết tình trạng thất nghiệp ảnh hưởng không nhỏ đến an sinh xã hội. Chống thất nghiệp là một vấn đề được quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia trên thế giới. 4, Trợ cấp hưu trí Đây là chế độ đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi hết tuổi lao động. Nhằm thực hiện quyền lợi chính đáng của người lao động sau khi họ kết thúc thời gian lao động theo quy định. Mặt khác, giúp người lao động thực hiện tiết kiệm để giảm nhẹ ghánh nặng cho gia đình và xã hội. Nội dung của chế độ này đã khắc phục được những hạn chế trước đây như: Việc quy đổi thời gian công tác, bóc tách được phần lớn các chế độ ưu đãi xã hội ra khỏi chế độ hưu trí… vì thế đã đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng giữa đóng và hưởng BHXH, giữa các nhóm lao động khác nhau. 5, Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Thực tiễn triển khai chế độ này đã giúp đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị TNLĐ hay BNN. Giúp người lao động khôi phục và cải thiện sức khoẻ, sớm trở lại với công việc. Khi người lao động cho đi điều trị khỏi vết thương hoặc ổn định bệnh tật được hội đồng y khoa xác định tỉ lệ % khả năng suy giảm lao động. Như vậy, thời gian người lao động điều trị vết thương hoặc bệnh nghề nghiệp thì mọi chi phí điều trị và tiền lương người lao động phải tả 100%. BHXH thực hiện trợ cấp theo mức quy định khi có kết luận của hội đồng giám định y khoa về tỉ lệ phần trăm suy giảm khả năng lao động. 6, Trợ cấp gia đình Nhằm cung cấp các nhu yếu phẩm và dịch vụ cần thiết trong cuộc sống cho con cái của người lao động với mục đích giảm nhẹ gánh nặng về con cái và giúp lao động yên tâm hơn trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng và công bằng xã hội đối vơi slứa tuổi vị thành niên, đảm bảo mọi trẻ em đều được hưởng sự quan tâm chăm sóc và giáo dục nhất định, từ đó đảm bảo ASXH. 7, Trợ cấp thai sản: Thiết kế chế độ này đã giúp lao động nữ có được khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh con. Hơn nữa việc quy định thời gian nghĩ đã tính đến yếu tố điều kiện và môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khỏe cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau. Góp phần giúp người lao động tái sản xuất sức lao động và nhanh chóng tham gia công việc bình thường, đồng thời tại sự bình đẳng nam nữ. Qua luật BHXH thì chế độ này đã có một số khoản được khắc phục những nhược điểm. 8, Trợ cấp tàn tật Khi người lao động bị đau ốm, họ sẽ được hưởng chế độ trợ cấp y tế và trợ cấp ốm đau. Trợ cấp này có thể kéo dài đến khi bình phục. Nhưng cũng có trường hợp người lao động không khắc phục được sự suy giảm sức khoẻ và bị tàn tật, dẫn đến tình trạng không thể tiếp tục lao động như trước đây nữa. Chế độ trợ cấp tàn tật sẽ hỗ trợ về tài chính cho họ với mục đích góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, đảm bảo thực hiện công bằng xã hội, từ đó góp phần đảm bảo ASXH. 9, Chế độ tử tuất Đây là một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được một khoản bù đắp một phần thu nhập thiếu hụt của gia đình do người lao động bị chết. Thanh toán mai táng phí và trợ cấp cho người còn sống, giúp thâm nhân người chết ổn định cuộc sống. Khi xây dựng chế độ này đã chú ý đến yếu tố đóng góp cảu người tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết. Đặc biệt là có tính đến yếu tố kế thừa của thân nhân người chết. Vậy, tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước giơnevơ thực hiện ở mức độ khác nhau.Nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Ở Việt Nam BHXH thực hiện các chế độ sau: Chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ trợ cấp hưu trí, chế độ tử tuất, chế độ trợ cấp thất nghiệp. III, Quản lý chi trả BHXH Như chúng ta đã biết, quản lý BHXH là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết hiện nay. Theo nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, hệ thống BHXH được thành lập đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ, sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động thương binh và xã hội... Trong công tác quản lý BHXH bao gồm một số nội dung như sau: Tổ chức thu BHXH và tổ chức việc chi trả cho người lao động tham gia BHXH các khoản trợ cấp BHXH; tổ chức thực hiện quản lý thu-chi BHXH... Khi có công tác quản lý thì hoạt động của BHXH sẽ được diễn ra nhanh chóng và đúng trình tự. Chunga ta có thể hiểu một cách đơn giản thì BHXH cũng như bất kì một ngành nào khác, cần phải hoạt động dưới sự giám sát, quản lý của các cơ quan cấp trên. Đó là một tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. Do đó, công tác quản lý chi trả BHXH là một nội dung lớn trong quản lý BHXH hiện nay. 1, Mục tiêu của công tác quản lý chi trả BHXH Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động BHXH không ngừng phát triển về cả nội dung và hình thức tổ chức thực hiện theo hướng đa dạng hoá, xã hội hoá. Do đó, vai trò của việc quản lý hoạt động chi trả BHXH ngày càng quan trọng. Cũng như các hoạt động khác, công tác quản lý chi trả BHXH được khởi đầu với việc xác định mục tiêu. Đây là căn cứ đầu tiên của quá trình quản lý. Khi bắt đầu hoạt động, BHXH Việt Nam cùng các cơ quan quản lý nhà nước đã vạch ra mục tiêu, phương hướng hành động cho công tác quản lý hoạt động chi trả BHXH. Để hoạt động này ngày càng thu được hiệu quả tốt nhất. Hơn nữa, BHXH là một chính sách an sinh xã hội lớn nhằm mục đích đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Do đó, trong việc quản lý hoạt động chi trả BHXH, các