Thực trạng thu - Chi quỹ Bảo hiểm xã hội tại phòng Bảo hiểm xã hội huyện Giao Thuỷ (Nam Định) (60tr)

lời nói đầu Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm ở nước ta. Đây là một loại hình bảo hiểm đặc biệt, nó ít mang tính chất kinh doanh thương mại mà chủ yếu là tính nhân dạo và nhân văn cao cả. Kể từ khi ra đời đến nay, nó đã góp phần làm ổn định đời sống cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước, quân nhân, những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế của đất nước; ổn định chính trị – xã hội, thúc đẩy quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ tổ quốc

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng thu - Chi quỹ Bảo hiểm xã hội tại phòng Bảo hiểm xã hội huyện Giao Thuỷ (Nam Định) (60tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Hiện nay, được sự quan tâm của Nhà nước mà chính sách BHXH ngày càng được thực hiện tốt và hiệu quả hơn với các đối tượng tham gia nói trên. Để việc thực hiện BHXH tồn tại và phát huy được tác dụng của nó cần phải có một quỹ BHXH và quỹ đó phải hoạt động đúng mục đích tức là cơ quan BHXH phải thực hiện tốt công tác thu – chi quỹ BHXH. Qua thời gian thực tập tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ em thấy BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt được những kết quả thiết thực về hoạt động thu – chi quỹ BHXH như: Chi đúng người, đúng đối tượng, kịp thời; thu quỹ BHXH ngày càng tăng v.v…Tuy nhiên bên cạnh dó vẫn còn một số tồn tại nhất định như: Thu BHXH chưa dứt điểm, số nợ đọng vẫn còn, một vài cơ sở còn trốn nộp BHXH làm cho hoạt động quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ chưa đạt được kết quả cao, tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý thu – chi quỹ BHXH như vậy, em đã chọn đề tài : “Thực trạng thu - chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định)” với mong muốn được góp phần nhỏ bé của mình nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu – chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ nói riêng và trong hệ thống BHXH Việt Nam nói chung. Trong quá trình hoàn thành chuyên đề, do thời gian và nhận thức còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo PGS.TS Hồ Sĩ Sà đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 2004 Sinh viên: Trần Văn Phác Chương I tổng quan về bhxh và quỹ BHXH I. Sự cần thiết phải có BHXH 1 – Sự ra đời của BHXH Nền sản xuất hàng hoá càng phát triển thì vấn đề thuê mướn nhân công diễn ra càng phổ biến, mâu thuẫn giữa chủ và thợ ngày càng gia tăng. Đặc biệt khi người lao động không may gặp rủi ro, sự cố như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, mất việc làm…phải nghỉ việc. Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết không những không mất đi mà còn tăng lên, thậm chí còn phát sinh ra nhiều nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh, điều trị khi ốm đau; cần người nuôi dưỡng, chăm sóc khi gặp tai nạn, thương tật… Tổng thời gian nghỉ việc người chủ không trả lương, làm cho người lao động càng gặp nhiều khó khăn hơn và không yên tâm làm việc. Vì vậy, lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động nhưng sau đó đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người lao động có một số thu nhập nhất định để họ trang trải khi không may gặp những khó khăn đó. Trong thực tế, nhiều khi các rủi ro trên không xẩy ra và người chủ không phải chi ra đồng nào nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một khoản tiền rất lớn mà họ không muốn. Do đó mâu thuẫn chủ thợ càng trở nên vô cùng gay gắt. Khi những mâu thuẫn này kéo dài Nhà nước phải đứng ra can thiệp bằng cách: buộc giới chủ phải có trách nhiệm hơn đối với người lao động mà mình sử dụng, thể hiện ở việc phải trích ra một phần thu nhập của mình để hình thành quỹ. Sau đó dùng nguồn quỹ này để trợ cấp cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động không may gặp những rủi ro và sự cố bất ngờ. Đồng thời Nhà nước đứng ra bảo trợ cho quỹ. Bằng cách đó cả chủ và thợ đều thấy mình có lợi và tự giác thực hiện, cuộc sống của người lao động được đảm bảo.Người chủ được bảo vệ việc sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Mối quan hệ ba bên nêu trên được thế giới quan niệm là BHXH cho người lao động. Như vậy BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động, bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính được huy động từ sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (nếu có), sự tài trợ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc tử vong… 2 - Sự cần thiết phải có hệ thống BHXHý Trong cuộc sống cũng như trong các hoạt động sản xuất hàng ngày, mặc dù không muốn nhưng người lao động không thể tránh khỏi hết những rủi ro bất ngờ xảy ra như: ốm đau; bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Tất cả những nguyên nhân đó xảy ra đều ít nhiều làm ảnh hưởng đến đời sống vật chất và tinh thần cho bản thân cũng như gia đình; người thân của họ. Muốn khắc phục được khó khăn do các rủi ro nêu trên gây ra, người lao động cần phải được sự bảo trợ của tập thể số đông. Đặc biệt để người lao động yên tâm tham gia sản xuất tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước thì nhà nước cần phải can thiệp vào nhằm làm giảm bớt những khó khăn cho người lao động trong các trường hợp: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, chết, mất việc làm khi về già…Từ đó BHXH được ra đời như một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy cần phải tham gia hệ thống BHXH này. II . Vai trò và những nguyên tắc của BHXH 1 – Vai trò của BHXH 1.1) Đối với người lao động Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá thì những "rủi ro" như ốm đau, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm…lại diễn ra một cách thường xuyên và ngày càng phổ biến hơn, phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây khó khăn cho người lao động vế cả vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không tốt cho cả cộng đồng. Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho cá nhân những người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi…giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai. Từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho xí nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nó chung. 