Thực trạng và giải pháp cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU Vấn đề vốn để khởi sự doanh nghiệp luôn là sự đau đầu của bất kỳ ai muốn bước chân vào thương trường. Các doanh nghiệp không có sẵn vốn để đầu tư vào những yếu tố như máy móc, thiết bị sản xuất, thiết bị văn phòng, tin học, viễn thông và các động sản khác ... hoặc để dành vốn vào mục đính kinh doanh khác. Cho thuê tài chính sẽ là kênh tín dụng hữu hiệu giúp bạn giải quyết những khó khăn đó. Đầu thập kỷ 50 của thế kỷ này, giao dịch thuê mua đã có những bước nhảy vọt. Nhằm đáp ứng n

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6764 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp cho hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hu cầu vốn trung và dài hạn, nghiệp vụ tín dụng thuê mua hay còn gọi là thuê tài chính được sáng tạo ra trước tiên ở Mỹ vào năm 1952. Sau đó nghiệp vụ tín dụng thuê mua phát triển sang châu âu và phát triển mạnh mẽ tại đó từ những năm của thập kỷ 60. Tín dụng thuê mua cũng phát triển mạnh mẽ ở Châu Á và nhiều khu vực khác từ đầu thập kỷ 70. Ngành công nghiệp thuê mua có giá trị trao đổi chiếm khoảng 350 tỷ USD vào năm 1994. Hiện nay ở Mỹ, ngành thuê mua thiết bị chiếm khoảng 25-30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Nguyên nhân chính thúc đẩy các hoạt động cho thuê tài chính phát triển nhanh là do nó thể hiện hình thức tài trợ có tính chất an toàn cao tiện lợi, và hiệu quả cho các bên giao dịch. Tại Việt Nam nghiệp vụ cho thuê tài chính hay còn gọi là tín dụng thuê mua đã được ngân hàng NN-VN cho áp dụng thí điểm bởi quyết định số 149/QĐ-NHNN ngày 17/5/1995. Đến ngày 02/05/20001 Chính phủ đã ban hành Nghị định 16/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. Các tổ chức cho thuê tài chính ở Việt Nam đã và đang hoạt động thực sự có hiệu quả và đã ngày càng đóng góp một cách tích cực đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thấy sự quan trọng và đóng góp tích cực của hoạt động cho thuê tài chính trong doanh nghiệp, chúng tôi đã tập trung nghiên cứu đề tài này nhằm tạo điều kiện giúp hiểu rõ hơn về hoạt động thuê mua tài chính cũng như tầm quan trọng và đóng góp của hoạt động này. Nội dung bài nghiên cứu bao gồm 4 phần lớn : 1 . Cơ sở lý luận về hoạt động cho thuê tài chính 2. Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam. 3. Hoạt động cho thuê tài chính 4. Xu thế phát triển và giải pháp cho hoạt động cho thuê tài chính Vấn đề nghiên cứu về các hoạt động cho thuê tài chính là vấn đề mới và còn ít tài liệu nghiên cứu và tham khảo vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót , rất mong được sự góp ý của các thầy cô. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH. Khái niệm hoạt động cho thuê tài chính Cho thuê tài chính (finance leasing) là một dạng cho thuê máy móc, thiết bị và động sản. Người ta còn gọi là cho thuê thiết bị. Ở Mỹ, người ta cho thuê xe hơi, máy bay, xe tải, tàu hoả, tàu thuỷ, máy vi tính, máy photocopy, máy fax,…Tập đoàn IBM tại Mỹ còn cho thuê cả máy vi tính. Hiện nay, Vietnam Airlines đã thuê máy bay của TEAC, AirFrance,… Trong khi các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về thủ tục thế chấp tài sản khi vay vốn ở các ngân hàng thì việc có mặt của các công ty cho thuê tài chính đã mở ra nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong kênh tín dụng, không phải đầu tư tài sản cho việc xây mới hay mua sắm các bất động sản, các máy móc thiết bị cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà vẫn có thiết bị máy móc để sử dụng, đáp ứng ngay nhu cầu của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho sự hoạt động thông suốt và có hiệu quả trong doanh nghiệp. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là mặc dù hoạt động cho thuê tài chính có mặt ở Việt Nam từ năm 1995 nhưng thực sự cho thuê tài chính là khái niệm còn khá mới mẻ với nhiều doanh nghiệp. Có thể hiểu rằng cho thuê tài chính là hình thức tài trợ tín dụng thông qua cho thuê các loại tài sản, máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển… là nhu cầu mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mong muốn để đổi mới máy móc, thiết bị, hiện đại hóa công nghệ sản xuất kinh doanh. Đặc trưng của phương thức này là - đơn vị cho thuê là chủ sở hữu tài sản sẽ chuyển giao tài sản cho người thuê, tức là người sử dụng tài sản được quyền sử dụng và hưởng dụng những lợi ích kinh tế mang lại từ các tài sản đó trong một thời gian nhất định. Người thuê có nghĩa vụ trả một số tiền cho chủ tài sản tương xứng với quyền sử dụng và quyền hưởng dụng. Điều này cũng nói lên việc cấp tín dụng dưới hình thức cho thuê tài chính không đòi hỏi sự bảo đảm tài sản có trước, tạo cho doanh nghiệp tiếp cận hình thức cấp tín dụng mới, vừa giải tỏa được áp lực về tài sản làm đảm bảo nếu phải vay ở ngân hàng. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính có thể mua tài sản của doanh nghiệp và cho thuê lại tài sản đó nếu doanh nghiệp thiếu vốn lưu động do đã tập trung vốn để đầu tư mua sắm tài sản cố định. Như vậy doanh nghiệp vừa có tài sản để sử dụng lại vừa có vốn lưu động để sản xuất kinh doanh. Phân loại các hoạt động cho thuê tài chính Ngày nay hoạt động cho thuê tài chính đã trở thành phổ biến trong các hoạt động kinh tế quốc tế và nó góp phần to lớn vào việc thúc đẩy sự phát triển sản xuất kinh doanh. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ đó, nghiệp vụ tài trợ cho cho thuê tài chính tại mỗi quốc gia, khu vực đều có những đặc điểm riêng thể hiện sự phong phú và đồng thời sự phức tạp của hoạt động này . Tuy nhiên, dù đã có một quá trình phát triển lâu dài với quy mô rộng lớn, cùng với sự đa dạng như ngày nay thì vẫn có một quy trình phát triển chung xuyên suốt quá trình phát triển của lịch sử thuê mua. Quá trình này đã diễn ra theo một chu kỳ trải qua 6 giai đoạn, các giai đoạn kế tiếp là sự phát triển mang tính kế thừa những thành tựu của giai đoạn trước và được đánh dấu bằng một phương thức tài trợ điển hình. Giai đoạn 1 : Thuê tài chính (Finance leases) Đặc trưng của giai đoạn này là tài sản cho thuê chỉ được coi là một hình thức tài trợ và mức độ cạnh tranh trong giai đoạn này thấp. Các hợp đồng cho thuê tài chính thường là những hợp đồng hoàn trả toàn phần, gồm những điều khoản quy định không cho huỷ ngang hợp đồng và người thuê sẽ mua tài sản khi kết thúc hợp đồng với giá tượng trưng. Loại giao dịch này tương tự như một hình thức tài trợ để bán thiết bị tài sản. Trong các hợp đồng tài trợ này thì quyền lợi và nghĩa vụ trên tài sản thuê là như nhau đối với người thuê, đòi hỏi người thuê phải thanh toán tất cả mọi chi phí vận hành, bảo trì, bảo hiểm và các loại thuế áp dụng cho tài sản thuê, còn người cho thuê thường tài trợ 100% vốn tài trợ. Thu nhập của người cho thuê là do những tiết kiệm về thuế xuất phát từ khấu hao tài sản đem lại cho người giữ quyền sở hữu tài sản.Lợi nhuận của người cho thuê còn xuất phát từ sự chênh lệch về lãi suất huy động vốn so với lãi suất tài trợ trừ những khoản chi phí quản lý và chi phí khác của họ. Loại hình cho thuê tài chính này rất thích hợp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi vì với ưu điểm không phải thế chấp tài sản, các doanh nghiệp khi thuê tài chính không bị vướng thủ tục thế chấp tài sản nếu phải vay vốn ở các ngân hàng. Giai đoạn 2 : Cho thuê tài chính linh hoạt (Flexible Finance leases) Do môi trường kinh doanh cho thuê có sự cạnh tranh ngày càng gia tăng cho nên mặc dù phương thức giao dịch là cho thuê tài chính nhưng những người cho thuê cố gắng làm nổi bật sản phẩm của họ bằng cách tạo ra một phương thức thanh toàn phù hợp với dòng tiền của người cho thuê và linh động trong cơ cấu cho thuê. Người cho thuê cung cấp thêm các loại dịch