mục tiêu chỉ ra phương hướng yêu cầu… cho hoạt động quản lý nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản trong công tác chi trả BHXH. Như vậy, quản lý chi trả BHXH nhằm các mục tiêu sau: + Đảm bảo và ổn định thu nhập cho người lao động khi họ gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập. Lúc đó BHXH sẽ trợ giúp theo đúng các chính sách đã đề ra. Đây là mục tiêu quan trọng làm cho công tác chi trả BHXH thực sự có ý nghĩa và cần thiết đối với người lao động khi họ gặp khó khăn. Họ sẽ nhanh chóng ổn định về tài chính, sức khỏe…để nhanh chóng tham gia làm việc, sản xuất trở lại bình thường. + Mặt khác, quản lý chi trả nhằm đảm bảo sự công bằng trong việc chi trả các chế độ cho người lao động, để họ thấy rằng BHXH là một chính sách thực sự cần thiết trong cuộc sống. Có hoạt động quản lý chi trả sẽ tạo điều kiện cho công tác chi trả được công bằng, không gây ra sự hiểu nhầm giữa cơ quan BHXH và người tham gia BHXH. + Quản lý chi trả BHXH còn là động lực cho công tác chi trả kịp thời, chính xác, đúng đối tượng, đúng chế độ chính sách và được thực hiện theo pháp luật. Nhằm thúc đẩy hoạt động chi trả BHXH được thực hiện nhanh chóng, tạo lòng tin nơi người lao động. Khi người lao động gặp phải những rủi ro thì bản thân họ luôn mong muốn nhanh chóng ổn định tài chính, sức khoẻ… để có thể tiếp tục lao động, do đó BHXH phải thể hiện được mình là một chính sách mà người lao động luôn và cần phải có. Hàng năm, BHXH Việt Nam đều có tổng kết về những công việc đã làm được và rút ra những kinh nhiệm quý báu để hoạt động của hệ thống BHXH ngày càng ổn định hơn nữa. + Bên cạnh đó nhằm đảm bảo cho việc cân đối quỹ tài chính BHXH, không để sảy ra tình trạng thiếu hụt quỹ. + Quản lý chi trả BHXH còn đảm bảo cho việc chi trả không sảy ra tình trạng trục lợi BH gây ra thâm hụt quỹ. Do hiện nay tình trạng trục lợi BHXH sảy ra rất nhiều và thường xuyên, chủ yếu là do người lao động biết cách tránh né luật nên công tác quản lý hoạt động chi trả BHXH là rất quan trọng. Vậy, để đạt được những mục tiêu trên đòi hỏi việc quản lý hoạt động chi trả BHXH phải được thực hiện có quy trình để thu được những kết quả tốt nhất. Đây là một nhiệm vụ khá nặng nề đối với BHXH Việt Nam và các cơ quan quản lý nhà nước. 2, Cơ sở và nguyên tắc chi trả BHXH 2.1, Cơ sở chi trả Để hoạt động chi trả BHXH được thực hiện một cách tốt nhất, đúng pháp luật thì cơ sở của việc chi trả BHXH phải được định hướng và thực hiện theo đúng luật BHXH ban hành năm 2006. Đi kèm theo là các quy định thực hiện quản lý chi trả BHXH: + Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của chính phủ về việc hướng dẫn thi hành một số điều của luật BHXH về BHXH bắt buộc; + Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 của bộ LĐTB và XH về việc hướng dẫn một số điều của nghị định số 152… + Quyết định số 41/2007/QĐ-TTg ngày 29/03/2007 của thủ tướng chính phủ về quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. Vì chính sách BHXH là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để triển khai BHXH. Thông quan chính sách BHXH nhà nước đưa ra định hướng phát triển BHXH. Toàn bộ các cơ quan ban ngành liên quan sẽ thực hiện thống nhất nhiệm vụ của mình theo định hướng của chính sách BHXH. Việc chi trả BHXH phụ thuộc vào các chế độ được quy định tại mỗi quốc gia. Chính sách BHXH mang tính định hướng còn các văn bản hướng dẫn thi hành lại là sự cụ thể hoá chính sách BHXH. Trên các văn bản này quy định rõ mọi vấn đề, mọi trường hợp liên quan đến BHXH ở mỗi quốc gia. Sau khi ban hành các văn bản pháp quy thì các cấp ngành có liên quan phải thực hiện các điều khoản được ghi trên văn bản. Việc ban hành chính sách BHXH cũng như các văn bản pháp quy khác không thể thiếu được việc dựa vào thực tế để ban hành cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội – chính trị của từng quốc gia. Mỗi quốc gia đều xác định BHXH là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, việc ban hành các chính sách BHXH phải dựa vào thu nhập của người lao động, mức sống, tuổi thọ, điều kiện làm việc… Ở nước ta, cơ sở chi trả BHXH cũng được dựa vào chính sách BHXH của nhà nước, vào các văn bản pháp quy và điều kiện kinh tế, thu nhập… tại điều 90 luật BHXH năm 2006 quy định: sử dụng quỹ BHXH để chi trả những trường hợp sau: + Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động tại chương III của luật này. + Đóng BHYT cho người đang hưởng lương hưu hoặc nghỉ việc hưởng trợ cấp TNLĐ, BNN hàng tháng. + Chi phí quản lý + Chi khen thưởng theo quy định tại khoản 2 điều 133 của luật này + Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ theo quy định tại điều 96 và điều 97 của luật này. Cụ thể như sau: - Chi trả các chế độ BHXH: đây là trách nhiệm của BHXH, bao gồm: chi trợ cấp ngắn hạn như ốm đau, thai sản, y tế, mai táng; chi trợ cấp dài hạn như hưu trí, tử tuất; TNLĐ-BNN… - Chi cho bộ máy quản lý: là khoản chi để tổ chức BHXH chuyên trách thực hiện các nghiệp vụ của mình như: chi lương và những khoản có tính chất như lương cho lao động làm việc trong ngành BHXH, chi nghiệp vụ chuyên môn, chi quản lý hành chính và chi mua sắm, sửa chữa tài sản cố định… - Chi đầu tư: khoản chi này thường được quản lý riêng và được lấy từ khoản chênh lệch thu lớn hơn chi quỹ BHXH và từ lợi nhuận do đầu tư quỹ mang lại. Chi phí đầu tư bao gồm vốn gốc, nguồn bổ sung hàng năm và các khoản chi phí khác để thực hiện đầu tư. Thu nhập từ hoạt động đầu tư bao gồm vốn gốc và lãi thu được trong quá trình đầu tư. - Chi dự