1.2) Đối với người sử dụng lao động Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình lao động sản xuất để tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức lao động để sản xuất ra sản phẩm, đó chính là những người chủ sử dụng lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình đối với người lao động thật tốt để họ yên tâm lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống từ đó họ lao động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản xuát kinh doanh của người chủ sử dụng lao động hoạt động đạt kết quả cao. Muốn vậy người chủ sử dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho những người lao động của mình để có thể đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp những rủi ro bất chắc. Việc tham gia đóng góp BHXH cho người lao động của người chủ sử dụng lao động là góp vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng phát triển hơn, nâng cao năng suất, hiệu quả lao động sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu nhập cho người lao động và góp vào việc phát triển nền kinh tế của đất nước. 1.3) Đối với xã hội Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “ bảo hiểm” cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất cứ ai cũng cần đến (không phải chỉ cán bộ, công nhân viên chức mới cần). Nếu các doanh nghiệp này càng sản xuất ra nhiều loại bảo hiểm (đáp ứng đa dạng các nhu cầu) thì giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội. Thứ hai, với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, BHXH sẽ “ bảo hiểm” cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “ trục trặc”, “ rủi ro” xảy ra đối với những người lao động, góp phần tích cực của mình vào việc phục hồi năng lực làm việc, khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực của mình vào việc nâng cao năng suất lao động xã hội. Với sự trợ giúp của người lao động khi gặp phải rủi ro bằng cách tạo ra thu nhập thay thế thì BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội. Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển phần “ nhàn rỗi” của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới góp phần quan trọng trong việc tạo ra việc làm cho người lao đông. Từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp của đất nước, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tổng sản phẩm quốc dân nói chung. Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những nguời tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu nhập này được tiến hành thông qua hai cách: Phân phối lại theo chiều ngang giữa người khoẻ và người già, người đang làm việc với người đã nghỉ hưu, người trẻ tuổi với người lớn tuổi, giữa nam với nữ, người đang hưởng trợ cấp với người chưa hưởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội, giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người nghèo một cách võ đoán. ý tưởng của BHXH nhiễu điều phủ lấy giá gương, là đoàn kết tương trợ, phát huy tính tự thân, sống hoà nhập có tình có nghĩa giữa các nhóm, các giới bạn trong cùng cộng đồng với nhau mà vốn là tiềm lực của dân tộc ta đã được lịch sử chứng minh. 2 – Những nguyên tắc của BHXH 2.1) Mọi ngưòi lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền được BHXH . Quyền đựơc BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con người. Nhưng khi muốn xây dựng hệ thống BHXH thì đầu tiên Nhà nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế xã hội, về chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những người sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình. Không phải là cái có sẵn nên trước hết phải tìm cách tạo ra nó. ở mỗi nước không có sự đóng góp này thì chính sách BHXH có hay đến mấy cũng không bao giờ có BHXH trong thực tiễn. Vì vậy, thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính BHXH là điều kiện cơ bản nhất để người lao động được hưởng quyền BHXH. 2.2) Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH đối với người lao động, người lao động cũng phải tự bảo hiểm cho mình. Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trường, trong đó Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế xã hội trên phạm vi cả nước. Với vai trò này Nhà nước có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn xã hội, đồng thời cũng có mọi công cụ cần thiết để thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự tăng trưởng sự phát triển kinh tế xã hội, cũng có những kết quả bất lợi không mong muốn. Những kết quả bất lợi này trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho người lao động. Khi xảy ra tình trạng như vậy nếu không có BHXH thì Nhà nước vẫn phải chi Ngân sách để giúp đỡ người lao động dưới một dạng khác. Sự giúp đỡ đó chẳng những làm cho đời sống người lao động ổn định mà còn làm cho sản xuất kinh tế xã hội của đất nước ổn định. Vì vậy, khi trong xã hội loài người xuất hiện BHXH – một dạng đảm bảo đời sống tiến bộ hơn đối với người lao động- so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nước càng có điều kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó. Đối với người sử dụng lao động, mọi khía cạnh đặt ra cũng tương tự như trên nhưng chỉ trong phạm vi một số doanh nghiệp. ở đó giữa người lao động và người sử dụng lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Người sử dụng lao động muốn ổn định và sản xuất kinh doanh thì ngoài việc chăm lo đầu tư để có máy móc thiết bị hịên đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống của người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương (trả công) thoả đáng cho người lao động. Khi họ gặp rủi ro, ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.. trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động, với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy người lao động mới yên tâm tích cực lao động sản xuất góp phần tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. Đối với người lao động khi gặp những rủi ro không muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình, là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết đã...Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình. 2.3) BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành lên quỹ BHXH ở nguyên tắc trên đã thấy rõ tính khách quan của trách nhiệm phải tham gia BHXH đối với người lao động của cả ba bên (Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động) trong nền kinh tế thị trường. Biểu hiện cụ thể của trách nhiệm này là đóng phí BHXH đầu kỳ. Nhờ sự đóng góp đó mà phương thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang mới được thực hiện. Hơn nữa nó còn tạo ra mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách nhiệm với quyền lợi góp phần phòng chống những hiện tượng nhiễu trong hệ thống hoạt động mang lại nhiều lợi ích cho mọi người có liên quan này. 2.4) Phải tuân theo quy luật số lớn BHXH là một trong các nguyên tắc, các cơ chế an toàn xã hội, trước hết là sự trợ giúp cho người lao động trong các trường hợp bị giảm hoặc bị mất thu nhập tạm thời khi họ bị ốm đau, thai sản… hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Trong cả cuộc đời của người lao động thường thì thời gian lao động dài hơn thời gian người lao động bị tạm thời mất khả năng lao động hoặc thời gian từ khi hết tuổi lao động đến lúc chết. Vả lại tất cả những người tham gia BHXH cùng một lúc có nhu cầu bảo hiểm, vì vậy nguyên tắc trước hết của BHXH là lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động có thu nhập để bảo hiểm cho khi giảm hoặc mất khả năng lao động. 2.5) Kết hợp giữa các loại lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu cầu BHXH Trong BHXH cả ba bên tham