vụ bảo trì, sửa chữa hay cho phép người thuê có quyền lựa chọn đối với tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng như quyền gia hạn hợp đồng, quyền chọn mua tài sản theo giá cố định, quyền lựa chọn với giá trị còn lại của tài sản…. Những quyền này cho người thuê có thể đạt được sự thuận tiện và có lợi khi thuê mướn tài sản. Mặt khác các loại dịch vụ và các ưu đãi chọn mua được người thuê áp dụng rất linh hoạt tuỳ theo từng giao dịch cho thuê cụ thể. Trong giai đoạn này các mặt hàng thiết bị, tài sản được sử dụng trong các giao dịch thuê mua cũng rất đa dạng, phong phú. Sự phát triển này đã kéo theo các luật về thuế, kế toán được ban hành nhằm chế định các hoạt động này và làm tiền đề phát triển cho ngành công nghiệp thuê mua. Giai đoạn 3 : Thuê vận hành ( operating leases ) Do sự tác động của nguyên tắc kế toán và thuế đã dẫn đến sự phân nhánh trong hoạt động cho thuê theo sản phẩm và hình thành những công ty cho thuê được chuyên môn hoá cao theo từng loại thiết bị cho thuê. Mặt khác, áp lực cạnh tranh ngày càng gia tăng cũng là một nguyên nhân thúc đẩy sự chuyên môn hoá tín dụng thuê mua theo sản phẩm. Trong giai đoạn này, do đặc điểm của phương thức thuê mua vận hành, rủi ro đối với giá trị còn lại của thiết bị thuê thuộc về người cho thuê. Từ đó làm nảy sinh nhu cầu phát triển loại thị trường mua bán trao đổi các loại máy móc thiết bị cũ. Mặt khác do người thuê có quyền huỷ ngang hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào nên đòi hỏi người cho thuê fải nâng cao kỹ năng quản lý các hoạt động cho thuê và phát triển các kỹ thuật chống rủi ro. Các loại tài sản thường được sử dụng cho hình thức này rất đa dạng như các loại xe ô tô, máy vi tính, nhà văn phòng làm việc, các con tàu , máy bay và cả những tổ hợp công nghiệp… Mức độ rủi ro công nghệ của các loại tài sản này là rất cao. Giai đoạn 4 : Thuê mua đổi mới Ngành cho thuê càng phát triển lâu dài thì sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn. Cuộc cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa tín dụng thuê mua với các hình thức tài trợ khác mà còn diễn ra trong ngành cho thuê. Do đó dẫn tới các nhà kinh doanh cho thuê ngày càng nỗ lực hơn trong việc tìm kiếm những hình thức tài trợ mới nhằm làm nổi bật ưu thế của các dịch vụ tín dụng thuê mua. Đặc trưng chính của các công cụ tài trợ mới này là những dịch vụ mang tính khép kín thông qua hình thức tài trợ trọn gói và tài trợ theo dự án đầu tư. Đồng thời người cho thuê cũng tìm nhiều cách để hạ thấp giá cho thuê bằng hình thức phát triển theo chiều ngang để tận dụng lợi thế quy mô lớn. Giai đoạn 5 : Thuê mua hoàn thiện Một khi ngành cho thuê phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu sẽ dẫn tới sự bão hoà của thị trường. Ở giai đoạn này, số lượng người cho thuê là rất đông và phương thức cho thuê cũng rất phong phú đa dạng và sự khác biệt giữa các hình thức cho thuê chỉ còn ở mức độ rất nhỏ. Do đó người cho thuê tìm cách làm nổi bật dịch vụ của họ bằng những hoạt động làm tăng giá trị cỉa các giao dịch như tăng vòng quay vốn, linh động trong các phương thức tài trợ và cơ cấu dịch vụ phục vụ ngân hàng. Sự phát triển của các ngành cho thuê trong giai đoạn này thúc đẩy mở rộng quy mô của các công ty thuê mua dẫn tới có sự mua lại hay sát nhập các công ty thuê mua thành những tập đoàn lớn, để đảm bảo cho sự tăng trưởng về quy mô và dẫn đến sự tăng trưởng về thu nhập. Giai đoạn 6 : Tín dụng thuê mua trên mức hoàn thiện Hình thức này hiện nay vẫn chưa xảy ra nhưng dựa trên xu thế phát triển của ngành thuê mua, ta có thể dự đoán được sự phát triển tiến tới và vượt bậc của ngành trong tương lai. Lịch sử phát triển của ngành công nghiệp thuê mua tài sản ở mỗi quốc gia hay ở mỗi ngày công nghiệp đều trải qua những giai đoạn phát triển như nhau. Tuy nhiên chiều dài thời gian của mỗi giai đoạn, mỗi quốc gia thì không hoàn toàn giống nhau do những tiến bộ về mặt kỹ thuật tài trợ. Nhờ những tiến bộ này mà những nền công nghiệp cho thuê tài sản đi sau có thể kế thừa rút ngắn thời gian phát triển. 1.3 :Các hình thức giao dịch hoạt động cho thuê tài chính : 1.3.1 Các phương thức giao dịch: 1.3.1.1 Thuê vận hành 1.3.1.1.1 Đặc trưng: Thuê vận hành có hai đặc trưng cơ bản : Thứ nhất,thời hạn thuê rất ngắn so với toàn bộ đời sống hữu ích của tài sản,điều kiện để chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong một thời gian ngắn. Thứ hai, người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuế tài sản… cùng mọi rủi ro và sự sụt giảm giá trị của tài sản. Ngoài ra,người cho thuê được hưởng tiền thuê và sự gia tăng giá trị của tài sản hay những quyền lợi do quyền sở hữu tài sản mang lại (ví dụ như ưu đãi giảm thuế lợi tức,thu doanh thu và những khoản khấu trừ do sự sụt giảm giá trị tài sản mang lại…) Do thuê vận hành là hình thức cho thuê ngắn hạn nên tổng số tiền mà người thuê phải trả cho người cho thuê có giá trị thấp hơn nhiều so với toàn bộ giá trị của tài sản. Khi hợp đồng hết hạn, người chủ sở hữu có thể bán tài sản đó, hoặc gia hạn hợp đồng cho thuê hay tìm một khách hàng thuê mới. Người thuê có quyền sử dụng tài sản trong thời gian đã thỏa thuận và có bổn phận trả tiền thuê. Người thuê không phải chịu các chi phí bảo trì, vận hành hay những rủi ro liên quan đến tài sản nếu không phải do lỗi của họ gây nên. Hình thức thuê mua vận hành có thể được coi là một loại hợp đồng để chấp hành, tài sản không được ghi chép vào sổ sách kế toán của người thuê mà phần tiền trả theo thỏa thuận được ghi như mọi khoản chi phí bình thường khác. Trong hợp đồng này không dự kiến chuyển giao thiết bị khi hết hạn thuê, cho nên thuê vận hành không phải là một giải pháp tài trợ cho hành động mua tài sản trong tương lai. Để minh họa hình thức này,theo dõi hình 1.1 Người cho thuê (Lessor) Quyền sử dụng tài sản và dịch vụ Trả tiền thuê Người thuê (Lessee) (Hình 1.1) So sánh giữa người cho thuê và người đi thuê (hình 1.2) Người cho thuê Người thuê 1/ Nắm quyền sở hữu tài sản và đem cho thuê trong thời hạn ngắn. 2/ Cung cấp toàn bộ các dịch vụ vận hành và mọi chi phí phục vụ sự hoạt động của tài sản (chi phí bảo trì, bảo hiểm, thuê tài sản…) 3/ Chịu mọi rủi ro và thiệt hại liên quan đến tài sản cho thuê. 4/ Có quyền gia hạn thỏa thuận và định đoạt tài sản khi kết thúc thời hạn thuê mua. 1/ Trả các khoản tiền thuê đủ để bù đắp các chi phí vận hành, bảo trì và các dịch vu kèm theo. 2/ Không chịu rủi ro và thiệt hại đối với tài sản đi thuê. 3/ Có quyền hủy bỏ thỏa thuận bằng một thông báo ngắn gửi cho người cho thuê. (Hình 1.2) 1.3.1.1.2 Một số đặc điểm khác: Tiền thuê thường cao hơn tiền thuê trong các thỏa thuận thuê mua thuần do ngoài tiền trả cho quyền sử dụng tài sản hay hưởng dịch vụ, người thuê còn phải trả thêm các chi phí khác như chi phí bảo trì, phụ tùng, sửa chữa, bảo hiểm rủi ro… Tuy nhiên trong nhiều trường hợp thực tế, do tính chất chuyên môn hóa cao các hoạt động phục vụ việc cho thuê của các công ty chuyên kinh doanh thuê mua nên giá cả thuê thường thấp hơn chi phí thuần để mua tài sản cộng với phần dịch vụ,bảo trì… mà người thuê tự cung ứng. Tiền thuê của phương thức vận hành cao hay thấp hơn so với tiền mua tài sản không phụ thuộc vào các dịch vụ bảo trì,bảo dưỡng hay các chi phí vận hành mà chủ yếu phụ thuộc vào tính hiệu quả của việc cung cấp các dịch vụ đó cộng với giá cả của mua tài sản. Trong thỏa thuận thuê vận hành, người thuê có quyền hủy ngang hợp đồng, trả lại tài sản, thiết bị trước khi hết hạn. Đây là một điểm lợi thế đối với người thuê, bởi trong thời đại bùng nổ công nghệ ngày nay, các loại máy móc thiết bị có tốc độ lạc hậu rất nhanh chóng. 1.3.2 Thuê mua thuần Thuê mua thuần là một phương thức tài trợ tín dụng trung hạn hay dài hạn không thể hủy ngang. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài sản, thiết bị mà người thuê cần và đã thương lượng từ trước các điều kiện mua tài sản đó với nhà cung cấp hoặc người cho thuê cung cấp tài sản của họ cho người thuê. Tùy theo quy định của từng quốc gia thì hình thức này được coi là thuê mua thuần khi thời hạn thuê mua thường chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền phải đủ để bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng. 1.3.2.1 Đặc trưng: Thời hạn thuê cơ bản: Là thời hạn mà người thuê trả những khoản tiền thuê cho người cho thuê để được quyền sử dụng tài sản. Trong suốt giai đoạn này, người cho thuê thường kì vọng thu hồi đủ số tiền đã bỏ ra ban đầu cộng với tiền lãi trên số vốn đã tài trợ. Đây là thời hạn mà tất cả các bên không được quyền hủy ngang hợp đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia. - Thời hạn gia hạn tùy chọn: Trong giai đoạn này người thuê có thể tiếp tục thuê thiết bị này tùy theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn cơ bản, thường chiếm tỉ lệ 1-2% tổng số vốn đầu tư ban đầu và thường phải trả trước vào đầu mỗi kì thanh toán. - Phần giá trị còn lại: Tại thời điểm kết thúc giao dịch thuê mua, người cho thuê thường ủy quyền cho người thuê làm đại lí bán tài sản. Người thuê được phép hưởng phần tiền bán tài sản lớn hơn so với giá mà người cho thuê đưa ra, hoặc được khấu trừ vào tiền thuê hay được coi như một khoản hoa hồng bán hàng. Các loại chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản và mọi rủi ra thường do người thuê chịu và tổng số tiền mà người thuê trả người cho thuê trong suốt thời gian thuê thường đủ để bù đắp lại toàn bộ giá gốc ( giá mua) của tài sản. Bởi các loại chi phí hoạt động, bảo hiểm… của tài sản do người thuê chịu nên các khoản tiền thuê mà người cho thuê nhận được coi là trị giá thuần của tài sản, do đó hình thức thuê mua này được gọi là thuê mua thuần. Khi đáo hạn hợp đồng, người thuê có quyền lựa chọn một trong các hình thức mua lại tài sản với giá trị hợp lý hay giá tượng trưng tùy theo sự thỏa thuận đã được dự liệu sẵn trong hợp đồng- hoặc người thuê cũng có thể tiếp tục thuê tài sản hay nhận làm đại lý bán tài sản tùy theo sự ủy quyền của người cho thuê. Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động CTTC quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản thuộc về người cho thuê và quyền sử dụng tài sản thuộc về người thuê. Do giữ quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản nên mọi ưu đãi về thuế khóa và các khoản tiền bồi thường do cơ quan bảo hiểm trả cho tài sản đề do người cho thuê hưởng. Nhưng người cho thuê thường chiết khấu tiền khuyến khích về thuế vào khoản tiền thuê mà người thuê phải trả theo định kì, còn khoản tiền bồi thường của công ty bảo hiểm thường được người cho thuê chuyển cho người thuê sau khi người thuê hoàn thành trọn vẹn mọi nghĩa vụ theo quy định của hợp đồng. Trong khoản tiền thuê mà người thuê trả người cho thuê theo định kì bao gồm: Tiền vốn gốc Tiền lãi tín dụng Phần lợi nhuận hợp lý Chi phí quản lý đã được khấu trừ phần khuyến khích về các loại thuế mà tài sản được hưởng. 1.3.2.2 So sánh thuê mua thuần và hình thức vay mượn: Từ các khoản trong tiền thuê mà người thuê trả cho người cho thuê ta thấy rằng về bản chất thuê mua thuần là một hình thức của sự vay mượn nếu xét trên phương diện người thuê, mặt khác loại hình giao dịch này cũng chính là một hình thức tài trợ tín dụng nếu xem xét từ phía người cho thuê. Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa thuê mua thuần và các khoản vay nợ đó là người cho thuê nắm giữ quyền sở hữu pháp lý và có quyền thu hồi ngay lập tức nếu có những đe dọa sự an toàn đối với tài sản. Đồng thời người cho thuê có thể được hưởng phần lợi nhuận do khoản tiền tiết kiệm thuế lợi tức do khấu hao tài sản cho thuê mang lại sau khi đã chiết khấu cho người thuê theo thuế suất lợi tức của họ. Đồi với người thuê, ngoài các lợi ích như gia tăng năng lực sản xuất, họ còn được hưởng các lợi thế như tỷ số nợ/vốn không thay đổi. Đồng thời ngoài những khoản tiền chiết khấu do người cho thuê chuyển cho, người thuê còn được hưởng khoản tiền hoãn thuế do tiền thuế làm giảm thuế lợi tức. Minh họa hình thức thuê mua thuần qua sơ đồ 1.3: So sánh giữa người thuê và người cho thuê trong hình thức thuê mua thuần (hình 1.4) Người cho thuê Người thuê 1/ Mua tài sản từ nhà cung cấp, giữ quyền sở hữu và cho thuê trung hay dài hạn (1-20 năm) 2/ Không cung cấp các chi phí và dịch vụ vận hành, bảo trì tài sản. 3/ Không chịu mọi rủi ro và thiệt hại đối với tài sản cho thuê. 4/ Hết hạn hợp đồng cho phép người thuê quyền lựa chọn mua tài sản hay kí tiếp hợp đồng thuê, ủy quyền cho người thuê bán hoặc nhận lại tài sản. 1/ Trả các khoản tiền thuê theo định kì và được quyền sử dụng tài sản 2/ Chịu mọi rủi ro và thiệt hại liên quan tới tài sản. Có trách nhiệm mua bảo hiểm, đóng thuế tài sản. 3/ Không được hủy ngang hợp đồng thuê mua, trừ trường hợp được sự đồng ý của người cho thuê. 4/ Mua, tiếp tục hợp đồng thuê, bán tài sản khi hợp đồng hết hạn theo sự ủy quyền hoặc trả lại tài sản cho người cho thuê. 1.4 : Các phương thức cho thuê tài chính: Với hai loại hợp đồng cho thuê tài chính cơ bản đã nên ở trên ( Thuê vận hành và thuê mua thuần),phân tích đặc điểm của hai hình thức này dựa trên hai căn cứ cơ bản đó là : Những rủi ro và những biện pháp bảo đảm cho giá trị còn lại của tài sản thuê do bên nào thực hiện Quyền sử dụng và hưởng dụng toàn bộ các lợi ích kinh tế do tài sản thuê mang lại có được chuyển giao cho người thuê ko. Dựa trên cơ sở này,Ủy ban tiêu chuẩn Kế Toán Quốc Tế (IASC) đã đề ra 4 tiêu chuẩn làm cơ sở chung để phân loại và nhận diện các loại hợp đồng thuê tài sản thuộc phương thức nào: Quyền sở hữu tài sản thuê có được chuyển giao cho người thuê khi kết thúc hợp đồng không? Nếu có thì đó là giao dịch thuê thuần, nếu không thì là thuê vận hành. Trong hợp đồng có quy định quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng với giá tượng trưng không? Nếu có thì là giao dịch thuê thuần, còn không thì là thuê vận hành. Thời gian của hợp đồng thuê có chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản không? Nếu thỏa mãi thì giao dịch thuộc thuê thuần, các trường hợp còn lại thuộc thuê vận hành. Hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê tối thiếu do người thuê trả có tương đương hoặc lớn hơn giá trị thị trường của tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng không? Nếu có là giao dịch thuê thuần, và không là thuê vận hành. Tất cả mọi giao dịch cho thuê tài sản nếu thỏa mãn một trong 4 tiêu chuẩn trên đều thuộc phương thức thuê thuần và ngược là là thuê vận hành. Chúng ta có sơ đồ tóm tắt quá trình phân loại này (Hình 2.1) Tài sản Quyền sở hữa được chuyển giao khi thời hạn cho thuê chấm dứt Hợp đồng thuê có quy định quyền chọn mua theo giá tượng trưng Thời hạn thuê chiếm phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tối thiểu lớn hơn hay tương đương với giá trị của tài sản. Thuê vận hành Thuê thuần (Hình 2.1) 1.5: Lợi ích của hoạt động cho thuê tài chính Hoạt động cho thuê tài chính ngày nay đang phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên toàn thế giới. Nguyên nhân của sự phát triển này, đặc biệt ở các nền kinh tế phát triển là do những lợi ích mà hoạt động này đem lại cho nền kinh tế và cho các bên tham gia. 1.5.1 : Lợi ích đối với nền kinh tế 1.5.1.1 : Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế Do hoạt động cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức tín dụng khác…nên cho thuê tài chính có thể khuyến khích các thành phần kinh tế, tác nhân và nhất là các định chế tài chính đầu tư vốn để kinh doanh.Do đó, hoạt động này đã huy động được những nguồn vốn còn nhàn rỗi trong nội bộ nền kinh tế cũng như vốn từ các lĩnh vực đầu tư khác. Không những thế, trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp các quốc gia thu hút các nguồn vốn quốc tế thông qua các máy móc thiết bị cho thuê mà quốc gia đó nhận được. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, hoạt động cho thuê ngày càng phát huy tác dụng mạnh mẽ bởi việc tích luỹ vốn của các nền kinh tế này thường rất khó khăn do các doanh nghiệp đều thuộc loại vừa và nhỏ, thu nhập quốc dân thấp, hiệu quả của nền kinh tế thấy nên cho thuê tài chính có thể thu hút vốn quốc tế giúp các doanh nghiệp hiện đại hoá sản xuất, gia tăng hiệu quả, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. 1.5.1.2: Cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật Thông qua hoạt động cho thuê tài chính,các loại máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong điều kiện có khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả trong các nền kinh tế phát triển cao như : Hoa kỳ, Nhật Bản, Pháp … cho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng cập nhật hoá công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Đối với các nước chậm phát triển, nếu có các biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn diện thì tác dụng của nó còn mạnh mẽ hơn nhiều. Đặc biệt là trong thời đại bùng nổ công nghệ ngày nay, việc đầu tư vào các công nghệ hiện đại một cách kịp thời, nhanh chóng , hợp lý sẽ tạo tiền đề cho sự lớn mạnh của các quốc gia này . Tuy nhiên cũng cần phải có chính sách quản lý chặt chẽ , biện pháp khoa học để khắc phục những mặt trái hoạt động cho thuê tài chính, đặc biệt là đối với các quốc gia kém phát triển. Do thiếu thông tin, trình độ quản lý, pháp luật không rõ ràng… và nhất là xu hướng các nước phát triển đang muốn chuyển giao các công nghệ cũ , lỗi thời, ô nhiềm môi trường, hao tốn nhiên liệu, sử dụng nhiều lao động… sang các quốc gia đang phát triển, nếu các quốc gia đang phát triển không có chính sách đúng đắn có thể không những gây lãng phí nguồn ngân sách quốc gia mà còn biến đất nước thành bãi rác công nghệ. 1.5.2 : Lợi ích đối với người cho thuê 1.5.2.1. Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao Do quyền sở hữu tài sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê nên họ có quyền kiểm tra , giám sát việc sử dụng tài sản. Nếu có những biểu hiện đe doạ sự an toàn cho giao dịch thuê mua đó , người cho thuê có thể thu hồi tài sản ngay lập tức. Nhờ đó họ có thể tránh được những thiệt hại, mất vốn tài trợ. Những hình thức tài trợ khác, người tài trợ khó mà thực hiện được những biện pháp này. Khi tiến hành tài trợ thông qua thuê tài chính sẽ đảm bảo cho khoản tiền tài trợ được sử dụng đúng mục đích mà người tài trợ yêu cầu. Nhờ vậy đảm bảo khả năng trả nợ của người vay. Tài trợ thuê tài chính giúp cho người cho thuê không bị khó khăn về khả năng thanh khoản do tiền thuê và vốn được thu dựa trên hiệu quả hoạt động của tài sản. 1.5.2.2 . Cho thuê tài chính cho phép người cho thuê linh hoạt trong kinh doanh. Cho thuê tài chính là phương thức cho vay mà trong đó người vay sẽ phải trả gốc và lãi vay hàng kỳ, vì vậy trong thời gian diễn ra giao dịch thuê tài chính ,vốn tài trợ được thu hồi dần cho phép người cho thuê tái đầu tư chúng vào hoạt động kinh doanh sinh lợi khác, nhằm tạo ra những lợi nhuận tăng thêm cho doanh nghiệp. Ví dụ như một nhà đầu tư, nếu cho vay khoản tiền 5 tỷ trong 5 năm theo phương thức trả lãi hàng kỳ và trả gốc vào thời điểm đáo hạn thì sau 5 năm ông ta mới thu hồi được vốn gốc, còn nếu ông ta tài trợ theo phương thức thuê mua tài sản thì hàng năm ông ta đều thu hồi được một phần vốn và tiền thuê để dùng vào các thương vụ khác. Người đầu tư có khả năng tập trung theo chiều sâu, cả về kiến thức lẫn kinh nghiệm, kỹ thuật, nghiệp vụ … do đó có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh của họ. 1.5.3. Lợi ích đối với người thuê 1.5.3.1. Người thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất của doanh nghiệp có thể được đặt ra vàp bất cứ lúc nào. Việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn vốn tích luỹ. Trong khi đó các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn.Thông qua tín dụng thuê mua, các doanh nghiệp có tể từ tay không mà vẫn có thể có được máy móc thiết bị phục vụ yêu cầu sản xuất và sau một vài năm có thể có được một số tài sản tích luỹ nhất định. 1.5.3.2. Giúp các doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của các định chế tài chính cũng có thể nhận được vốn tài trợ thông qua tín dụng thuê tài chính. Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp mới thành lập, chưa có uy tín và không đủ các tài sản thế chấp… thường rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro nên thường bị từ chối cho vay. Trong khi đó, do đặc thù của cho thuê tài chính là người cho thuê nắm quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản và họ trực tiếp nắm quyền kiểm soát, theo dõi việc sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh người thuê. Do đó công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi vị thế tài chính, uy tín của họ bị hạn chế. Hơn nữa do chuyên doanh nên các công ty cho thuê tài chính có mạng lưới hoạt động rộng rãi , có trình độ chuyên sâu nên có khả năng đáp ứng tối nhu cầu của khách hàng và đảm bảo sự an toàn cao. 1.5.3.3 . Thuê tài chính giúp cho doanh nghiệp đi thuê không bị đọng vốn trong tài sản cố định. Thông qua nghiệp vụ bán và tái thuê, các doanh nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả cao hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng. Mặt khác nếu doanh nghiệp muốn dành vốn tích luỹ cho kinh doanh mà có nhu cầu về thiết bị tài sản thì cẫn có thể thực hiện được thông qua thuê mua tài sản cố định. 1.5.3.4. Thuê tài chính là phương thức rút ngắn thời gian triển khai đầu tư đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. So với các phương thức tăng vốn khác, thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp hơn các thủ tục và điều kiện tài trợ cũng đơn giản hơn. Do người thuê có thể tự tìm kiếm nguồn cung ứng tài sản thiết bị hay đàm phán , thoả thuận trước về hợp đồng mua bán thiết bị với nhà cung cấp sau đó mới yêu cầu công ty thuê mua tài chình tài trợ nên có thể cho phép người thuê rút ngắn thời gian tiến hành đầu tư thiết bị. 1.5.3.5. Thuê tài chính cho phép người thuê hiện đại hoá sản xuất theo kịp tốc độ phát triển với công nghệ mới. Trong điều kiện bùng nổ công nghệ như hiện nay, việc thay đổi thiết bị máy móc theo kịp đà phát triển của công nghệ mới, góp phần sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường. Nhưng đây cũng là một khó khăn đối với nhà sản xuất nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ 1.5.3.6. Cho thuê tài chính cho phép doanh nghiệp Việt Nam thu hút được vốn nước ngoài. 