phòng: là khoản chi nhằm đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn để tránh trường hợp thâm hụt quỹ. - Chi khác: là các khoản chi phát sinh ngoài các khoản chi trên như: chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản cố định…khoản chi này được quy định cụ thể trong luật BHXH năm 2006 và các văn bản hướng dẫn đi kèm. 2.2, Nguyên tắc chi trả Mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có chia sẻ giữa người tham gia BHXH. Bởi vậy chi trả BHXH phải đảm bảo những nguyên tắc sau: Chi đúng đối tượng, đúng mức chi đồng thời phải đảm bảo tính công bằng giữa những người tham gia, đồng thời chi trả nhanh chóng đúng thời gian quy định. Muốn thực hiện được thì phải quán triệt những vấn đề cơ bản sau đây: + Quỹ BHXH chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu, thu của chế độ nào thì chi cho chế độ ấy… ngoài ra, chi phí quản lý, chi đầu tư… phải tuân theo những quy định trong luật BHXH 2006. Các khoản chi sẽ được BHXH Việt Nam quy định và các cơ quan BHXH cấp tỉnh, huyện…tùy theo cơ cấu và hoạt động của mình để hoàn thành. + Quyết toán chi BHXH thường vào cuối năm nhưng trong năm số người, đơn vị tham gia BHXH luôn biến động. Vì vậy, khi quyết toán phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không tính vào mức bình quân. Vấn đề quan trọng nhất ở đây là số liệu khi báo báo cáo phải chính xác để dễ quản lý. Về nguyên tắc, cơ quan BHXH phải quyết toán từng tháng, từng quý, từng năm nhưng đến cuối năm quyết toán tất cả các số chi phải ăn khớp với nhau và phải thực sự cân đối. Để làm được điều này thì phải thực hiện tốt công tác chi trả và quản lý chi trả BHXH. Ngoài ra, ngoài việc chi trả đúng cho đối tượng tham gia BHXH và các khoản chi liên quan thì BHXh phải lập kế hoạch và lập dự toán trước phần ngân sách nhà nước cấp bù vào đầu tháng, đầu quý, đầu năm sau đó mới quyết toán. Phần ngân sách này đôi khi bị thâm hụt rất nhiều do chi trả các chế độ BHXH không đúng hoặc do khi cân đối số liệu đã làm không chính xác. Lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi BHXH về nguyên tắc phải được bù đắp vào quỹ để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ, phân tích ra chi cho các mục đích khác ._.nhau: Chi khen thưởng, chi quản lý và các khoản chi khác phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật. Lãi nhàn rỗi phải được quản lý chặt chẽ bởi vì trong các năm lại đây nguồn quỹ nhàn rỗi bị thất thoát nhiều mà không tìm được lý do chính đáng. 3, Nội dung của công tác quản lý chi trả BHXH là một chính sách của Đảng và nhà nước, việc thực hiện tốt chính sách BHXH có ý nghĩa to lớn góp phần bảo cho sự phát triển sản xuất, đảm bảo công bằng, ổn định chính trị, trật tự an toàn và tiến bộ xã hội. Do đó, công tác quản lý hoạt động chi trả BHXH là rất cần thiết. Theo quyết định số 845/QĐ-BHXH ngày 18/06/2007 của BHXH Việt Nam về quản lý chi trả bao gồm những quy định sau đây: -> Phân cấp thực hiện chi trả các chế độ BHXH: - Đối với BHXH tỉnh: + Chịu trách nhiệm toàn diện trong việc chi trả, quyết toán các chế độ BHXH trên địa bàn quản lý. + Trực tiếp chi trả và quyết toán chế độ ốm đau, thai sản( bao gồm nghỉ DS-PHSK sau khi ốm đau, thai sản và sau khi điều trị ổn định thương tật, bệnh tật do TNLĐ-BNN) và chi trả các chế độ BHXH một lần cho người lao động do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH. - Đối với BHXH huyện: + Tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ốm đau, thai sản( bao gồm nghỉ DS-PHSK sau khi ốm đau, thai sản và sau khi điều trị ổn định thương tật, bệnh tật do TNLĐ-BNN), chi trả các chế độ BHXH một lần cho người lao động do BHXH huyện quản lý thu BHXH và các trường hợp do tỉnh uỷ quyền. + Chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, trợ cấp tuất một lần, trợ cấp mai táng cho các đối tượng hưởng hàng tháng trên địa bàn. + Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động có hồp sơ đề nghị giải quyết hưởng BHXH nộp tại BHXH huyện theo quy định( người lao động bảo lưu thời gian đóng BHXH, tự đóng tiếp BHXH, nghỉ việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi theo khoản 2 điều 14 nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của chính phủ…) -> Lập, xét duyệt dự toán chi BHXH: Việc lập dự toán chi trả các chế độ BHXH hàng năm thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài Chính. Dự toán chi BHXH phải phản ánh đầy đủ nội dung theo từng khoản mục, loại đối tượng, mức hưởng, nguồn kinh phí( ngân sách NN và quỹ BHXH) và các quỹ thành phần. Dự toán phải kèm theo thuyết minh về sự biến động tăng, giảm đối tượng hưởng và các nội dung chi khác trong năm( nếu có) + Theo hướng dẫn của BHXH tỉnh, hàng năm BHXH huyện lập dự toán chi BHXH cho đối tượng hưởng trên địa bàn huyện( mẫu số 1a-CBH, 1b-CBH). Trong năm thực hiện, nếu có phát sinh chi vượt kế hoạch được duyệt, BHXH huyện phải báo cáo, giải trình để BHXH tỉnh xem xét, cấp bổ sung kinh phí, đảm bảo chi trả kịp thời cho đối tượng hưởng. + Theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam, hàng năm BHXH tỉnh hướng dẫn, tổ chức xét duyệt và thông báo dự toán kinh phí chi trả các chế độ cho BHXH huyện; lập dự toán chi BHXH cho đối tượng hưởng trên địa bàn tỉnh( mẫu số 1a-CBH, 1b-CBH). Dự toán chi BHXH được lập trên cơ sở tổng hợp dự toán chi của BHXH các huyện và số chi trả trực tiếp tại BHXH tỉnh. Trong năm thực hiện, nếu có phát sinh chi vượt kế hoạch được duyệt, BHXH tỉnh phải báo cáo, giải trình để BHXH Việt Nam xem xét, cấp bổ sung kinh phí, đảm bảo chi