Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên

Tài liệu Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên: ... Ebook Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài: Phát triển nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề đã và đang được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình đất nước phát triển đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng các ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhưng vẫn không thể phủ định vai trò to lớn của nông nghiệp đối với đời sống nhân dân đặc biệt là đối với nước ta – Cơ bản là một nước nông nghiệp. Giảm dần nhưng không có nghĩa là sau đó xóa bỏ hẳn mà là giảm về số lượng để nâng cao chất lượng. Đất nước tiến lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa do vậy phải đưa “công nghiệp hóa” vào ngành nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Việc Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đến nông nghiệp là do ngành nông nghiệp cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho con người, do xuất phát từ đặc điểm của nước ta với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Bên cạnh đó nước ta trong nhiều năm liền là nước có vị trí cao trong xuất khẩu mặt hàng nông nghiệp như gạo, cà phê, cao su… Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại yếu kém do các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất vẫn chưa thể phát huy hết những điều kiện thuận lợi và khắc phục khó khăn, hạn chế của ngành. Có rất nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động và trong một thời gian dài kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo tiêu biểu là kinh tế hợp tác xã nông nghiệp nói chung và hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp nói riêng. Với địa bàn hoạt động sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, hòa chung với việc thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước, UBND huyện Việt Yên đã trực tiếp chỉ đạo Phòng Nông nghiệp huyện tiến hành quản lý, hướng dẫn các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện tham gia sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả trong sản xuất. Để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp trên cả nước thì trước tiên phải nâng cao hiệu quả của các hợp tác xã trong huyện. Để làm được điều đó thì việc đánh giá thực trạng để từ đó tìm ra các giải pháp là vấn đề mang tính chất cần thiết và quan trọng. Hiểu được điều đó, em quyết định chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên”. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề về lý luận về hiệu quả hoạt động của kinh tế hợp tác xã để phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp huyện Việt Yên trong những năm gần đây, nhằm khẳng định những kết quả đạt được, chỉ ra những tồn tại và nguyên nhân chủ yếu để tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Đồng thời đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ trong các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp phù hợp với đặc điểm điều kiện huyện Việt Yên, phù hợp với xu hướng vận động của nền nông nghiệp nước ta. 3. Phương pháp nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề về hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp. - Phạm vi nghiên cứu: + Không gian: Các hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. + Thời gian: Chủ yếu là từ năm 2004 trở lại đây. - Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Bên cạnh hai phương pháp cơ bản và phổ biến là duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, em còn sử dụng thêm các phương pháp cụ thể như: Phương pháp thống kê (thu thập và sử dụng số liệu, phân bổ, so sánh…); phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp ước lượng… 4. Bố cục chuyên đề: Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm 3 phần: Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế tập thể và HTX nông nghiệp. Chương II. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với phát triển các HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên. Chương III. Quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên. CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TẬP THỂ VÀ HTX NÔNG NGHIỆP. I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TẬP THỂ. 1. Bản chất kinh tế tập thể. Hoạt động sản xuất là đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người. Để có hoạt động sản xuất được, thì như Các Mác đã chỉ rõ: “Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ chặt chẽ với nhau, và chỉ có trong phạm vi những mối liên hệ và quan hệ đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức là sản xuất”. Tính xã hội, tính tập thể về hoạt động sản xuất của con người được hình thành và phát triển dựa trên nền tảng là các quan hệ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau và quan hệ phân phối lợi ích, trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định các quan hệ khác. Bởi vì, địa vị kinh tế của cá nhân và nhóm người trong sản xuất và phân phối đều do chế độ sở hữu quy định. Đối với một tập thể với tính cách là chủ thể kinh tế, sự tồn tại và phát triển cũng dựa trên nền tảng các mối quan hệ nêu trên, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng nhất. Kinh tế tập thể (KTTT) là hình thức liên kết kinh tế tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của từng thành viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên. Nền tảng kinh tế của tập thể là sở hữu tập thể. Do vậy, để củng cố và phát triển KTTT phải quan tâm tới sở hữu tập thể. Tuy nhiên, cần phải thấy tính hai mặt và sự tách rời về mặt sở hữu đối với hai mặt hiện vật và giá trị của sở hữu tập thể, chúng ta mới có thể thiết lập được các hình thức KTTT đa dạng, với trình độ phát triển đa dạng đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn phát triển KTTT trong mọi ngành và mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Các hình thức tổ chức KTTT là rất đa dạng, trong đó nòng cốt là các hợp tác xã (HTX) – là loại hình KTTT phát triển ở trình độ cao hơn các loại hình KTTT giản đơn và các kình thức kinh tế hợp tác đa dạng khác của nông dân như tổ đoàn kết sản xuất, câu lạc bộ sản xuất, các hội nghề như hội nuôi ong, hội nuôi cá… Trong quá trình phát triển, một bộ phận các tổ chức kinh tế hợp tác có thể phát triển lên thành các HTX, nhưng các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng khác vẫn tồn tại và phát triển lâu dài. 2. Vai trò của kinh tế tập thể trong nông nghiệp. KTTT mà nòng cốt là HTX luôn có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước ở mọi thời kỳ phát triển: Tổ chức và phát triển KTTT để hỗ trợ, giúp đỡ kinh tế hộ nông dân vượt qua những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra cho những thành viên tham gia có cơ hội phát huy tối đa năng lực của họ. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi đều là những cơ thể sống chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu và các sinh vật khác. Cùng với các điều kiện thuận lợi do tự nhiên mang lại thì sản xuất nông nghiệp gặp không ít khó khăn, trở ngại như hạn, úng, bão lụt, sâu bệnh, thú dữ phá hoại… Vì vậy, từ xa xưa cho đến nay, các hộ nông dân đều hợp tác để hỗ trợ, giúp nhau khắc phục, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do tự nhiên gây ra nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, KTTT có vai trò quan trọng để kinh tế hộ nông dân - những người sản xuất nhỏ gia tăng sức mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh, chống lại sự chèn ép của kinh tế tư nhân, các doanh nghiệp lớn trên thương trường. Khi nền sản xuất hàng hóa phát triển, nhu cầu dịch vụ cho quá trình tái sản xuất ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng dịch vụ như dịch vụ về giống, phòng trừ sâu bệnh, thủy lợi, chế biến và tiêu thụ nông sản… Trong điều kiện này, từng hộ nông dân tự đảm nhiệm tất cả các khâu cho quá trình sản xuất sẽ gặp khó khăn, hoặc sẽ không đủ khả năng đáp ứng, hoặc hiệu quả kinh tế thấp kém hơn so với hợp tác. Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, cạnh tranh ngày càng gay gắt thì những người lao động riêng lẻ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là trong nông nghiệp, nông thôn càng cần phải liên kết, hợp tác với nhau để phát triển. Phát triển KTTT, ngoài mục tiêu kinh tế còn có mục tiêu xã hội. Trong nông nghiệp, những người lao động nhất là lao động nghèo, chỉ có hợp tác với nhau mới có thể giúp nhau tạo ra sức mạnh liên kết trong sản xuất kinh doanh, xóa đói giảm nghèo. Các tổ chức KTTT, nhất là trong nông thôn không chỉ gắn bó về kinh tế mà còn được hình thành và phát triển trên cơ sở “tình làng nghĩa xóm”. Mặc dù trong cơ chế thị trường khắc nghiệt, các tổ chức này không thôn tính lẫn nhau, trái lại luôn quan tâm đến nhau, cùng tồn tại và hỗ trợ nhau phát triển. Điều quan trọng là các hình thức hợp tác không dựa vào trợ cấp của Nhà nước và gây khó khăn cho việc sản xuất kinh doanh của các thành viên, ngược lại còn cải thiện điều kiện sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất và đời sống của các thành viên. Đối với nước ta, khu vực nông nghiệp, nông thôn còn chiếm tỷ trọng lớn cả về dân cư, lao động và giá trị đóng góp cho xã hội, bộ phận dân cư nghèo và yếu về kinh tế còn khá đông thì phát triển KTTT đặc biệt có ý nghĩa, vai trò vô cùng quan trọng thúc đẩy sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa tiến lên sản xuất lớn hiện đại, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. II. HỢP TÁC Xà - MỘT HÌNH THỨC PHỔ BIẾN CỦA KINH TẾ TẬP THỂ. 1. Khái niệm hợp tác xã. HTX là một hình thức tổ chức cụ thể của kinh tế tập thể, phát triển ở trình độ cao hơn các hình thức kinh tế tập thể giản đơn. HTX có ở hầu hết các nước trên Thế giới và đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn 100 năm. Trong Luật Hợp tác xã của nhiều nước cũng như một số tổ chức quốc tế đều có các định nghĩa về HTX: * Điều 1 của Luật HTX Việt Nam năm 1996 đã định nghĩa: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. * Theo liên minh hợp tác xã Quốc tế (ICA) định nghĩa như sau: “Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa xã hội thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”. * Theo định nghĩa của Luật HTX sửa đổi năm 2003 thì: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp sức lập ra theo quy định của Luật HTX để phát huy sức mạnh của từng hộ xã viên tham gia hợp tác xã, để cùng nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của hộ xã viên góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. 2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã. Theo Luật năm 2003 thì nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX là: Tự nguyện: Mọi cá nhân, gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX và cùng theo đó cá nhân hộ xã viên có quyền ra khỏi HTX theo quy định của Điều lệ HTX. Dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra giám sát HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết, thực hiện công khai phương hướng sản xuất kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ của HTX. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, tự quyết định về phân phối thu nhập. Mục đích thành lập HTXNN chủ yếu là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân. Vì vậy, sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX, lãi được trích một phần vào các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức sử dụng dịch vụ của HTX. Hợp tác và phát triển cộng đồng: Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; hợp tác giữa các HTX trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Có tư cách pháp nhân, và bình đẳng trước pháp luật: Đây là một trong những nguyên tắc nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của mình, có tư cách pháp nhân đó là điều kiện cần để tiến tới việc thành lập và đảm bảo quyền lợi của HTX như một doanh nghiệp, bình đẳng trước pháp luật trong kinh doanh. Đây là những nguyên tắc cơ bản đã được xây dựng ngay từ những ngày đầu khi HTX mới thành lập và ngày càng được hoàn chỉnh. Trong luật HTX sửa đổi năm 2003 các nguyên tắc ngày càng được hoàn thiện trên tinh thần vì tập thể và cùng có lợi.Trong những năm gần đây khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các HTX được thành lập cũng phá sản ngày càng nhiều do đó đòi hỏi nguyên tắc hoạt động của HTX phải ngày càng chặt chẽ và theo quy định của pháp luật. Luật HTX sửa đổi năm 2003 đã đáp ứng đựơc yêu cầu của nền kinh tế cũng như việc gia nhập và rút khỏi của các HTX cũng như các nguyên tắc khác. III. HỢP TÁC Xà NÔNG NGHIỆP. 1. Khái niệm và đặc trưng của hợp tác xã nông nghiệp. “Hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) là một trong các hình thức cụ thể của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, là tổ chức kinh tế của những hộ nông dân cá nhân, pháp nhân có cùng nhu cầu và nguyện vọng, tự nguyện liên kết lại để phối hợp giúp đỡ nhau phát triển kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống của mỗi thành viên, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc luật pháp quy định, có tư cách pháp nhân”. Ở mỗi nước kinh tế hợp tác của nông dân có những đặc điểm không hoàn toàn giống nhau. Ở Việt Nam HTXNN có những đặc trưng cơ bản như sau: - HTXNN là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những nông hộ, nông trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống của mình mà bản thân từng hộ nông dân không thực hiện được, khó thực hiện được hoặc thực hiện được nhưng kém hiệu quả. - Cơ sở thành lập của HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các thành viên và quyền làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết, không phân biệt lượng vốn góp nhiều hay ít. - Mục đích kinh doanh của HTX là nhằm trước hết dịch vụ cho xã viên, đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường. - HTX thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. - HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực sự có chung mục đích, nhu cầu không phụ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Trong mỗi thôn, xã có thể cùng tồn tại nhiều loại hình HTX có nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó các nông hộ, nông trại đồng thời có thể là xã viên của một số HTX. - Các hộ thành viên (nông hộ, nông trại gia đình) vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong HTX, vừa là đơn vị kinh tế, cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan hệ giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh. Sự hình thành và phát triển của kinh tế HTX không phá vỡ kinh tế của các hộ thành viên. HTX lấy kinh tế của các hộ thành viên làm cơ sở hình thành và mục tiêu phục vụ nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế tự chủ ngày càng phát triển, trên cơ sở đó mà thúc đẩy sự phát triển của kinh tế HTX. 2. Vai trò của HTXNN trong hệ thống kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập, HTX nông nghiệp đã có vai trò hết sức quan trọng trong việc đáp ứng và cung cấp dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng càng có vai trò quan trọng được thể hiện trong Luật HTX sửa đổi năm 2003 như sau: - HTXNN góp phần quan trọng xây dựng nông thôn, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho nông dân, giúp nông dân làm giàu. Mô hình HTX cũ đã kìm hãm kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Việc giải phóng tình trạng đó bắt đầu từ Chỉ thị 100 (năm 1981) và Nghị quyết 10 (năm 1988) soi sáng, đưa nông dân trở thành người chủ mới thực sự. Các HTXNN đã có sự chuyển đổi vai trò, chức năng của mình, hoạt động chủ yếu là phục vụ kinh tế hộ thành viên. Nhờ có hoạt động của HTXNN, các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời, đầy đủ và đảm bảo chất lượng, làm cho hiệu quả sản xuất của nông hộ, nông trại được nâng lên. Hoạt động