1.5.3.7. Cho thuê tài chính cho phép người thuê hoãn thuế. Các khoản tiền thuê phải trả hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó chúng làm giảm mức lợi nhuận của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó. Ví dụ : tổng số tiền thuê phải trả hằng năm của doanh nghiệp là 10 triệu đồng, mức thuế lợi tức là 35%/ nưm, lãi suất cho vay của ngân hàng là 20%. Khoản tiền tiết kiệm do hoãn thuế trong năm của doanh nghiệp là 10tr * (20% ( 1- 0.35 ) = 1.3 tr Kết quả này phản ánh trong năm, doanh nghiệp đã tiết kiệm được 1.3 triệu đồng nhờ nộp chậm thuế, có thể sử dụng khoản tiền này đầu tư cho sản xuất mà không cần đi vay ngân hàng và không phải trả lãi vay. 1.5.4. Bất lợi của hoạt động cho thuê tài chính : Bên cạnh những lợi ích thuê tài chính đem lại, các doanh nghiệp đi thuê cũng có những bất lợi mà doanh n._.ghiệp phải xem xét, đo lường trước khi ra quyết định. Phí tài trợ thông qua hoạt động cho thuê tài chính thường cao hơn mức lãi suất cho vay của các hình thức tài trợ vốn khác trên cùng một thị trường vốn. Ở giai đoạn cuối của thoả thuận cho thuê tài chính, dù đã trả gần đủ số tiền thuê, nhưng người thuê vẫn chưa được quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác. Trong trường hợp hợp đồng có dự liệu quyền mua tài sản với giá tượng trưng bị phá vỡ, người thuê sẽ bị thiệt hại do mất quyền ưu tiên này, bởi trong phí thuê đã tính gộp cả phí trả cho quyền chọn mua. Dưới đây là bảng tóm tắt những thuận lợi và bất lợi đối với hoạt động cho thuê tài chính. Thuê tài chính Thuận lợi Bất lợi 1 - Thuê tài chính là một nguồn tài chính tăng thêm mà doanh ngiệp có thể sử dụng dễ dàng. 2 - Thuê tài chính cho phép doanh nghiệp biến các nguồn tiền riêng thành tài sản có tỉ lệ hoàn vốn cao 3 - Các khoản chi trả tiền thuê làm giảm lợi nhuận và do đó chúng là giảm nghĩa vụ nộp thuế của công ty 4 - Thuê mua giúp doanh nghiệp có thể thay thế các thiết bị lạc hậu bằng những thiết vị mới hiện đại. 5 – Do cam kết thuê mua không được đưa vào bảng tài khoản tài sản như một món nợ nên tín dụng thuê mua giữ vững vị thế tài chính của doanh nghiệp . 1 - Chi phí thuê tài chính thường cao hơn chi phí vay vốn để công ty tự đầu tư, vì công ty thuê tài chính thu lợi nhuận của họ trên các khoản tiền vayđể tài trợ cho các giao dịch thuê tài chính. 2- Doanh nghiệp không được hưởng khoản tiền chiết khấu như mua tài sản bằng tiền mặt. 3 - Nếu tài sản được chuyển trả người cho thuê ở thời điểm kết thúc hợp đồng thuê tài chính thì doanh nghiệp không được hưởng giá trị còn lại của tài sản. 4 – Doanh nghiệp không được hưởng những khoản miễn giảm tiền thuế dành cho tài sản cho thuê. 5 - Doanh nghiệp phải chịu những ràng buộc bởi một số biện pháp bảo đảm cho tài sản thuê: không vay dài hạn, không thuê , mua chịu … khi chưa có ý kiến của người cho thuê. Tóm lại : các hoạt động cho thuê tài chính diễn ra rất đa dạng và phong phú tạo nên nhiều hình thức rất phức tạp. Các hình thức này đan xen vào nhau tạo ra nhiều biến thể rất sinh động đòi hỏi được xem xét ở nhiều góc độ. Việc nhận thức bản chất, vai trò của loại hình tài trợ này và phân tích, phân loại chúng có ý nghĩa to lớn về cả khoa học và thực tiễn , giúp cho việc vận dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả. Đồng thời, bên cạnh những mặt tốt, có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển cũng cần thấy mặt trái của cho thuê tài chính để có biện pháp hạn chế phòng ngừa . CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 2.1. Bối cảnh ra đời 2.1.1 : Tình hình cạnh tranh thông qua chất lượng sản phẩm đặt ra yêu cầu phải đổi mới máy móc thiết bị Cho thuê tài chính xuất hiện ở Việt Nam lần đầu tiên là vào năm 1995, trong thời kỳ nền kinh tế đang bước sang nền kinh tế thị trường, áp lực cạnh tranh bắt đầu đè nặng lên các doanh nghiệp. Vào thời điểm đó , hàng hoá sản xuất ra có chất lượng thấp, giá cả không phù hợp… nên bị tồn đọng rất nhiều trong khi hàng hoá nước ngoài với giá cả cạnh tranh và hình thức mẫu mã hấp dẫn đã chiếm lĩnh thị trường. Để tồn tại, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước phải đảm bảo được về cả chất lượng và giá cả hợp lý, và vì thế các doanh nghiệp trong nước đã tiến hành đổi mới các thiết bị, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao công suất hoạt động. Ví dụ như ngành giấy ở Việt Nam : trước năm 1990. giấy nội địa sản xuất tại 3 địa điểm : công ty giấy bãi bằng, giấy Tân Mai, giấy Đồng Nai, giấy sản xuất ra đen, bở mặt giấy không mịn và giá khá cao. Nhưng từ 1991 -1994 thì sản phẩm làm ra hầu như không tiêu thụ được, do giấy các cơ sở trong nước sản xuất chất lượng thấp hơn nhưng mà giá thành lại cao hơn, hàng tồn kho nhiều , cả 3 công ty phải ngưng sản xuất trong thời gian dài . Vì thế để có thể cạnh tranh được, 3 doanh nghiệp này cần đầu tư vốn để đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ … tuy nhiên việc đầu tư hệ thống mãy móc thiết bị hiện đại đòi hỏi lượng tiền lớn, vượt quá khả năng của ngành và cần có sự đầu tư của các tổ chức bên ngoài. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp nước ta đang hoạt động sản xuất kinh doanh trong một tình trạng quy mô tài sản cố đinh nhỏ bé , trình độ công nghệ rất lạc hậu so với trình độ công nghệ trong khu vực và thế giới. Đa số các doanh nghiệp nước ta thuộc loại vừa và nhỏ, số doanh nghiệp có quy mô tài sản cố định trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 17% tổng số các doanh nghiệp, các doanh nghiệp có quy mô từ 1 tỷ - 10 tỷ đồng chíêm 58%, còn lại 25% có quy mô dưới 1 tỷ. Tình độ công nghệ của các loại máy móc thiết bị nước ta ở trình độ rất thấp so với thế giới, số thiết bị có trình độ lạc hậu chiếm tỷ lệ rất cao. Các thiết bị hiện đại chỉ chiếm 10%. Hệ quả là hàng hoá sản xuất trong nước có giá thành cao, chất lượng thấp, mẫu mã chậm thay đổi cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, hàng hoá trong nước bị mất uy tín và không cạnh tranh được với hàng hoá nước ngoài ngay tại thị trường trong nước. Bối cảnh kinh tế xá hội, nhất là những nhu cầu về vốn, thiết bị , công nghệ cùng với thực trạng công nghệ máy móc thiết bị như trên đã đưa ra yêu cầu về tính cấp bách của nhu cầu đổi mới công nghệ và vì thế đã tạo ra những tiền đề cần thiết thúc đẩy việc hoàn chỉnh các cơ sở pháp lý và kỹ thuật các hoạt động thuê mua ra đời và phát triển ở Việt Nam 2.2 Nhu cầu của hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam Thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam trong tương lai sẽ là một thị trường có tính hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như quốc tế. Tính hấp dẫn của thị trường thuê tài chính nước ta do ba đặc trưng chủ yếu tạo thành: Là thị trường mới đối với hoạt động cho thuê tài chính. Khối lượng cầu lớn, đã bắt đầu bộc phát. Mức độ cạnh tranh chưa gay gắt. Trong giai đoạn kế hoạch hoá tập trung , việc đổi mới kỹ thuật công nghệ , máy móc thiết bị trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp ở Việt Nam rất đình trệ thụ động. Vì vậy, bước vào thời kỳ kinh tế thị trường những yếu điểm này ngày càng bộc lộ ra và đòi hỏi những thay đổi một cách căn bản các loại máy móc thiết bị cũ bằng những máy móc thiết bị mới , công nghệ tiên tiến để hiện đại hoá nền sản xuất. Do đó xuất hiện một thị trường có nhu cầu trang bị với khối lượng lớn các loại máy móc thiết bị hiện đại. Trong bối cảnh đó, các hoạt động thuê mua đã bắt đầu được khởi động. Trước tiên ngâm hàng nhà nước đã ra quyết định số 149 - QĐ – NH5 ngày 27 - 5 -1995 ban hành thế lệ tín dụng thuê mua cho phép các định chế tài chính tổ chức kinh doanh loại hình tín dụng này và ngày 9 – 10 – 1995 chính phủ đã ban hành quy chế tạm thời về tổ chức hoạt động của các công ty thuê mua.Và tiếp sau đó là các nghị định 16, nghị định 65 của chính phủ nhằm quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức thuê mua tài chính nhằm hoàn thiện hơn hệ thống pháp lý nhằm cho phép hoạt động thuê mua tài chính ở nước ta phát triển mạnh mẽ . Mặt khác thị trường máy móc, thiết bị tài sản Việt Nam cũng là một thị trường có khối lượng cầu rất to lớn, bởi khác hàng của thị trường này là hàng ngàn doanh nghiệp đang có nhu cầu phải đổi mới các loại máy móc thiết bị để cho phù hợp với những yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Trong khi nguồn tài chính để thực hiện sự thay đổi này gặp nhiều khó khăn và rất nhiều hình thức tài trợ tín dụng hiễn đã tỏ ra không phù hợp hoặc không đáp ứng đúng nhu cầu này. 2.3. Thực trạng của hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam 2.3.1. Giai đoạn 1995 – 2000 Cho thuê tài chính xuất hiện ở Việt Nam lần đầu tiên là vào năm 1995 Đến thời điểm 1997 thì trong nước đã có 6 công ty cho thuê tài chính.Trong lĩnh vực tài chính Việt Nam được thống trị bởi hệ thống ngân hàng, nắm giữ tới 85% tổng giá trị tài sản và tài khoản cho 90% khoản vay tài trợ cho thương mại, việc thành lập thị trường cho thuê tài chính đã tạo ra một sự lựa chọn mới, giúp giảm bớt sự thiếu vốn  trong các quỹ dài hạn. Có 4 ngân hàng thương mại đi tiên phong trong lĩnh vực cho thuê tài chính ở Việt Nam, nhưng chỉ có 2 ngân hàng là VietcomBank và ngân hàng Đầu tư phát triển BIDV hoạt động mạnh trong việc thúc đẩy và sử dụng vốn trang thiết bị trong các dự án.