gia: Người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước đều nhận được nhiều lợi ích. Nhưng lợi ích nhận được không phải luôn luôn như nhau, thống nhất với nhau mà trái lại có lợi ích có lúc lại mâu thuẫn với nhau. Chẳng hạn việc tăng mức trợ cấp hoặc tăng thời hạn nghỉ làm việc và hưởng trợ cấp BHXH sẽ rất có lợi cho người lao động nhưng lại gây khó khăn cho người chủ sử dụng lao động, nếu giảm hậu quả bất lợi cho người sử dụng lao động thì Nhà nước lại phải gánh chịu. 2.6) Mức trợ cấp BHXH phải đảm bảo thấp hơn tiền lương khi đang đi làm, nhưng cũng phải lớn hơn mức lương tối thiểu Trợ cấp BHXH nói ở đây là loại trợ cấp thay thế cho tiền lương như trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già chứ không phải là trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp BHXH. Như đã biết, tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện công việc nhất định. Nghĩa là, chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực hiện công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không thực hiện được công việc nhất định hoặc không việc làm mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương tạo ra được. Còn nếu cố tìm cách trả trợ cấp BHXH bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc để có lương mà ngược lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để hưởng trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ, phương thức dàn trải rủi ro của BHXH cũng không cho phép trả trợ cấp BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Vì trả trợ cấp bằng tiền lương thì chẳng khác gì bị rủi ro đem rủi ro của mình dàn trải hết cho những người khác. Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng ngày. Chỉ khi đó BHXH mới có tính nhân văn cao cả. 2.7) Kết hợp giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện Bảo hiểm xã hội áp dụng hình thức bắt buộc để đảm bảo quy luật số lớn và số có hệ số an toàn cao nhằm đảm bảo cuộc sống của người lao động. Tuy nhiên, có những trường hợp, người lao động muốn hưởng trợ cấp hưu trí ở mức cao hơn mức được hưởng dưới hình thức bắt buộc, hoặc khi cân nhắc thấy họ đóng thêm vào BHXH cũng là một hình thức gửi tiền tiết kiệm, và có khi còn lợi hơn gửi vào ngân hàng, thì họ sẽ có nhu cầu đóng phí BHXH nhiều hơn mức quy định. Chính vì vậy, khi đáp ứng nhu cầu đó cũng thực hiện được đảm bảo tốt hơn cuộc sống cho người lao động đồng thời quy luật số lớn vẫn được tôn trọng. 2.8) Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành. Trong đó bộ phận lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao trùm toàn bộ những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước và những người lao động thuộc những khu vực kinh tế quan trọng của đất nước. Các bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và tư nhân tổ chức ra để bảo hiểm cho một số đối tượng hạn chế do pháp luật quy định. Trong bộ phận do Nhà nước tổ chức còn có thể có một số bộ phận BHXH chuyên ngành như: BHXH đối với công chức, BHXH đối với quân nhân hưởng lương và một số bộ phận BHXH theo ngành kinh tế có tính chất đặc thù (đường sắt, khai thác mỏ...). Các bộ phận BHXH đựơc tổ chức như thế nào, nhiều hay ít là do đi ều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và do Nhà nước quy định. ở nước ta do những diều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép các tổ chức và cá nhân thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của Nhà nước. Để BHXH hoạt động có hiệu quả nhất thiết phải bảo đảm tính thống nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh tuỳ tiện, tính cục bộ hoặc những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể năng động trong hoạt động để chúng có thể bù đắp, bổ xung những ưu điểm cho nhau. 2.9) BHXH phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, với các điều kiện kinh tế xã hội, với cơ chế và trình độ quản lý đặc biệt là với sự điều chỉnh, sự đồng bộ của nền pháp chế của nước đó. Trong tình hình nước ta, kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đang hình thành, nhiều mặt kinh tế xã hội đang chuyển động mạnh. Vì vậy, việc xây dựng và phát triển BHXH phải bảo đảm chắc chắn, tính toán thận trọng và có bước đi phù hợp. III. quỹ BHXH 1 – Vai trò của quỹ BHXH Trong đời sống kinh tế xã hội, có rất nhiều loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm...Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước. Quỹ lớn hay quỹ nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện công việc cần làm. Tất cả các quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà luôn biến động tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Để đảm bảo cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dự trữ. Bởi vậy, để nắm và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ nắm được khối lượng của nó tại một thời điểm nhất định, mà quan trọng hơn là phải nắm được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Theo những quan niệm về quỹ nói chung như trên, thì quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình. 2 – Nguồn quỹ BHXH Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được hưởng BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách nhà nướcvà ngân sách gia đình. Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: - Thứ nhất, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ. - Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời. - Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia có khác nhau. 2 - Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây: Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp gia đình Trợ cấp sinh đẻ Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) 9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương .v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong… Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, co những nước quy định: Nam 60 tuổi và Nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những nước quy định: Nam 65 tuổi và Nữ 60 tuổi.v.v…Hoặc khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp cho chê độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố như: Điều kiện và môi trường lao động; bảo hộ lao động v.v…Các yếu tố này thường có quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH. Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm nhất định so với mức tiền lương hay tiền công. ở các nước kinh tế phát triển do mức lương cao nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở những nước đang phát triển do mức tiền lêong còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ, ở pháp mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% mức lương cao nhất ( với điều kiện đóng BHXH đủ 37,5 năm ), ốm đau được hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp BHXH bằng 90% tiền lương trong vòng 16 tuần v.v…Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ 42% đến 102%, tuỳ thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau được hưởng 65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được trợ cấp bằng 100% tiền lương v.v… Tuy vậy, việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm so với tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã phải tìm cách khắc phục như: trả ngay 1 lần khi nghỉ hưu, hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định. Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho chi phí quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong hệ thông BHXH; khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác… Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ. Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế- xã hội. chương II Tình hình thu chi quỹ BHXH tại Phòng BHXH huyện giao thuỷ I . vài nét giới thiệu về BHXH huyện Giao Thuỷ Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ được thành lập và đi vào hoạt động từ tháng 9 năm 1995 cùng với sự chia cắt hành chính của huyện Xuân Thuỷ thành huyện Xuân Trường và huyện Giao Thuỷ. Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ chủ yếu thực hiện việc thu – chi thuần tuý mà không kinh doanh loại hình bảo hiểm nào. Phòng BHXH huyện Giao Thuỷ có tất cả 7 cán bộ viên chức, trong đó ông Nguyễn Công Hoan là Giám Đốc, bà Chu Thị Vân ánh là Kế toán kiêm bộ phận chi, bà Đặng Thị Dung phụ trách bộ phận hành chính, bà Phạm Thị Vóc và ông Nguyễn Thành Lý phụ trách bộ phận thu, ông Trần Hải Triều phụ trách bộ phận chính sách, ông Trần Mạnh Hùng phụ trách bộ phận y tế tự nguyện. BHXH huyện Giao Thuỷ chịu sự quản lý trực tiếp của BHXH tỉnh Nam Định, có con dấu và tài khoản riêng. Sơ đồ vị trí của BHXH huyện Giao Thuỷ: BHXH Nam Định BHXH Việt Nam BHXH Giao Thuỷ BHXH huyện Giao Thuỷ có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ BHXH tỉnh Nam Định giao cho gồm: - Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm trình Giám đốc BHXH tỉnh Nam Định phê duyệt và tổ chức thực hiện; - Theo dõi, đốc thu BHXH 20% so với tổng quỹ lương (hiện nay là 23% do y tế nhập vào 3%) trong đó thu 15% của chủ sử dụng lao động (hiện nay là 17%) và 5% của người lao động (hiện nay là 6%); - Chi trả các chế độ nghỉ ốm, thai sản cho đối tượng tham gia đóng góp BHXH; - Tổ chức việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH, cả việc chi pháp lệnh người có công; - Theo dõi tăng, giảm hàng tháng để lập danh sách chi trả lương hưu và trợ cấp theo quy định; - Tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo về chế độ, chính sách BHXH để giải quyết theo thẩm quyền hoặc báo cáo với BHXH tỉnh xem xét giải quyết; - Tiếp nhận, báo cáo kịp thời với BHXH tỉnh Nam Định các trường hợp hưởng lạc trợ cấp BHXH, điều chỉnh lương hưu. - Đối chiếu tờ khai với hồ sơ gốc để triển khai cấp sổ BHXH. Hiện nay BHXH huyện Giao Thuỷ do có sự sáp nhập của BHYT nên có một số nhiệm vụ và quyền hạn của BHYT như: cấp thẻ BHXH, tuyên truyền, vận động, điều hành… II. Tình hình thu BHXH huyện Giao Thuỷ 1 - Thu BHXH 1.1) Những vấn đề chung về thu quỹ BHXH Thu quỹ BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm tạo ra các nguồn tài chính tập trung (quỹ BHXH tập trung), từ việc đóng góp của các bên tham gia BHXH và những nguồn tài chính bổ xung khác. Thu quỹ BHXH là một hoạt động không thể thiếu trong hoạt động BHXH nói chung, nó đảm bảo cho sự tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung và tạo ra nguồn tài chính để có thể tiến hành các hoạt động BHXH. Do đó mà việc đóng góp vào BHXH của các bên tham gia BHXH là sự tất yếu trong hoạt động BHXH, vì những lý do sau: Việc đóng góp quỹ BHXH đánh dấu sự đóng góp của những người tham gia BHXH, là cơ sở để đo sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Tạo ra được nguồn tài chính tập trung từ đó có thể tiến hành thống nhất các hoạt động BHXH. Nguồn thu của BHXH được hình thành từ ba nguồn chủ yếu: đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và phần hỗ trợ từ Ngân sách Nhà nước; nguồn thu này phản ánh rõ nét quan hệ ba bên trong BHXH, là cơ sở để tạo ra các quan hệ khác trong BHXH. Thực chất, quan ._.hệ ba bên trong BHXH là mối quan hệ về lợi ích do sự đóng góp vào BHXH của các bên tham gia là mối quan hệ về lợi ích, từ việc tham gia đóng góp BHXH các bên tham gia BHXH đều tìm kiếm được lợi ích cho mình, người sử dụng lao động tìm kiếm lợi ích từ việc họ sẽ bỏ ra ít chi phí hơn khi người lao động không may gặp phải những rủi ro, người lao động được tìm kiếm lợi ích từ việc họ được hưởng các quyền lợi khi họ không may gặp phải những rủi ro, Nhà nước đạt được mục tiêu ổn định được xã hội, ổn định được mối quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong xã hội để người lao động yên tâm tham gia sản xuất thúc đẩy nền kinh tế-xã hội phát triển. Từ đó có thể nói rằng, thu BHXH là một phần quan trọng không thể thiếu được của hoạt động BHXH. 1.2) Công tác thu BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ Giao Thuỷ là một huyện có địa hình rất phức tạp: một mặt giáp với biển, một mặt lại giáp với Sông Hồng nên ở đây tồn tại nhiều ngành nghề khác nhau như: làm nông nghiệp (phần lớn), khu vực giáp với biển thì nhân dân lại đánh bắt và nuôi thuỷ sản xuất khẩu (nhưng chưa có đủ quy mô lớn để trở thành công ty hay doanh nghiệp, mà hầu hết là tư nhân tự đứng ra làm lấy với số lao động là con em trong gia đình họ) hoặc kinh doanh du lịch; bãi tắm (Quất Lâm), làm muối… Trên địa bàn huyện Giao Thuỷ hiện nay chưa có khu công nghiệp nào mà chỉ có một vài xí nghiệp; công ty có quy mô đủ lớn (đi thuê lao động) ngoài các doanh nghiệp nhà nước có trên địa bàn, đó là: Xí nghiệp muối Bạch Long, Công ty cổ phần xây dựng đường biển Hồng Hà, Công ty cổ phần xây dựng đường biển Trường Giang. Các xí nghiệp hay công ty này nằm rải rác trong huyện Giao Thuỷ mà không tập trung một chỗ. Công tác thu BHXH ở BHXH huyện Giao Thuỷ ít nhiều gặp phải khó khăn do địa hình phức tạp và mức độ tập trung của các nhà máy; xí nghiệp này. Hơn thế nữa trụ sở của BHXH huyện Giao Thuỷ lại đặt ở đầu huyện, nên bước đầu công tác thu BHXH còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là đội ngũ cán bộ chuyên môn còn quá ít hoặc nếu có thì trình độ chưa thực sự tốt. Tuy vậy BHXH huyện Giao Thuỷ vẫn cố gắng hoàn thành các chỉ tiêu về thu BHXH mà BHXH tỉnh Nam Định giao phó. BHXH huyện Giao Thuỷ đã tiến hành lập danh sách chi tiết từng đơn vị; cơ quan tham gia BHXH, từng cá nhân. Bên cạnh đó BHXH huyện Giao Thuỷ còn lập bảng lương chi tiết của từng cá nhân, quỹ lương của từng công ty hay xí nghiệp để làm căn cứ thu quỹ BHXH. Tại mỗi xã trong huyện, BHXH huyện Giao Thuỷ đặt một ban có trách nhiệm thu – chi và báo cáo các trường hợp có sự thay đổi mức đóng góp hay mức hưởng BHXH. Gần đến mỗi kỳ báo cáo; tổng kết, BHXH huyện Giao Thuỷ đã cử cán bộ đến các cơ sở còn nợ đong tiền BHXH hoặc dùng các biện pháp thông tin khác như: gọi điện thoại, nhắn tin qua đài truyền thanh huyện Giao Thuỷ để đôn đốc, thu kịp thời, tránh tình trạng nợ đọng lâu dài. Vì vậy BHXH huyện Giao Thuỷ đã đạt được các chỉ tiêu về thu