trả kịp thời cho đối tượng hưởng. + Theo hướng dẫn của Bộ Tài Chính, hàng năm BHXH Việt Nam hướng dẫn, tổ chức xét duyệt và thông báo dự toán kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho BHXH tỉnh; lập dự toán chi BHXH của nghành. Dự đoán chi BHXH được lập trên cơ sở tổng hợp dự toán chi của BHXH đã được duyệt của BHXH các tỉnh, trình hội đồng quản lý BHXH Việt Nam thông qua. Trong năm thực hiện, trên cơ sở dự toán được bộ tài chính duyệt và đề nghị điều chỉnh kế hoạch của BHXH tỉnh( nếu có), BHXH Việt Nam sẽ xem xét từng trường hợp cụ thể để điều chỉnh kế hoạch cho BHXH tỉnh. -> Quản lý, tổ chức chi trả các chế độ BHXH: + Trách nhiệm của BHXH tỉnh: - Chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng. - Chi trả các chế độ BHXh một lần - Chi trả chế độ ốm đau, thai sản + Trách nhiệm của BHXH huyện: - Quản lý và tổ chức chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng - Chi trả các chế độ BHXH một lần - Chi trả chế độ ốm đau, thai sản Ngoài ra còn có trách nhiệm của người SDLĐ, của đại diện chi trả xã, của ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản thẻ ATM, của cán bộ BHXH huyện khi chi trả trực tiếp, của đối tượng hưởng… 4, Công cụ quản lý chi trả BHXH Nước ta đang dần dần hoàn chỉnh các bộ luật để dần dần quản lý mọi công việc tốt hơn. Công cụ mà nhà nước dùng để quản lý họa động chi trả BHXH hiện nay, bao gồm những quy định như sau: + Luật BHXH, các thông tư, nghị định quy định thực hiện và sửa đổi luật BHXH: Để thực hiện chức năng quản lý BHXH thì luật BHXH là một công cụ quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất; đặc biệt là trong quản lý hoạt động chi trả BHXH. Luật BHXH được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kì họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006; dựa vào đó cơ quan BHXH sẽ thực hiện mọi hoạt động của mình. Bên cạnh luật BHXH còn có các nghị định, thông tư quy định về việc thực hiện luật hoặc sửa đổi, bổ sung luật … nhằm mục đích mang lại những chính sách hợp lý với điều kiện kinh tế của đất nước. Luật BHXH ra đời đã đáp ứng được nhu cầu của thời đại. Có luật thì mọi công việc hoạt động sẽ trở nên đơn giản và dễ dàng hơn rất nhiều. Ngoài ra còn có một số công cụ như: + Hồ sơ đăng kí của người lao động: Cho biết những thông tin cần thiết về người lao động, đó là căn cứ để quản lý đối tượng hưởng BHXH sau này. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và cơ quan quản lý khi thực hiện xét trợ cấp chế độ BHXH. Trong công tác quản lý chi trả BHXH thì việc ban hành ban hành các thủ tục, quy trình hồ sơ đăng kí tham gia cho người lao động phải đơn giản tránh gây phiền hà lắm thủ tục sẽ làm cho công tác chi trả sau này thuận lợi, nhanh chóng hơn. + Sổ BHXH, các biểu mẫu: Hiện nay số lượng sổ BHXH, biểu mẫu và hồ sơ hướng dẫn việc thực hiện công tác quản lý chi trả BHXH đã được ban hành khá đầy đủ, giúp cho việc quản lý các hoạt động chi trả được tiến hành thuận lợi hơn. Có thể nói, thời gian qua nhà nước đã ban hành nhiều các quy định về việc sử dụng sổ giúp cho sổ BHXH đơn giản nhưng có đầy đủ thông tin về đối tượng quản lý . Ngoài ra cơ quan quản lý về BHXH còn ban hành các biểu mẫu thống kê như: báo cáo về đối tượng, báo cáo về số lượng người lao động, báo cáo tài chính, báo cáo tình hình chi trả… + Tiền lương, thu nhập của người lao động:Bên cạnh các công cụ khác thì tiền lương không chỉ là công cụ quan trọng trong việc xác định mức đóng BHXH mà còn là căn cứ để chi trả trợ cấp BHXH cho các chế độ BHXH. Tiền lương là hình thức thù lao cho người lao động nhằm mục đích tái sản xuất sức lao động. tiền lương thu nhập có vai trò tạo nguồn quỹ BHXH, đó là việc người lao động và người SDLĐ đóng góp thông qua tiền lương, thu nhập của họ và doanh nghiệp. Đây là căn cứ xác định mức chi trả, cơ sở để kiểm tra việc thực hiện chi trả, quản lý chi trả đã đúng chưa. Với chức năng quản lý tổng hợp hoạt động chi trả của BHXH Việt Nam thì các cơ quan nhà nước phải đưa ra chính sách tiền lương hợp lý cũng như xây dựng mức trợ cấp BHXH đáp ứng được cuộc sống cho người lao động. Để chính sách BHXH ngày càng hoàn thiện hơn. Hiện nay nhà nước ta đã dần dần nâng mức lương tối thiểu để nâng cao mức sống của người dân, để cuộc sống của họ được đảm bảo tốt hơn. Ngày 01/05/2009 nhà nước quyết định nâng mức lương tối thiểu 650 nghì đồng, mong rằng trong thời gian tới các chính sách của Đảng và nhà nước sẽ đáp ứng được mọi nhu cầu cần thiết của người lao động. Đi kèm với các công cụ trên thì lúc nào công tác thanh tra, kiểm tra cũng tồn tại song song. Công tác này đã kịp thời giúp các cơ quan chức năng thực hiện giám sát và đánh giá hiệu quả đạt được của công tác quản lý hoạt động chi trả BHXH. Trong hoạt động chi trả BHXH cũng như quản lý hoạt động chi trả BHXH thì các công cụ là thực sự cần thiết và quan trọng. Các công cụ được BHXH Việt Nam và các cơ quan quản lý nhà nước ban hành nhằm mục đích điều chỉnh các chế độ BHXH hoạt động tốt hơn, thu được nhiều kết quả tốt đẹp. Vì vậy, các cán bộ làm nhiệm vụ quản lý cơ quan phải phổ biến và yêu cầu các cán bộ cấp dưới phải hiểu và thi hành các công cụ này nột cách nhuần nhuyễn trong hoạt động, tránh tình trạng cán bộ BHXH nhưng không rõ các quy định của hệ thống BHXH. Do các công cụ trên vẫn còn những nhược điểm cần khắc phục nên trong thời gian tới BHXH Việt Nam và các cơ quan quản lý nhà nước sẽ cố gắng hoàn thành bộ luật và những quy định, quyết định đi kèm. Công việc này sẽ giúp cho các cán bộ trong cơ quan BHXH thực