Đóng vai trò chính trong thị trường tài chính trong nước, hai công ty cho thuê tài chính trên chiếm tỷ lệ lần lượt là 85% và 15% của tổng giá trị các hợp đồng thuê tài chính đã ký. Trước khi lệnh thu hồi nợ vốn của hai chi nhánh cho thuê tín dụng của các ngân hàng thương mại này có hiệu lực năm 1996, thì hai công ty cho thuê tài chính trên đã ký khoảng 60 hợp đồng cho thuê tài chính với tổng giá trị là 6 triệu đô la, hầu hết là dành cho các doanh nghiệp tư nhân.   Trong khi nghiên cứu gần 50 giao dịch, kết quả phân tích chỉ ra rằng có rất nhiều loại giá trị hợp đồng thuê tài chính ở Việt Nam. Các hợp đồng có giá trị trong khoảng 6,000$ đến 500,000$, giá trị trung bình cỡ khoảng 100,000 $. Và gần 90% các hợp đồng thuê tài chính đã phát hành có giá trị trong khoảng 10,000$ đến 250,000$. Thời hạn hoàn trả vốn của mỗi hợp đồng thuê tài chính từ 24 - 72 tháng, trong khoảng 25 - 36 tháng thì doanh nghiệp phải trả gần 60% giá trị vay. Giai đoạn 2001 tới nay Trên thị trường Việt Nam hiện có 13 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động, gồm 7 công ty trực thuộc các ngân hàng thương mại Nhà nước, 4 công ty có vốn đầu tư nước ngoài và 2 công ty thuộc ngân hàng thương mại cổ phần. STT Tên công ty Số và ngày CP VĐL 1 Cty CTTC ANZ-VTRAC (100% vốn nước ngoài) ( ANZ/V-TRAC Leasing Company) 14/GP-CTCTTC ngày 19/11/1999 5 Triệu USD 2 Cty CTTC I - NH Nông nghiệp & PTNT ( Agribank No1. Leasing Company) 06/GP-CTCTTC ngày 27/08/1998 200 tỷ VNĐ 3 Cty CTTC II - NH Nông nghiệp & PTNT ( Agribank No2. Leasing Company) 07/GP-CTCTTC ngày 27/08/1998 350 tỷ VNĐ 4 Cty CTTC II NH Đầu tư và Phát triển VN (BIDV Leasing Company II) 11/GP-NHNN ngày 17/12/2004 150 tỷ VNĐ 5 Cty CTTC Kexim (KVLC) (100% vốn nước ngoài) ( Kexim Vietnam Leasing Company) 02/GP-CTCTTC ngày 20/11/1996 13 tỷ VNĐ 6 Cty CTTC NH Công thương VN (Leasing Company - Industrial and Commercial Bank of Vietnam) 04/GP-CTCTTC ngày 04/GP-CTCTTC ngày 20/03/1998 300 tỷ VNĐ 7 Cty CTTC NH Ngoại thương VN ( VCB Financial Leasing Company) 05/GP-CTCTTC ngày 25/05/1998 100 tỷ VNĐ 8 Cty CTTC NH Sài Gòn Thương Tín ( Sacombank Leasing Company) 04/GP-NHNN ngày 12/04/2006 200 tỷ VNĐ 9 Cty CTTC NH Đầu tư và Phát triển VN (BIDV Leasing Company I) 08/GP-CTCTTC ngày 27/10/1998 200 tỷ VNĐ 10 Cty CTTC Quốc tế VN (VILC) (liên doanh) (Vietnam International Leasing Company) 01/GP-TCTTC ngày 28/10/1996 200 tỷ VNĐ 11 Cty TNHH CTTC Quốc tế Chailease ( Chailease International Leasing Company Limited) 09/GP-NHNN ngày 09/10/2006 10 tỷ VNĐ 12 Cty TNHH một thành viên CTTC Công nghiệp tàu thủy ( VINASHIN Financial Leasing Company Limited) 79/GP-NHNN ngày 19/03/2008 100 tỷ VNĐ 13 Cty TNHH một thành viên CTTC Ngân hàng Á Châu ( ACB Leasing Company) 06/GP-NHNN ngày 22/05/2007 100 tỷ VNĐ Ngoài ra, có rất nhiều các công ty tài chính, quỹ đầu tư đã và đang tiếp tục được phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Riêng về khía cạnh cung ứng vốn thông qua kênh cho thuê tài chính hay có thể hiểu cho thuê tài chính như một hoạt động tài trợ vốn trung và dài hạn. Sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động cho thuê tài chính trong những năm gần đây bước đầu cho thấy được ưu điểm nổi trội của kênh tín dụng này đối với các doanh nghiệp Việt nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện nay, các dịch vụ tài chính ngân hàng trên thị trường cạnh tranh khá gay gắt, sự ra đời của nhiều doanh nghiệp làm dịch vụ cho thuê tài chính khẳng định rằng loại hình dịch vụ này sẽ sôi động trong thời gian tới, nhiều công ty cho thuê tài chính đã có những phương thức khác nhau để thu hút khách hàng như triển khai thêm các sản phẩm đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép như cho thuê vận hành, đầu tư tài chính, liên doanh, liên kết trong và ngoài nước để mở rộng thị phần hoạt động …. Theo ông Trần Văn Hưng, giám đốc một công ty cho thuê tài chính lớn của Việt Nam nói: “Với ưu điểm nổi bật của cho thuê tài chính, chúng tôi tin tưởng sẽ là bạn đồng hành của nhiều doanh nghiệp. Hiện nay, chúng tôi đã thiết lập quan hệ với các nhà cung ứng, các khu công nghiệp, các trung tâm thẩm định, bảo hiểm… những đơn vị không thể thiếu khi cho thuê tài chính để hoạt động chặt chẽ, hiệu quả hơn. Mặt khác, khi thực hiện thuê tài chính, doanh nghiệp vẫn được quyền tự do lựa chọn loại máy móc thiết bị thuê, nhà sản xuất, nhà cung ứng, đặc tính kỹ thuật, cách thức và thời gian giao nhận, lắp đặt và bảo hành, giá cả tài sản thuê. Tùy từng thời kỳ, mặt bằng lãi suất trên thị trường, hiệu quả của dự án và uy tín của khách hàng, chúng tôi sẽ có mức lãi suất cho thuê ưu đãi và hợp lý”. Theo các chuyên gia nước ngoài nhận định, khi Việt Nam đã là thành viên WTO, cùng với cam kết mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng, trong đó có cho thuê tài chính chắc chắn sẽ có nhiều tập đoàn, nhiều công ty cho thuê tài chính nước ngoài đến làm ăn ở Việt Nam, khi đó cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng nói chung và các công ty cho thuê tài chính nói riêng sẽ rất gay gắt. Tuy nhiên, cơ hội luôn song hành cùng thách thức. Tham gia vào một sân chơi kinh doanh bình đẳng buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn để nâng cao trình độ, quy mô, năng lực sản xuất, đồng thời khi thể chế luật pháp ràng buộc chặt chẽ, đồng bộ sẽ buộc các doanh nghiệp làm ăn kinh doanh bài bản hơn, tránh tình trạng manh mún, nhỏ lẻ sẽ không tồn tại. Bên cạnh đó, yêu cầu thông tin tài chính minh bạch sẽ tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng khai thác thông tin, đánh giá khách hàng. Mặc dù công ty cho thuê tài chính có tác dụng cho các doanh nghiệp như vậy nhưng hoạt động công ty tài chính thời gian vừa qua vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được khả năng, trong khi nhu cầu về thuê máy móc, thiết bị của doanh nghiệp nhỏ và vừa còn rất lớn. Nguyên nhân của hạn chế này là do môi trường pháp lý về công ty tài chính chưa đầy đủ, chưa hoàn thiện. Thời gian tới, khi cơ chế chính sách về hoạt động cho thuê tài chính được hoàn thiện, các doanh nghiệp cần chủ động “đón đầu” để phát huy tối đa lợi thế của kênh tín dụng này 2.3.3 Lợi ích và hạn chế của hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam. Khi thị trường tài chính Việt nam chưa thật sự phát triển thì vấn đề về vốn cho hoạt động của doanh nghiệp luôn là một bài toán làm đau đầu các nhà quản trị. Thực tế cho thấy việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp sản xuất là một đòi hỏi bức thiết trong bối cảnh hội nhập để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như năng suất lao động, giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Phần lớn các trang thiết bị của nhiều doanh nghiệp đã lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước tiên tiến. Song muôn thuở nan giải vẫn là câu hỏi: lấy vốn ở đâu? Hiện nay lượng vốn dài hạn đầu tư cho các dự án này ở các doanh nghiệp Việt nam là hết sức khiêm tốn. Kênh tài trợ quen thuộc vẫn là đi vay ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp mới ra đời không có đủ tài sản đảm bảo cũng như uy tín thì việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng quả là khó