BHXH, mức thu tăng nhanh rõ rệt, như năm 1995 chỉ có 633.124.098 đồng, thì đến năm 1996 con số đó là 1.251.624.005 đồng (tăng gần gấp đôi), tinhd đến năm 2003 BHXH huyện Giao Thuỷ đã thu được 6.282.523.923 đồng. 2 - Những nguồn thu BHXH Thông thường, quỹ BHXH được hình thành từ nguồn sau: - Thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH là nguồn thu chủ yếu, quan trọng nhất cho bất cứ quỹ BHXH của bất kỳ quốc gia nào, nó là cơ sở chủ yếu để hình thành nên quỹ BHXH và tạo ra nguồn tài chính để thực hiện những chế độ BHXH; nhưng trong quá trình quản lý sự đóng góp của người tham gia BHXH cũng phức tạp và khó khăn nhất. Nguồn thu này có tầm quan trọng đặc biệt, nó là nền tảng để có thể thực hiện được chính sách BHXH. Thông thường, nguồn thu này được hình thành như sau: + Người lao động tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH trên cơ sở tiền lương; tuỳ theo điều kiện của mỗi quốc gia mà phần đóng góp của người lao động có khác nhau, nhưng đều dựa trên cơ sở là tiền lương của người lao động làm căn cứ để tính toán số tiền người lao động phải đóng góp vào quỹ BHXH. Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định người lao động phải đóng góp bằng 6% tiền lương tháng( trước đây là 5%). + Người sử dụng lao động tham gia đóng góp BHXH cho người lao động trong đơn vị mình; thông thường phần đóng góp của người sử dụng lao động dựa trên tổng quỹ lương. Theo Điều lệ BHXH hiện hành quy định người sử dụng lao động phải đóng góp bằng 17% (trước đây là 15%) tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. - Thu từ việc hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là để đảm bảo cho các hoạt động BHXH diễn ra được đều đặn, bình thường, tránh những xáo trộn lớn trong việc thực hiện BHXH. Nguồn thu từ việc hỗ trợ của Ngân sách Nhà nước cho quỹ BHXH đôi khi là khá lớn, việc hỗ trợ cho hoạt động BHXH của Nhà nước là hoạt động thường xuyên và liên tục để đảm bảo thực hiện tốt các chế độ chính sách nói riêng và hoạt động BHXH nói chung. - Thu từ lãi đầu tư của hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ được hình thành từ công việc đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi vào các chương trình kinh tế – xã hội, những hoạt động đầu tư khác đem lại hiệu quả. Từ nguồn quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư, quỹ BHXH thu được phần lãi đầu tư để bổ xung vào nguồn quỹ BHXH. - Ngoài những nguồn thu trên thì quỹ BHXH còn có một số nguồn thu khác để bổ xung vào quỹ BHXH; nói chung, những nguồn thu này không lớn, không ổn định. Chủ yếu là những nguồn thu từ việc nhận sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài, từ những hoạt động từ thiện, từ hoạt động thanh lý nhượng bán tài sản cố định. Nguồn thu này thường chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số thu của quỹ BHXH. 3 - Những nguyên tắc trong thu BHXH Căn cứ pháp luật và các văn bản dưới luật thì thu BHXH phải đảm bảo theo nguyên tắc là phải đảm bảo đúng đối tượng và đúng mức thu, đồng thời phải đảm bảo tính công bằng giữa các đơn vị tham gia BHXH. Muốn thu đúng và thu đủ thì cần phải quán triệt những vấn đề sau đây: - Các cơ quan, các doanh nghiệp đóng BHXH thì phần đóng góp phải dựa trên quỹ lương, quỹ lương này bao gồm toàn bộ là lương cứng và các khoản phụ cấp vào lương, đồng thời quỹ lương này phải chi trả cho tất cả các đối tượng tham gia đóng góp BHXH. - Đối với người lao động cơ chế thu là 6% cũng bao gồm cả lương cứng và các khoản phụ cấp ngoài lương khác. - Quyết toán thu BHXH thường vào cuối năm nhưng trong năm đó số người tham gia và số đơn vị tham gia BHXH luôn biến động, vì vậy khi quyết toán phải căn cứ vào số liệu thực tế phát sinh chứ không tính vào mức bình quân. - Thu BHXH phải mang tính trực tiếp, hạn chế tối đa hiện tượng khoán thu để được hưởng hoa hồng. - Về nguyên tắc cơ quan BHXH phải quyết toán từng tháng, từng quý, từng năm nhưng đến cuối năm quyết toán, tất cả các số thu phải ăn khớp với nhau và phải thực sự cân đối: giữa người lao động, người sử dụng lao động, loại hình doanh nghiệp, loại hình thu. Ngoài việc thu đúng của người lao động và người sử dụng lao động, BHXH phải lập kế hoạch và lập dự toán trước phần ngân sách Nhà nước cấp bù vào đầu tháng, đầu quý, đầu năm sau đó mới được quyết toán. Lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi BHXH, về nguyên tắc phải được bù đắp vào quỹ để bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ, phần trích ra chi cho các mục đích khác như chi cho khen thưởng, chi quản lý và những khoản chi khác phải tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật. Các khoản tài trợ của các tổ chức, các quỹ từ thiện, đặc biệt là các khoản nợ của người tham gia phải được hạch toán riêng, các khoản nợ đòi được phải tính tới lãi suất. 4 - Tổ chức quản lý thu BHXH 4.1) Quản lý đối tượng tham gia BHXH Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một phần quan trọng trong công tác thu của BHXH, đặc biệt là nguồn thu từ người lao động và người sử dụng lao động (kể cả những người đang được cử đi học, đi thực tập, công tác và điều dưỡng ở trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công của cơ quan đơn vị đó) làm việc trong các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế – xã hội theo quy định tại Điều lệ BHXH Việt Nam, bao gồm: - Các doanh nghiệp nhà nước; - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt văn phòng đại diện ở Việt Nam (trừ những trường hợp tuân theo những điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia có những quy định khác); - Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao dộng trở lên (hiện nay BHXH đã áp dụng với các doanh nghiệp có dưới 10 lao động); - Các cơ quan hành chính sự nghiệp, các cơ quan của Đảng, đoàn thể từ trung ương đến địa phương (chỉ tới cấp huyện); - Các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể; - Các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ trong lực lượng vũ trang; Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng cho nhân dân, Công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí theo điều lệ BHXH đối với sỹ quan, công an nhân dân ban hành kèm theo Nghị định số 45/CP ban hành ngày 15/07/1995 của Thủ tướng Chính phủ; - Cán bộ xã, phường, thị trấn được hưởng sinh hoạt phí tại Nghị định số 09/ 1998/ NĐ-CP ban hành ngày 23/ 01/ 1998 của Thủ tướng Chính phủ; - Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài đóng cho người lao động theo Nghị định số 152/ 1999/ NĐ-CP ban hành ngày 20/ 09/1999 của Thủ tướng chính phủ. Từ những đối tượng phải thu BHXH như trên, để thực hiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH cần phải thực hiện tốt một số công tác sau: - Thực hiện phân cấp quản lý, phân công cụ thể từng đơn vị, từng bộ phận và cá nhân để quản lý, theo dõi đôn đốc thu BHXH đến từng cá nhân tham gia BHXH. Việc phân cấp, phân công cụ thể công tác quản lý sẽ làm cho việc thu BHXH được dễ dàng, thu triệt để, tránh hiện tượng