hiện công việc một cách nhanh chónh và kịp thời, đáp ứng được mọi yêu cầu của người tham gia BHXH và các đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Đồng thời, nhờ có các công cụ này thì công tác quản lý hoạt động chi trả BHXH được thuận tiện hơn về mọi mặt. Ta thấy việc chi trả sẽ đơn giản hơn, việc quản lý các đối tượng tham gai và các đối tượng hưởng sẽ ổn định và chính xác hơn, không còn hiện tượng sai lệch trong quản lý chi trả BHXH. Làm được điều này thì BHXH ngày càng trở thành một chính sách an sinh xã hội của đất nước. Chương II Thực trạng công tác quản lý chi trả BHXH I, Vài nét về BHXH TP. Thanh Hoá 1, Quá trình hình thành và phát triển Thời kỳ trước 01/01/1995 BHXH TP. Thanh Hoá hoạt động chung với tổ chức Lao Động Thương Binh Xã Hội và gọi chung là phòng tổ chức Lao Động Thương Binh Xã Hội. Sau nghị định 12/CP của chính phủ quy định riêng về trách nhiệm và quyền hạn của ngành BHXH thì BHXH của các quận huyện tách khỏi phòng tổ chức Lao Động Thương Binh và Xã Hội, thành một cơ quan độc lập, đến ngày 26/09/1995 BHXH TP. Thanh Hoá thành lập và đổi tên thay cho phòng tổ chức Lao Động Thương Binh Xã Hội trước kia. Hiện nay, địa điểm làm việc của cơ quan BHXH TP. Thanh Hoá được đặt tại số 01 Cao Thắng, phường Điện Biên thành phố Thanh Hoá. Điện thoại: 037.3.711.857 Được sự quan tâm của các cơ quan chức năng, tháng 10/2003 BHXH TP. Thanh Hoá đã có một cơ sở làm việc khang trang, bố trí với diện tích nhà trên 300 m2, được chia thành 3 tầng, có hội trường, phòng riêng cho giám đốc, phó giám đốc và từng bộ phận trong cơ quan. Ngoài ra, còn có văn phòng tiếp dân, phòng bảo vệ, nhà để xe và không gian thoáng mát. Do đó, đây là một nguồn động viên cho cán bộ nhiệt tình trong công việc hơn. Thực hiện những quyết định trên, từ ngày 01/01/2003 ngành BHXH nói chung và BHXH TP. Thanh Hoá nói riêng có thêm một nhiệm vụ mới, quan trọng đó là thực hiện công tác cấp phát thẻ, phiếu khám chữa bệnh cho người có thẻ. BHXH TP. Thanh Hoá đã hoạt động được 14 năm và đạt được khá nhiều thành công. Cơ quan đã nhanh chóng ổn định tổ chức bộ máy và cán bộ thực hiện đúng chính sách, chế độ BHXH đối với những người tham gia và thủ hưởng các chính sách BHXH. Ngoài ra, BHXH TP. Thanh Hoá không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, trang thiết bị văn phòng nhằm tạo điều kiện cho cán bộ làm việc tốt hơn. BHXH TP. Thanh Hoá đã nhận được một số danh hiệu cao quý sau: Đối với tập thể : + 7 giấy khen của UBND TP. Thanh hoá + 4 giấy khen của BHXH tỉnh Đối với cá nhân : + 14 giấy khen của BHXH tỉnh + 5 bằng khen của BHXH Việt Nam. Có được những kết quả trên, cơ quan đơn vị đã khẳng định vị thế của ngành BHXH, cho chúng ta thấy việc chuyển đổi cơ chế quản lý mới về BHXH của Đảng và nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với sự phát triển về BHXH của đất nước và trên thế giới. 2, Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH TP. Thanh Hoá 2.1, Chức năng của BHXH TP. Thanh Hoá - Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách tham gia BHXH, đôn đốc, theo dõi việc thu nộp BHXH của các đơn vị trên địa bàn hoặc có thể trực tiếp thu BHXH theo phân cấp quản lý của BHXH Việt Nam và của BHXH tỉnh phân công. - Có chức năng tiếp nhận kinh phí, danh sách và tổ chức chi trả cho các đối tượng được hưởng các chế độ BHXH do BHXH tỉnh chuyển sang theo phân cấp. Ngoài ra, BHXH TP. Thanh Hoá còn theo dõi việc thay đổi địa chỉ, danh sách về việc tăng giảm đối tượng hưởng chế độ trong quá trình chi trả. - Cơ quan phải tổ chức việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho từng người được hưởng theo chế độ BHXH trên địa bàn theo phân cấp của tổng giám đốc BHXH tỉnh, bao gồm những chế độ sau: + Chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức + Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp + Lương hưu + Mất sức lao động + Tử tuất + Khám chữa bệnh- Bảo hiểm y tế. + Thực hiện việc chi trả trợ cấp cho các đối tượng hưởng trợ cấp theo pháp lệnh của người có công. - Cơ quan phân công phòng ban tổ chức cấp sổ, ghi sổ thu BHXH đối với người lao động thuộc các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh, hành chính sự nghiệp trên địa bản Thanh Hoá theo chỉ đạo cụ thể của BHXH Việt Nam và phân cấp quản lý thu của giám đốc BHXH tỉnh. - Trong cơ cấu của cơ quan có phòng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ chính sách BHXH cùng phối hợp với BHXH tỉnh giải quyết. - Mặt khác, tổ chức kí kết hợp đồng trách nhiệm và quản lý hệ thống chi trả BHXH ở xã, phường. - Thực hiện tuyên truyền, giải thích các chính sách, chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá. - Tổ chức chế độ kế toán, thống kê, báo cáo định kì theo quy định của nhà nước và thông tư hướng dẫn của BHXH Việt Nam. - Tổ chức quản lý công nhân viên chức, tài chính và tài sản thuộc BHXH thành phố Thanh Hoá theo phân cấp của BHXH Việt Nam và BHXH tỉnh. - Bên cạnh đó, cơ quan còn thực hiện một số nhiệm vụ khác do giám đốc BHXH tỉnh giao cho. 2.2, Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH TP. Thanh Hóa + Có hệ thống khai thác thu BHXH, BHYT và đồng thời phát triển thu BHYT tự nguyện, thu BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. + Tiếp nhận nguồn kinh phí hỗ trợ từ các tổ chức, cá nhân. Tiếp nhận danh sách và tổ chức việc chi trả lương hưu, trợ cấp cho các đối tượng được hưởng BHXH trên địa bàn TP. Thanh Hoá. + Phân công thực hiện công tác giám định chi khám chữa bệnh BHYT cho người có sổ tại năm cơ sở khám chữa