Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn Tỉnh Long An

A.PHẦN MỞ BÀI 1. Lý do chọn đề tài Phát triển kinh tế là mục tiêu đầu tiên của tất cả các nước trên thế giới. Kinh tế có phát triển thì mới có điều kiện nâng cao mức sống vật chất đồng thời tạo môi trường cho phép mọi người được hưởng thụ cuộc sống trường thọ, mạnh khỏe, xóa bỏ nghèo đói. Mà muốn tăng truởng và phát triển kinh tế thì 1 trong những yếu tố quan trọng cần phải có là vốn. Với nguồn vốn này sẽ giúp các doanh nghiệp trang bị máy móc công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực và ứng

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn Tỉnh Long An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng những thành tựu công nghệ mới…dẫn đến tăng khả năng cạnh tranh và đứng vững trong điều kiện hội nhập và sự bùng nổ của nền kinh tế tri thức. Có thể nói nguồn vốn để đầu tư phát triển theo chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm tạo ra nhiều của cải vật chất. Vì vậy nhu cầu về vốn là nhu cầu rất bức xúc và cấp bách. Trong khi đó nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của người dân nằm rải rác khắp nơi. Vì vậy để có thể thu hút được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp phát triển đòi hỏi cần có 1 tổ chức đứng ra làm trung gian. Tổ chức đó là hệ thống Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng với chức năng của mình trực tiếp “hút” ( nghiệp vụ huy động vốn ) và “bơm” ( cho vay ) vốn vào nền kinh tế, vào khắp các ngõ ngách của hoạt động kinh tế, điều tiết vốn giữa các ngành, các vùng 1 cách tối ưu nhất. Có thể nói huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức đặc thù của NHTM là tiêu chí quan trọng và duy nhất để phân biệt giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Vì vậy làm cách nào để hệ thống NHTM nói chung và NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An nói riêng phát huy có hiệu quả chức năng trên của mình, là cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu vốn, đáp ứng được nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế của Tỉnh trong điều kiện thị trường tài chính tiền tệ trong và ngoài nước diễn biến phức tạp: lạm phát cao, giá xăng dầu tăng, NHNN áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, yêu cầu NHTM mua tín phiếu. Trong khi đó, bản thân các ngân hàng lại có vốn điều lệ ít, và sự cạnh tranh của các định chế tài chính trung gian khác. Đó là mối quan tâm của cấp lãnh đạo các ngân hàng trên địa bàn. Chính vì những lý do trên học viên quyết định chọn đề tài “Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An”. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Đề tài chỉ tập trung trình bày thực trạng hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An, những ưu điểm cũng như những khuyết điểm trong hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn. Từ đó đưa ra những giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp từ đó thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển. 3. Phương pháp nghiên cứu Dùng phương pháp lịch sử, thống kê so sánh số tương đối và tuyệt đối, phân tích theo chiều rộng, chiều sâu về hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An. 4. Phạm vi nghiên cứu Do sự hạn chế về thời gian nên đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An ở nước Việt Nam từ năm 2005 đến năm 2007 nhằm đưa ra những giải pháp thích hợp với thực trạng tại địa phương. 5. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn Dựa trên thực trạng công tác huy động vốn trên địa bàn tỉnh, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn tỉnh Long An nhằm thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh đến 2010. 6. Hạn chế của luận văn Luận văn chỉ đi sâu vào nguồn vốn huy động và vay không đi vào nguồn vốn điều lệ và các quỹ. 7. Nội dung và kết cấu của luận văn gồm 6 phần 1.Phần mở đầu 2.Chương 1: Trình bày tổng quan về nguồn vốn huy động của các NHTM. 3.Chương 2: Thực trạng hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An. 4.Chương 3: Những giải pháp đẩy mạnh hoạt động huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An. 5.Kết luận 6.Tài liệu tham khảo CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM. 1.1 Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn 1.1.1 Đối với nền kinh tế Hệ thống NHTM đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn mà hệ thống ngân hàng tập trung hầu hết các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của xã hội, biến tiền nhàn rỗi từ chổ là phương tiện tích lũy trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế. Đây là nguồn vốn rất quan trọng để đầu tư phát triển nền kinh tế vì nó không những lớn về số tiền tuyệt đối mà vì tính chất “luân chuyển” không ngừng của nó. Đặc biệt trong chiến lược phát triển của nước ta là xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng điểm xuất phát thấp, ngân sách còn hạn hẹp, hầu như không có tích lũy từ trước, do đó vốn đầu tư cho các ngành kinh tế phải trông đợi rất nhiều vào nguồn vốn nội lực trong đó nguồn từ các ngân hàng huy động được là rất quan trọng vì nó tạo nên sự ổn định vững chắc cho sự phát triển nhanh ổn định và bền vững lâu dài. Ngoài việc thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội để sử dụng cho đầu tư phát triển bên cạnh đó thông qua nghiệp vụ huy động vốn giúp NHNN kiểm soát khối lượng tiền tệ trong lưu thông qua việc sử dụng chính sách tiền tệ ( tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, tỷ giá….). Chẳng hạn muốn thu hút bớt lượng tiền trong lưu thông, NHNN tăng lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khống chế dư nợ tín dụng, và ngược lại…. nhằm điều hòa lưu thông tiền tệ, kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả. 1.1.2 Đối với NHTM Nghiệp vụ huy động vốn mang lại nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác: tín dụng, đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ, phát triển khoa học công nghệ ngân hàng. Phần lớn vốn huy động bắt nguồn từ các hoạt động huy động nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, cá nhân cũng như từ việc vay mượn các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Nếu không có nghiệp vụ này thì ngân hàng thương mại sẽ không đủ nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của mình bởi vì khi một NHTM được cấp giấy phép thành lập phải có vốn điều lệ theo quy định, nhưng vốn điều lệ chỉ đủ tài trợ cho tài sản cố định như trụ sở, văn phòng, máy móc thiết bị cần thiết cho hoạt động chứ chưa đủ vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình. Chính nguồn vốn này, chứ không phải nguồn vốn sở hữu đã tạo nguồn lực tài chính chủ yếu cho các hoạt động thường là một khoản chi phí lớn nhất đối với ngân hàng. Bên cạnh đó thông qua nghiệp vụ này NHTM có thể đo lường được sự sự tín nhiệm, uy tín của khách hàng đối với ngân hàng qua đó có những giải pháp không ngừng đẩy mạnh hoạt động huy động vốn để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Chính nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết đầu vào của ngân hàng. 1.1.3 Đối với khách hàng Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng 1 kênh đầu tư, làm cho tiền của họ sinh lợi bằng cách gửi tiền vào ngân hàng, được hưởng lãi từ đó tạo điều kiện cho họ tăng khả năng tiêu dùng trong tương lai. Qua nghiệp vụ huy động vốn, Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một nơi an toàn để cất trữ, tích lũy vốn tạm thời nhàn rỗi đồng thời giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận các dịch vụ, đặc biệt dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ tín dụng khi họ cần vốn cho sản xuất hoặc cho tiêu dùng và dịch vụ ủy thác thu hộ, chi hộ giúp họ tiết kiệm thời gian, chi phí vận chuyển, nhân lực và vật lực. 1.2 Đối tượng của nghiệp vụ huy động vốn Ngân hàng huy động từ nhiều nguồn khác nhau: các bộ phận dân cư, công ty kinh doanh, các công ty tài chính, cơ quan chính quyền, kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng nước ngoài, người nước ngoài… Trong đó các NHTM thường chú trọng nhiều đến 2 nguồn vốn chủ yếu: tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi dân cư. Các tổ chức kinh tế thường giao dịch với ngân hàng thông qua việc mở tài khoản tiền gửi thanh toán để được cung cấp các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ ngân quỹ và tiền gửi có kỳ hạn. Ngược lại khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, hoạt động giao dịch chủ yếu với ngân hàng thông qua tài khoản cá nhân và tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng lớn. 1.3 Những vấn đề chung về hoạt động huy động vốn 1.3.1 Các khái niệm Do đặc điểm tuần hoàn vốn, thu nhập và sử dụng thu nhập của các doanh nghiệp, cá nhân trải qua các giai đoạn khác nhau, không khớp về không gian và thời gian, có lúc khách hàng này thừa vốn chưa sử dụng nhưng lại có những khách hàng khác thiếu vốn cần bổ sung. Do đó NHTM với chức năng và nghiệp vụ của mình để làm cầu nối giữa nơi thừa và nơi thiếu. - Khái niệm vốn huy động: vốn huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, nguồn tài nguyên to lớn nhất và quan trọng nhất của bất kỳ NHTM nào. - Dự trữ bắt buộc: là khoản mà Ngân hàng Nhà nước buộc các ngân hàng khác phải nộp để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước được phép ấn định một tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ nhất định theo quy định của Luật ngân hàng nhà nước việt Nam ( Luật số 1/1997/QH10) khoản 1 điều 20 của luật này ghi rõ: “ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại mỗi tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ ”. Số tiền gửi bắt buộc = (tỉ lệ dự trữ bắt buộc) * tổng nguồn vốn huy động bình quân của ngân hàng. Mục đích của dự trữ bắt buộc là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền vào ngân hàng và đảm bảo cho Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh mức cung tiền của Ngân hàng Thương mại. Điều này khiến cho NHTM không thể sử dụng được 100% vốn huy động được để cho vay. * Dự trữ sơ cấp: gồm tiền mặt, tiền gửi Tiền mặt, các khoản coi như tiền mặt. Tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước ( tiền gửi không kỳ hạn). Tiền gửi tại các ngân hàng khác. Các khoản khác ( ngân quỹ đang thu). * Dự trữ thứ cấp là dự trữ không tồn tại bằng tiền mặt và tiền gửi mà bằng chứng khoán, nghĩa là những chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một cách thuận lợi bao gồm tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp nhận, các giấy nợ ngắn hạn khác. Gọi là dự trữ thứ cấp, bởi nó chỉ được sử dụng khi các khoản mục dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt. Khi quản lý mức dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng 1 trong 3 phương pháp: + Phương pháp phong tỏa: theo đó toàn bộ mức dự trữ bắt buộc phải gửi vào một tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và sẽ bị phong tỏa để đảm bảo thực hiện đúng mức dự trữ. + Phương pháp bán phong tỏa: theo đó một phần của mức dự trữ bắt buộc sẽ được quản lý và phong tỏa tại một tài khoản riêng ở Ngân hàng Nhà nước. + Phương pháp không phong tỏa: theo phương pháp này, tiền dự trữ được tính và thực hiện hàng ngày trên cơ sở số dư thực tế về tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Toàn bộ mức dự trữ sẽ không bị phong tỏa, nó có thể tồn tại dưới hình thức