khăn. Trong những trường hợp như vậy, đi thuê tài chính có thể là một giải pháp tối ưu. Thứ 1 : Thuê tài chính làm tăng sự thuận tiện và chú trọng hơn cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ mà điều này thường thất bại nếu như vay từ các nguồn vốn chính như FDI và tín dụng từ các ngân hàng thương mại, các quy trình thủ tục cho thuê tại các công ty cho thuê tài chính nói chung và tại BLC nói riêng rất đơn giản, tiện lợi. Ưu điểm rõ nhất của cho thuê tài chính là không cần tài sản thế chấp, điều đó giải toả áp lực cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, còn hạn chế năng lực tài chính hoặc các doanh nghiệp mới thành lập. Lợi ích từ việc thuê tài chính như Tiết kiệm thời gian do quá trình xét duyệt khá minh bạch. Giúp hạn chế một số rủi ro tài chính thường gặp Cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm kiếm sử dụng nguồn quỹ của mình khi việc sản xuất yêu cầu về tài sản dài hạn. Giảm thiếu 1 số cam kết không cần thiết. Việc cho thuê tài chính rất hữu ích cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ bằng việc cung cấp vốn thiết bị để tăng cao chất lượng và năng suất sản phẩm. Thứ 2 : Khi đưa ra các thời hạn thanh toán trung bình là 3 năm, việc cho thuê tài chính đóng vai trò quan trọng  trong việc vay ngắn hạn. Cuối cùng, việc thuê tài chính là một công cụ tài chính giúp các giám đốc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiết kiệm thời gian tìm kiếm các quỹ tài chính để tập trung vào hoạt động sản xuất. Thứ 3: Thông thường đối với các khoản vốn vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại luôn đòi hỏi tài sản đảm bảo ( thế chấp hoặc cầm cố) và chỉ cho vay tối đa là 80% tổng chi phí thực hiện dự án, nhưng với kênh cho thuê tài chính, doanh nghiệp chẳng những không cần ký quỹ đảm bảo hay tài sản thế chấp mà còn có thể được tài trợ đến 100% vốn đầu tư. Lãi suất hoàn toàn dựa trên sự thỏa thuận của 2 bên. Thế mạnh của các công ty cho thuê tài chính là tách quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản, cho vay không cần tài sản thế chấp, mà tài sản thế chấp quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp đi thuê tài chính là tín nhiệm của doanh nghiệp, uy tín của chủ doanh nghiệp, tính khả thi của dự án và phần vốn tham gia trả trước... Kênh tín dụng này cũng cho phép doanh nghiệp được hoàn toàn chủ động trong việc lựa chọn máy móc thiết bị, nhà cung cấp, cũng như mẫu mã chủng loại phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp mình. Ngoài ra nếu doanh nghiệp đã lỡ đầu tư mua tài sản mà thiếu vốn lưu động thì vẫn có thể bán lại cho công ty cho thuê tài chính và sau đó công ty sẽ cho doanh nghiệp thuê lại. Như vậy doanh nghiệp vừa có vốn lưu động cho hoạt động sản xuất  kinh doanh mà vẫn được sử dụng tài sản. Kết thúc thời hạn thuê, doanh nghiệp được quyền ưu tiên mua lại tài sản với giá trị danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm mua lại. Bên cạnh đó một ưu điểm vô cùng quan trọng nữa của hình thức cho thuê tài chính đó là lợi ích được hưởng từ tấm chắn thuế. Tài sản cho thuê tài chính vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê nên bên cho thuê được phép khấu hao tài sản đó, làm giảm thuế thu nhập phải nộp. Mặt khác, bên đi thuê phải trả chi phí thuê, chi phí đó được khấu trừ trước thuế nên cũng làm giảm thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp. Như vậy cả hai doanh nghiệp đều nhận được lợi ích từ tấm chắn thuế. Qua những nét phác họa cơ bản trên, kênh tín dụng cho thuê tài chính có thể là một sự lựa chọn tốt cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi có nhu cầu Tuy nhiên, có nhiều khó khăn trong việc tham gia thị trường cho thuê tài chính. Xem xét vấn đề trên giác độ là doanh nghiệp đi thuê tài chính : Có một sự thật rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ coi việc cho thuê tài chính như là một nguồn vay với chi phí thấp, điều này có thể ngăn cản những đàm phán có lợi cho những người cho thuê trong hợp đồng. Thêm vào đó, thiếu bảo hiểm cho các khoản vay, thiếu sự bảo đảm của các quỹ, và chính phủ thì đặt ra tỷ lệ lãi suất cao đã khiến cho việc thưc hiện các hợp đồng cho thuê tài chính gặp nhiều thử thách hơn mức cần thiết. Nếu xem xét trên giác độ là doanh nghiệp cho thuê tài chính, ta có thể nhận thấy những khó khăn cơ bản sau : Thứ nhất, mặc dù đã xuất hiện hơn 10 năm trên thị trường Việt Nam nhưng sự quảng bá, giới thiệu để cộng đồng doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ về lĩnh vực tìm hiểu về lĩnh vực cho thuê tài chính còn rất hạn chế. Chính do sự nhận biết còn quá ít, nên phần lớn DN vừa và nhỏ ở Việt Nam chưa bỏ được thói quen khi cần huy động vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, lại tìm đến ngân hàng. Đúng là trong lĩnh vực tín dụng thì ngân hàng có nhiều ưu điểm vượt trội hơn so với cho thuê tài chính. Với ưu thế bề dày lâu năm, mạng lưới kinh doanh rộng khắp, sản phẩm, dịch vu đa dạng, làm cho một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp có thói quen chỉ tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu vốn. Vì thế để có thể giành được nhiều sự quan tâm của khách hàng hơn, thể hiện những ưu điểm của mình so với các ngân hàng công tác tiếp thị khách hàng, quảng bá doanh nghiệp của các công ty cho thuê tài chính nói chung cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới để các doanh nghiệp khi có nhu cầu vốn sẽ nhanh chóng tìm ra “địa chỉ” các kênh tín dụng, trong đó họ sẽ hiểu rõ hơn “lợi thế” của cho thuê tài chính so với tín dụng truyền thống. Thứ hai, mạng lưới hoạt động của các công ty cho thuê tài chính mới chỉ có mặt tại một vài trung tâm kinh tế lớn, chưa trải rộng trong cả nước cũng như chưa có sự phối hợp với các ngân hàng thương mại để có thể quảng bá hoặc bán trọn gói sản phẩm. Điều này có thể nhận biết một cách dễ dàng, dù ở đâu, chúng ta có thể nhìn thấy các bảng hiệu của các ngân hàng các ngân hàng ngày nay đã phát triển các chi nhánh của nó ở hầu hết các địa phương trong nước dù là ở thành thị hay nông thôn, hay ở các khu vực miền núi ta đều có thể thấy các chi nhánh ngân hàng, thấy các chính sách của ngân hàng trải rộng khắp nơi. Trong khi đó, các công ty cho thuê tài chính thì chỉ co 13 công ty và có hơn 10 chi nhánh của nó trên toàn quốc, có thể thấy là phạm vi của hệ thống công ty cho thuê tài chính là rất nhỏ. Lượng thông tin quảng bá của các công ty cho thuê tài chính cũng rất ít ỏi và ít gây sự quan tâm chú ý của mọi người. Thứ ba, trình độ của cán bộ kinh doanh trong các Công ty cho thuê tài chính chưa chuyên nghiệp, không năng động trong việc tiếp cận và tư vấn cho doanh nghiệp về cơ cấu nguồn vốn. Hoạt động cho thuê tài chính còn rất mới mẻ ở Việt Nam, hoạt động cho thuê tài chính chỉ mới đi vào hoạt động được hơn 10 năm, vì vậy vấn đề đào tạo nhân lực cũng như chất lượng của nguồn nhân lực là chưa cao, đồng thời, các cán bộ trong các công ty cho thuê tài chính hầu như không có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực mới này. Vì thế, cần phải tăng cường công tác đào tạo các cán bộ kinh doanh, thu hút nhiều người tài vào hoạt động trong ngành nghề này, đồng thời tăng cường học hỏi kinh nghiệm từ các công ty cho thuê tài chính nước ngoài cả về cách thức quản lý, tổ chức lãnh đạo và phương pháp, kinh nghiệm làm việc từ các tổ chức, những người có nhiều thành công trong lĩnh vực này. Thứ tư, quy định về đối tượng cho thuê tài chính tại Việt Nam chỉ bó hẹp trong động sản, đối với dây chuyền sản xuất lại yêu cầu tỷ lệ tham gia vốn lớn.Trong khi đó, các công ty cho thuê tài chính của Việt Nam có số vốn đầu tư chưa đủ lớn để đáp ứng tất cả các nhu cầu đa dạng của khách hàng trong nước hiện nay. Hiện tại đối tượng tài sản cho thuê còn rất đơn