dịch vụ của HTX cho xã viên chủ yếu nhằm mục đích tương trợ để xã viên tìm kiếm các dịch vụ một cách dễ dàng hơn, thuận lợi hơn và đỡ tốn kém hơn so với việc từng hộ xã viên phải tự lo liệu các dịch vụ đó. Mặc dù mục tiêu là tương trợ nhưng HTX nhờ các hoạt động chung mà tiêt kiệm được chi phí dịch vụ cho các hộ xã viên. Vì vậy, gián tiếp làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tức là làm tăng thu nhập cho các hộ thành viên. HTXNN là hình thức tổ chức quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Qua đó, HTX có khả năng hỗ trợ nông dân thực hiện quy hoạch và kế hoạch chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô ngày càng lớn, giá trị thu nhập cao, phù hợp và đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước đòi hỏi; liên kết với các thành phần kinh tế để mở rộng dịch vụ đầu vào, đầu ra, ứng dụng công nghệ sinh học và các tiến bộ kỹ thuật mới, đa dạng sản phẩm hàng hóa, thúc đẩy phân công lại lao động tại chỗ, góp phần ngày càng lớn cải thiện và nâng cao mức sống của người dân ở nông thôn. - HTXNN góp phần giúp nông dân giải quyết các vấn đề xã hội, kinh tế thị trường. Trong cơ chế thị trường, từng hộ nông dân không đủ khả năng để tham gia cạnh tranh. Khi đó, HTX đóng vai trò quan trọng giúp các hộ nông dân sản xuất kinh doanh với các dịch vụ giá rẻ hơn, chất lượng phù hợp với nhu cầu của họ và sản phẩm làm ra được tiêu thụ kịp thời, ổn định, hạn chế được sự cạnh tranh, chèn ép trong các quan hệ trao đổi trên thương trường. HTXNN còn có vai trò gìn giữ và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc như tinh thần tương thân, tương trợ giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống, chăm lo đời sống của các hộ thành viên và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ở địa phương, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân nông thôn. Hiện nước ta có khoảng 55 - 56 triệu người sống ở nông thôn, việc xây dựng và phát triển HTX sẽ góp phần ổn định chính trị, xã hội. 3. Sự khác nhau giữa HTXNN kiểu mới theo Luật HTX và HTXNN kiểu cũ đã tồn tại hơn 30 năm qua ở nước ta. -Về quan hệ sở hữu: + HTXNN kiểu cũ dựa trên cơ sở tập thể hoá quyền sở hữu ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác (nói chung là vốn kinh doanh) của các nông hộ. Do đó xoá bỏ tư cách chủ thể kinh doanh của mỗi hộ, biến người lao động trong mỗi nông hộ trở thành người lao động bộ phận của mỗi đơn vị tổ chức lao động hợp tác duy nhất là HTXNN, giống như một xí nghiệp công nghiệp, thậm chí còn biến mỗi xã viên thành người lao động làm thuê cho HTX. + HTXNN kiểu mới, theo luật HTX, dựa trên cơ sở quyền tự chủ kinh doanh của mỗi nông hộ trên đất nước chính quyền giao cho để sử dụng lâu dài, với 5 quyền như luật đất đai quy định (quyền sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê) để tiến hành sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp với tư cách là “tế bào” của nền kinh tế thị trường, dựa vào sự góp vốn góp sức và quyền biểu quyết ngang nhau của mỗi xã viên, để cùng hưởng thụ kết quả hoạt động và cùng chia sẻ rủi ro của HTX theo mức góp vốn, góp sức của mỗi xã viên nhằm vừa làm tăng sức mạnh kinh tế của mỗi nông hộ, vừa tạo ra sức mạnh mới cho HTXNN. Chính vì vậy, kinh tế nông hộ và kinh tế HTX có thể tồn tại và phát triển có hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường mà ở đó sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các công ty và tập đoàn kinh tế ngày càng quyết liệt với quy mô ngày càng lớn, vượt ra khuôn khổ nền kinh tế của một quốc gia. - Về mục đích thành lập: HTXNN kiểu cũ ra đời để phát triển kinh tế tập thể của chính bản thân mỗi HTX và thay thế căn bản hoạt động kinh tế của mỗi nông hộ nhằm nâng cao mức sống vật chất tinh thần của hộ xã viên. Còn HTXNN kiểu mới ra đời trước tiên là vì yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế của mỗi nông hộ thành viên đã góp vốn, góp sức vào HTX. Vì vậy, HTXNN kiểu mới trước hết phải thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ đầu vào đầu ra cho kinh tế hộ mà bản thân các nông hộ không thể làm được hoặc làm không hiệu quả. Nếu không có HTX thì bản thân kinh tế hộ, tuy có đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh cũng không thể trở thành “tế bào” của nền kinh tế thị trường, càng không thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh khốc kiệt với các doanh nghiệp. Vì vậy, trong kinh tế thị trường HTXNN kiểu mới ra đời là vì kinh tế nông hộ chứ không phải để thay thế kinh tế hộ. Ngược lại, kinh tế nông hộ là cơ sở tồn tại của HTXNN kiểu mới. - Về mục tiêu hoạt động dịch vụ: Vì những lý do trên, HTXNN kiểu mới không coi lợi nhuận là mục tiêu tối thượng. Hơn nữa HTXNN có sự phát triển và hiệu quả của kinh tế nông hộ trong nền kinh tế thị trường là mục tiêu tối thượng. Dĩ nhiên không phải vì thế mà HTXNN kiểu mới chỉ có hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ và từ bỏ các hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận như tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, kinh doanh dịch vụ sản xuất và đời sống cho những hộ dân cư nông thôn không tham gia HTX. Trong xu thế phát triển kinh tế, trong xu thế phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn các HTXNN ngày càng mở mang các ngành nghề phi nông nghiệp để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân và tạo ra lợi nhuận ngày càng nhiều tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội nông thôn. - Về quan hệ phân phối: Chính vì những điểm khác biệt với HTXNN kiểu cũ nêu trên đây, HTXNN kiểu mới phân phối thu nhập và lợi nhuận làm ra hàng năm không chỉ theo lao động mà còn theo mức độ sử dụng dịch vụ và vốn cổ phần của mỗi xã viên. Các xã viên tham gia sử dụng dịch vụ của HTX càng nhiều thì HTX càng có điều kiện phát triển. Do đó, để khuyến khích và cũng để thực hiện mục tiêu của mình HTX dành một phần lợi nhuận hàng năm phân phối cho xã viên theo mức độ tăng lợi nhuận của kinh tế hộ. Điều kiện đó phản ánh trực tiếp và rõ nét nhất bản chất kinh tế – xã hội của HTXNN kiểu mới. 4. Các hình thức HTX nông nghiệp. Các HTX trong nông nghiệp, nông thôn có các hình thức sau: 4.1. HTX nông nghiệp làm dịch vụ. Đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp tách ra làm chức năng dịch vụ cho nông nghiệp bao gồm: - Dịch vụ các yếu tố đàu vào cho sản xuất nông nghiệp (các HTX cung ứng vật tư, giống). - Dịch vụ cho các khâu sản xuất nông nghiệp (HTX làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…). - Dịch vụ quá trình tiếp theo của quá trình sản xuất nông nghiệp (HTX chế biến, tiêu thụ sản phẩm…). Thực chất các HTX trên được tổ chức với mục đích phục vụ cho khâu sản xuất nông nghiệp các hộ nông dân là chủ yếu. Vì vậy, sự ra đời của các HTX dịch vụ hoàn toàn xuất phát từ yêu cầu khách quan của sản xuất nông nghiệp, trong đó sản xuất của ngành, trình độ sản xuất của hộ nông dân chi phối một cách trực tiếp nhất. Trong nông nghiệp, do đặc điểm của ngành một mặt nảy sinh các yêu cầu khách quan đòi hỏi hình thành và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác và HTX. Mặt khác, nó đặt ra các giới hạn cho việc chọn mô hình của kinh tế hợp tác trong đó mô hình các HTX dịch vụ nông nghiệp là loại hình thích hợp và phổ biến. Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp gồm các loại hình sau: + Các HTX dịch vụ chuyên khâu: Là HTX chỉ thực hiện một chức năng dịch vụ, một khâu cho sản xuất nông nghiệp: HTX dịch vụ thủy nông, HTX dịch vụ điện nông thôn, HTX cung ứng vật tư… + KTX dịch vụ tổng hợp là các HTX thực hiện các chức năng dịch vụ nhiều khâu cho sản xuất nông nghiệp, đôi khi cả đời sống. 4.2. HTX sản xuất kết hợp với dịch vụ. Các HTX loại này thường dưới dạng HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, trong đó trực tiếp sản xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm, nông dân tham gia vào HTX như những thành viên chính thức. Ví dụ: các HTX sản xuất rau, sản xuất sữa. 4.3. HTX sản xuất nông nghiệp. HTX nông nghiệp loại này giống như các HTX sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước khi đổi mới, nhưng mục đích nhằm tạo ra quy mô sản xuất thích hợp chống lại chèn ép của tư thương, tạo những ưu thế mới ở những ngành khó tách riêng, khai thác những ưu đãi của Chính phủ đối với các doanh nghiệp lớn, khai thác những nguồn lực cần đầu tư lớn… IV. HỢP TÁC Xà DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP. 1. Tính tất yếu phải nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp. - Xuất phát từ vai trò của HTXNN là dịch vụ, phục vụ cho hộ nông dân, trang trại phát triển. Vì vậy, khi hộ nông dân, trang trại phát triển thì tất yếu HTXNN phải nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ để phục vụ tốt hơn nhu cầu đó. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển như ở nước ta hiện nay thì kinh tế hộ muốn phát triển sản xuất nông nghiệp cũng phải xuất phát từ thị trường, gắn với thị trường. Mức độ gắn bó với thị trường càng phát triển theo quy mô và trình độ của sản xuất hàng hóa. Để đáp ứng những thay đổi của thị trường, kinh tế hộ phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật canh tác, thâm canh để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Đồng thời cũng phải đa dạng hóa sản phẩm để tránh những rủi ro do thị trường đem lại. Sản xuất kinh tế hộ càng phát triển thì nhu cầu đầu vào về: vật tư nông nghiệp, thủy lợi, kỹ thuật… càng lớn cả về số lượng cũng như chất lượng. Điều này đòi hỏi HTXNN cũng phải mở rộng loại hình dịch vụ và nâng cao chất lượng hoạt động để đáp ứng nhu cầu của hộ xã viên. Chính trong quá trình phát triển sản xuất hàng hóa, nhờ sự phát triển của HTXNN, hộ nông dân sẽ thay đổi toàn diện cả về kinh tế, văn hóa và tập quán sản xuất. Từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa, kinh tế hộ sẽ trút dần những tư duy cũ, thay đổi phương thức sản xuất lạc hậu thủ công bằng phương thức sản xuất mới. Hộ nông dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nâng cao năng suất lao động, tỷ lệ sản phẩm bán ra trên thị trường tăng dần trong tổng sản phẩm làm ra. Từ đó, thu nhập của người dân tăng lên, góp phần vào nâng cao đời sống hộ nông dân. Trong nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi của thị trường và đặc biệt trong điều kiện sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào sự thay đổi của tự nhiên, thời tiết khí hậu, tập quán canh tác… nên rủi ro rất lớn. Điều này đòi hỏi HTX phải mở rộng loại hình dịch vụ vừa để phục vụ tốt nhu cầu đa dạng của hộ xã viên vừa hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Nhưng không phải bất kỳ HTX nào muốn mở rộng loại hình dịch vụ là được ngay mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, vào khả năng của HTX như: lao động, đất đai… và đặc biệt là vốn. Khi HTX hoạt động có hiệu quả HTX sẽ có lãi, vốn tích lũy nội bộ sẽ lớn dần lên trong quá trình hoạt động, lúc đó HTX mới có thể mở rộng loại hình kinh doanh dịch vụ phục vụ hộ xã viên và cứ thế HTX sẽ ngày càng phát triển. - HTX hoạt động kinh doanh dịch vụ có hiệu quả tức là phục vụ tốt nhất nhu cầu của hộ xã viên, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. HTX hoạt động có hiệu quả, xã viên sẽ được cung cấp đầy đủ, kịp thời các yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất kinh doanh nhằm tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm, đồng thời sản phẩm làm ra ngày càng nhiều. Nhờ các hoạt động như: bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm…các sản phẩm của hộ được tiêu thụ dễ dàng, tỷ lệ sản phẩm hàng hóa so với tổng sản phẩm sản xuất ra ngày càng tăng, thúc đẩy hộ nông dân hăng hái sản xuất, chuyên môn hóa sản xuất theo hướng ai giỏi nghề gì làm nghề nấy, quá trình phân công lao động sâu sắc hơn. Lao động trong sản xuất nông nghiệp được rút bớt sang sản xuất phi nông nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực sản xuất hàng hóa. 2. Một số tiêu chí đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp. Các HTXNN với mục đích kinh doanh là nhằm trước hết dịch vụ cho xã viên, đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn. Để đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động của các HTX dịch vụ nông nghiệp, người ta sử dụng một số chỉ tiêu chủ yếu sau: 2.1. Chỉ tiêu về kết quả hoạt động của HTX. Các chỉ tiêu về kết quả hoạt động bao gồm: - Mức độ đáp ứng các dịch vụ cho hộ xã viên, nông dân: Chỉ tiêu này được xem xét ở các mặt: + Số lượng các dịch vụ so với nhu cầu, mong muốn của các hộ xã viên: sản xuất hàng hóa càng phát triển thì nhu cầu dịch vụ của các hộ xã viên càng được mở rộng. Các HTX dịch vụ nông nghiệp ngoài việc chú trọng làm tốt các khâu dịch vụ cơ bản, cần mở thêm các dịch vụ thiết yếu khác phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của kinh tế hộ thành viên. Vì vậy, chỉ tiêu này biểu hiện khả năng đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ cho các hộ xã viên của HTX đã đầy đủ, kịp thời hay chưa. + Chất lượng và giá cả các dịch vụ: chất lượng và giá cả các dịch vụ cho biết hoạt động dịch vụ của HTX có làm tiết kiệm được chi phí dịch vụ cho các hộ xã viên và chất lượng dịch vụ có đảm bảo hay không. Trên thực tế, HTX có thể không giảm giá dịch vụ nhưng đã nâng cao chất lượng dịch vụ phù hợp với yêu cầu của xã viên. + Thời gian cung cấp các dịch vụ: một trong những đặc điểm của hoạt động sản xuất nông nghiệp là tính thời vụ cao, đặc biệt là sản xuất trồng trọt. Do vậy, việc đáp ứng kịp thời các dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất của các hộ xã viên, nông dân có ý nghĩa quan trọng, có tác dụng nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị của các sản phẩm nông sản, đồng thời giúp cho các hộ nông dân tiết kiệm được chi phí sản xuất và tiêu thụ kịp thời năng suất với giá cả đảm bảo, qua đó góp phần nâng cao thu nhập của hộ xã viên. Hoạt động dịch vụ của các HTX dịch vụ nông nghiệp với nguyên tắc trước hết là vì lợi ích của sản xuất nông nghiệp và các hộ nông dân cần đáp ứng tốt yêu cầu này, nhất là ở những dị._.ch vụ thiết yếu như dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ cung ứng vật tư, dịch vụ bảo vệ thực vật… - Doanh thu dịch vụ: Đây là chỉ tiêu biểu hiện quy mô hoạt động dịch vụ của HTXNN. Quy mô của HTX đủ lớn sẽ giúp HTX tiết kiệm được chi phí và thuận lợi hơn trong hoạt động, từ đó có điều kiện nâng cao hiệu quả cho kinh tế tập thể cũng như lợi ích của các hộ thành viên. - Lãi, lỗ của các hoạt động dịch vụ: Đây là chỉ tiêu kết quả kinh tế cuối cùng của HTX, phản ánh khả năng tích lũy và mở rộng các hoạt động dịch vụ của HTX. 2.2. Chỉ tiêu hiệu quả hoạt động của HTX. - Mức lãi từng dịch vụ: biểu hiện hiệu quả từng hoạt động dịch vụ cụ thể của HTX, qua đó cũng đánh giá công tác quản lý và năng lực điều hành của HTX đối với từng dịch vụ là tốt hay không tốt. - Phân phối lãi của HTX: + Trích các quỹ của HTX: quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng… + Chia lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên. + Chia lãi cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. Chỉ tiêu phân phối lãi của HTX phản ánh việc thực hiện quy định của HTX trong việc phân phối lãi, phản ánh sự quan tâm đến lợi ích chung của HTX và nhu cầu tích lũy để phát triển HTX. Trên đây là một số tiêu chí chủ yếu đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp. Một số điểm cần lưu ý khi đánh giá hiệu quả hoạt động của HTXNN là ngoài những chỉ tiêu kinh tế trực tiếp trên đây, hoạt động của HTX với vai trò trước hết là phục vụ, hỗ trợ kinh tế hộ xã viên. Vì vậy, cần tính tới những đóng góp của HTX cho sự phát triển kinh tế hộ xã viên ngoài kết quả thực hiện các hoạt động dịch vụ, như việc hướng dẫn, tổ chức xã viên, nông dân sản xuất; đưa tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ… Ngoài ra, hoạt động của HTXNN không phải chỉ vì mục