bệnh. + Tham gia giải quyết chế độ, chính sách về BHXH ngắn hạn, dài hạn. Qua đó chúng ta thấy được xuất phát từ lợi ích của BHXH, cùng với lĩnh vực hoạt động của cơ quan đặt ra hàng loạt các nhiệm vụ sau: - Lên kế hoạch xây dựng chươm trình công tác năm, sau đó trình lên giám đốc BHXH tỉnh phê duyệt và tổ chức hoạt động. - Hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động lập danh sách đối tượng tham gia BHXH. - Tổ chức thực hiện thu, chi BHXH cho các đối tượng tham gia. Bên cạnh đó còn tiếp nhận đơn, thư khiếu nại, tố cáo của đối tượng tham gia. - Tổ chức khám chữa bệnh cho các đối tượng có thẻ BHYT. Kết hợp với công tác thông tin, tuyên truyền các chế độ chính sách trên địa bàn thành phố Thanh Hoá. - Cơ quan còn quản lý cán bộ, tài sản, quỹ tiền lương, kinh phí hoạt động thuộc BHXH TP. Thanh Hoá. - Có Hệ thống tiếp dân giải quyết các thắc mắc về các chế độ sao cho kịp thời và đúng quy định. 3, Cơ cấu tổ chức của BHXH TP. Thanh Hoá BHXH TP. Thanh Hoá được thành lập năm 1995 và chính thức đi vào hoạt động tháng 09/1995. Hiện nay trong biên chế của BHXH TP. Thanh Hoá có 28 cán bộ, địa bàn hoạt động bao gồm 18 xã, phường. Theo quy định thì cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị được xây dựng phù hợp với cơ cấu của BHXH Việt Nam là tổ chức theo ngành dọc. Bao gồm: + Ban lãnh đạo: + Bộ phận quản lý chế độ, chính sách: + Bộ phận quản lý thu BHXH, BHYT: + Bộ phận tài vụ: + Bộ phận giám định chi: + Bộ phận thanh tra: * Cơ cấu tổ chức của phòng kế toán thuộc BHXH TP. Thanh Hoá: - Bao gồm 6 nhân viên, trong đó có 1 kế toán trưởng, 5 kế toán viên: + 1 kế toán theo dõi tài khoản ngân hàng - kho bạc. + 1 kế toán theo dõi chi 3 chế độ(ốm đau, thai sản, nghĩ dưỡng sức) + 2 kế toán theo dõi chi lương hưu và trợ cấp BHXH + 1 kế toán theo dõi chi các hoạt động quản lý nội bộ. * Sơ đồ 1: Tổ chức bộ máy của cơ quan: Giám đốc Giám đốc Phó giám đốc bộ phận thanh tra Bộ phận chính sách Bộ phận giám định chi Bộ phận tài vụ Bộ phận thu Các bộ phận 4, Đánh giá hoạt động của BHXH TP. Thanh Hoá Trong quá trình hoạt động của mình-BHXH TP. Thanh Hóa đã đạt được nhiều kết quả khả quan cũng như vẫn còn những tồn tại. + Đối với nhiệm vụ thu BHXH, BHYT bắt buộc: Thời gian qua cơ quan đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thu BHXH, BHYT bắt buộc một cách khá đầy đủ, số lượng các đơn vị nợ đọng giảm đi đáng kể. + Công tác BHYT tự nguyện: Do thực hiện tốt các văn bản hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện và có sự phối hợp linh động của các cơ quan đoàn thể nên đã thu được rất nhiều kết quả tốt như: 100% số trường hợc trên địa bàn cộhc sinh tham gia, tất cả 18 phường xã trên địa bàn đều có người tham gia... + Đối với nhiệm vụ chi trả các chế độ BHXH: Các đối tượng tham gia BHXH được chi trả đầy đủ. Tuy lượng tiền chi trả rất lớn nhưng đã được đảm bảo an toàn tuyệt đối, chi trả tận tay người lao động. + Công tác quản lý chế độ chính sách: BHXH TP phối hợp với các phòng chức năng để giải quyết tốt, kịp thời các chế độ chính sách. + Công tác kiểm tra, tiếp dân, giải quyết đơn thư: Các kì cấp lương hàng tháng đều có tiến hành kiểm tra từ 1 đến 2 đơn vị phường xã về quản lý đối tượng. Mặt khác, nhanh chóng giải quyết các đơn thư thắc mắc của người tham gia BHXH. + Công tác tổ chức hành chính: Công tác được thực hiện tốt, đảm bảo tính dân chủ, cán bộ được phân công công việc phù hợp, yên tâm công tác. II, Quy định về quản lý chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay Ở nước ta hiện nay, các quy định về quản lý hoạt động chi trả BHXH đã dần dần hoàn thiện, đáp ứng mọi nhu cầu của thực tế đặt ra. Về văn bản pháp quy quy định thì hiện nay chúng ta có: + Quyết định số 845/QĐ-BHXH ngày 18 tháng 6 năm 2007 của BHXH Việt Nam. Là quy định quản lý chi trả các chế độ BHXH bắt buộc. + Đối với BHXH tự nguyện thì theo luật BHXH năm 2006 chế độ BHXH tự nguyện được áp dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Nhưng hiện nay chỉ có công văn được phổ biến vào cuối tháng 12 năm 2008 của BHXH Việt Nam. Riêng đối với BHYT tự nguyện có công văn số 29/BHXH-TN “ hướng dẫn tổ chức thực hiện BHYT tự nguyện” ngày 11 tháng 1 năm 2008. + Luật BHXH ban hành năm 2006: Chương VII về tổ chức BHXH + Quyết định số 41/2007/QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ về quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam + Thông tư số 58/2007/TT-BTC của bộ tài chính về hướng dẫn quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam và thông tư số 58 /2007/TT-BTC ngày 12/06/2007 của bộ tài chính hướng dẫn quy chế quản lý tài chính đối với BHXH Việt Nam. + Thông tư liên tịch số 06/2007/TTLT-BYT-BTC của bộ y tế và bộ tài chính về hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện. + Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 6/12/2002 của chính phủ, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam + Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của chính phủ về việc thi hành một số điều của luật BHXH về BHXH bắt buộc + Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007 của bộ Lao động thương binh và xã hội về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của nghị định số 152//2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của luật BHXH về BHXH bắt buộc. -> Như chúng ta thấy, hiện nay các quy định về quản lý chi trả BHXH còn đang trong giai đoạn bổ sung và hoàn thiện nên vẫn có những khó khăn khi áp dụng. Mới có quy dịnh cho quản lý hoạt động chi trả BHXH bắt buộc mà chưa có