tiền mặt hay tiền gửi Ngân hàng Nhà nước, hay dưới dạng chứng khoán ngắn hạn là tuỳ NHTM. Tuy nhiên đến cuối mỗi tháng, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ kiểm tra việc thực hiện dự trữ bắt buộc, nếu các ngân hàng thương mại không thực hiện đúng sẽ bị phạt ( cảnh cáo, phạt tiền nếu tái phạm ). -Hệ số giới hạn huy động vốn: H1= (Vốn tự có/Tổng nguồn vốn huy động) *100% Hệ số này đưa ra nhằm mục đích giới hạn mức huy động vốn của ngân hàng để tránh tình trạng khi ngân hàng huy động vốn quá nhiều vượt quá mức bảo vệ của vốn tự có làm cho ngân hàng có thể mất khả năng chi trả. Để tạo một khoản cách an toàn trong hoạt động của ngân hàng trong mối tương quan giữa vốn tự có và vốn huy động, nếu chênh lệch đó càng lớn thì hệ số an toàn của ngân hàng sẽ càng thấp. Trong đó: +Vốn tự có của ngân hàng gồm: vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia. +Tổng nguồn vốn huy động gồm: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn, các khoản tiền giữ hộ và đợi thanh toán, tiền gửi của Kho bạc Nhà nước (nếu có) . Ở góc độ khác, một số quốc gia còn dùng hệ số này để bảo hộ các ngân hàng trong nước đối với thị trường tiền gửi trong giai đoạn đầu của hội nhập kinh tế quốc tế ( theo công văn số 1210/NHNN-CNH của Ngân hàng Nhà nước, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được nhận tiền gửi VNĐ từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh với mức tiền gửi tối đa và theo lộ trình cụ thể: từ ngày 1/1/2007, tỷ lệ được huy động là 650 % vốn được cấp; từ ngày 1/1/2008 là 800% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2009: 900% vốn được cấp; từ ngày 1/1/2010: 1000% vốn được cấp và sau ngày 1/1/2011 sẽ được đối xử quốc gia đầy đủ. Theo Ngân hàng Nhà nước, cơ chế và lộ trình trên là nhằm thực hiện các cam kết về dịch vụ ngân hàng tại biểu cam kết về dịch vụ trong bộ văn kiện gia nhập tổ chức Thương mại thế giới của Việt Nam ). 1.3.2 Đặc điểm của vốn huy động và các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động 1.3.2.1 Đặc điểm Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn, các ngân hàng hoạt động được là nhờ vào nguồn vốn này và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Nhưng vốn huy động là nguồn vốn không ổn định, vì khách hàng có thể rút tiền của họ mà không bị ràng buộc ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn nên ngân hàng cần duy trì một khoản dự trữ thanh khoản để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Sự thay đổi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Vốn huy động có chi phí sử dụng vốn cao ( do ngân hàng vừa phải trả lãi cho khách hàng gửi, vừa phải trả phí bảo hiểm tiền gửi nhưng lại không được sử dụng hết để cho vay mà phải để lại một phần theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước quy định. ) đồng thời chiếm tỷ trọng chi phí đầu vào rất lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nhưng lại là nguồn vốn có tính cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng bởi vì muốn tăng trưởng tín dụng buộc các ngân hàng phải tăng được nguồn vốn huy động. Ví dụ trong hệ thống ngân hàng BIDV, các chi nhánh muốn tăng trưởng tín dụng phải tuân thủ theo hệ số k ( tổng dư nợ cho vay / tổng nguồn vốn huy động ) được Hội sở chính giao cho từng chi nhánh trong từng thời kỳ. Đặc biệt vốn huy động chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo lãnh, các NHTM không được sử dụng nguồn vốn này để đầu tư. Trong nguồn vốn huy động thì nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh ( kém ổn định ) hơn tiền gửi tiết kiệm. 1.3.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn huy động Quy mô của nguồn vốn huy động chịu sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. - Các nhân tố chủ quan: + Lãi suất: tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người gửi quan tâm tới lãi suất thực, điều đó có nghĩa lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiết kiệm. Do đó việc ấn định lãi suất để thu hút, duy trì sự ổn định lượng tiền gửi của khách hàng đồng thời cạnh tranh với các trung gian tài chính khác là việc vô cùng khó khăn đối với nhà quản trị bởi vì nếu đưa ra lãi suất thấp thì không huy động được ( tâm lý người gửi sẽ chọn nơi có lãi suất cao để gửi ), còn nếu trả mức lãi suất cao thì làm gia tăng chi phí giảm thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Cho nên xây dựng lãi suất cạnh tranh trở nên cần thiết đối với các NHTM nhằm bảo đảm cho khoản thu đủ bù đắp các khoản chi và có lãi. + Chất lượng dịch vụ ảnh hưởng đến quy mô và cấu trúc của nguồn tiền. Khi đánh giá chất lượng dịch vụ của ngân hàng, khách hàng xem xét vào các yếu tố sau: . Sự đa dạng của các dịch vụ: ngân hàng nào có nhiều sản phẩm dịch vụ hơn sẽ có lợi thế hơn các ngân hàng có số lượng dịch vụ giới hạn do ngân hàng có khả năng đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng, tạo cho khách hàng có sự lựa chọn cao hơn. . Đội ngũ nhân sự của ngân hàng: với đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp, các khách hàng sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi nhận được những lời khuyên nhủ và sự hướng dẫn của họ, và vì thế hình ảnh của ngân hàng sẽ có sức sống lâu dài hơn trong lòng khách hàng. . Cơ sở vật chất với một trụ sở kiên cố, các phòng gửi tiền an toàn tiện nghi cũng tạo ưu thế cho ngân hàng đem lại sự tin cậy cho khách hàng. + Chính sách cơ bản trong huy động vốn của ngân hàng: chính sách tín dụng ( khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân cũng gia tăng ), chính sách đầu tư, chính sách ngân quỹ… là một tiêu chuẩn đo lường quan trọng để đánh giá năng lực, trình độ của các nhà quản lý ngân hàng. Một ngân hàng luôn đề ra được những chính sách đúng đắn sẽ được khách hàng tin tưởng rằng việc giao dịch tại ngân hàng này sẽ được điều hành 1 cách chính xác và lành mạnh. - Các nhân tố khách quan như: chính sách tiền tệ, chính sách tài chính của Chính phủ. Thời vụ chi tiêu, động cơ của người tiêu dùng ảnh hưởng đến qui mô, tính ổn định của nguồn tiền. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng qui mô và thay đổi kì hạn của nguồn tiền. Các nhân tố khách quan cũng đóng vai trò quan trọng trong khả năng thu hút tiền gửi tại ngân hàng. 1.3.3 Nguyên tắc huy động vốn 1.3.3.1 Tuân thủ pháp luật trong huy động vốn Các Ngân hàng Thương mại không được huy động vốn quá nhiều so với vốn tự có nhằm đảm bảo khả năng chi trả về sau. Bên cạnh đó các tổ chức tín dụng phải áp dụng lãi suất huy động phù hợp với cơ chế quản lý về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, bởi vì lãi suất là một trong những công cụ để Ngân hàng Nhà nước kiểm soát được lượng tiền trong lưu thông, bình ổn giá cả và chống lạm phát. Bên cạnh đó các NHTM phải có trách nhiệm hoàn trả gốc lãi cho khách hàng vô điều kiện ( bất kể người đi vay có sử dụng vốn có hiệu quả hay không ) do ngân hàng không phải là tổ chức trung gian tài chính thuần túy mà là trung gian tín dụng ( tài chính là sự tài trợ, sự cung cấp vốn, sự cấp phát theo tính chất không có sự hoàn trả. Đối tượng nhận được sự trợ giúp về tài chính không có nghĩa vụ hoàn trả mà chỉ có nghĩa vụ sử dụng tài chính đúng mục đích, đúng yêu cầu. Tín dụng là sự tín nhiệm, lòng tin, là quan hệ vay mượn theo nguyên tắc hoàn trả. ). Ngân hàng Thương mại phải tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định hiện hành. Với việc quy định các Ngân hàng Thương mại tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm mục đính bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền gửi. Cụ thể là nếu ngân hàng nơi người gửi tiền bị phá sản, thì người gửi tiền được công ty bảo hiểm đền bù một khoản tiền nhất định ( hiện nay là 50.000.000 đ / tổng tiền gửi của một khách hàng ). Hơn nữa, ngân hàng phải giữ gìn bí mật số dư và hoạt động của tài khoản khách hàng. Nhưng không được che dấu các khoản tiền lớn và bất thường ( thực hiện các quy định của pháp lệnh chống rữa tiền ). Đồng thời các ngân hàng không được cạnh tranh bất hợp lý (thông tin giả, khuyến mãi bất hợp pháp…) gây ra tâm lý lo sợ, mất lòng tin của người dân đối với ngân hàng. Khi niềm tin của người dân không còn thì họ sẽ rút tiền ồ ạt dẫn đến ngân hàng sẽ gặp rủi ro thanh khoản đi đến phá sản. 1.3.3.2 Thoả mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp nhất Mục đích hoạt động của NHTM là vì lợi nhuận, do đó các NHTM phải đảm bảo được hai yêu cầu chi phí thấp và quy mô cao của nguồn vốn huy động. Với chi phí thấp và quy mô cao sẽ giúp ngân hàng có nguồn vốn rẻ và đủ lớn để tài trợ cho các dự án qua việc cấp phát tín dụng đồng thời làm cho biên độ chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra lớn từ đó tạo lợi nhuận cao. Để có thể cạnh tranh với các tổ chức trung gian tài chính khác đòi hỏi NHTM phải áp dụng đa dạng hoá phương thức trả lãi đi đôi với dự thưởng để thu hút khách hàng và đưa ra nhiều phương thức huy động để hạn chế rủi ro ( rủi ro thanh khoản khi sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn do không huy động được nguồn vốn dài hạn ) và phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng. Do nhu cầu của khách hàng khi gửi tiền vào ngân hàng không chỉ là được an toàn và hưởng lãi, mà còn mong muốn sử dụng các dịch vụ của ngân hàng ( chuyển tiền, thu tiền hộ, chi hộ..) nên NHTM cần kết hợp chặt chẻ giữa huy động vốn với hiện đại hoá dịch vụ ngân hàng. Với sự phát triển của dịch vụ ngân hàng sẽ làm thỏa mản nhu cầu của khách hàng từ đó thu hút được lượng tiền gửi càng nhiều. 1.3.3.3 Ngăn ngừa sự giảm sút bất thường của nguồn vốn huy động Hoạt động của ngân hàng dựa vào chữ tín. Có tin tưởng vào sự quản lý và khả năng trả nợ của ngân hàng, thì người dân mới gửi tiền. Vì vậy để tạo và giữ chữ tín của mình đối với khách hàng, ngân hàng phải đảm bảo khả năng thanh toán, đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình huống của người dân. Bên cạnh việc đảm bảo tốt khả năng thanh khoản, ngân hàng cần nắm bắt kịp thời những thông tin đồn “ nhảm ” về hoạt động kinh doanh của ngân hàng và tìm cách ngăn chặn chúng. Bởi vì nếu không kịp thời ngăn chặn những thông tin đồn nhảm về hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ gây tâm lý sợ mất tiền trong người dân. Từ tâm lý lo sợ đó, người dân sẽ đến rút tiền hàng loạt, khi đó ngân hàng không thể đáp ứng kịp thời nhu cầu rút tiền của người dân ( do nguồn vốn huy động đã sử dụng cho vay chưa thu hồi kịp ). Trong trường hợp đặc biệt khi có sự cố xảy ra, ngân hàng phải có phương án đáp ứng nhu cầu thanh khoản kịp thời ( vay trên thị trường tiền tệ, vay Ngân hàng Nhà nước ) để tránh tâm lý lây lan cho rằng ngân hàng mất khả năng thanh toán càng rộng trong người dân. 1.3.4 Các hình thức huy động vốn của NHTM Nghị định 49/1000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM nhằm cụ thể hoá việc thi hành Luật các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau đây: -Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. -Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. -Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài. -Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sơ đồ 1: Sơ đồ về nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại Vốn huy động Tiền gửi của khách hàng Vốn đi vay Vốn phát hành Tiền Tiền Chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, ký gửi tiết kiệm