điệu, chỉ bao gồm các máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, một số động sản khác. Thứ năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam phần lớn còn yếu kém về năng lực sản xuất, trình độ quản lý, tính khả thi của dự án thiếu thuyết phục (do đa số là doanh nghiệp hộ gia đình, tình hình tài chính không rõ ràng, doanh nghiệp mới thành lập...). Đây là thế yếu khi họ có nhu cầu tìm nguồn vốn cho dự án. Do không cần tài sản thế chấp nên cho thuê tài chính rất phù hợp với các đối tượng doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, do cả hai phía: các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường hạn chế về năng lực, trình độ quản lý, ý thức chấp hành luật pháp, chế độ tài chính kế toán chưa cao gây khó khăn cho các Công ty cho thuê tài chính trong việc đánh giá thẩm định tính khả thi của dự án cũng như nhân thân của khách hàng, gây ra nhiều hạn chế trong việc cho vay của công ty tài chính cũng như có nhiều rủi ro đối với các công ty này. Về phía các công ty cho thuê tài chính chưa tạo cho khách hàng hiểu rõ hiệu quả, lợi ích của cho thuê tài chính mang lại và một khó khăn nữa là đối tượng cho thuê còn quá đơn điệu (máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, một số động sản khác). Mặc dù có những khó khăn như thế, nhưng việc thực hiện cho thuê tài chính cho thấy đây là một ngành có tiềm năng lớn. Việc thuê tài chính sẽ là một lợi ích to lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam nếu như các luật lệ được nới lỏng hơn và nhận thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được nâng cao. CHƯƠNG 3 : HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH 3.1 . Những chủ thể tham gia trong quá trình giao dịch của nghiệp vụ cho thuê tài chính. Trong quá trình giao dịch của nghiệp vụ CTTC thường có sự tham gia của nhiều chủ thể. Đồng thời giữa các bên có sự liên đới trong nhiều lĩnh v ực theo những chức năng vai trò nhất định Một giao dịch CTTC thường có sự tham gia hay liên quan tới các bên sau đây: Người cho thuê (công ty leasing hay nhà chế tạo có trực tiếp cho thuê sản phẩm của họ hay các định chế tài chính có kinh d oanh dịch vụ này) Người thuê ( các doanh nghiệp hay thể nhân ) Người cho vay (ngân hàng hay các định chế tài chính khác) Người cung cấp ( nhà chế tạo thiết bị hay nhà cung cấp) Các cơ quan quản lý Nhà nước ( ngân hàng nhà nước, cơ quan thuế, tòa án…) Hệ thống pháp luật… Người cho thuê (Lessor) Là nhà tài trợ vốn cho người thuê, là người sẽ thanh toán toàn bộ giá trị mua bán thiết bị theo thỏa thuận giữa người thuê và nhà cung cấp và là chủ sở hữu tài sản về mặt pháp lý. Trong trường hợp cho thuê tài sản của chính họ thì người cho thuê cũng đồng thơi là nhà cung cấp thiết bị. Người thuê (Lessee) Là khách hàng thuê mua thiết bị, tài sản của người cho thuê hay là người nhận sự tài trợ tín dụng của công ty thuê. Người thuê cũng là người có quyền sử dụng, hưởng dụng những lợi ích do tài sản đem lại và có trách nhiệm trả những khoản tiền thuê theo thỏa thuận. Nhà chế tạo hay nhà cung cấp ( Manufacturer or supplier) Là người cung cấp tài sản, thiết bị theo thỏa thuận với người thuê và theo các điều khoản trong hợp đồng mua bán thiết bị đã kí kết với người cho thuê. Người cho vay (Lender) Là một định chế tài chính hay là một người nào đó cho người cho thuê vay một phần của khoản tiền mua sắm thiết bị để cho thuê. Các cơ quan quản lý Nhà nước: Là cơ quan công quyền như Ngân hàng Nhà nước, cơ quan công chứng, tòa án, cơ quan thuế… Những cơ quan này có trách nhiệm giám sát và kiểm soát việc tuân thủ các quy định của luật pháp. Đồng thời công nhận tính hợp pháp của giao dịch thuê mua, quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản và xét xử, giải quyết các tranh chấp. Hệ thống luật pháp: Là những văn bản luật chi phối các hoạt động thuê mua, quy định trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của tất cả các bên có liên quan trong hoạt động CTTC. Những văn bản này tạo ra môi trường pháp lý để các giao dịch CTTC hoạt động đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội. Đối tượng của các giao dịch CTTC: Các loại tài sản, thiết bị thường được sử dụng trong các giao dịch CTTC rất đa dạng và có sự phát triển không ngừng, được chia thành 2 loại chính: Bất động sản: là các loại tài sản không thể di chuyển vị trí của chúng (ví dụ : nhà cửa,văn phòng, cửa hàng kinh doanh, nhà máy,nhà xưởng…). Thời hạn cho thuê của các loại tài sản này thường từ 1 vài năm tới 20-30 năm. Động sản: là các loại tài sản có thể di chuyển vị trí của chúng, chủng loại của các loại tài sản này cũng rất đa dạng (ví dụ: dụng cụ, trang thiết bị văn phòng…) có đời sống hữu ích 1-2 năm hoặc những tài sản có tuổi thọ hàng vài chục năm… Các loại bất động sản thường được sử dụng trong hoạt động thuê mua là: - Bàn ghế làm việc - Các máy móc thiết bị văn phòng - Xe ô tô, xe lửa, tàu thuyền. Thời hạn thuê của các loại động sản cũng tương tự như bất động sản. 3.2 Các loại hợp đồng cho thuê tài chính. 3.2.1 Phân loại hợp đồng CTTC theo tổng số tiền thuê trong thời hạn cơ bản: Căn cứ vào số tiền thuê nhận được trong thời hạn cơ bản của hợp đồng thuê có thể phân chi các giao dịch thuê thành hai loại: 3.2.1.1 Hợp đồng thuê mua hoàn trả toàn bộ ( full- payout lease contract) Đối với hợp đồng thuê hoàn trả toàn bộ, tổng số tiền thuê mà người cho thuê nhận được trong thời hạn cơ bản của hợp đồng đủ bù đắp toàn bộ chi phí mua sắm tài sản, lãi suất vốn tài trợ, các chi phí quản lý, hao mòn vô hình và đủ đem lại lợi nhuận hợp lý cho người cho thuê. 3.2.1.2 Hợp đồng cho thuê mua trả từng phần ( Non- full payout lease contract) Đối với hợp đồng thuê mua hoàn trả từng phần thì sau khi kết thúc thời hạn cơ bản của hợp đồng, tổng số tiền trả gốc nhận được từ hợp đồng này không hoàn trả đủ chi phí ban đầu đã bỏ ra mua sắm tài sản. Vì vậy để thu hồi vốn và có lợi nhuận người cho thuê sẽ tiếp tục cho thuê. Một số đặc điểm của hình thức hợp đồng hoàn trả từng phần: Trong thời hạn cơ bản, các bên không có quyền hủy hợp đồng nếu không có sự nhất trí chung. Hết thời hạn cơ bản, các bên có quyền tự do lựa chọng tiếp tục thuê tài sản đó thêm một thời gian, hay mua chúng theo giá cả hợp lý. Trường hợp tiếp tục thuê thì bên thuê có quyền hủy ngang hợp đồng như thuê vận hành. Do tính chất của hình thức thuê mua này, người cho thuê thường tăng tốc độ khấu hao, tức là tăng tiền thuê trong thời hạn cơ bản. Hợp đồng thuê mua loại này càng đưa ra cho người thuê nhiều sự lựa chọn khi kết thúc thời hạn cơ bản thì tiền thuê càng cao. Số tiền tăng thêm này thu được từ nhiều hợp đồng đủ để bù lại những thiệt hại khi có những tài sản hết thời hạn cơ bản không được sử dụng vào bất cứ hình thức sinh lợi nào. Tiền thu hồi vốn cao trong giai đoạn đầu được tái đầu tư vào các giao dịch khác để sinh lợi, phần lời này được đưa vào quỹ phòng ngừa rủi ro. 3.2.2 Phân loại hợp đồng thuê mua theo tính chất của giao dịch thuê mua: 3.2.2.1 Hợp đồng thuê mua xuất phát từ phương diện người cho thuê: 3.2.2.1.1 Hợp đồng thuê mua tài trợ trực tiếp( Direct Lease) Hợp đồng thuê mua tài trợ trực tiếp là loại hợp đồng mà người cho thuê sử dụng thiết bị của họ có sẵn trực tiếp tài trợ cho người thuê. Người cho thuê thường là nhà sản xuất hoặc các định chế tài chính và cũng có thể là công ty leasing, sử dụng tài sản của họ để tài trợ cho người thuê. Hình thức tài trợ này có những đặc điểm căn bản: Hàng hóa thường là những loại tài sản có giá trị không quá lớn và thuộc các loại máy móc thiết bị. Chỉ có hai bên tham gia trực tiếp vào giao dịch là người cho thuê và người thuê. Vốn tài trợ hoàn toàn do người cho thuê đảm nhiệm. Người cho thuê có th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32974.doc
Tài liệu liên quan