thu thiếu, bỏ qua không thu ... Việc phân cấp, phân công quản lý đối tượng tham gia BHXH phải đạt được yêu cầu của công tác thu BHXH đề ra; ví dụ như BHXH của Việt Nam thực hiện công tác quản lý đối với BHXH các tỉnh, thành phố. - Tiến hành ghi sổ BHXH cho những người lao động để theo dõi, ghi chép kịp thời toàn bộ diễn biến quá trình đóng BHXH của họ theo từng thời gian (tháng, quý, năm), mức đóng và đơn vị đóng, ngành nghề công tác để sau này làm căn cứ xét hưởng các chế độ BHXH cho họ. 4.2) Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng BHXH Căn cứ cơ bản để tiến hành hoạt động thu BHXH của người lao động là tiền lương tháng, đối với người sử dụng lao động là tổng quỹ lương của những người lao động tham gia BHXH trong các doanh nghiệp tổ chức. Chính vì vậy, để tiến hành tốt công tác thu BHXH một phần quan trọng không thể thiếu được là phải quản lý tốt quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của tổ chức, doanh nghiệp. Mức thu BHXH đối với người tham gia BHXH được quy định tại điều 36, Điều lệ BHXH Việt Nam hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ, theo đó người sử dụng lao động đóng 15% (nay là 17%) tổng quỹ tiền lương tháng của người lao động trong đơn vị tham gia BHXH, người lao động đóng bằng 5% (nay là 6%) tiền lương tháng. Theo quy định hiện hành, tiền lương và quỹ lương của những người tham gia BHXH là căn cứ để đóng BHXH, tuỳ theo từng khu vực công tác, lĩnh vực công tác mà có những mức đóng khác nhau, cụ thể: - Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp, tổ chức chính trị – xã hội, hội quần chúng, tiền lương tháng của người lao động và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị Định số 35/NQ/UBTVQHK9 ban hành ngày 17/05/1993 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội Khoá 9, Quyết Định số 69/QĐTW ngày 17/05/1993 của Ban Bí Thư, Nghị Định số 25/CP ngày 17/05/1993 của Chính Phủ, Quyết Định số 574/TTG ban hành ngày 25/11/1993 của Thủ tướng Chính Phủ và Nghị Định số 06/CP ngày 21/01/1997 của Chính Phủ. - Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, tiền lương tháng của người lao động và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động được xác định theo các quy định tại Nghị Định số 26/CP ngày 23/05/1995 của Chính Phủ. - Các đơn vị sử dụng lao động đã thực hiện ký kết hợp đồng lao động, việc đóng góp BHXH tính trên tổng quỹ lương hàng tháng, bao gồm tiền lương theo hợp đồng đã ký kết với người lao động có tham gia BHXH theo các quy định và lương của người giữ chức vụ không áp dụng chế độ hợp đồng lao động. - Riêng khối Quốc phòng – An ninh, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những quân nhân, công an nhân dân hưởng lương; còn quân nhân, công an nhân dân đóng bằng 5% tổng mức lương tháng. Mức thu BHXH đối với quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí đóng bằng 2% mức lương tối thiểu theo tổng số quân nhân, công an nhân dân do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng. - Đối với người lao dộng đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, nếu người lao động đã có quá trình tham gia BHXH ở trong nước thì đóng bằng 15% mức lương tháng đã đóng BHXH trước khi ra nước ngoài làm việc; người lao động chưa tham gia BHXH ở trong nước thì mức đóng BHXH hàng tháng bằng 15% của hai lần mức lương tối thiểu của công nhân viên chức trong nước. - Mức thu đối với cán bộ xã, phường, thị trấn đóng 5% mức sinh hoạt phí hàng tháng; Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đóng bằng 10% mức sinh hoạt phí hàng tháng tính trên tổng mức sinh hoạt phí của những người tham gia BHXH. 4.3) Quản lý tiền thu BHXH Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập với Ngân sách Nhà nước, được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, quỹ BHXH có thể nói là hạt nhân của hoạt động BHXH. Do đó, cần phải quản lý chặt chẽ những nguồn thu của BHXH, bên cạnh đó cũng phải tăng cường quản lý đối với số tiền BHXH thu được để hình thành quỹ. Quỹ BHXH cần được quản lý thống nhất ở BHXH Việt Nam, vì vậy tất cả sự đóng góp của người tham gia BHXH đều phải tiến hành chuyển về BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện nguyên tắc trên các đơn vị BHXH các tỉnh (thành phố), huyện được mở các tài khoản chuyên thu BHXH ở hệ thống Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước, các đơn vị sử dụng tài khoản này chỉ để thu tiền nộp BHXH ở khu vực quản lý của mình và định kỳ chuyển số tiền thu được lên cấp trên, từ đó tiền thu BHXH được tập trung thống nhất tại một cơ quan cao nhất là BHXH Việt Nam. Trong quá trình thu BHXH và lưu chuyển số tiền thu BHXH từ đơn vị cơ sở lên BHXH Việt Nam, các đơn vị không được phép sử dụng tiền thu BHXH cho bất cứ một nội dung nào khác, việc quy định như vậy nhằm tránh những thất thoát tiền thu BHXH của các đơn vị, thống nhất nguyên tắc quan trong quá trình hình thành, quản lý quỹ BHXH. 4.4) Mô hình tổ chức quản lý thu BHXH tại cơ quan BHXH huyện Giao Thuỷ BHXH huyện Văn Giang thực hiện công tác thu BHXH dựa theo nguyên tắc chung của BHXH Việt Nam và thông qua một số biểu mẫu sau: - Danh sách lao động và quỹ lương trích nộp BHXH – mẫu C45-BH - Các đơn vị nộp danh sách lên BHXH huyện sau đó chuyển tiền thu lên Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn của huyện và Kho bạc. - Danh sách lao động tăng giảm (khi có sự biến động về lương, người) -mẫu C48-BH - dùng điều chỉnh quỹ trước, mẫu C47-BH - dùng điều chỉnh trong quỹ. Sau khi hết 3 tháng, BHXH quyết toán theo quỹ-mẫu C46-BH - đối chiếu Cũng như các cơ quan BHXH huyện khác, BHXH huyện Giao Thuỷ thực hiện quy trình quản lý thu BHXH đối với từng đơn vị sử dụng lao động theo sơ đồ sau: Báo cáo Xác nhận C45-BH C47-BH Số phải thu kỳ trước chuyển sang Tổng số phải thu trong kỳ Số phải thu trong kỳ Chứng từ nộp C48-BH C46-BH Điều chỉnh số phải thu Điều chỉnh số đã thu Số đã thu trong kỳ Sổ sách kế toán Sổ chi tiết C53-BH Số phải thu chuyển sang kỳ sau - Báo cáo công tác thu theo quý. BHXH huyện Giao Thuỷ tổ chức công tác thu bằng cách tại mỗi cơ sở có một ban chuyên thu BHXH sau đó số thu sẽ chuyển vào tài khoản riêng của BHXH huyện Giao Thuỷ qua hệ thống Ngân hàng. Nếu các cơ sở có sự thay đổi của các yếu tố làm ảnh hưởng tới mức thu thì ban này sẽ báo cáo với BHXH huyện Giao Thuỷ. II . Tình hình chi BHXH 1 - Những vấn đề chung về chi BHXH Chi BHXH là một mặt hoạt động thường xuyên và liên tục của các cơ quan BHXH , chi BHXH là một hoạt động dạng phức tạp. Có thể hiểu hoạt động chi quỹ BHXH như sau: chi BHXH là các khoản chi phí cần thiết để thực hiện hoạt động của BHXH và các hoạt động khác có liên quan tới công tác BHXH. Chi BHXH là hoạt động quan trọng trong công tác BHXH, là một hoạt động không thể thiếu của công tác thực hiện chế độ BHXH bởi vì: - Chi BHXH là một trong những khâu quan trọng để đánh giá sự thành công của công tác BHXH, là nhằm đảm bảo đời sống của người lao động khi không may người lao động gặp phải những rủi