kỳ phiếu, các giấy tờ có giá khác Tiền gửi Tiền gửi Tiết kiệm Tiết kiệm không kỳ hạn có kỳ hạn không kỳ hạn có kỳ hạn Các hoạt động huy động vốn sẽ lần lượt được chi tiết hoá bằng các nghiệp vụ huy động tiền gửi và nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành chứng từ có giá, đi vay. 1.3.4.1 Nghiệp vụ huy động tiền gửi của NHTM * Một số vấn đề liên quan đến hoạt động tiền gửi -Vấn đề uỷ quyền: người gửi tiền có thể ủy quyền cho người khác để thực hiện các giao dịch như gửi tiền, chuyển nhượng, thanh toán gốc và lãi tại ngân hàng, ra công chứng làm thủ tục ủy quyền. Việc ủy quyền phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành ( cả về nội dung lẫn hình thức ). Căn cứ vào giấy ủy quyền, ngân hàng sẽ chi trả cho người được ủy quyền. -Vấn đề thừa kế: việc thừa kế tiền gửi được thực hiện theo luật quy định: có di chúc và không có di chúc. Ngân hàng sẽ dựa vào tờ di chúc của người gửi tiền để lại làm căn cứ chi trả nếu trong trường hợp có di chúc hoặc dựa vào quy định của pháp luật về thừa kế để chi trả trong trường hợp không có di chúc. -Vấn đề phong tỏa tài khoản tiền gửi, giấy tờ có giá: ngân hàng sẽ thực hiện việc phong tỏa tài khoản theo yêu cầu của cơ quan công quyền khi người gửi tiền có liên quan đến việc tranh chấp nào đó. Trong thời gian phong tỏa không được thực hiện bất kỳ một nghiệp vụ giao dịch nào với tiền gửi này. Ngân hàng cũng thực hiện phong tỏa tiền gửi khi có yêu cầu của phòng kinh doanh hoặc theo yêu cầu của ngân hàng khác khi chủ thẻ cầm cố sổ tiết kiệm để vay vốn tại ngân hàng. -Vấn đề mất sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá: nguyên tắc chung là khách hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc thất lạc mất sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá. Đối với khách hàng khi mất sổ, giấy tờ có giá phải thông báo ngay cho ngân hàng nơi phát hành để ngân hàng kịp thời ngăn chặn mọi bất trắc xảy ra cho người gửi tiền. Ngân hàng từ chối việc báo mất đối với giấy tờ có giá vô danh. -Vấn đề xác nhận số dư tiền gửi: ngân hàng thực hiện xác nhận số dư theo yêu cầu khách hàng khi khách hàng đề nghị và 1 số trường hợp sẽ thu phí dịch vụ này ( như xác nhận số dư để bổ túc hồ sơ đi du học hoặc đi du lịch..). * Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi mang tính đặc thù riêng có của NHTM, là điểm khác biệt giữa NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Chính vì đặc thù này, NHTM thường được gọi là tổ chức nhận tiền gửi trong khi các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được gọi là tổ chức không nhận tiền gửi. -Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kỳ hạn ) a/ Khái niệm: Là loại tiền gửi mà người gửi được sử dụng một cách chủ động và linh hoạt không bị ràng buộc về mặt thời gian, là hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại bằng cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua bán hàng hoá, dịch vụ, nhu cầu nhận chuyển tiền vào tài khoản, như nhận tiền lương hàng tháng, nhận chuyển tiền từ nước ngoài hoặc từ cá nhân khác trong nước. Thanh toán qua ngân hàng là một loại dịch vụ thanh toán, theo đó ngân hàng thực hiện việc trích chuyển tiền từ tài khoản của đơn vị phải trả, bằng cách ghi Nợ vào tài khoản, sang tài khoản của đơn vị thụ hưởng, bằng cách ghi Có vào tài khoản. Để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán này, đòi hỏi khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng. b/ Đặc điểm: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn không phải là những khoản tiền để dành mà là một bộ phận tiền đang chờ để thanh toán. Do đó về mặt pháp lý khi gửi tiền không kỳ hạn theo tài khoản thanh toán đã thể hiện một hợp đồng mặc nhiên giữa khách hàng với ngân hàng. Trong đó ngân hàng có trách nhiệm thực hiện các khoản chi trả cho khách hàng một cách kịp thời chính xác trong phạm vi số dư. Khi gửi tiền vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền bất kỳ lúc nào và không cần báo trước nên khi ngân hàng sử dụng làm nguồn vốn kinh doanh thì rủi ro cao. Do đó phải dự trữ nhiều hơn so với các loại tiền gửi khác. Chính vì vậy ngân hàng, đối với loại tiền gửi này ngân hàng trả lãi suất thấp. Mục đích của người gửi không phải là để được hưởng lợi tức mà để được ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, chính vì vậy lãi suất không phải là công cụ để thu hút nguồn vốn này, mà công cụ chính là dịch vụ mà ngân hàng cung cấp kèm theo phải là dịch vụ có nhiều tiện ích, an toàn, nhanh chóng và chính xác. Loại này tuy biến động thường xuyên nhưng nó vẫn luôn có một số dư ổn định do số tiền gửi vào và rút ra trong một thời kỳ có thể bù trừ cho nhau. Vì vậy nếu sử dụng để làm nguồn vốn cho vay sẽ mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của từng khách hàng thường không lớn, nhưng do là trung tâm tập trung tiền tệ và cung cấp dịch vụ thanh toán, nên Ngân hàng Thương mại có số lượng khách hàng rất đông làm cho tổng số vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của tất cả khách hàng trở nên lớn đáng kể. - Tài khoản vãng lai: Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, chủ tài khoản được quyền ra lệnh cho ngân hàng chi trả trong phạm vi số tiền đã gởi vào. Còn đối với tài khoản vãng lai, thường áp dụng với khách hàng có uy tín, ngân hàng có thể cho thấu chi đến hạn mức phù hợp với thu nhập bình quân của chủ tài khoản nhầm đảm bảo trả nợ vay. Tài khoản vãng lai là công cụ riêng có của ngân hàng ở tầm vi mô. Các doanh nghiệp chỉ mở cho nhau các tài khoản khách nợ, chủ nợ hay phải thu, phải trả. Các công ty tài chính, các tổ chức phi ngân hàng không được mở tài khoản vãng lai cho khách hàng. Để mở tài khoản vãng lai, ngân hàng và khách hàng ký một hợp đồng trong đó hai bên thỏa thuận về hạn mức cho vay, thời hạn, lãi suất, các hình thức đảm bảo như tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của bên thứ ba. Các tranh chấp phát sinh được xử lý theo tố tụng thương mại. Tài khoản vãng lai hoạt động theo nguyên tắc: + Bên nợ ghi mọi khoản tiền khách hàng rút ra sử dụng như rút tiền mặt, thanh toán séc, thẻ, ủy nhiệm chi, trả phí, lãi…luôn cả các khoản ngân hàng trả thay cho khách hàng. + Bên có ghi mọi khoản tiền khách hàng nộp hay thu vào như nộp tiền mặt, séc, chuyển tiền đến, chiết khấu, thu ngân thương phiếu, ủy thác thu cổ tức, lợi tức lãi tiền gởi. Tài khoản vãng lai thuộc loại lưỡng tính, có thể DƯ CÓ hoặc DƯ NỢ tại một thời điểm nhất định. DƯ NỢ khi rút ra nhiều hơn gửi vào, thực chất là khoản tiền mà khách hàng nợ ngân hàng. DƯ CÓ khi gửi vào nhiều hơn rút ra, thực chất là tiền gửi ngân hàng của khách hàng. - Tiền gửi có kỳ hạn a/ Khái niệm: Là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ có thể rút ra khi đáo hạn. Tuy nhiên trong trường hợp bình thường các ngân hàng vẫn cho khách hàng rút tiền trước hạn với điều kiện chỉ được hưởng lãi không kỳ hạn, hoặc hưởng lãi có kỳ hạn tương ứng với thời hạn gửi thực tế. b/ Đặc điểm: Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, chủ tài khoản phải làm thủ tục để rút tiền. Tuy không thuận lợi cho khách hàng bằng hình thức tiền gửi thanh toán không kỳ hạn, song tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kỳ hạn. Tiền gửi có kỳ hạn càng dài thì lãi suất phải càng cao. Tiền gửi có kỳ hạn là có sự ổn định tương đối cao, do đó các NHTM thường sử dụng để cho vay trung, dài hạn. Tiền gửi có kỳ hạn có chi phí sử dụng vốn khá cao. Người gửi tiền có kỳ hạn nhằm mục đích hưởng lãi, ngân hàng muốn tăng khoản này phải trả lãi thoả đáng sao cho người gửi vừa bảo toàn vốn vừa có được một khoản thu nhập ._.hợp lý từ tiền gửi của mình. Do đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao là đòn bẩy, là công cụ chủ yếu để thu hút nguồn vốn này. * Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm - Tiết kiệm không kỳ hạn a. Khái niệm: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là tiền gửi khách hàng có thể gửi và rút ra bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho ngân hàng. b. Đặc điểm: Loại tiền gửi này được thiết kế cho khách hàng cá nhân có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an toàn và sinh lợi nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Đối với khách hàng khi lựa chọn hình thức tiền gửi này thì mục tiêu an toàn và tiện lợi quan trọng hơn là mục tiêu sinh lợi. Đối với ngân hàng, vì là loại tiền gửi này khách hàng muốn rút ra bất cứ lúc nào cũng được nên ngân hàng phải đảm bảo tồn quỹ để chi trả và khó lên kế hoạch sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng. Vì vậy ngân hàng thường trả lãi rất thấp cho loại tiền gửi này. Khác với hình thức tài khoản tiền gửi thanh toán, mỗi lần giao dịch khách hàng phải xuất trình sổ tiền gửi và chỉ có thể thực hiện được các giao dịch ngân quỹ như là gửi tiền và rút tiền chứ không thể thực hiện được các giao dịch thanh toán như trong trường hợp tài khoản tiền gửi thanh toán. Mặc dù số dư trên tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của khách hàng thường không lớn (do chỉ được hưởng lãi suất ở mức thấp) nhưng nếu ngân hàng thu hút được số lượng khách hàng khá lớn thì tổng khối lượng vốn huy động qua hình thức tiền gửi này có thể trở nên đáng kể. -Tiết kiệm định kỳ a. Khái niệm: Tiền gửi tiết kiệm định kỳ là loại tiền gửi mà trong đó có sự cam kết gửi tiền giữa khách hàng và ngân hàng trong 1 kỳ hạn nhất định. b. Đặc điểm: Đối với loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ, người gửi có một số tiền nhàn rỗi trong thời gian dài, họ thường gửi theo hình thức này để được lãi suất cao. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với loại tiền gửi này song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thường được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên giữa các loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi có kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng cao. Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm định kỳ được thiết kế dành cho khách hàng cá nhân có nhu cầu gửi tiền vì mục tiêu an toàn, sinh lợi và thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền trong tương lai. Đối tượng khách hàng chủ yếu của loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên, đáp ứng cho việc chi tiêu hàng tháng hoặc hàng quý. Mục tiêu quan trọng của khách hàng khi chọn lựa hình thức tiền gửi này là lợi tức có được theo định kỳ. Do đó lãi suất đóng vai trò quan trọng để thu hút được đối tượng khách hàng này. Lãi suất trả cho loại tiền gửi tiết kiệm định kỳ cao hơn lãi suất trả cho loại tiền gửi không kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn khác tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào. Đối với tiền gửi tiết kiệm định kỳ khách hàng chỉ được rút tiền gửi theo đúng kỳ hạn đã cam kết, không được phép rút tiền trước hạn. Tuy nhiên để khuyến khích và thu hút khách hàng gửi tiền ngân hàng cho phép khách hàng được rút tiền gửi trước hạn nếu có nhu cầu, nhưng khách hàng chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn, hoặc lãi suất kỳ hạn theo thời hạn gửi thực tế. Tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn có thể phân chia thành nhiều loại. . Căn cứ vào thời hạn có thể chia thành tiền gửi kỳ hạn 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 tháng hoặc lâu hơn đến 36 tháng. . Căn cứ vào phương thức trả lãi có thể chia thành Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi đầu kỳ Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi cuối kỳ Tiền gửi kỳ hạn lĩnh lãi theo định kỳ (tháng hoặc quý) Tiền gửi không kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn có chi phí sử dụng vốn (chi phí trả lãi ) rất thấp. Chính vì vậy các ngân hàng nên tập trung huy động nguồn vốn này thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng mới có hiệu quả. Do tính chất linh hoạt của nó, nên tiền gửi này được sử dụng để cho vay ngắn hạn. Tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn có đặc điểm là sự ổn định tương đối cao do đó các NHTM thường sử dụng để cho vay trung, dài hạn nhưng không được tham gia thanh toán không dùng tiền mặt. Loại tiền gửi này có chi phí sử dụng vốn khá cao. Người gửi tiền nhằm mục đích hưởng lãi, do đó lãi suất hấp dẫn, lãi suất cao là đòn bẩy, là công cụ để thu hút nguồn vốn này. 1.3.4.2 Nghiệp vụ huy động vốn qua phát hành các loại giấy tờ có giá Bên cạnh các hình thức huy động trên, NHTM còn phát hành các loại giấy tờ có giá nhằm bổ sung vốn lưu động của ngân hàng khi vốn tự có và vốn tiền gửi chưa đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh. * Khái quát về các loại giấy tờ có giá - Khái niệm: Giấy tờ có giá là chứng nhận của NHTM phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa NHTM và người mua. - Các thuộc tính của giấy tờ có giá: Mệnh giá là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ. Thời hạn giấy tờ có giá là khoản thời gian từ ngày tổ chức tín dụng nhận nợ đến hết ngày cam kết thanh toán toàn bộ khoản nợ. Lãi suất được hưởng là lãi suất áp dụng để tính lãi cho người mua giấy tờ có giá được hưởng. - Phân loại giấy tờ có giá: + Căn cứ quyền sở hữu: giấy tờ có giá ghi danh và giấy tờ có giá vô danh. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ ghi sổ, có ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ, không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ nó. + Căn cứ vào loại công cụ trên thị trường vốn: giấy tờ có giá thuộc công cụ nợ ( chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ) và giấy tờ có giá thuộc công cụ vốn ( cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu phổ thông, cổ phiếu thường). + Căn cứ vào thời hạn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn. - Các hình thức phát hành giấy tờ có giá + Huy động vốn ngắn hạn qua việc phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn (kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác ): . Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời hạn dưới 12 tháng. . Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn: kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. . Phương thức trả lãi giấy tờ có giá: trả lãi sau ( trả lãi một lần vào thời điểm đáo hạn hay thời điểm thanh toán ), trả lãi trước ( trả một lần tại thời điểm phát hành ), trả lãi định kỳ ( trả lãi theo từng định kỳ cho người sở hữu giấy tờ có giá ). + Huy động vốn dài hạn bằng việc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá dài hạn khác có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên. . Trái phiếu là giấy chứng nhận nợ do các NHTM phát hành để huy động vốn dài hạn, theo đó ngân hàng cam kết sẽ trả lãi và vốn gốc cho các nhà đầu tư mua trái phiếu. Trái phiếu có những thuộc tính sau: Mệnh giá: là giá trị được công bố trên trái phiếu mà nhà đầu tư sẽ nhận lại khi trái phiếu đáo hạn. Lãi suất của trái phiếu là lãi suất nhà đầu tư được hưởng, được công bố và ghi trên trái phiếu. Thời hạn của trái phiếu là khoản thời gian tính từ lúc phát hành cho đến khi trái phiếu đến hạn hoàn trả vốn gốc. Phương thức trả lãi là cách thức ngân hàng áp dụng để xác định và trả lãi được hưởng cho nhà đầu tư. Nhìn chung phương thức trả lãi cũng có thể áp dụng một trong ba phương thức trả trước, trả sau hoặc trả theo định kỳ. . Đặc điểm: việc phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá dài hạn khác làm nguồn vốn hoạt động của NHTM tăng lên, tuy nhiên không làm tăng vốn chủ sở hữu mà chỉ làm tăng nợ dài hạn của ngân hàng. Theo phân loại của Basel II, nợ dài hạn qua phát hành trái phiếu được xem như là vốn cấp II, trong khi vốn chủ sở hữu được xem là vốn cấp I. + Huy động vốn dài hạn bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi: . Trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu mà tổ chức phát hành bán cho các nhà đầu tư, trong đó có thoả thuận đến một thời điểm nào đó sau khi phát hành các nhà đầu tư có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu theo một tỷ lệ chuyển đổi nhất định. . Đặc điểm: trái phiếu chuyển đổi vừa có các tính chất của một chứng khoán nợ, đồng thời vừa có các tính chất của một chứng khoán vốn. Ưu điểm nổi bật của loại trái phiếu này là nhờ đính kèm quyền chuyển đổi thành cổ phiếu nên có thể giúp tổ chức phát hành giảm được chi phí huy động vốn một cách đáng kể. Việc phát hành các loại giấy tờ có giá ( kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu…) nhằm mục đích thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội và ngân hàng sẽ ngưng việc phát hành khi thừa vốn. * Đặc điểm của nghiệp vụ huy động vốn qua việc phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu. - Tính ổn định chắc chắn: những người mua kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, trái phiếu ngân hàng chỉ được hoàn vốn khi đáo hạn. Đây là đặc điểm nổi bật của loại nguồn vốn này. - Lãi suất ( chi phí sử dụng vốn ) thường cao hơn lãi suất tiền gửi định kỳ, do đó hấp dẫn hơn đối với khách hàng. - Loại vốn này không được tái lập thời hạn như tiền gửi có kỳ hạn, nhưng bù lại người sở hữu có thể thế chấp cầm cố để vay vốn tại ngân hàng. 1.3.4.3 Nguồn vốn huy động khác Các nguồn vốn này phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng như khi làm đại lý, dịch vụ thanh toán, bán chứng khoán có giá, làm trung gian thanh toán và các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán như: Tiền gửi ký quỹ là nguồn tiền được khách hàng nộp vào ngân hàng và được ngân hàng phong tỏa theo yêu cầu của bên thứ ba. Loại tiền gửi này nhầm bảo đảm khả năng thanh toán của khách hàng cho bên thứ ba. Ví dụ: để đảm bảo công ty X có khả năng xử lý ô nhiểm môi trường khi đầu tư dự án A, Trung tâm kỹ thuật tài nguyên và môi trường yêu cầu công ty X nộp tiền vào ngân hàng B và yêu cầu ngân hàng B phong tỏa và chỉ giải tỏa khi có văn bản chấp thuận đồng ý giải tỏa của trung tâm. Bên cạnh đó để được ngân hàng cung cấp các dịch vụ: bảo chi séc, bảo lãnh ( bảo lãnh: thanh toán, dự thầu, thực hiện hợp đồng...), mở L/c khách hàng phải nộp vào ngân hàng một khoản tiền dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiết kiệm có kỳ hạn và ngân hàng sẽ phong tỏa để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng khi khách hàng vi phạm hợp đồng đối với bên thứ ba. Tiền tạm giữ là khoản tiền trong quá trình phục vụ nhu cầu thanh toán tiền hàng hoá cho khách hàng, do khách hàng cung cấp thông tin về tên, hoặc tài khoản người thụ hưởng, hoặc ngân hàng phục vụ người thụ hưởng không chính xác nên khoản tiền chuyển đến không được ghi có vào tài khoản người thụ hưởng mà được ngân hàng tạm giữ chờ sự đính chính của khách hàng. Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. Nguồn vốn huy động từ các nguồn trên là nguồn vốn có chi phí rẻ bởi vì thường tồn tại dưới dạng tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kỳ hạn ) mà đối với loại tiền gửi này ngân hàng trả lãi suất thấp. Vì lý do trên cần có chính sách thích hợp để huy động nguồn vốn này. 1.4 Vốn đi vay 1.4.1 Khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng a. Khái niệm: Vốn đi vay là nguồn vốn giúp cho các NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn của mình để đảm bảo duy trì hoạt động một cách bình thường. b. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng + Vốn đi vay chiếm tỷ trọng thấp hơn nguồn tiền gửi trong tổng nguồn, trừ một số ngân hàng chuyên hoạt động bán buôn. + Các khoản đi vay thường là có thời hạn và qui mô xác định trước do đó tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên. Ngân hàng chỉ đi vay lúc cần thiết và hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. + Nguồn vay có thể không chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn. Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời cho ngân hàng. + Việc cho vay của NHNN phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền tệ mà NHNN theo đuổi trong từng thời kỳ. Muốn mở rộng qui mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, một ngân hàng cần vươn tới thị trường liên ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái. + Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ mô, các kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay. 1.4.2 Cơ cấu vốn đi vay 1.4.2.1 Vốn đi vay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Trong một số trường hợp NHTM gặp khó khăn, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét cho vay với thời hạn rất ngắn để giải quyết khó khăn tạm thời trong thanh toán của ngân hàng. Hình thức cho vay chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ). * Tái cấp vốn - Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá. Các thương phiếu và chứng từ có giá đã được ngân hàng thương mại chiết khấu ( hoặc tái chiết khấu ) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những giấy tờ có giá này đến tái chiết khấu tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu và các giấy tờ có giá của NHTM giảm đi và dự trữ ( tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu, giấy tờ có giá có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. - Cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá. Đây là hình thức cho vay của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng xin vay trên cơ sở cầm cố các giấy tờ có giá để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Lãi suất cho vay là lãi suất tái cấp vốn được dùng để thu lãi trên số nợ gốc thực tế khi NHNN cho vay. Lãi suất cho vay do Thống đốc NHNN quy định và điều chỉnh phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Việc cho vay tái cấp vốn bằng đồng Việt Nam của NHNN đối với các Ngân hàng Thương mại dưới hình thức cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá theo nguyên tắc: cấp tín dụng có bảo đảm, cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng. - Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng mà ngân hàng thương mại xuất trình là hình thức tái cấp vốn của NHNN cho các ngân hàng đã cho vay đối với khách hàng. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, giấy tờ có giá, Ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Tái cấp vốn nhằm giúp các NHTM bổ sung nguồn vốn ngắn hạn để họ có thể tiếp tục cho vay đối với các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân, nhờ đó làm gia tăng khối lượng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế. Điều kiện cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng thương mại dễ dãi hay khắc khe phụ thuộc vào mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, uy tín và chất lượng hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng thương mại. * Cho vay thanh toán Khi các NHTM tham gia hệ thống thanh toán bù trừ ( bao gồm cả thanh toán bù trừ thủ công và thanh toán bù trừ điện tử ) nếu ngân hàng nào thiếu vốn ( phần vốn thiếu hụt trong tài khoản tiền gửi thanh toán trong thanh toán điện tử liên ngân hàng ) để thanh toán thì sẽ được Ngân hàng Nhà nước cho thấu chi và cho vay qua đêm để đảm bảo các khoản giao dịch thanh toán bù trừ được thực hiện. Thấu chi trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là việc các ngân hàng được chi vượt số dư có trên tài khoản tiền gửi thanh toán của mình mở tại sở Giao dịch – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngày thanh toán. Cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng là việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho các ngân hàng vay có bảo đảm bằng cầm cố các giấy tờ có giá trong khoảng thời gian tính từ cuối ngày làm việc hôm trước đến 8 giờ 30 phút ngày làm việc liền kề tiếp theo. Các ngân hàng được thấu chi để bù đắp thiếu hụt vốn thanh toán tạm thời trong ngày thanh toán điện tử liên ngân hàng. Các ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho vay qua đêm để tất toán khoản thấu chi tại thời điểm cuối ngày làm việc. Nhờ loại cho vay này mà hệ thống thanh toán bù trừ được tiến hành một cách thuận lợi, nhanh chóng. Ngoài ra đối với những ngân hàng thương mại nào bị mất khả năng chi trả, thì NHNN còn cho vay khôi phục năng lực chi trả để vừa giúp NHTM đó khắc phục sự cố, vừa tạo ổn định chung cho toàn hệ thống ngân hàng. 1.4.2.2 Vốn đi vay các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác Loại vay này còn được gọi là vay trên thị trường tiền tệ. Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng: đây là trường hợp ngân hàng có lượng tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước thấp không đủ đáp ứng cho nhu cầu chi trả. Khi đó dưới sự tổ chức của Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng này sẽ được vay của một ngân hàng khác có lượng tiền gửi thừa tại Ngân hàng Nhà nước, vì khoản cho vay là một bộ phận của tiền gửi thanh toán nên thời gian vay thường chỉ là một ngày ( vay qua đêm ). Ngoài ra, các ngân hàng có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau không qua thị trường liên ngân hàng: tại đây các ngân hàng thiếu thanh khoản sẽ vay các ngân hàng thừa thanh khoản. Nguồn vay mượn từ các ngân hàng là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. Vay trên thị trường này có lợi cho cả đôi bên vừa giúp ngân hàng thiếu thanh khoản có tiền ngay vừa giúp những ngân hàng dư tiền tạm thời cho vay sinh lời. 1.5 Vốn khác Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi ( lãi suất danh nghĩa bằng không ). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng là rất đáng kể. Ví dụ để có các nguồn ủy thác ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ...Nhìn chung các nguồn vốn khác trong ngân hàng thường không lớn ( trừ một số ngân hàng có các dịch vụ ủy thác cho Nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc tế ). 1.5.1 Vốn tiếp nhận Là nguồn vốn tài trợ của chính phủ, của các tổ chức tài chính tiền tệ và các tổ chức đoàn thể-xã hội được chuyển qua NHTM để cho vay trung và dài hạn thuộc kế hoạch xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước để thực hiện các chương trình, dự án có mục tiêu định trước về phát triển kinh tế xã hội, cải tạo môi trường sinh thái… Nguồn vốn tiếp nhận vì đã có đối tượng sử dụng xác định theo mục tiêu cụ thể, rõ ràng, nên các ngân hàng khi tiếp nhận nguồn vốn này bắt buộc phải thực hiện đúng hướng dẫn và yêu cầu của nhà tài trợ. Kết quả hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. Chỉ những NHTM nào có uy tín, đủ điều kiện về mạng lưới, đội ngũ cán bộ chuyên môn và yêu cầu trình độ kỹ thuật mới có thể tiếp nhận được nguồn vốn này. 1.5.2 Vốn khác Ngoài các nguồn vốn nói trên, các NHTM còn có các nguồn vốn khác phát sinh trong quá trình hoạt động như các khoản phải trả, các khoản tiền tạm gửi theo quyết định của toà án. Kết luận chương I Tóm lại, trong chương 1 đã trình bày và phân tích tổng quan về nguồn vốn huy động của các NHTM giúp cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng, các nguyên tắc, nghiệp vụ huy động vốn cũng như các đặc điểm của từng nguồn vốn và những nhân tố ảnh hưởng đến chúng từ đó giúp cho các NHTM có những giải pháp để quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi ro thanh khoản, giữ vững uy tín, thu hút được nhiều nguồn vốn trong xã hội và mang lại lợi nhuận cao nhất. Đồng thời để biết được các NHTM trên địa bàn nắm bắt và vận dụng được những điều trên như thế nào chúng ta đi vào chương 2 tìm hiểu về thực trạng huy động vốn của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long An. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LONG AN 2.1 Đặc điểm, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Long An 2.1.1 Đặc điểm chung Tỉnh Long An là nhịp cầu nối liền thành phố Hồ Chí Minh ( 1 trong những trung tâm kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật của cả nước ) và vùng đồng bằng Sông Cửu Long ( dựa lúa lớn của cả nước ). Có thể nói Long an có vị trí rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng. Với hệ thống sông Vàm cỏ Đông, Vàm cỏ Tây nổi tiếng, cửa sông Soài Rạp hướng ra biển Đông, đường biên giới giáp với Camphuchia khá dài ( 137.7 km ), 2 cửa khẩu Bình Hiệp, Mỹ Quý Tây và 3 cửa khẩu phụ giúp Long An có cơ hội để phát triển giao thông đường biển, hoạt động biên mậu, tổ chức khai thác tốt thị trường Campuchia. Tính đến năm 2007, Tỉnh có một thị xã và 13 huyện. Thị xã Tân an là trung tâm hành chính của Tỉnh với tổng dân số là 1.434.506 người trong đó dân thành thị 249.262 người ( chiếm tỷ lệ 17.4% ), dân nông thôn là 1.185.244 người ( chiếm tỷ lệ 82.6% ), mật độ dân số 319 người/km2. Trong đó nông thôn chiếm đa số, lao động nông nghiệp chiếm 80 %. Diện tích 4.491,221 km2 bằng 1.3 % diện tích cả nước và 14,5 % diện tích đồng bằng Sông Cửu Long cung cấp trên 50% sản lượng lương thực của cả nước. Khi đến Long An, chúng ta sẽ thấy được một tiềm năng với hệ sinh thái vùng Đồng Tháp Mười, khu du lịch sinh thái làng nổi Tân Lập, khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen ( huyện Tân Hưng ) đa dạng và phong phú về chủng loại động vật và thực vật. Ngoài việc được thiên nhiên ưu đãi, bản thân người dân Tỉnh Long An cũng cần cù, chịu khó trong lao động nhưng rất anh dũng trong chiến đấu. Những khu di tích lịch sử cách mạng cũng như di sản văn hoá như Bình Thành ( huyện Đức Huệ ), Đồn Rạch Cát ( huyện Cần Đước- là một di tích kiến trúc quân sự của Pháp ở vùng Đông Nam Á ), di tích lịch sử vàm Nhật Tảo ( huyện Tân Trụ ), lễ hội Lam Chay ( huyện Châu Thành ), …là niềm hảnh diện của người dân Long An. Tất cả những yếu tố trên tạo điều kiện cho Tỉnh phát triển du lịch sinh thái và nhân văn. Tình hình phát triển kinh tế -xã hội của Tỉnh Long An Kinh tế Long An trong những năm gần đây liên tục phát triển với tốc độ cao, tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm (2005: 10.9%, 2006: 11.2%, 2007: 13.5% ), thu nhập bình quân đầu người tăng từ 1049 USD lên 1400 USD (năm 2007). Đến cuối quý 1/2008 toàn tỉnh có 16 khu công nghiệp với diện tích 6.907 hecta và 46 cụm công nghiệp với diện tích 6.960. Tỉnh đã san lấp mặt bằng đủ điều kiện giao cho nhà đầu tư 262 hecta, chủ yếu trên địa bàn huyện Đức Hòa. Lũy kế đến nay đã hoàn tất việc chi trả bồi thường giải phóng mặt bằng tại các khu công nghiệp là 3.735,22 ha, đủ điều kiện để giao cho nhà đầu tư thuê lại chiếm 51,47% tổng diện tích các khu công nghiệp toàn tỉnh. Có tới 3.636 doanh nghiệp trong và ngoài nước hoạt động tại Tỉnh với tổng vốn đăng ký đầu tư 20.180 tỷ đồng ( kể cả các trường hợp điều chỉnh tăng vốn). Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của khu và cụm công nghiệp, nhiều danh mục công trình đã và đang đầu tư trên địa bàn như quốc lộ N1, N2, 50, đường cao tốc tạo điều kiện thuận lợi để phát huy lợi thế phát triển kinh tế. Long An là tỉnh có cơ cấu kinh tế nông-công nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tương đối phát triển. Từ những năm 2005 cơ cấu kinh tế tỉnh Long An có những chuyển biến rõ rệt theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ giảm tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp và ngư nghiệp. Bảng 2.1: Cơ cấu tỷ trọng (%) các khu vực trong GDP của Tỉnh Long An (2005-20007) Đơn vị: % 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 Nông nghiệp,lâm nghiệp & ngư nghiệp 42.2 38.3 36.1 Công nghiệp và xây dựng 28.31 31.9 33.7 Dịch vụ 29.4 29.7 30.1 (Nguồn: Cục thống kê Tỉnh Long An) Biểu đồ 1: cơ cấu tỷ trọng các khu vực trong GDP của Tỉnh Long An Chỉ tiêu công nghiệp năm 2007 Long An được xếp thứ 2 khu vực đồng bằng Sông Cửu Long ( sau tỉnh Cần Thơ ) với giá trị sản xuất công nghiệp đạt 11.695 tỉ đồng, xếp thứ năm vùng kinh tế trọng điểm Phía Nam và xếp thứ 13 so với cả nước. Tình hình kinh tế- xã hội địa phương phát triển đã tạo nên sức hút trực tiếp đối với các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng. Trong 3 năm gần đây đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng trên địa bàn Tỉnh với sự ra đời của hàng loạt các NHTMCP. Đến nay, tại Long An đã có 20 ngân hàng với nhiều phòng giao dịch và điểm giao dịch ra đời, hoạt động ngân hàng mang tính cạnh tranh mạnh mẽ. 2.2 Tình hình hoạt động của các NHTM trên địa bàn 2.2.1 Tổ chức mạng lưới của hệ thống ngân hàng trên địa bàn Tỉnh Long An Đứng đầu là NHNN, dưới là hệ thống NHTM Nhà Nước và hệ thống NHTMCP với mạng lưới rộng khắp. Sơ đồ 2: Sơ đồ về tổ chức mạng lưới của hệ thống NHTM trên địa bàn NHNN VIỆT NAM CHI NHÁNH LONG AN Chi nhánh NHTMNN Chi nhánh NHTMCP Công thương, Nông nghiệp, Đầu tư & ACB,Sacombank, OCB, Phương Phát triển, ngân hàng Chính Sách Xã Nam, Đại Tín, Đệ Nhất, Nam Hội, ngân hàng Phát Triển Nhà Đồng Việt, VP Bank, PG Bank, SCB, Bằng Sông Cửu Long, ngân hàng Phát. Rạch kiến, An Bình, Đông Á., Triển. VCB. - Hệ thống NHTM Nhà nước gồm: ngân hàng Công Thương (chi nhánh Long an, chi nhánh Châu Thành, chi nhánh Bến Lức), ngân hàng NN&PT Nông Thôn, Ngân hàng Chính Sách xã hội, ngân hàng Đầu Tư & Phát Triển, ngân hàng Phát Triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long, ngân hàng Phát Triển. - Hê thống NHTM cổ phần gồm: ACB, OCB, Sacombank, VPBank, Đông Á, Nam Việt, Phương Nam, An Bình, Đại Tín, SCB, Rạch kiến, PG Bank, VP bank, VCB. Các ngân hàng thương mại trên địa bàn ngày phát triển mạng lưới rộng khắp các huyện ( Bến Lức, Đức Hoà, Mộc Hoá….), thị xã trong tỉnh. Cùng với việc phát triển mạng lưới, các ngân hàng thường rất quan tâm đến việc xây dựng cơ sở vật chất: cải tạo nâng cấp các chi nhánh, phòng và điểm giao dịch, quầy giao dịch tạo nên sự thuận tiện cho khách hàng, trang bị hệ thống máy vi tính hiện đại và phương tiện chuyên dùng. Để chiếm lĩnh thị phần các NHTM đã nghiên cứu cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ mới, phù hợp với nhu cầu của khách hàng, đổi mới cung cách phục vụ “ Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi ”. Chính sự đổi mới từ nhận thức đến hành động đã giúp các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn đạt được kết quả đáng kể được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2.2: báo cáo chi tiết về hoạt động kinh doanh của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Đơn vị: Triệu đồng Tên ngân hàng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 30/6/2008 