tiêu kinh tế mà còn có những mục tiêu khác mang tính cộng đồng, xã hội; đây là nét đặc thù của HTX so với các loại hình kinh tế khác. V. KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ HTX DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ ĐIẠ PHƯƠNG TRONG NƯỚC. HTX nói chung, HTX dịch vụ nông nghiệp nói riêng là nền tảng của nền kinh tế bền vững và phát triển. Tuy nhiên, trước năm 1996, do quản lý nặng về tập trung, bao cấp… nên đa phần các HTX nông nghiệp hoạt động thiếu hiệu quả, sức sản xuất bị kìm chế. Nhưng sau khi hoạt động theo Luật HTX, nhiều địa phương trong cả nước đã xuất hiện những HTX sản xuất, kinh doanh dịch vụ có hiệu quả, đem lại lợi ích cho hộ nông dân như: 1. HTX dịch vụ nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long. Có rất nhiều HTX nông nghiệp giỏi ở đồng bằng sông Cửu Long nhưng nổi trội là HTX Bình Tây (Tiền Giang). HTX này có quy mô liên thôn, và làm tốt 8 loại dịch vụ, trong đó có 3 dịch vụ “đầu vào” là: dịch vụ giống lúa, cây ăn quả, lợn, gia cầm và cá, dịch vụ vật tư phân bón các loại, thuốc bảo vệ thực vật và thức ăn gia súc, dịch vụ khuyến nông và tưới tiêu nước; và 3 dịch vụ “đầu ra” là: sấy lúa, xay xát lúa gạo và tiêu thụ thóc gạo, trứng và rau quả cho dân; và hai dịch vụ đời sống là: Nước sinh hoạt và chợ nông thôn. Hàng năm, HTX có doanh thu 3,5 - 4 tỷ đồng. 2. HTX dịch vụ nông nghiệp ở miền Trung. HTX điển hình nổi bật là HTX Duy Sơn 2 (Quảng Nam). Đây là HTX miền núi, quy mô thôn, ngoài việc làm tốt các dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ điện (tự làm lấy nhà máy thủy điện công suất 1200 KW để cung cấp điện cho xã viên), dịch vụ bảo vệ thực vật, dịch vụ giống, dịch vụ vật tư… HTX còn mở rộng quan hệ liên kết, hợp tác với các ngành, các cấp, phát triển ngành nghề như liên kết với nhà máy làm đế giày xuất khẩu, doanh thu trên 8 tỷ đồng/năm; liên kết may với nhà máy may xuất khẩu, doanh thu trên 2 tỷ đồng; dệt xuất khẩu, xưởng mây tre đan xuất khẩu, doanh thu trên 2 tỷ đồng. Sản phẩm của HTX được xuất đi nhiều nước trên thế giới. Hàng năm tạo thêm việc làm cho gần 1000 lao động, với thu nhập ổn định từ 300 – 500 nghìn đồng/lao động/tháng, doanh thu năm 2000 của HTX đạt trên 21,5 tỷ đồng. Cũng ở vùng miền Trung nhưng ở đồng bằng có HTX thị trấn Bình Định (Quy Nhơn) rất chú trọng khâu dịch vụ. Để làm tốt các dịch vụ “đầu vào”, HTX đã tổ chức đầu tư ứng trước các dịch vụ cho hộ xã viên như bán chịu giống và phân bón… từ đầu vụ (có tính thêm phần trượt giá), cuối năm, cuối vụ HTX thu lại giá trị đầu tư bằng thóc. Doanh số dịch vụ vật tư của HTX này đạt tới 12 tỷ đồng/năm. HTX cũng đã liên doanh với các doanh nghiệp ở địa phương chế biến thức ăn gia súc. Mua thóc xuất khẩu qua công ty lương thực miền Trung. Doanh thu của HTX đạt 15,8 tỷ đồng/năm. Lại cũng ở miền Trung, song là vùng núi đá Tuyên Hóa (Quảng Bình) nơi nổi tiếng khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi vẫn có HTX sau chuyển đổi làm ăn có hiệu quả, đó là HTX Cổ Cảng. Ở HTX này, bên cạnh việc làm tốt các dịch vụ đầu vào, HTX đã thực hiện được việc huy động vốn theo hình thức góp cổ phần bổ sung hoặc vay vốn cán bộ xã viên để mở rộng kinh doanh theo hai hướng chính: (1) Đầu tư ứng trước cho xã viên về giống và vật tư từ đầu vụ (có tính trượt giá), đến mùa thu hoạch, HTX thu lại bằng sản phẩm, dự trữ đến khi giáp hạt tổ chức xay xát bán lại cho xã viên, cho thị trường địa phương và vùng biên giới Việt – Lào. (2) Mở ngành khai thác đá cung cấp cho tuyến đường giao thông Việt – Lào và xây dựng nhà ở ở địa phương. Số lãi kinh doanh 2 ngành nghề kể trên sau khi trừ quỹ, được phân phối đều cho số cổ phần. Nhờ cách làm này, riêng số vốn lưu động của HTX Cổ Cảng hiện đã có trên 1 tỷ đồng. 3. HTX dịch vụ nông nghiệp ở miền núi phía Bắc. Nổi lên ở miền núi phía Bắc có HTX Phù Nham, huyện Văn Chấn (Yên Bái). HTX đã hoạt động có hiệu quả từ 6 khâu dịch vụ năm 1997 tăng lên 9 khâu dịch vụ năm 2004, kinh doanh có lãi. Năm 1997, khi mới chuyển đổi, vốn hoạt động của HTX chỉ có 504 triệu đồng, đến năm 2004 vốn hoạt động đã lên đến 1,82 tỷ đồng, tăng 1,3 tỷ đồng (tương đương 357% trong 7 năm). Sản xuất kinh doanh có lãi từ 65 – 180 triệu đồng hàng năm, chia cổ phần xã viên tăng từ 22 – 54 triệu đồng/năm. Đó là điều rất đáng quý của mô hình chuyển đổi HTX nông nghiệp Phù Nham từ HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới hoạt động theo Luật HTX. Với phương hướng tổng quát hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động đa ngành, trong đó chú trọng các ngành nghề kinh doanh dịch vụ nông nghiệp và kinh doanh tổng hợp, HTX dịch vụ nông nghiệp Phù Nham đã thu hút được 100% hộ nông dân toàn xã tham gia, với 1.421 hộ. So với năm 2000, HTX đã tăng 3 ngành nghề dịch vụ kinh doanh thu hút thêm 80 lao động, trên 1.400 xã viên được hưởng dịch vụ vật tư hàng hóa. 4. HTX dịch vụ nông nghiệp ở Hà Nội HTX thống nhất, xã Trung Văn, huyện Từ Liêm đã khai thác thế mạnh vùng ngoại ô làm ăn giỏi. Là một HTX quy mô thôn, đa số là nông dân theo đạo thiên chúa, ngoài các dịch vụ nông nghiệp, HTX còn tiến hành tích tụ, tập trung hóa ao hồ để tổ chức kinh doanh thủy sản. Đặc biệt, HTX đã tiến hành cổ phần hóa, thu hút vốn xã viên mở được các ngành dịch vụ kinh doanh có lãi và chia lãi theo cổ phần như: Dịch vụ tín dụng nội bộ, xây dựng đường điện sinh hoạt, tổ chức làm nhà tạm cho sinh viên thuê, xây chợ và quản lý chợ nông thôn, cung cấp nước sạch và thu gom rác thải. Doanh thu hàng năm của HTX đạt 3 tỷ đồng. * Tóm lại, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp như sau: - Mỗi nơi mỗi vẻ, tuy nhiên họ có những nét chung, bài học chung rất đáng quan tâm và điểm chung nổi bật nhất đó là có chủ nhiệm giỏi có tâm, có tài, năng động và có trách nhiệm với cộng đồng, với hợp tác. Họ là “động lực” của cỗ máy, thiếu họ cỗ máy sẽ khó hoạt động hoặc hoạt động thiếu hiệu quả. Cho đến nay, có nhiều nguyên nhân làm cho số đông HTX chuyển đổi chưa thành công, trong đó có một nguyên nhân quan trọng, có tính chất quyết định là do không có người “cầm cờ”, “cầm lái” giỏi. Ở những HTX làm ăn có hiệu quả, các chủ nhiệm HTX đều giỏi, có đức, có năng lực; họ được xã viên tín nhiệm bầu qua nhiều khóa như: ông Lò Văn Minh, chủ nhiệm HTX Phù Nham, 22 năm; ông Nguyễn Văn Mười chủ nhiệm HTX Bình Tây, ông La Văn Tám chủ nhiệm HTX thị trấn Bình Định 20 năm… Để có người “cầm cờ” giỏi cần có chiến lược lựa chọn người năng động và tâm huyết với sự nghiệp HTX ở quê hương, từ đó tiến hành mở lớp đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho họ, đồng thời cần có chế độ thù lao thỏa đáng và chế độ bảo hiểm xã hội cho đội ngũ cán bộ này. Hiện nay, thù lao đối với chủ nhiệm HTX rất thấp, nhiều HTX chỉ 100.000đ – 200.000đ/tháng, lại không có chế độ bảo hiểm xã hội nên đa số chủ nhiệm không an tâm. Nhiều chủ nhiệm HTX Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hà Nội… không muốn làm chủ nhiệm HTX. Ở những nơi tiền công quản lý HTX quá thấp, thù lao chủ nhiệm dưới 200.000đ/tháng thì nên có chế độ trợ cấp thêm từ ngân sách địa phương, coi đó là đầu tư ban đầu cần thiết cho sự nghiệp phát triển HTX. Mặt khác, sớm thực hiện chế độ bảo hiểm cho cán bộ xã viên HTX, trước hết là đối với cán bộ quản lý HTX. - Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Ở HTX Bình Tây (Tiền Giang), HTX Ngang Nội (Bắc Ninh), trước đây khi còn sản xuất tự cấp tự túc, độc canh lúa, nông dân tự làm lấy công việc đồng áng nên hoạt động của HTX rất hạn hẹp. Nhưng sau khi HTX đưa những giống cây trồng, vật nuôi mới cho các hộ nông dân sản xuất hàng hóa thì yêu cầu của nông dân đối với dịch vụ của HTX (cả dịch vụ đầu vào và đầu ra) tăng lên rõ rệt. Từ đó, các hoạt động của HTX có điều kiện mở rộng, đa dạng và hoạt động có hiệu quả. - Mở rộng liên kết sản xuất kinh doanh là bài học thứ 3 rút ra ở những HTX dịch vụ nông nghiệp làm ăn giỏi. Nổi bật ở bài học này là HTX Duy Sơn 2, HTX này đã