ro, những tổn thất cả về vật chất và tinh thần. Nó là khâu chủ yếu quyết định tới sự thành công của công tác BHXH, nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của những đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH. - Chi BHXH là một phần tất yếu quan trọng của công tác BHXH, nó là một mặt không thể tách rời của hoạt động BHXH nói chung. Cùng với hoạt động thu, đầu tư quỹ và những hoạt động khác, chi BHXH là một khâu trong công tác BHXH ; nó hoạt động không thể tách rời với hoạt động khác, được các hoạt động khác của BHXH hỗ trợ bổ sung, hoàn thiện nhưng đồng thời nó cũng hỗ trợ không ít cho các hoạt động khác của BHXH . Chi BHXH là công tác cơ bản, thường xuyên, liên tục và chủ yếu của các cơ quan BHXH. Chi BHXH liên quan trực tiếp tới quyền lợi người lao động. Người lao động sau hki đã đạt được những điều kiện cẫn thiết để được hưởng trợ cấp của các chế độ theo quy định của pháp luật, đó là những quyền lợi mà người lao động mong muốn nhận được khi tham gia vào BHXH . Do đó, chi BHXH đòi hỏi phải tiến hành đày đủ, kịp thời để có thể đáp ứng được yêu cầu của người tham gia BHXH. Chi BHXH là công tác quan trọng không chỉ cho đối tượng được hưởng BHXH mà còn đảm bảo sự thường xuyên, liên tục của công tác BHXH, sự nghiệp BHXH . Chi BHXH không bó hẹp rong phạm vi chi trả cho các chế độ BHXH đó mà còn là công tác BHXH. Đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH thường rất phức tạp và tương đối đa dạng, do đó công tác chi trả BHXH không được phép xảy ra sự sai xót đáng tiếc nào, nếu để xảy ra sai xót không những ảnh hưởng tới quyền lợi của người được hưởng trợ cấp BHXH mà còn ảnh hưởng tới uy tín của ngành BHXH. 2 - Công tác chi BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ 2.1) Các khoản chi BHXH - Chi trả trợ cấp cho người lao động khi đã hội đủ những yếu tố được hưởng trợ cấp BHXH theo đúng các quy định của pháp luật thì được chi trả trợ cấp BHXH , đây là quyền lợi của người lao dộng khi tham gia BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia mà mức chi trả cho các chế độ là khác nhau; ở Việt Nam hiện nay tiến hành chi trả trợ cấp BHXH cho những đối tượng tham gia BHXH theo 5 chế độ: trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đây là nguồn chi thường xuyên và cơ bản nhất của hoạt động BHXH, nguồn chi này thường khá lớn, nó quyết định không nhỏ tới sự thành công của hoạt động BHXH vì có liên quan trực tiếp tới quyền lợi của người lao động được hưởng sau những gì mà họ đóng góp vào quỹ BHXH. Chi cho hoạt động quản lý để duy trì hoạt động của các tổ chức cơ quan BHXH như: chi lương cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức trong ngành, chi cho văn phòng phẩm, chi mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động BHXH. Chi cho các hoạt động nghiên cứu khoa học trong hệ thống ngành BHXH từ những nghiên cứu khoa học đó có thể được áp dụng vào trong thực tế công tác BHXH . Những khoản chi phí khác như: chi tiếp khách của BHXH, chi thẩm tra điều tra chính hồ sơ, chi cho những hoạt động văn hoá - thể thao của ngành. 2.2) Tình hình chi trả BHXH tại BHXH huyện Giao Thuỷ Dựa trên các khoản chi theo quy định nói trên, BHXH huyện Giao Thuỷ đã thực hiện tốt công tác chi trả BHXH đến các đối tượng. Cụ thể tình hình chi trả BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ được phản ánh qua bảng sau: (Trang sau) Như vậy, ta thấy tổng số chi do Ngân sách nhà nước cấp là 17.326.193.200 đồng, so với số quỹ BHXH đảm bảo là 3.989.074.800 đồng thì số chi trả của BHXH huyện Giao Thuỷ do Ngân sách nhà nước cấp còn khá cao (bằng 4,4 lần số chi do quỹ BHXH tự đảm bảo). Nhưng so với vài năm trước đây thì tỷ lệ này đã giảm một cách đáng kể: Năm 2002 tỷ lệ này là 5,7 lần và năm 2001 là 7,1 lần, điều đó thể hiện xu hướng phát triển tốt, đúng hướng của quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ, dần từng bước làm giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Tình hình chi trả BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ năm 2003: Các khoản chi , trả Ngân sách nhà nước Cấp (Đồng) Quỹ BHXH đảm bảo (Đồng) Hưu Quân đội 5.756.152.200 719.506.000 CNVC 8.644.052.000 2.290.022.600 Mất sức 2.230.544.200 - Tai nạn lao động 18.447.600 25.732.800 Tuất Viên chức 586.140.000 150.948.000 Nuôi dưỡng 2.030.000 - 1 lần 69.920.000 12.000.000 Mai táng phí 8.286.000 - ẩm đau - 62.109.600 Thai sản 10.621.200 39.087.900 Dưỡng sức - 101.860.100 Trợ cấp 91 - 471.057.800 T/ C cán bộ xã - 116.750.000 Tổng 17.326.193.200 3.989.074.800 (Nguồn: BHXH huyện Giao Thuỷ) 3 - Những nguyên tắc trong chi BHXH Những nguyên tắc chính của chi BHXH là: - Chi đúng đối tượng, đúng mục đích; - Chi trực tiếp; - Việc chi tiêu phải đảm bảo đúng pháp luật, theo đúng các quy dịnh, chế độ hoạch toán hống kê hiện hành của nhà nước; - Từ những nguyên tắc chính được nêu trên, chi BHXH phải tuân thủ một số quy định sau đây: + Chi cho các chế độ BHXH dài hạn, loại chi này bắt nguồn từ việc bảo hiểm nguồn thu nhập cho người lao động khi về già, mất sức hay bị chết. Đặc điểm của những chế độ BHXH này là thực hiện sau quá trình lao động, quan hệ phân phối là quan hệ mang tính chất hoàn trả, lợi ích th được tương ứng với phần đóng góp. Vì vậy việc chi cho chế độ này phải cân đối với thu, trừ những trường hợp đồng tiền bị mất giá hay nền kinh tế có sự biến dộng lớn mà ngân sách nhà nước phải tài trợ. + Chi cho từng chế độ ngắn hạn phải được cân đối trong phạm vi từng năm, nguồn tài chính này thì BHXH thường để lại cho các cơ quan, doanh nghiệp tự chi. + Chi quản lý BHXH mang tính chất hành chính sự nghiệp, vì vậy người ta thường căn cứ vào thang bảng lương của công nhân viên chức Nhà nước, căn cứ vào thủ tục chi hành chính như các đơn vị hành chính sự nghiệp khác. + Chi cho hoạt động đầu tư, phần chi này thường căn cứ vào dự án điển hình trong đầu tư để thanh quyết toán chi đầu tư. + Các khoản chi khác: Chi tiếp khách, chi cho việc chia lãi. Cuối năm, cơ quan BHXH tiến hành cân đối thu - chi, nếu chi không hết thì lập báo cáo gửi lên cơ quan cấp trên, nếu thiếu chi thì cơ quan BHXH có thể vay ngân hàng để chi cho đủ các chế độ, sau đó thanh quyết toán tháng tới, quý tới. 4 - Quản lý chi BHXH 4.1) Quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể chính là bản thân người lao động và gia đình họ, đối tượng được trợ cấp BHXH có thể được hưởng một lần hay hàng tháng, hàng kỳ; hưởng trợ cấp nhiều lần hay ít tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp (thời gian đóng góp và mức độ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi ro mà người lao động gặp phải. Theo Điều lệ BHXH Việt Nam quy định, chế độ BHXH hiện hành bao gồn những chế độ sau: Chế độ trợ cấp ốm đau; Chế độ trợ cấp thai sản; Chế độ trợ cấp hưu trí; Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Chế độ trợ cấp tử tuất; Ngoài ra, theo quyết định số 37/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 21/3/2001, BHXH còn thực hiện chi cho nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho lao động tham gia BHXH. Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể rất phức tạp về địa điểm chi trả(vùng sâu, vùng xa), cũng như thời gian chi trả, do đó điều quan trọng nhất trong công tác chi trả BHXH là phải quản lý được cụ thể, chính xác từng đối tượng theo từng loại chế độ được hưởng và mức độ hưởng, thời gian được hưởng của họ. Quản lý đối tượng chi trả là công tác thường xuyên, liên tục của các cơ quan BHXH, tránh tình trạng đối tượng chi trả không còn tồn tại mà nguồn kinh phí chi trả vẫn được cấp gây ra sự tổn thất cho quỹ BHXH, dẫn đén tình trạng trục lợi BHXH của các đơn vị và cá nhân. 4.2) Quản lý mô hình chi trả và phương thức chi trả cho các chế độ BHXH Đối tượng chi trả của BHXH rất phức tạp và đa dạng, vì vậy cần phải có một phương thức chi trả hợp lý, cũng do đó đòi hỏi phải có những mô hình chi trả phù hợp sao cho đảm bảo được nguyên tắc chi trả: đúng đối tượng, đúng chế độ, đầy đủ kịp thời, chính xác và an toàn. Chính vì vậy, đòi hỏi ngành BHXH phải quản lý tốt phương thức chi trả và mô hình chi trả BHXH. Hiện nay, BHXH Việt Nam thực hiện những mô hình chi trả BHXH như sau: - Mô hình chi trả trực tiếp: cán bộ BHXH trực tiếp quản lý đối tượng được hưởng BHXH. Mô hình này đòi hỏi phải có đội ngũ chi trả BHXH đủ mạnh để đảm bảo nguyên tắc chi trả đã đề ra; bên cạnh những ưu điểm của mô hình (cán bộ BHXH có thể đi sâu, đi sát nắm vững tình hình của đối tượng BHXH, quản lý tốt đối tượng hưởng BHXH, tránh được tình trạng vi phạm trong các quy định trong công chi trả BHXH), mô hình này vẫn còn những nhược điểm của nó (đòi hỏi công tác lập kế hoạch chi trả thật khoa học, chính xác; cán bộ chi trả có đủ số lượng cần thiết và có nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu của công việc để đáp ứng kịp thời trong chi trả; đối với vùng sâu, vùng xa thì mô hình này gặp nhiều khó khăn). - Mô hình chi trả gián tiếp: chi trả tiền trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH dài hạn thông qua hệ thống các đại lý chi trả ở các xã, phường, thị trấn và đối tượng được hưởng chế độ ngắn hạn thông qua đơn vị sử dụng lao động. Mô hình chi trả BHXH này có một số ưu điểm như: trong một thời gian ngắn có thể chi trả cho một số đối tượng tương đối lớn và rộng khắp; cán bộ chi trả là những người địa phương, do đó có thể đi sâu, đi sát nắm vững tình hình của đối tượng được chi trả; tạo mối quan hệ tốt giữa cơ quan BHXH và chính quyền địa phương; tiết kiệm được chi phí, biên chế trong công tác chi trả BHXH. Tuy vậy, mô hình chi trả gián tiếp này cũng có một số nhược điểm cần khắc phục như: cơ quan BHXH không tiếp xúc trưc tiếp với đối tượng được chi trả, do đó cũng có những khó khăn nhất định trong việc nắm vững tâm tư, nguyện vọng của đối tượng được hưởng BHXH; lệ phí chi trả thấp do đó mà các đại lý chi trả nhiều khi không nhiệt tình trong công tác chi trả BHXH; nhiều đại lý chi trả còn chưa đáp ứng được những yêu cầu về công tác quản lý tài chính của ngành BHXH; thời gian chi trả từ các đại lý chi trả cho đối tượng được hưởng BHXH khó đảm bảo về mặt thời gian. - Một số hình thức chi trả BHXH khác: ngoài hai mô hình chi trả BHXH đã được nêu ở trên, hiện nay vẫn thực hiện theo một số mô hình BHXH khác như: + Mô hình kết hợp chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp. + Mô hình chi trả BHXH trực tiếp tại cơ quan BHXH ở một số địa phương có điều kiện giao thông, đi lại khó khăn, đối tượng hưởng BHXH ít, phân tán, không thể lập dược các đại lý chi trả do đó xuất hiện mô hình này để chi trả cho từng đối tượng được hưởng BHXH ở địa phương, chi trả ở đây không phải hàng tháng , hàng quý mà tuỳ theo nhu cầu được hưởng chế độ BHXH (ví dụ như phù hợp với thời gian đi chợ ở các vùng cao). + Mô hình chi trả BHXH một lần cho những đối tượng hưởng trợ cấp BHXH một lần. Đặc điểm chính cần quan tâm trong công tác chi trả hiện nay là hầu hết việc chi trả các chế độ BHXH cho người được hưởng các chế độ BHXH là bằng tiền mặt, khối lượng tiền mặt chi trả hàng tháng là tương đối lớn, địa bàn chi trả BHXH lại tương đối rộng lớn, thời gian chi trả lại tương đối ngắn (thường từ 1 đếm 5 ngày trong tháng). Vấn đề quản lý mô hình chi trả và phương thức chi trả phải đặt ra ở đây là phải lựa chọn mô hình, phương thức chi trả nào cho thật phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của địa phương nhưng lại đảm bảo nguyên tắc chi trả BHXH đã đặt ra, mô hình chi trả và nguyên tắc chi trả có tác động rất lớn tới công tác chi trả BHXH. BHXH huyện Giao Thuỷ thực hiện việc chi trả các chế độ theo mô hình chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH là chủ yếu, ngoài ra BHXH huyện Giao Thuỷ còn áp dụng hình thức trả gián tiếp qua các ban tại địa bàn các xã. 4.3) Quản lý kinh phí chi trả BHXH Trong hoàn cảnh chi trả BHXH đều được thực hiện bằng tiền mặt, khối lượng tiền mặt chi trả BHXH là tương đối lớn, đối tượng chi trả và địa bàn chi trả khá phức tạp và thường phân tán; do đó vấn đề quan trọng không kém trong công tác chi trả BHXH là phải quản lý nguồn kinh phí chi trả sao cho thật chặt chẽ, thực hiện tốt công tác chi trả để tránh sự thất thoát gây tổn thất cho quỹ BHXH và uy tín của BHXH. Để đạt được mục tiêu chi trả kip thời, đầy đủ cho các đối tượng được hưởng chế độ BHXH; một yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo đủ nguồn kinh phí này phải được phân bổ và điều hành một cách khoa học, do đó công tác lập kế hoạch chi trả phải được đặt lên hàng đầu, kế hoạch chi trả phải phù hợp với từng nhu cầu chi tiêu từng đối tượng hưởng trợ cấp địa phương, vừa đảm bảo nhu cầu người được hưởng BHXH và tránh những thất thoát không đáng có củ nguồn kinh phí chi trả BHXH. Để thực hiện công tác quản lý kinh phí chi trả BHXH thì các đơn vị tiến hành công tác chi trả được mở một tài khoản chuyên chi BHXH ở hện thống ngân hàng và Kho bạc Nhà nước, các đơn vị này chỉ được rút tiền từ tài khoản trên để chi trả cho chế độ BHXH, ngoài ra thì không được phép rút tiền để chi trả bất kì một mục đích nào khác, nhờ đó mà đơn vị cấp trên có thể quản lý và kiểm tra được số kinh phí đã sử dụng và số kinh phí còn dư trên tài khoản của các đơn vị cấp dưới dễ dàng và thuận tiện. 4.4) Quản lý chi cho hoạt động bộ máy và những hoạt động khác Quản lý cho hoạt động bộ máy của hệ thống BHXH là những khoản kinh phí phải chi để đảm bảo cho hoạt động của toàn bộ hệ thống quản lý cả hệ thống BHXH. Chi phí hoạt động quản lý bộ máy BHXH Việt Nam bao gồm rất nhiều những nội dung khác nhau; tuy nhiên nếu xét theo tính chất chi thì có thể chia làm hai tính chất sau đây: - Chi phí cho hoạt động thường xuyên: đó là những khoản chi phí cần thiết nhằm duy trì hoạt động quản lý thường xuyên của bộ máy quản lý của BHXH. Những nội dung chi chủ yếu trong chi phí hoạt đọng thường xuyên thường là những nội dung chi sau: + Quản lý cho những hoạt động._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT114.doc
Tài liệu liên quan