NHCông Thương Nguồn vốn huy động 458.654 477.388 712.188 664.973 Dư nơ 875.773 967.369 1.387.672 1.763.975 Lãi ( lỗ ) 17.590 -2.192 35.003 38.413 NHCT Long An Nguồn vốn huy động 295.256 445.617 464.118 Dư nơ 636.175 953.906 1.222.133 Lãi ( lỗ ) - 6.212 31.316 34.181 NHCT Châu Thành Nguồn vốn huy động 40.552 63.052 83.247 Dư nơ 206.701 250.650 281.241 Lãi ( lỗ ) 2.452 2.124 25 NH CT Bến Lức Nguồn vốn huy động 141.580 203.519 117.608 Dư nơ 124.493 183.116 260.601 Lãi ( lỗ ) 1.568 1.563 4.207 NH No&PTNT Nguồn vốn huy động 1.744.229 1.955.083 3.419.507 3.554.948 Dư nơ 3.324.530 3.651.261 4.030.240 4.162.018 Lãi ( lỗ ) 122.993 114.047 73.477 -10.191 NH Ngoại Thương Nguồn vốn huy động 7.038 50.680 135.202 189.379 Dư nơ 6.370 145.005 488.301 758.845 Lãi ( lỗ ) -1.747 459 230 2.561 NH ĐT&PT Long An Nguồn vốn huy động 287.159 316.968 432.666 419.658 Dư nơ 398.935 437.599 462.334 497.517 Lãi ( lỗ ) 4.849 4.628 14.619 7.394 NHPT nhà ĐBSCL Nguồn vốn huy động 196.445 223.708 302.989 320.886 Dư nơ 687.650 622.156 547.865 605.824 Lãi ( lỗ ) 5.257 3.752 17.015 17.271 NH CSXH Nguồn vốn huy động 12.034 16.065 15.832 14.995 Dư nơ 323.351 466.520 709.301 797.153 Lãi ( lỗ ) -2.832 2.524 14.364 8.946 Các NH TMCP Nguồn vốn huy động 268.050 601.744 1.761.353 2.651.827 Dư nơ 365.608 564.773 1.466.977 2.237.214 Lãi ( lỗ ) 8.858 11.291 18.581 16.126 Quỹ TDND Nguồn vốn huy động 160.578 189.385 270.213 257.621 Dư nơ 198.395 231.597 257.728 262.463 Lãi ( lỗ ) 6.063 5.902 4.862 2.194 ( Nguồn: Báo cáo của NHNN Tỉnh Long An ) Qua bảng số liệu 2.2 cho chúng ta thấy kết quả kinh doanh của các NHTM về dư nợ, nguồn vốn, lợi nhuận phần lớn là năm sau luôn cao hơn năm trước. Riêng NH N0&PTNT mặc dù chiếm thị phần về nguồn vốn huy động, dư nợ cao nhất trên địa bàn, tốc độ nguồn vốn và dư nợ năm sau luôn cao hơn năm trước nhưng lợi nhuận lại giảm do đặc điểm kinh doanh của chi nhánh gắn liền với vật nuôi và cây trồng nên chịu ảnh hưởng từ điều kiện khí hậu khắc nghiệt trong 3 năm qua như thiên tai, dịch cúm gia cầm, lũ lụt.... làm cho lợi nhuận giảm sút. Các NHTMCP dù ra đời sau nhưng có sự phát triển nhanh về số lượng nguồn vốn huy động, dư nợ cũng như lợi nhuận thu được do các NHTMCP có lợi thế về đội ngũ cán bộ trẻ, năng động và được đào tạo, sản phẩm dịch vụ đa dạng ( tiết kiệm đảm bảo giá trị vàng, tiết kiệm vàng, sàn vàng, ...), tiêu chí chất lượng đặt ra hàng đầu. Chẳng hạn ngân hàng ACB thành lập ban quản lý chất lượng để đánh giá chất lượng phục vụ của đội ngũ nhân viên. 2.2.2 Nhiệm vụ của các NHTM trên địa bàn Tỉnh Long an - Công tác huy động vốn ( nhận tiền gửi của tổ chức và cá nhân, phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác ) là nhiệm vụ thường xuyên của NHTM. Đồng thời NHTM thực hiện việc cho vay dưới nhiều hình thức: cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống; cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống theo luật các TCTD và các luật khác (l._.a USD tích trữ đầu cơ dẫn đến tỷ giá VND/USD tăng mạnh và nguồn vốn của ngân hàng giảm. - NHNN nên cho phép tất cả các chi nhánh NHTM cấp huyện tham gia trực tiếp bù trừ điện tử, mở rộng phạm vi thanh toán điện tử liên ngân hàng ( hiện nay chỉ có 5 địa bàn là được phép: Hà Nội, TPHCM, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng ) nhằm đẩy nhanh tốc độ thanh toán cho khách hàng. - Xây dựng chế độ tiền lương cho đội ngũ nhân viên, đặc biệt các chuyên gia đầu ngành, chuyên viên ở khu vực kinh tế nhà nước có mức thu nhập, phúc lợi an sinh xã hội một cách hợp lý nhằm tạo thu nhập ổn định cho họ. * Xây dựng luật bảo vệ người gửi tiền Với quy chế bảo hiểm tiền gửi hiện nay với mức bảo hiểm tiền gửi là 50.000.000 đ và loại tiền gửi được bảo hiểm là tiền đồng thì chưa thật sự bảo vệ quyền lợi của người gửi do đó cần nâng mức bảo hiểm tiền gửi và loại tiền được bảo hiểm. Nên chăng Chính phủ ban hành luật bảo vệ người gửi tiền nhằm bảo đảm mọi quyền lợi và lợi ích của người gửi tiền khi có bất cứ chuyện gì xảy ra và buộc các NHTM cần nghiêm túc thực hiện. Phổ biến rộng rãi luật này trong toàn dân trên các phương tiện thông tin, quầy giao dịch và hội nghị khách hàng của ngân hàng. Việc thực hiện điều này khẳng định được uy tín của hệ thống ngân hàng và tạo cho người dân lòng tin đối với ngân hàng. Có thể nói lòng tin của người dân là yếu tố cơ bản và quyết định để một NHTM tồn tại và phát triển. * Xây dựng cơ chế giám sát, tăng cường công tác kiểm tra của NHNN - NHNN nghiên cứu cơ chế kiểm soát luồng vốn đầu tư gián tiếp và thông tin kịp thời cho các NHTM biết để dự phòng rủi ro trong trường hợp các nhà đầu tư rút vốn hàng loạt làm ảnh hưởng đến tỷ giá và nguồn vốn của các NHTM. - Chính phủ cần kiểm tra và đề cao trách nhiệm của cơ quan quản lý xuất nhập khẩu, bảo đảm cân đối tránh nhập siêu quá mức gây biến động tỷ giá thiệt hại cho các doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, kiểm tra, kiểm soát và kiên quyết xử lý các doanh nghiệp cố tình đầu cơ găm hàng làm giá. - Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, đảm bảo đủ số lượng, chất lượng của cán bộ thanh tra ( qua việc tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp lại đội ngũ thanh tra, tổ chức thi tuyển để lựa chọn, bổ sung những cán bộ có năng lực trình độ phẩm chất đạo đức tốt ). NHNN yêu cầu các NHTM định kỳ gửi báo cáo kịp thời, theo dõi chặt chẽ việc chỉnh sửa khắc phục những tồn tại sau đợt kiểm tra. Điều này giúp NHNN phát hiện kịp thời những sai lầm ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác thanh kiểm tra ( như việc các ngân hàng không được thu phí cho vay dưới bất kỳ hình thức nào, lãi suất cho vay không được vượt trần, việc tăng lãi suất huy động phải chứng minh phương án sử dụng vốn hiệu quả ) nhằm đạt mục tiêu giữ vững an toàn hệ thống ngân hàng. * Chính phủ cần có cơ chế ưu đãi Xuất phát từ đặc điểm là Tỉnh nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long hội nhập vào vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, do đó Chính phủ cần có cơ chế ưu đãi về đầu tư hạ tầng thu hút đầu tư xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn giúp việc sản xuất giao lưu hàng hóa giữa các vùng. 3.2.1.2 Đối với các Bộ ngành có liên quan - Các cơ quan chức năng nghiên cứu, dự báo một cách khoa học sự biến động của luồng vốn đầu tư nước ngoài đồng thời kiểm soát được chúng, cũng như từng loại thị trường, tình hình thế giới để thông báo kịp thời cho người dân và các cơ quan liên quan từ đó có kế hoạch đối phó kịp thời. Ví dụ dựa trên dự báo của bộ kế hoạch đầu tư về kế hoạch đầu tư nước ngoài mà các cơ quan trong nước có kế hoạch ngay từ đầu để kiểm soát lạm phát tốt hơn như xây dựng cơ cấu đầu tư bảo đảm cân đối giữa các ngành tránh chỉ dồn vào một số ngành như đô thị, nhà hàng, bất động sản nên hướng tới những ngành khác đang cần như xây dựng hạ tầng, đường xá… - Thành lập hệ thống bảo hiểm sản xuất, vật nuôi để giúp người dân giảm thiểu rủi ro khi có sự biến động giá cả, thiên tai ( cúm gia cầm, heo tai xanh, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm …) giúp người dân có khả năng trả nợ ngân hàng, tránh rủi ro tín dụng xảy ra cho ngân hàng do nguyên nhân khách quan. - Ủy ban nhân dân Tỉnh có giải pháp chỉ đạo kiên quyết thực hiện theo chỉ thị 20 thanh toán lương qua thẻ ATM của Thủ Tướng chính phủ và kịp thời tuyên bố phá sản những doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, xử lý dứt điểm các khoản nợ tồn đọng của ngân hàng. - Bộ tài chính cần ban hành quy định về chế độ báo cáo tài chính, kiểm toán đối với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các NHTM có được những thông tin về tình hình tài chính chính xác của doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng từ đó giảm thiểu rủi ro thanh khoản. - Sở tài chính và kho bạc nên giảm thiểu thủ tục hành chánh, đẩy nhanh tốc độ thanh toán khối lượng cho các đơn vị vừa giúp gia tăng nguồn vốn ngân hàng vừa đẩy nhanh vòng quay vốn của các doanh nghiệp. - Hiệp hội ngân hàng nên có quyết định khung tối đa về biểu phí dịch vụ trong hệ thống ngân hàng tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, chống phá giá đảm bảo nguồn thu cho hệ thống ngân hàng để đầu tư phát triển dịch vụ mới, tạo nên tính nhất quán và hình ảnh của ngân hàng đối với khách hàng. 3.2.2 Các giải pháp gắn với hoạt động nghiệp vụ của NHTM trên địa bàn: 3.2.2.1 Nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành. - Hoạch định chiến lược, lập kế hoạch kinh doanh tới việc tổ chức thực hiện kế hoạch theo mục tiêu hướng tới khách hàng, tới từng sản phẩm, đưa ra kế hoạch cho từng giai đoạn, từng phòng ban, và từng CBCNV, gắn trách nhiệm và các quyền lợi với việc hoàn thành kế hoạch, xem đó là tiêu chí làm cơ sở để xét khen thưởng cuối năm. - Lãnh đạo phải tiến hành tổ chức tự đào tạo về văn bản chế độ cho cán bộ tại chi nhánh đồng thời phải quán triệt cho toàn thể CBCNV tất cả sản phẩm hiện có của ngân hàng, nêu được sự tiện ích và sự khác biệt của từng loại sản phẩm. Ban giám đốc thành lập phòng đầu mối xây dựng và thống kê các sản phẩm với sự cập nhật thường xuyên nhằm nâng cao sự hiểu biết cho đội ngũ CBCNV để quảng cáo sản phẩm dịch vụ đến khách hàng một cách thống nhất và trung thực. Chính điều này làm cho mỗi CBCNV là một người tiếp thị chuyên nghiệp. - Nâng cao nhận thức cho CBCNV hiểu vai trò, tầm quan trọng của công tác huy động vốn và nhận thức đúng đắn trong công tác huy động vốn, huy động vốn cần gắn với hiệu quả sử dụng vốn, khai thác tốt mối quan hệ xã hội của mỗi CBCNV trong công tác huy động vốn. - Tăng cường tính chủ động, đẩy mạnh phong trào phát huy sáng kiến cải tiến trong quản lý, kinh doanh và xây dựng cơ chế động viên khen thưởng kịp thời. - Nâng cao công tác kiểm tra, kiểm soát là một việc làm thường xuyên và quan trọng vừa thúc đẩy nhân viên rèn luyện nâng cao trình độ hạn chế rủi ro tác nghiệp. Do đặc điểm của nguồn vốn huy động là có tính chất hoàn trả cả gốc và lãi, nếu không kiểm tra kiểm soát kịp thời sẽ dẫn đến việc huy động vốn không đi vào ngân hàng, tính lãi tiền gửi không đúng, sử dụng vốn không đúng mục đích dẫn đến mất vốn, chất lượng phục vụ kém, gây rủi ro thanh khoản, làm mất lòng tin của người gửi tiền. - Dựa vào mật độ dân cư, sự phát triển mạnh mẽ của khu và cụm công nghiệp đi kèm theo đó là một khối lượng doanh nghiệp đáng kể. Chính số lượng doanh nghiệp to lớn chứa đựng khối lượng vốn tạm thời nhàn rỗi nhiều đi đôi với nhu cầu vốn lưu động càng cao. Hệ thống Ngân hàng cần có kế hoạch phát triển kênh phân phối như mạng lưới chi nhánh ( phòng giao dịch, chi nhánh, bàn tiết kiệm..), mạng lưới hiện đại ( ATM, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng ), liên kết với bên thứ 3 ngoài ngân hàng như các doanh nghiệp Bưu chính, Viettel, tập đoàn dầu khí…. để thực hiện bán chéo sản phẩm. - Tổ chức thời gian mở cửa giao dịch phù hợp qua việc chia ca làm việc bảo đảm đem lại sự tiện lợi cho mọi người nhất là những công nhân, CBCNV làm trong giờ hành chính, giảm thủ tục hành chính. Thường xuyên bồi dưỡng và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cho CBCNV. - Xây dựng ngân sách cho công tác marketing giới thiệu sản phẩm. Tổ chức bộ phận riêng hướng dẫn cung cấp cho khách hàng mới giao dịch lần đầu các thông tin về sản phẩm dịch vụ, tỷ giá, lãi suất, biểu phí,...tạo cảm giác hài lòng cho khách