quy định cho các loại hình khác. Hi vọng rằng trong thời gian tới BHXH Việt nam và các cơ quan quản lý nhà nước nhanh chóng hoàn chỉnh các văn bản pháp quy để việc thi hành được thuận lợi hơn nữa. III, Thực trạng công tác quản lý chi trả BHXH tại BHXH TP. Thanh Hoá 2004-2008 1, Những thuận lợi và khó khăn trong quản lý chi trả BHXH tại BHXH TP. Thanh Hóa 1.1, Thuận lợi Như chúng ta đã biết, khi tham gia BHXH thì người lao động đã chọn cho mình phương thức bảo hiểm an toàn nhất. Do đó, khi họ gặp phải những rủi ro, biến cố… thì BHXH phải đứng ra chi trả theo đúng hạn mức và luật định nhằm trợ giúp người lao động vượt ra khỏi khó khăn, nhanh chóng ổn định công việc đảm bảo sản xuất, kinh doanh. Khi đó công tác chi trả và quản lý chi trả BHXH là rất quan trọng, nhằm mang lại hiệu quả tối đa cho sự phát triển của chính sách BHXH hiện nay. Trong công tác quản lý chi trả BHXH tại BHXH TP. Thanh Hoá có những thuận lợi: - BHXH TP. Thanh Hoá và bộ phận quản lý hoạt động chi trả luôn nhận được sự quan tâm và chỉ đạo trực tiếp của thành uỷ, uỷ ban nhân dân TP và sự phối hợp có hiệu quả của các ban ngành có liên quan. Đây là cơ sở để công tác quản lý được nhanh chóng, đáp ứng được nguyện vọng của người tham gia BHXH. - Trong năm 2003 tiếp nhận BHYT và có những khó khăn nhất định nhưng BHXH TP. Thanh Hóa đã có rất nhiều cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Công tác quản lý chi trả phức tạp hơn bởi vì có thêm số đối tượng tham gia BHYT. Mặt khác, số đối tượng tham gia BHYT rất khó quản lý bởi vì khi đăng kí danh sách, làm thủ tục chia trả... phải tiến hành qua nhiều bước, phức tạp. Nhưng có sự quan tâm của các cấp uỷ Đảng nên cơ quan đã hoàn thành được những nhiệm vụ đặt ra. Bên cạnh đó đời sống của công nhân viên chức được cải thiện, cơ sở vật chất được từng bươc nâng cấp đáp ứng nhu cầu phục vụ cho công tác và sinh hoạt của công nhân viên chức. - Các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, thủ trưởng các đơn vị sử dụng lao động đã cơ nhiều biện pháp giúp đỡ các cán bộ trong cơ quan về số lượng và các đối tượng tham gia BHXH, các đối tượng gặp rủi ro cần được hỗ trợ. Từ đó giúp cơ quan quản lý hoạt động chi trả BHXH được tốt hơn. - Hiện nay, nhờ kết quả của việc cải tiến quy trình chi trả, cải các đơn giản hoá thủ tục hành chính theo hướng“ 1 Cửa” tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đặc biệt là DNNQD tham gia BHXH một cách nghiêm túc. Do đó, mọi công tác hoạt động, quản lý hoạt động được ổn định hơn, ít sảy ra sai sót. Nếu quá trình chi trả BHXH được diễn ra một cách ổn định thì công tác quản lý chi trả BHXH cũng đơn giản hơn rất nhiều. - Ngoài ra việc kiểm tra, đôn đốc trong quá trình chi trả, giải quyết chế độ chính sách cho người lao động kịp thời, thường xuyên và đầy đủ là động lực thúc đẩy các chủ sử dụng lao động tham gia đóng BHXH cho người lao động một cách nghiêm túc. - Mặt khác, công tác thông tin tuyên truyền có nhiều đổi mới, dần đi vào ổn định. Cơ quan còn phối hợp với các ban ngành, đoàn thể để đưa công tác tuyên truyền qua cơ quan báo chí truyền hình. Giúp nâng cao hiểu biết về chính sách BHXH cho người lao động. Ngoài việc phổ biến các chế độ chíh sách bằng các văn bản luật, nghị định, thông tư… các cán bộ trong cơ quan BHXH TP. Thanh Hóa còn trực tiếp giải quyết các thắc mắc của người dân. Công việc này đã đạt được kết quả khả quan, mang lại những nhận thức đúng đắn cho người lao động về BHXHTừ đó sẽ hạn chế được những khiếu kiện không cần thiết của người tham gia BHXH. Có được những thuận lợi trên là sự nổ lực hết mình của toàn thể các cán bộ trong cơ quan và sự giúp đỡ nhiệt tình của các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn. Vì vậy, BHXH TP. Thanh Hóa phải ngày càng cố gắng, phát huy hơn nữa những thuận lợi trên. Đó cũng là một phần thành công của chính sách BHXH nước ta khi áp dụng đối với mọi người dân trong xã hội. 1.2, Khó khăn Tồn tại song song với các thuận lợi là các khó khăn cần được khắc phục. - Tỉnh Thanh hoá vẫn còn chậm phát triển, mặc dù trong những năm qua đã có nhiều khởi sắc. Nhìn chung, thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp còn ở mức thấp, việc làm không ổn định, phần lớn doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn… ảnh hưởng đến vấn đề đóng BHXH. Từ đó, ảnh hưởng đến việc giải quyết chi trả các chế độ chính sách cho người lao động và người tham gia BHXH. Sảy ra mộy số trường hợp như: Chi trả BHXH chậm, chi trả bị gián đoạn... ảnh hưỏng đến công tác quản lý chi trả BHXH. - Ngoài nguyên nhân khách quan trên còn tồn tại một số nguyên nhân chủ quan. Do trình độ nhận thức tâm lý xã hội của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ít hiểu biết về pháp luật và chưa thoát khỏi suy nghĩ chỉ có những người làm việc trong cơ quan nhà nước mới được hưởng quyền lợi của BHXH. Trong khi đó người SDLĐ ít quan tâm đến quyền lợi và chế độ của người lao động, mà hiện nay các chế tài của nhà nước chưa đủ mạnh để ngăn ngừa vi phạm. Có thể lấy một ví dụ nhỏ như: 1 doanh nghiệp trả lương cho mỗi nhân viên là 2 triệu đồng/ 1 tháng, nhưng khi đóng BHXH lại đóng trên mức lương là 1,5 triệu, họ có thể nói với nhân viên là như thế để giảm bớt tiền nộp BHXH, có lợi cho cả người SDLĐ và người lao động. Người lao động do không hiểu biết nên không nhận ra rằng mức đóng sẽ tương đương với mức nhận, đóng nhiều hưởng nhiều, đóng ít hưởng ít. Khi đóng như vậy người chủ SDLĐ sẽ phải đóng ít hơn so với mức tiền lương thực tế, họ sẽ có lợi và thiệt hại