hàng khi đến giao dịch. 3.2.2.2 Năng động và sáng tạo trong việc đa dạng hoá sản phẩm huy động vốn - Dựa vào tính chất của từng loại nguồn vốn mà đưa ra chiến lược huy động vốn thích hợp. . Đối với tiền gửi thanh toán mục đích người gửi tiền không gì tiền lãi mà là sự tiện lợi, nhanh chóng do đó để thu hút nguồn vốn này nên phát triển dịch vụ: chuyển tiền, rút tiền liên chi nhánh, trang bị hệ thống máy rút tiền tự động… . Tiền gửi ký quỹ ( ký quỹ bảo lãnh dự thầu, thực hiện hợp đồng, ứng trước, mở L/C ): phát triển bảo lãnh và tín dụng chứng từ vừa tăng nguồn vốn vừa tăng thu nhập vì đây là nguồn vốn rẻ ( trả lãi suất không kỳ hạn ) nhưng có thời hạn gửi dài, đồng thời thu được phí dịch vụ khi thực hiện 2 mảng nghiệp vụ này. . Tiền gửi có kỳ hạn: mục đích của người gửi tiền là tiền lãi do chưa sử dụng nên lãi suất là quan trọng. Vì vậy phải có chính sách lãi suất linh hoạt và có tính cạnh tranh như đưa ra lãi suất rút trước hạn, lãi suất phân tầng theo số dư… - Đánh giá phân loại các sản phẩm hiện có, cơ cấu lại toàn bộ các sản phẩm tiền gửi với việc phân tích rõ đối tượng khách hàng từ đó nghiên cứu xây dựng sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu, tâm lý tập quán của người gửi tiền theo hướng phân đoạn khách hàng dựa trên các tiêu thức: độ tuổi, giới tính, tâm lý tiêu dùng, khả năng kinh tế, khu vực địa lý, ngành nghề…. Ví dụ nhằm đám ứng nhu cầu bảo toàn giá trị tài sản của một số khách hàng các NHTMNN nên triển khai loại hình tiền gửi tiết kiệm đảm bảo bằng vàng và tiết kiệm vàng. - Gia tăng tiện ích cho các sản phẩm tiền gửi như kết hợp vấn tin tài khoản tiền gửi tiết kiệm tại quầy, tại cơ quan, tại nhà, thực hiện hình thức tiết kiệm trả lãi trước đối với tiền gửi tiết kiệm bậc thang. - Triển khai các sản phẩm đặc thù ( giấy tờ có giá, tiết kiệm dự thưởng ) xen kẽ với các sản phẩm tiết kiệm thông thường theo tình hình thị trường bảo đảm tính liên tục. - Triển khai điểm chấp nhận thanh toán POS tại các siêu thị, nhà hàng, đại lý vé máy bay… 3.2.2.3 Đẩy mạnh phát triển dịch vụ ngân hàng Để có nền vốn phát triển ổn định, lâu dài, giảm thiểu cạnh tranh bằng lãi suất, thu hút vốn nhàn rỗi với chi phí thấp ở các nguồn tiền gửi thanh toán thì công tác huy động vốn cần phải gắn liền với việc phát triển dịch vụ. Dịch vụ được hiểu là những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của khách hàng. Với sự phát triển của sản phẩm dịch vụ lúc đó ngân hàng sẽ luôn đem đến cho khách hàng những dịch vụ đúng với mong đợi của họ. Phát triển dịch vụ là lợi thế của các NHTM trong việc thu hút khách hàng đến giao dịch và tăng khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng. Hoạt động dịch vụ phát triển thúc đẩy hoạt động tín dụng và huy động vốn. Vì vậy cần phải hiểu các nhu cầu cơ bản của khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng ( sự thân thiện, thấu hiểu và cảm thông, sự công bằng, chủ động kiểm soát, sự lựa chọn, thông tin ) mà đưa ra các sản phẩm dịch vụ thích hợp và có kế hoạch đẩy mạnh phát triển chúng tạo sự thỏa mãn cho khách hàng. Ví dụ đối với khách hàng là những doanh nghiệp, trường học đặc biệt là ban quản lý, ban đền bù giải phóng mặt bằng là những tổ chức có nguồn vốn dồi dào, thời gian chưa sử dụng dài nhưng họ lại có lực lượng nhân sự ít để quản lý. Vì vậy NHTM nên cung cấp cho họ dịch vụ thu chi hộ, thanh toán lương, …. để khai thác tốt nguồn vốn này. - Tăng tiện ích của tài khoản thanh toán: cho vay thấu chi, quản lý tiền mặt, chi hộ (thanh toán lương), thu hộ tiền từ các đại lý, dịch vụ thẻ (ATM, POS ), thanh toán tiền hàng hoá, nhắn tin tự động. - Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: tư vấn tài chính, bảo quản vật có giá trị, chuyển tiền kiều hối, thu đổi ngoại tệ, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, homebanking, dịch vụ thuê mua máy móc thiết bị, triển khai các đại lý chứng khoán, …... - Tăng cường tính thuận tiện về dịch vụ ngân hàng trên nền tảng công nghệ cao, bảo đảm an toàn: dịch vụ vấn tin trên internet, homebanking…. - Gia tăng các tiện ích mới trên máy ATM như gửi tiền mặt qua máy ATM, thanh toán chuyển khoản khác hệ thống, thanh toán hoá đơn điện nước, điện thoại ở tất cả các máy ATM. - Thường xuyên tổ chức đánh giá hiệu quả của sản phẩm dịch vụ. Việc đẩy mạnh phát triển dịch vụ phù hợp với xu hướng phát triển thế giới, nó vừa giúp cho việc phát triển nguồn vốn, đồng thời là nguồn thu lớn, ổn định cho ngân hàng nhưng lại có chi phí thấp, ít rủi ro so với nguồn từ hoạt động tín dụng chịu chi phí cao ( chi phí vốn, dự trữ bắt buộc, trích dự phòng....) và đầy rủi ro ( mất vốn do không thu hồi được nợ ). 3.2.2.4 Đẩy mạnh hoạt động maketing, chăm sóc khách hàng, chính sách khuyến mãi - Khảo sát thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh trên cơ sở so sánh : sản phẩm, giá cả, hoạt động quảng cáo, mạng lưới, tìm hiểu nhu cầu khách hàng là rất quan trọng để biết được họ đang cần gì, sản phẩm trên thị trường có đáp ứng nhu cầu của họ hay chưa. Từ đó đưa ra những sản phẩm, chính sách thích hợp tạo ra sự khác biệt của ngân hàng. - Xây dựng kế hoạch và có hình thức quảng bá gây ấn tượng, tạo được hình ảnh riêng đối với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Điều này nhằm làm cho công chúng nói chung và khách hàng hiểu rõ hơn về chất lượng, tiện ích, tính ưu việt của những sản phẩm dịch vụ, thanh thế và uy tín của ngân hàng, từ đó tạo nên một thương hiệu mạnh. Thương hiệu rất quan trọng bởi vì một thương hiệu nổi tiếng sẽ tạo nên sức hút, sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng, đối với các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung cấp. - Bên cạnh xây dựng các tài liệu marketing quảng bá sản phẩm dịch vụ mới, các NHTM cần chú ý khai thác lợi thế của từng phương tiện quảng cáo một cách nghệ thuật, chuyển tải chúng đến đông đảo khách hàng với nhiều hình thức như: gửi mail, tin nhắn, truyền thanh, truyền hình, tạp chí, các hoạt động bảo trợ xã hội, tại quầy giao dịch của ngân hàng, tại cơ quan doanh nghiệp như hiệp hội, cơ quan thuế, đăng ký kinh doanh và tại nhà, tại cabin ATM, bình ga mà cửa hàng đem bán cho nhà dân, hệ thống bưu điện, tại trung tâm thương mại, nhà hàng, khách sạn,…. Qua đó khách hàng có thể nắm bắt được về các sản phẩm ngân hàng và các lợi ích của chúng, tạo ra cho khách hàng thích nghi với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, có nghĩa là chấp nhận và tiếp tục sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. - Có kế hoạch giúp các khách hàng hiểu biết thêm về các dịch vụ tài chính ngân hàng hiện đại cũng như đưa ra thông tin minh bạch, công bố thông tin rộng rãi cho người dân chủ động lựa chọn sản phẩm dịch vụ phù hợp. Có như thế khách hàng mới mạnh dạn sử dụng những sản phẩm dịch vụ của ngân hàng giúp cho hoạt động kinh doanh của họ được tốt hơn và làm gia tăng giá trị ngân hàng. - Xác định và phát triển khách hàng mục tiêu, định hướng theo nhu cầu khách hàng: chủ động tiếp cận và thâm nhập vào các khu công nghiệp, khu đô thị mới; các tổng công ty lớn có nguồn thu thường xuyên, nguồn vốn dồi dào ( tập đoàn dầu khí, ban quản lý dự án, công ty chứng khoán ), có mạng lưới phân phối rộng ( Bưu điện ); các doanh nghiệp xây lắp có nhu cầu bảo lãnh, bảo hiểm; các doanh nghiệp có nhu cầu trả lương cho nhân viên với số lượng lớn; các trường học có nhu cầu thu học phí; khách hàng cá nhân có nhu cầu thanh toán hàng hoá như tiểu thương…, bằng việc ký thoả thuận hợp tác và bán chéo sản phẩm vừa thu hút tiền gửi đồng thời cung cấp các dịch vụ ngân hàng. - Tận dụng thế mạnh về mạng lưới và phong cách Á Đông ( thân thiện cởi mở, gần gủi) tiến hành hợp tác với các định chế tài chính nước ngoài để phát triển một số sản phẩm dịch vụ mới và nâng cao trình độ quản lý, khoa học công nghệ từ đó thu hút được nguồn vốn từ nước ngoài và các nhóm khách hàng từ nước ngoài. - Các NHTM trên địa bàn nên định kỳ hàng tháng, cuối năm có sự thăm dò đánh giá hoạt động marketing, thị trường, đối thủ cạnh tranh để có thể biết chính xác thị phần mà hệ thống ngân hàng nắm giữ. - Tiến hành hội nghị khách hàng, phát phiếu thăm dò ý kiến khách hàng để nhận được những ý kiến phản hồi từ khách hàng về chất lượng sản phẩm cũng như phong cách phục vụ. Từ đó giúp ngân hàng xây dựng chiến lược sản phẩm, điều chỉnh kịp thời những chính sách của ngân hàng như chính sách lãi suất, phí và chính sách hoa hồng linh động và hợp lý, một phong cách phục vụ chuyên nghiệp, năng động và lịch sự. - Dựa trên tổng nguồn thu mà khách hàng mang lại cho ngân hàng, tiến hành xếp loại khách hàng mà xây dựng chính sách khách hàng cho phù hợp. Chẳng hạn như khách hàng có số dư vượt mức quy định được hưởng lãi suất phân tầng theo số dư, số dư tiền gửi lớn được miễn phí chuyển tiền, giảm lãi suất cho vay. Đối với khách hàng uy tín thì ngân hàng có một kế hoạch giải ngân kịp thời, thu nợ hợp lý, sự linh động trong xử lý giao dịch. Có thể nói khi thực hiện tốt chính sách khách hàng không chỉ thu hút được khách hàng mới mà còn giữ được khách hàng cũ ( khách hàng trung thành ) và tạo ưu thế cạnh tranh giữa các ngân hàng. Khi đã là khách hàng trung thành thì giúp ngân hàng tiết kiệm chi phí thẩm định khi khách hàng có nhu cầu vay, dễ đàm phán và giữ chân khách hàng khi đối thủ có lợi thế hơn về lãi suất, phí và chính họ trở thành 1 người tiếp thị hữu hiệu nhất cho ngân hàng. - Dựa trên vùng miền, điều kiện địa lý, khoản cách, thói quen, tập quán, hoàn cảnh và sở thích của mọi người, mọi thời điểm ( ngày lễ, ngày sinh nhật ) mà đưa ra các hình thức khuyến mãi thích hợp ( tặng quà trực tiếp, phiếu mua hàng, tích điểm cho khách hàng nhận tiền kiều hối, những sản phẩm gia dụng thiết yếu hoặc bằng tiền ). Ví dụ mùa mưa thì tặng áo mưa, dựa trên quy định của nhà nước về an toàn giao thông thì nên tặng nón bảo hiểm…. - Thành lập trung tâm chuyên giải đáp các thắc mắc của khách hàng, tư vấn về sản phẩm dịch vụ ngân hàng tạo cho khách hàng cảm giác được tôn trọng, gửi tin nhắn tự động, mail chúc mừng sinh nhật, chăm sóc thăm hỏi khách hàng khi ốm đau, ma chay thể hiện sự quan tâm chia sẽ không chỉ trong công việc mà còn trong đời sống tình cảm để tạo lập, củng cố, duy trì và phát triển mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài, bền vững giữa khách hàng và ngân hàng. - Xây dựng kinh phí chi cho hoạt động marketing, quảng cáo, chi hoa hồng cho hoạt động môi giới trong hoạt động huy động vốn cũng như dịch vụ. 3.2.2.5 Nâng cao chất lượng tín dụng Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng muốn có lợi nhuận thì một trong những nghiệp vụ kinh doanh then chốt là nghiệp vụ tín dụng. Nhưng bản thân nguồn vốn tự có của ngân hàng là rất giới hạn, nó không đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của khách hàng. Do đó ngân hàng phải thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội và cho vay trở lại. Ngân hàng đi vay để cho vay. Hoạt động tín dụng có hiệu quả tạo cho doanh nghiệp bù đắp đủ chi phí, trả được nợ gốc và lãi cho ngân hàng và có lãi. Nếu hoạt động tín dụng kém hiệu quả ( cho vay không thu hồi được vốn ) ngân hàng sẽ không có khả năng trả tiền gốc và lãi huy động cho khách hàng khi đến hạn, mất khả năng thanh toán dẫn đến mất niềm tin của khách hàng vào khả năng hoạt động của ngân hàng. Từ đó ngân hàng sẽ không huy động được và dẫn đến không cho vay, ngân hàng bị phá sản. Có thể nói rằng huy động vốn là tiền đề, là nền tảng cho việc sử dụng vốn. Và sử dụng vốn là yếu tố quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến qui mô huy động vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy nâng cao chất lượng tín dụng là điều cần thiết và quan trọng đòi hỏi ngân hàng phải thẩm định để lựa chọn dự án hiệu quả, đánh giá năng lực tài chính và thiện chí của người vay, kiểm tra kỷ trước, trong, và sau khi cho vay. Để làm tốt điều này đề nghị Nhà nước có chính sách bắt buộc tất cả doanh nghiệp phải kiểm toán hàng năm tại những cơ quan kiểm toán độc lập và có uy tín. Chính sách này sẽ giúp ngân hàng đánh giá khả năng tài chính doanh nghiệp hạn chế rủi ro cho việc cấp tín dụng. 3.2.2.6 Hiện đại hoá hệ thống công nghệ của ngân hàng Quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng sẽ giúp ngân hàng xây dựng được kết cấu hạ tầng hiện đại, phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến, đưa vào ứng dụng các kênh phân phối hiện đại. Việc hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng giúp từng bước triển khai mô hình ngân hàng tại nhà, đáp ứng nhu cầu giao dịch mọi lúc, mọi nơi của khách hàng ( đặt lệnh, thực hiện thanh toán, truy vấn thông tin ), phát triển sản phẩm huy động vốn, sản phẩm dịch vụ tiện ít. Sử dụng kênh phân phối này giúp đẩy nhanh tốc độ thanh toán không dùng tiền mặt, tăng tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, giảm thời gian vốn đọng trong thanh toán, an toàn, tiết kiệm thời gian, chi phí vận hành cho cả ngân hàng và khách hàng, thu hút được vốn trong và ngoài nước. - Ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng hệ thống thông tin trong toàn hệ thống, hệ thống khai thác, và thống kê theo từng sản phẩm, giúp nâng cao năng lực quản lý, năng lực điều hành qua đó tăng cường hiệu quả quản lý và tăng hiệu quả kinh doanh, là yếu tố cạnh tranh quan trọng hàng đầu của các NHTM trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ, chiếm lĩnh thị phần. - Hệ thống công nghệ phải bảo đảm mức độ an toàn với các biện pháp an ninh bảo mật về phần cứng, phần mềm, truyền thông, dự án phòng chống virus và hướng dẫn khách hàng khả năng truy cập dễ dàng. - Thực hiện bảo trì thường xuyên toàn bộ các thiết bị công nghệ thông tin, đặc biệt hệ thống kênh phân phối ATM, POS, luôn bảo đảm hệ thống được vận hành thông suốt không gián đoán nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ. - Đầu tư cho công nghệ để nhằm tăng mức độ tự động hoá, phục vụ công tác phân tích, đánh giá hiệu quả chi phí cho từng loại sản phẩm của đơn vị kinh doanh giúp cho việc thực hiện chính sách khách hàng kịp thời và dễ dàng. - Mở rộng kết nối thanh toán thẻ giữa các hệ thống ngân hàng với nhau nhằm chia sẽ hạ tầng kỷ thuật, đem sự tiện lợi cho khách hàng và giảm chi phí trong việc mua sắm trang thiết bị của hệ thống ngân hàng. 3.2.2.7 Đào tạo nguồn nhân lực: Xây dựng đội ngũ nhân lực đầy đủ về số lượng và chất lượng có thái độ phục vụ tốt và tinh thần trách nhiệm đối với khách hàng là yếu tố quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển vốn huy động. Phát huy lợi thế cạnh tranh trong điều kiện hiện nay là nhiệm vụ tối quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và quốc gia nói chung. Các lợi thế cạnh tranh đó xuất phát từ cái gì đó mới hơn, cải tiến hơn hay tốt hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Các ý tượng hay phát kiến mới đó lại đều xuất phát từ một nguồn, kiến thức của nhân viên, của mọi người. Do đó vốn quý nhất của 1 doanh nghiệp nói chung và NHTM nói riêng là tri thức. Vốn hay công nghệ … là quan trọng, tuy nhiên thiếu vốn chúng ta có thể đi vay, thiếu công nghệ có thể chuyển giao, sao chép. Nhưng con người có trình độ muốn có được phải đào tạo, đào tạo để vận hành và kiểm soát hữu hiệu các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Vì vậy các NHTM cần phải: - Chú trọng và phát triển nguồn nhân lực từ khâu tuyển dụng đến bố trí sử dụng cán bộ theo đúng người, đúng việc, phù hợp với năng lực chuyên môn, giúp tăng năng suất lao động qua đó tiết kiệm chi phí. Ban giám đốc mạnh dạng bố trí cán bộ chủ chốt trẻ có năng lực phát huy tinh thần sáng tạo đạt được hiệu quả cao nhất. - Giáo dục đạo đức kinh doanh lề lối phương pháp làm việc, thái độ hợp tác với đồng nghiệp, tinh thần đoàn kết nội bộ, quán triệt tư tưởng các phòng nghiệp vụ là các ngón tay trong lòng bàn tay hoạt động vì mục đích chung của ngân hàng, sự hoàn thành nhiệm vụ của bộ phận này là điều kiện cần thiết để bộ phận khác hoàn thành nhiệm vụ. Chống mọi biểu hiện tiêu cực trong hoạt động kinh doanh ( cò tín dụng ), thường xuyên bồi dưỡng đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ công nhân viên, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp làm mất uy tín và thương hiệu của ngành. - Phải thường xuyên cập nhật, đào tạo nguồn nhân lực từ cấp chuyên viên, quản lý bậc trung: trưởng phó phòng và quản trị điều hành cấp cao: Phó giám đốc, Giám đốc. Đào tạo giúp họ hiểu biết một cách căn bản về kinh tế thị trường, về hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng hiện đại, về các sản phẩm dịch vụ hiện có của mình và của đối thủ cạnh tranh. Có chiến lược đào tạo rõ ràng theo hướng cán bộ quan hệ khách hàng hiểu được sản phẩm để bán hàng, cán bộ tác nghiệp vững vàng về chuyên môn để xử lý giao dịch, đào tạo đội ngũ nhân viên có kiến thức cơ bản, khả năng truyền đạt, cách thuyết trình, khả năng phân tích, đàm phán, vận hành công nghệ mới, nắm vững quy trình nghiệp vụ, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, nhạy cảm với cái mới. Áp dụng nhiều phương pháp đào tạo thích hợp như: liên kết với trung tâm đào tạo, mời các chuyên gia về giảng dạy, hội sở hỗ trợ trực tiếp, cán bộ cũ đào tạo cán bộ mới, tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân hàng. - Mỗi CBCNV rèn luyện kỹ năng bán chéo sản phẩm, kỷ năng xử lý tình huống, giao tiếp tiếp cận khách hàng nắm bắt nhu cầu sử dụng để đưa các sản phẩm phù hợp nhất, tư vấn, gợi ý tạo thêm nhu cầu của khách hàng, hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ để tránh các rủi ro cho khách hàng. Việc này tạo nên sự thiện cảm, sự ủng hộ cũng như lòng trung thành của khách hàng khi đến giao dịch và trở thành người bạn đồng hành tin cậy của khách hàng. Điều này phù hợp với nguyên tắc kinh doanh và đặc điểm văn hóa Việt Nam, người ta luôn trân trọng những ai đã cùng chia sẽ giúp đỡ họ trong những lúc khó khăn. - Nâng cao chất lượng phục vụ của nhân viên hướng tới khách hàng, đưa các tiêu chuẩn về thời gian giao dịch, chú trọng phương châm về quản lý, cam kết của ngân hàng trong việc cung cấp các sản phẩm huy động vốn tiện ích. Nhân viên phải biết lắng nghe để rút ngắn khoản cách giữa nhu cầu của khách hàng và khả năng cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Từ đó tạo nên phong cách giao tiếp với khách hàng thân thiện, niềm nở, thấu hiểu được những khó khăn những mong muốn của khách hàng về những thông tin về sản phẩm cũng như chính sách, thủ tục mà họ sẽ phải gặp và làm khi giao dịch với ngân hàng qua đó chia sẽ tư vấn cho họ. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút giữ chân khách hàng, lợi thế cạnh tranh với đối thủ. - Tạo môi trường giao dịch vừa an toàn vừa lôi cuốn hấp dẫn, mạnh dạng đổi mới trang bị đồng bộ các phương tiện làm việc ( máy tính, đồng phục để tạo sự đồng nhất dễ dàng nhận diện thương hiệu, cách bố trí văn phòng, một không gian chờ thoải mái, tiện nghi với sách báo, tạp chí, kẹo ... Qua đó tạo cho khách hàng cảm giác không mất thời gian quá nhiều khi giao dịch ) gây hình ảnh và ấn tượng khó quên nơi khách hàng và luôn nghĩ đến khi có nhu cầu về sản phẩm dịch vụ ngân hàng. - Khơi dậy các phong trào tự tìm tòi, nghiên cứu nghiệp vụ, kiến thức hỗ trợ cho hoạt động chuyên môn, khuyến khích nhân viên tăng cường tự học thêm về chuyên môn, ngoại ngữ cũng như yêu cầu từng cán bộ phải nổ lực vì mục tiêu chung. - Xây dựng chương trình chấm điểm qua đó mỗi người tự đánh giá và chấm điểm để có bước cải tiến, chấn chỉnh kịp thời về tác phong giao dịch, trình độ nghiệp vụ của nhân viên, và làm cơ sở xét thưởng động viên kịp thời. - Muốn có được, giữ và thu hút đội ngũ nhân viên có trình độ, tâm quyết và có tầm nhìn chiến lược nhất là trong điều kiện hiện nay nền kinh tế càng phát triển theo xu thế hội nhập kinh tế thế giới và khu vực. Người lao động có chất lượng ngày càng có nhiều cơ hội lựa chọn nghề nghiệp và nơi làm việc tốt hơn. Do đó đòi hỏi phải quan tâm đến môi trường làm việc của cán bộ cũng như xây dựng chính sách tiền lương, chính sách động lực, khen thưởng về vật chất và tinh thần cho mọi người. Đặc biệt đối với những cá nhân có thành tích nổi bật trong công tác huy động vốn phát triển dịch vụ tạo động lực cho toàn bộ CBCNV trong chi nhánh. - Tạo cơ hội thăng tiến cho nhân viên dựa trên tài năng và phẩm chất thực sự chứ không phải dựa vào mối quan hệ và thâm niên công tác qua việc tổ chức thi cử về năng lực, trình độ của nhân viên thể hiện sự công tâm và bình đẳng giữa các nhân viên với nhau. Kết luận chương III Xuất phát từ thực trạng hoạt động huy động vốn của ngân hàng với mục đích duy trì nền khách hàng cũ, mở rộng nền khách hàng mới, tạo sự chủ động cân đối vốn nhằm đem lại hiệu quả cao nhất cho các NHTM cũng như nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển của kinh tế địa bàn, việc thực hiện các giải pháp nêu trên thật sự cần thiết đối với các NHTM trên địa bàn. KẾT LUẬN Huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức đặc thù của NHTM, có vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập khả năng cân đối vốn, là điều kiện tăng trưởng hoạt động kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực tài chính của các NHTM. Nhận thức được điều đó các NHTM đã có những ứng xử linh hoạt để có được nền vốn phục vụ cho hoạt động của mình được thể hiện rỏ qua thực trạng huy động vốn trong thời gian 3 năm từ năm 2005 đến T6/2008 của NHTM trên địa bàn Qua phân tích thực trạng huy động vốn cho thấy các NHTM thực hiện tốt chức năng của mình “đi vay để cho vay”. Điều này được minh chứng qua quy mô và tốc độ huy động vốn nhàn rỗi gia tăng, biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế ngày càng tăng qua các năm đã giúp cho mọi người tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng để tiến hành sản xuất kinh doanh, tiêu dùng, đầu tư, tạo công ăn việc làm, từng bước nâng cao cuộc sống vật chất cho mọi người, từ đó góp phần quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Tỉnh. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan như tình hình lạm phát, giá vàng, xăng dầu tăng cao, sự điều hành chính sách vĩ mô của nhà nước và khả năng nội lực của NHTM nên trong hoạt động huy động vốn của các NHTM còn gặp những khó khăn nhất định. Vì vậy với những kiến thức tổng quan về hoạt động huy động vốn cũng như những giải pháp được nêu ra trong luận văn dựa trên thực trạng của các NHTM trên địa bàn Tỉnh không hẳn là hoàn thiện, nhưng có thể góp phần ít nhiều cho việc gia tăng nguồn vốn huy động của các NHTM trên địa bàn Tỉnh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng như đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế địa phương./. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA0533.doc
Tài liệu liên quan