lại chuyển sang cho người lao động. Do đó, khi người lao động gặp phải rủi ro thì mức trợ cấp sẽ không đáp ứng được nhu cầu đặt ra. Vấn đề quản lý chi trả sẽ gặp phải những khó khăn, phức tạp. Cụ thể là: Khi sảy ra tình trạn trên, người lao động sẽ không nhận được mức trợ cấp phù hợp, họ sẽ thắc mắc, khiếu kiện vì khi đóng góp các DN đã đảm bảo họ sẽ được hưởng đúng với tỉ lệ tiền lương mà họ nhận. Trong khi họ đóng BHXH thấp hơn mức tiền lương. Dĩ nhiên, người lao dộng đóng ít hưởng ít và ngược lại nhưng vẫn có rất nhiều khiếu kiện của người lao động do thiếu hiểu biết. Nên công tác chi trả, quản lý chi trả đôi khi không nhanh chóng và kịp thời, ảnh hưởng khá nhiều đến hoạt động của cơ quan. Bên cạnh đó, việc quản lý sản xuất kinh doanh và triển khai luật BHXH ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều sơ hở, từ khâu đăng kí kinh doanh đến khâu giải thể doanh nghiệp đến việc kí kết hợp đồng lao động, gây khó khăn cho công tác quản lý hoạt động chi trả BHXH cho người sử dụng lao động và các đối tượng tham gia BHXH. Khi đăng kí kinh doanh hoặc giải thể thì các DN chưa đăng kí rõ ràng về số lượng đối tượng lao động, mức lương, thời gian hoạt động chính thức... Dẫn đến việc chi trả, quản lý hoạt động chi trả phức tạp, đôi khi mất rất nhiều thời gian để kiểm tra, rà soát các đối tượng. Và quan trọng hơn trong việc quản lý các đối tượg tham gia BHXH là rất phức tạp, hay bị lẫn lộn. - Mặt khác, do TP. Thanh Hoá là một địa bàn rộng, số lượng các doanh nghiệp nhiều nên việc quản lý chi trả cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là khâu đảm bảo an toàn tiền mặt. Việc cấp thẻ, phiếu khám chữa bệnh cho đối tượng tham gia BHYT còn chậm, ảnh hưởng trực tiếp đến công tác khám chữa bệnh của đối tượng. Vì thế việc chi trả cũng như quản lý chi trả còn chậm. Đôi khi, do công tác chi trả chậm nên người bệnh phải tự bỏ tiền ra chi khám bệnh mà không được hưởng sự trợ giúp của BHXH. Có một số trườn hợp tự bỏ tiền khám bệnh sau đó làm thủ tục để xin BHXH nhưng đôi lúc gặp phải nhiều trục trặc. Từ đó, công tác quản lý chi trả đôi khi còn chưa được ổn định, thụ động. - Công tác ghi sổ BHXH hàng năm không kịp thời do đơn vị sử dụng không ghi bổ sung quá trình thay đổi chức vụ, lên lương của người lao động theo đúng thời gian mà họ được hưởng lương. Đôi khi là do bản thân các cán bộ đã kàm chậm trễ. Bởi vì: Do mối quan hệ quen biết nên giúp đỡ làm sổ cho người lao động nhưng ghi đúng thời gian, sai sót do trình độ của một số cán bộ còn yếu kém về năng lực...Việc đối chiếu, xác nhận sổ BHXH còn nhiều bất cập do đang thực hiện chủ yếu bằng phương pháp thủ công. Thời gian gần dây, tuy đã ứng dụng nhiều công nghệ thông tin vào hoạt động nhưng vẫn chưa thu được kết quả khả quan, vẫn còn nhiều sai phạm. Từ đó gây ra một số sự chậm trễ trong việc chi trả BHXH. - Công tác bàn giao danh sách đối tượng tham gia BHYT không chính xác, không có tăng giảm hàng tháng, đối tượng quản lý của BHYT thiếu rất nhiều so với danh sách do BHXH quản lý, vì thế công tác rà soát để cấp phiếu khám chữa bệnh là rất khó khăn. Nếu trong khi chưa kịp cấp phiếu khám chữa bệnh do chậm trễ mà đối tượng hưởng cần khám chữa bệnh thì sẽ gây khó khăn cả cho hai phía. Làm cho công tác chi trả, quản lý chi trả chậm trễ, không giải quyết được kịp thời. Nói chung việc sai phạm này là do một số các đối tượng tham gia BHYT lợi dụng sự quen biết để làm sai hồ sơ, nhưng hiện tại để phát hiện được những hành động đó là rất khó, đòi hỏi sự giúp sức của các ban ngành, chức năng. Ngoài ra, thời hạn sử dụng trong phiếu khám chữa bệnh cũ không thống nhất theo niên độ kế toán, do vậy quá trình bàn giao mất khá nhiều thời gian. Ngoài ra, đôi khi do công việc quá bận rộn mà các cán bộ trong cơ quan lại được phân công làm nhiều việc một lúc như: Khi vào kì phát lương, quyết toán cuối quý hoặc cuối năm... thì công tác quản lý chi trả BHXH bị gián đoạn, gây ra việc chậm trễ khi xử lý các số liệu liên quan đến việc quản lý. Qua những thuận lợi và khó khăn như vậy, các cán bộ của cơ quan BHXH TP. Thanh Hóa đang từng bước cố gắng phấn đấu đạt được hiệu quả tốt trong mọi mặt của hoạt động và đẩy lùi những hạn chế trước mắt, đặc biệt là trong quản lý hoạt động chi trả BHXH. Ngoài ra, thời gian tới một số các cán bộ của cơ quan sẽ được học thêm nghiệp vụ tại lớp đào tạo nghiệp vụ do BHXH tỉnh mở ra hàng năm. Nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ trong ngành BHXH. Để không sảy ra tình trạng sai sót trong công việc, dẫn đến các khiếu kiện của người dân. 2, Thực trạng công tác quản lý chi trả Dựa vào các quy định hiện hành của nhà nước Việt Nam hiện nay, cơ quan BHXH TP. Thanh Hoá đã thực hiện và thu được những kết quả, trong đó có cả những thuận lợi và khó khăn. Do công tác quản lý chi trả chưa được phân công rõ ràng, các cán bộ chuyên trách sẽ đảm nhiệm luôn công việc quản lý. Nên đôi khi hoạt động này còn khá chậm trễ. Để phân tích rõ thực trạng của công tác này, chúng ta phải phân tích riêng từ các mảng BHXH như: BHXH tự nguyện, BHXH bắt buộc… 2.1, BHXH tự nguyện Hiện nay, BHXH tự nguyện đã được triển khai tại BHXH TP. Thanh Hoá nhưng số người tham gia còn quá ít, thực tế là chỉ mới có 2 người tham gia. Vì vậy, chưa có hoạt động chi trả hay quản lý chi trả cho BHXH tự nguyện. Theo sự phân công của BHXH tỉnh thì BHXH TP. Thanh Hóa phải nổ lực hết mình để hoàn thành nhưng do BHXH tự nguyện chưa được phổ biên rộng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2066.doc
Tài liệu liên quan