liên kết, liên hệ với các Công ty nhà máy khắp đất nước từ Đà Nẵng đến Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để tìm cơ hội đầu tư. HTX đã ký hợp đồng với các tổng công ty, nhà máy đầu ngành đầu tư máy móc, công nghệ mới, cử chuyên gia về đào tạo bồi dưỡng kỹ thuật sản xuất cho xã viên ngay tại địa phương và bao tiêu sản phẩm. Còn ở các HTX Bình Tây (Tiền Giang), HTX Vạn Hoa (Lào Cai), HTX Mỹ Trung (Nam Định)… đã thực hiện tốt quan hệ 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp nhà nước và Nhà nước) trong việc gắn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. - Thực hiện cổ phần hóa. Nhiều HTX sau một quá trình chuyển đổi đến nay hoạt động vẫn chưa hiệu quả “chuyển nhưng không đổi”, chuyển đổi có tính chất hình thức chưa thực hiện tốt chế độ cổ phần trong HTX. Khi đã cổ phần sẽ là sở hữu riêng của xã viên (vào HTX thì phải gom góp vào HTX thì được hưởng lợi theo kết quả kinh doanh, khi ra HTX thì được rút cổ phần) và dù họ muốn hay không đều phải quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh, giám sát lẫn nhau và cùng nỗ lực cho sự sinh lợi của cổ phần mình. Để thu hút được vốn cổ phần, các HTX đã phải xây dựng dự án làm rõ đầu vào đầu ra, thực hiện chi lãi và mức lãi phân phối theo cổ phần, chứng minh tính khả thi và hiệu quả thiết thực của từng dịch vụ kinh doanh mới. Có như vậy xã viên mới tin và góp cổ phần mới. - Ngoài 4 bài học trên, việc có sự chỉ đạo đúng mức của Đảng và chính quyền Nhà nước các cấp, đặc biệt cấp chính quyền cơ sở cũng là yếu tố cực kỳ quan trọng. Xây dựng được HTX vững mạnh, kinh tế phát triển làm chỗ dựa cho chế độ, cho người dân là công việc vô cùng khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, song đã và đang có rất nhiều điển hình HTX làm ăn giỏi, nên toàn xã hội, toàn ngành cùng đồng tâm xây dựng làm cho kinh tế hợp tác sẽ phát triển đưa nền nông nghiệp nước nhà tiến lên một tầm cao mới. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN CÁC HTX DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP HUYỆN VIỆT YÊN . I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ Xà HỘI CHỦ YẾU CỦA HUYỆN VIỆT YÊN ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN HTX DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP. 1. Đặc điểm tự nhiên. 1.1. Vị trí địa lý. Việt Yên là huyện trung du nằm ở phía Tây Nam tỉnh lỵ Bắc Giang, có tổng diện tích tự nhiên là: 17.135,42 ha, có phạm vi ranh giới như sau: - Phía Bắc giáp huyện Tân Yên. - Phía Nam giáp huyện Quế Võ và thị xã Bắc Ninh. - Phía Đông giáp huyện Yên Dũng và thị xã Bắc Giang. - Phía Tây giáp huyện Yên Phong và huyện Hiệp Hòa. Việt Yên có vị trí tương đối thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế xã hội như: Đây là địa bàn đầu mối của một số tuyến giao thông quan trọng như quốc lộ 37, tỉnh lộ 272 nối vùng đồng bằng của tỉnh Bắc Giang với các huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh và các tỉnh lân cận. Trên địa bàn huyện còn có các tuyến giao thông huyết mạch như quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn và giao thông đường thủy trên sông Cầu. Bên cạnh đó, Việt Yên nằm tương đối gần thủ đô Hà Nội (cách 42km) và một số trung tâm văn hóa - kinh tế - du lịch như thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang… Với vị trí của mình, Việt Yên có điều kiện tạo thành mạng lưới giao thông tương đối thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa trên địa bàn toàn tỉnh và với các vùng khác, có điều kiện tiếp cận với khoa học kỹ thuật… 1.2. Địa hình. Địa hình huyện Việt Yên có thể chia làm 3 dạng chính: - Địa hình đồi núi thấp: Dạng địa hình này được phân bố rải rác ở các xã: Việt Tiến, Thượng Lan, Minh Đức, Nghĩa Trung ở phía Bắc và Trung Sơn, Tiên Sơn, Vân Trung, Ninh Sơn ở phía nam huyện, bình quân độ cao từ 6 – 120m, đỉnh cao nhất là đỉnh núi Mỏ Thổ 161m. - Địa hình bồn địa gò thấp: Dạng địa hình này được phân bố chủ yếu ở các xã phía Bắc huyện và xã Tiên Sơn, Ninh Sơn, Trung Sơn. Bình quân độ cao dạng địa hình này là 15 – 25m so với mặt nước biển, hầu hết diện tích này đều đã được đưa vào sử dụng làm đất ở hoặc đất trồng màu. - Địa hình vùng đồng bằng có lượn sóng: Dạng địa hình này tập trung ở các xã phía Đông đường quốc lộ 1A như: Quang Châu, Hoàng Ninh, Vân Trung, Tăng Tiến…và một số xã vùng giữa huyện như: Hương Mai, Tự Lạn, Bích Sơn, Quảng Minh… độ cao bình quân dạng địa hình này là 2,5 – 5m. 1.3. Đặc điểm đất đai. Việt Yên có tổng diện tích tự nhiên là 17.135,42 ha, ngoài diện tích ao hồ, núi đá, sông suối, thùng đào, thùng đấu, quy mô và cơ cấu các loại đất huyện Việt Yên gồm: đất xói mòn trơ sỏi đá, đất vàng nhạt trên đá cát, đất phù sa được bồi hàng năm, đất phù sa không được bồi, đất xám bạc màu, đất nâu vàng trên phù sa cổ, đất đỏ biến đổi do trồng lúa, đất phù sa úng nước. 1.4. Đặc điểm khí hậu thời tiết. Việt Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, với đặc điểm có mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) và mùa khô lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Chế độ nhiệt của vùng phân hóa theo mùa rõ rệt, trong năm có 3 tháng nhiệt độ bình quân nhỏ hơn 20oC. Đây là điều kiện rất thích hợp cho việc phát triển cây nhiệt đới và á nhiệt đới, đặc biệt là các loại rau màu thực phẩm ưa nhiệt độ thấp. Với nhiệt độ bình quân cả năm cao cho phép huyện Việt Yên phát triển nhiều vụ cây trồng ngắn ngày trong năm ở các công thức luân canh. - Chế độ mưa, bình quân năm là 1451,5mm nhưng phân bố không đều, tập trung vào tháng 5 đến tháng 10 (chiếm 85,8% tổng lượng mưa cả năm). Tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 6, 7 và tháng 8. Trong 3 tháng này thường có nhiều cơn mưa với cường độ lớn gây xói mòn, rửa trôi đất và ảnh hưởng lớn đến cây trồng nông nghiệp. Mùa khô có lượng mưa bình quân 26 mm/tháng gây khô hạn, đặc biệt là tháng 1 trong năm. - Gió bão: Hướng gió chủ đạo của vùng là Đông Bắc, tốc độ gió trung bình trong năm là 1,9 m/s, tháng có tốc độ gió cao nhất là tháng 8 (2,7 m/s). Mỗi năm thường có từ 2 – 3 cơn bão đổ vào kéo theo mưa lớn từ 200 – 300 mm gây ngập úng, thiệt hại cho vụ mùa. * Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên của huyện ảnh hưởng đến phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên (thời tiết, khí hậu, đất đai, địa hình...) không những chi phối trực tiếp đến quá trình sản xuất nông nghiệp mà cũng đồng thời ảnh hưởng có tính quyết định đến việc hình thành và phát triển của hệ thống nông nghiệp nói chung và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Bên cạnh những thuận lợi, huyện Việt Yên còn có những khó khăn do tự nhiên đem lại cản trở sự phát triển của nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá nói chung và những hình thức kinh tế hợp tác nói riêng: - Lợi thế: + Huyện Việt Yên có vị trí tương đối thuận lợi để giao lưu với các trung tâm kinh tế - kỹ thuật của Bắc Giang cũng như các tỉnh khác. Điều này giúp cho các HTX dịch vụ nông nghiệp mở rộng quy mô dịch vụ, có điều kiện tiếp thu công nghệ mới, học hỏi kinh nghiệm… + Điệu kiện khí hậu thời tiết, đất đai cho phép huyện bố trí phát triển một hệ thống cây trồng đa dạng. + Diện tích đất xám bạc màu khá lớn thuận lợi cho sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, đậu tương và rau màu các loại theo hướng hàng hóa. + Tiềm năng đất đai còn khá lớn, quỹ đất chưa sử dụng còn tương đối nhiều. Đây là tiềm năng cần khai thác đưa vào sử dụng những năm tới và các HTXNN cần tận dụng triệt để lợi thế này. - Hạn chế: + Do lượng mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm đã gây nên hiện tượng hạn hán và úng lụt. Hạn hán từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau đã làm ảnh hưởng tới gieo trồng vụ đông xuân, úng lụt vào tháng 7, 8 và tháng 9 đã làm ngập cục bộ những chân địa hình thấp làm ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. + Địa hình và cấu trúc của đất đa dạng, phức tạp, nhiều ruộng bậc thang, địa mạo lồi lõm xen kẽ những khu cao cục bộ và khu trũng. Đồng thời phần lớn đất đai là bạc màu, tầng canh tác mỏng, cấu tượng rời rạc có ảnh hưởng rất lớn đến việc thâm canh cây trồng. Điều này cũng ảnh hưởng đến các hoạt động dịch vụ của các HTX dịch vụ nông nghiệp như: Dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ làm đất, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm… 2. Đặc điểm kinh tế - xã hội. 2.1. Tăng trưởng kinh tế. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Yên năm 2006 được trình bày qua bảng: Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của huyện Việt Yên năm 2006. STT Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2006 Việt Yên Toàn tỉnh 1 Dấn số Người 159.345 1.580.718 2 Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên % 1,03 1,19 3 Mật độ dân số Người/km2 930 414 4 Giá trị SXNN (giá cố định 1994) Triệu đồng 326 912 3.727.135 5 Sản lượng lương thực có hạt: Trong đó: - Thóc - Ngô Tấn 70.910 67.991 2.919 650.899 556.638 44.261 6 Số giường bệnh Giường 148 5.080 7 Số bác sỹ, y sỹ Người 131 2.909 8 Số y tá Người 64 845 9 Số học sinh Học sinh 340.363 1.969.948 10 Số giáo viên trực tiếp giảng dạy Giáo viên 16.970 354.648 11 Lương thực có hạt bình quân đầu người Kg/người/năm 445,01 380,14 12 Diện tích đất nông nghiệp Ha 1058 10 387,13 Nguồn: Phòng Thống kê huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Qua bảng 1 ta thấy, nền kinh tế huyện Việt Yên về cơ bản vẫn là một nền kinh tế nông nghiệp. Theo quy hoạch của tỉnh Bắc Giang, đến năm 2010 khu công nghiệp lớn Đình Trám đi vào hoạt động, kinh tế của huyện sẽ thay đổi tỷ trọng, ngành nông nghiệp giảm, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng. Theo báo cáo quy hoạch của huyện sau năm 2010, cơ cấu kinh tế của Việt Yên như sau: - Ngành nông – lâm nghiệp: 35% - Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: 30% - Dịch vụ, thương mại, du lịch: 35% 2.2. Về cơ sở vật chất kỹ thuật. Cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu nhất ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp là hệ thống thủy lợi. Trong nhiều năm trở lại đây huyện Việt Yên đã xây dựng hàng loạt các công trình thủy lợi tưới và tiêu. Các công trình được thiết kế xây dựng theo 2 phương thức: hệ thống trọng lực và hệ thống động lực. Cả 2 hệ thống này hàng năm tưới tiêu được khoảng trên 3500 ha. Ngoài ra còn có các công trình thủy lợi nhỏ do thôn xã quản lý gồm 64 trạm bơm cục bộ, tưới được hơn 2970 ha, tiêu 770 ha. Hệ thống nước tự chảy tưới được 690 ha. Với các công trình hiện có như hiện nay, diện tích cây trồng được tưới tiêu khoảng 70%, còn 30% diện tích vẫn phụ thuộc vào thiên nhiên. Hiện nay, với xu thế hiện đại hóa thì hệ thống kênh mương sẽ được cứng hóa, bê tông một phần, với sự hỗ trợ của Nhà nước toàn huyện đã có được 64 km kênh mương cứng đã góp phần tăng hiệu quả tưới và tiết kiệm được một phần diện tích đất của hệ thống thủy lợi. Tuy nhiên giải quyết vấn đề tưới tiêu ở Việt Yên cũng còn nhều vấn đề nan giải do: - Địa hình đa dạng và phức tạp, địa mạo lồi lõm, ruộng bậc thang, cắt giữa các vùng, thậm chí trên từng cánh đồng đã gây khó khăn cho việc tưới tiêu chủ động. Vì vậy vấn đề giải quyết thủy lợi ở Việt Yên chủ yếu vẫn bằng động lực. Tạo nguồn nước chủ động tại chỗ là cơ bản. Tưới bằng động lực sẽ làm thủy lợi phí cao và thiếu nguồn nước gốc tại chỗ. Song trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp gắn liền với việc cải tạo đồng ruộng với thủy lợi thì đây là giải pháp quan trọng. Do vậy, vai trò của dịch vụ thủy lợi của các HTX dịch vụ nông nghiệp càng trở nên cần thiết. Nó làm giảm thủy lợi phí, việc tưới tiêu được chủ động nâng cao năng suất cây trồng. - Vấn đề úng lụt là một yếu tố cản trở lớn nhất hiện nay đối với việc nâng cao năng suất cây trồng. Xuất phát từ tính chất đa dạng và phức tạp của địa hình nên không thể dùng phương pháp nội tiêu, mà chủ yếu vẫn tiêu bằng động lực và tiêu bằng động lực đòi hỏi đầu tư lớn và chi phí thủy lợi cao. Ngoài hệ thống thủy lợi là cơ sở vật chất chủ yếu nhất tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp thì hệ thống giao thông, đặc biệt là giao thông nông thôn và nội đồng là cơ sở vật chất không thể thiếu được. Hệ thống giao thông cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc đáp ứng yêu cầu phục vụ của các hộ xã viên. Hệ thống giao thông trong huyện khá thuận lợi với các tuyến đường bộ, đường thủy và đường sắt. Các tuyến đường bộ có tổng chiều dài 106,43 km bao gồm: Quốc lộ 1A, quốc lộ 37, quốc lộ 1A mới, tỉnh lộ 272, tỉnh lộ 284, tỉnh lộ 269 và 13 tuyến huyện lộ. Hệ thống đường liên xã, liên thôn, nội thôn, nội đồng trong huyện đã hình thành một cách tương đối ổn định song cũng đã xuống cấp làm ảnh hưởng tới quá trình phát triển kinh tế trong nông thôn, giao lưu hàng hóa trong huyện cũng như với các vùng khác. Do vậy cần phải nâng cấp các tuyến đường này để đi lại thuận tiện hơn, giao lưu trao đổi hàng hóa vùng nông thôn mới phát triển. 2.3. Tình hình dân cư, dân số, lao động. Các khu dân cư nông thôn được hình thành dưới các xóm, làng thôn. Hiện nay toàn huyện có 173 thôn, trung bình mỗi xã 9-10 thôn, mỗi thôn trung bình có 300 - 350 hộ. Theo số liệu thống kê năm 2006 dân số Việt Yên là 159.345 người, mật độ dân số cao: 930 người/km2. Tỷ lệ dân số tự nhiên 1,03%/năm 2005, toàn tỉnh là 1,195%. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ của huyện nhằm giảm sức ép về gia tăng dân số. Tính đến cuối năm 2006 toàn huyện có 70.850 người trong độ tuổi lao động. Số lao động nông nghiệp là 64.920 lao động (chiếm 91,39%). Còn lại là phi nông nghiệp (chủ yếu trong các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng). Lực lượng lao động của Việt Yên chủ yếu ở khu vực nông thôn, nguồn lao động dồi dào, hàng năm bổ xung 700 – 800 người đến tuổi lao động. Do vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho lực lượng lao động trên địa bàn là một nhu cầu lớn trong hiện tại và tương lai. * Đánh giá chung về thực trạng phát triển kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp. - Lợi thế: + Việt Yên cũng là một huyện có nhiều thuận lợi trong việc phát triển một nền kinh tế đa dạng và sản xuất hàng hóa do giao thông thuận lợi, lưu thông, phân phối và khả năng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp lớn. + Đời sống nhân dân trong những năm gần đây được cải thiện, lương thực bình quân đầu người tăng nhanh, tỷ lệ đói nghèo giảm qua các năm. + Người dân yên tâm với đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, thuận lợi cho kinh tế HTX dịch vụ nông nghiệp phát triển. + Trình độ dân trí khá cao, nguồn lao động dồi dào, có tay nghề, cần cù, năng động trong cơ chế thị trường, có năng lực tiếp thu công nghệ mới, có thể thích ứng với nhiều ngành nghề. Nhiều xã đã có các mô hình thâm canh đạt hiệu quả kinh tế cao (>50 triệu đồng/ha/năm). - Hạn chế: + Việt Yên là huyện có mật độ dân cư cao, bình quân có diện tích đất nông nghiệp nói chung trên đầu người thấp (750 m2/người). Riêng đất canh tác 680,6 m2/người. Dân cư phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở khu vực thị trấn, thị tứ và các xã trung du. Điều này gây khó khăn trong việc giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân. + Quá trình chuyển dịch tuy theo hướng tích cực nhưng còn chậm, sản xuất hàng hóa chưa nhiều, tiêu thụ bấp bênh và ít mang tính cạnh tranh. + Hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp tuy đã được nâng cấp sửa chữa nhưng vẫn chủ yếu là các công trình đã xây dựng từ nhiều năm trước nên chất lượng không cao, dễ hư hỏng, kinh phí đầu tư, nâng cấp tốn kém. + Nguồn lao động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động nông nghiệp (thủ công, đơn giản, năng suất lao động thấp), lao động chưa qua đào tạo vẫn còn nhiều, chưa đáp ứng được với yêu cầu công nghiệp hóa. I. THỰC TRẠNG HTX DỊCH VỤ NÔNG NGHIỆP CỦA HUYỆN VIỆT YÊN TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY . 1. Số lượng, quy mô, loại hình hợp tác xã. * Hợp tác xã nông nghiệp huyện Việt Yên nói chung và lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp nói riêng trong những năm qua đã có sự phát triển cả về số lượng và hoạt động của HTX. Điều đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Số lượng các HTX của huyện Việt Yên. STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm2005 Năm 2006 Số lượng % Số lượng % Số lượng % 1 Tổng số 100 100 115 100 119 100 2 HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp 40 40 48 41,7 49 41,2 3 HTX dịch vụ điện năng 51 51 54 47 55 46,2 4 HTX dịch vụ ngành nghề 9 9 13 11,3 15 12,6 Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Việt Yên. Qua bảng 2 ta thấy, số lượng HTX trong những năm gần đây đã tăng lên rõ rệt, từ 100 HTX (năm 2004) lên 119 HTX (năm 2006) tức tăng 9 HTX trong 2 năm trong đó HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp tăng nhiều nhất (9 HTX). HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số HTX của huyện và nhìn chung là tăng qua các năm. Còn HTX dịch vụ điện năng mặc dù chiếm tỷ lệ cao (46,2% năm 2006) nhưng có xu hướng giảm (từ 51% năm 2004 xuống còn 46,2% năm 2006). Số lượng HTX dịch vụ nông nghiệp tăng lên đồng nghĩa với việc nhu cầu, chất lượng cuộc sống của nông dân ngày càng lớn, sự liên kết hợp tác giữa các hộ nông dân càng cao… Như vậy 18/19 xã, thị trấn đã có HTX đạt 95% (còn thị trấn Bích Động chưa có HTX). Số thôn đã có HTX dịch vụ đạt 96% đã thu hút được hơn 10.000 hộ xã viên tham gia HTX. Trong 119 HTX (năm 2006) có 6 HTX quy mô toàn xã (2 HTX dịch vụ nông nghiệp là: Việt Tiến, Tự Lạn và 4 HTX dịch vụ điện năng là: Hương Mai, Tăng Tiến, Thượng Lan, Nghĩa Trung), 6 HTX có quy mô liên thôn (HTX dịch vụ Trung Xuân, Nam Quảng Minh, Việt Ý, HTX dịch vụ điện khu vực 1, HTX dịch vụ điện khu vực 2 xã Tự Lạn, HTX dịch vụ điện Thiết Sơn xã Minh Đức) còn lại là các HTX quy mô thôn. Nhìn chung các HTX dịch vụ đang có xu hướng phát triển theo chuyên ngành, chuyên khâu như: HTX chăn nuôi, HTX thủy sản, HTX mây tre đan, HTX dịch vụ điện năng… Đây là những HTX phát triển thực sự xuất phát từ nhu cầu của xã viên. * Về đánh giá phân loại HTX. Theo căn cứ hướng dẫn số 10/2006/TT-BKH ngày 19/11/2005 của bộ KHĐT, kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX, Sở NN & PTNT đã cụ thể hóa các chỉ tiêu đánh giá và phân loại HTX: + Nhóm 1 là HTX loại khá: Các HTX này thể hiện rõ vai trò chỉ đạo sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, làm tốt các dịch vụ thiết yếu, cung ứng 70% giống, 30% phân bón, thuốc sâu, kinh doanh có lãi, không có nợ đọng, có ý thức tham gia xây dựng HTX. Năm 2006, trong tổng số 116 HTX đã kiểm tra rà soát thì số lượng HTX hoạt động đạt loại khá có 23 HTX đạt 20%. Những HTX điển hình tiên tiến là: HTX dịch vụ Việt Tiến, HTX dịch vụ nông nghiệp Quang Biểu (Quang Châu), HTX dịch vụ nông nghiệp Xuân Lạn (Hương Mai), HTX dịch vụ nông nghiệp Ninh Khánh, HTX dịch vụ nông nghiệp Hữu nghị Việt – Ý (thị trấn Nếnh), HTX mây tre đan xã Tăng Tiến… Các HTX đã đảm bảo được nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, quản lý dân chủ và cùng có lợi. Với quy mô thích hợp, bộ máy quản lý gọn nhẹ, có phương án sản xuất kinh doanh rõ ràng. Vốn huy động để sản xuất kinh doanh ngày một tăng, tạo thêm việc làm cho xã viên, hoạt động kinh doanh của HTX từng bước ổn định và có hiệu quả, một số HTX bước đầu đã có tích lũy và đã đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. + Nhóm 2 là HTX trung bình gồm 35 HTX chiếm 30%: Nhóm HTX này làm được các dịch vụ thiết yếu, vốn quỹ được bảo toàn, có mức tăng trưởng, các dịch vụ thỏa thuận không làm được hoặc tỷ lệ cung ứng thấp. + Nhóm 3 là HTX yếu có 58 HTX chiếm 50%: Là những HTX không làm được dịch vụ thỏa thuận hoặc hiệu quả thấp không có vốn lưu động hoạt động. Bảng 3: Kết quả phân loại hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện qua các năm. Phân loại Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Số HTXDVNN Tỷ lệ % Số HTXDVNN Tỷ lệ % Số HTXDVNN Tỷ lệ % Khá 14 35 17 35,4 20 40,8 Trung bình 23 57,5 26 54,2 27 55,1 Yếu 3 7,5 5 10,4 2 4,1 Tổng 40 100 48 100 49 100 Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Việt Yên. 2. Thực trạng về năng lực sản xuất của HTX dịch vụ nông nghiệp. 2.1. Cán bộ quản lý. * Cán bộ quản lý HTX là những người điều hành công việc của HTX do các xã viên bầu ra thông qua Đại hội xã viên. Yêu cầu của bất cứ các loại doanh nghiệp hay một tổ chức nào thì người cán bộ được các thành viên bầu ra đều được sự tín nhiệm của các thành viên nhất là trong HTXNN thì lại càng thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Bởi vì các xã viên đều bình đẳng có quyền ngang nhau, mỗi người một phiếu không phân biệt vốn góp nhiều hay ít. Cán bộ phải là người có trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức tốt để điều hành HTX hoạt động có hiệu quả. Trình độ của cán bộ có ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động của HTX, nhất là trong sự cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường thì trình độ của cán bộ là một trong những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh dịch vụ của đơn vị. Bảng 4: Trình độ của cán bộ quản lý các HTX dịch vụ nông nghiệp năm 2006. STT Cán bộ quản lý HTX Tổng số Trình độ chuyên môn Được bồi dưỡng, tập huấn Chưa qua đào tạo Trung cấp Cao đẳng Đại học Sở Nông nghiệp Khác 1 Chủ nhiệm 57 2 0 1 48 3 3 2 Phó chủ nhiệm 16 9 2 5 3 Trưởng ban kiểm soát 57 2 33 4 18 4 Kế toán 57 4 29 5 19 5 Thủ quỹ 57 1 1 55 Tổng cộng 244 8 0 1 120 15 100 Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Việt Yên. Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý HTX._.sản xuất dịch vụ kinh doanh hợp lý, hiệu quả…Tuy nhiên, lực lượng cán bộ quản lý HTX huyện Việt Yên còn rất nhiều hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ, hầu hết là từ kinh nghiệm để tổ chức quản lý HTX, chưa được đào tạo và không ổn định (thường có sự thay đổi sau mỗi kỳ đại hội). Do đó, vấn đề phải hỗ trợ HTX trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, cán bộ nghiệp vụ là rất cần thiết. Đã có rất nhiều chính sách đào tạo cán bộ HTX được ban hành như: Thông tư 02/2006/TT – BKH ngày 13/02/2006 của Bộ Kế hoạch & Đầu tư hướng dẫn thực hiện một số điều tại Nghị định số 88/2005/NĐ – CP ngày 11/07/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX, Thông tư của Bộ Tài chính số 22/2004/TT – BTC ngày 24/03/2004 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX giai đoạn 2004 - 2005 và một số qui định về chính sách đào tạo đối với lao động. Trong những năm qua, Phòng Nông nghiệp huyện phối hợp với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Liên minh HTX của tỉnh đã mở các lớp tập huấn cho các đối tượng là chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng kiểm soát của các HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên. Tuy nhiên, ngoài sự hạn chế về số lượng kinh phí thì vấn đề tổ chức còn nhiều vướng mắc như: Hệ thống và nội dung bài giảng còn thiếu thống nhất và chưa phù hợp với yêu cầu của từng đối tượng, từng lớp tập huấn; cơ sở trường lớp và các điều kiện khác còn thiếu; chưa đáp ứng được yêu cầu cho việc dạy và học. Do vậy, thời gian tới Nhà nước mà cụ thể là ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh, huyện cần có đề án cụ thể về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX, trong đó cần chú ý đến một số nội dung sau: - Về đối tượng đào tạo, bồi dưỡng gồm: Cán bộ quản lý HTX (chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, kế toán viên, trưởng kiểm soát), các tổ, đội trưởng dịch vụ, cán bộ khuyến nông, kỹ thuật trong HTX. - Về hệ thống tổ chức đào tạo, bồi dưỡng được tổ chức từ tỉnh tới huyện. Ở cấp tỉnh Liên minh HTX chịu trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX trên địa bàn toàn tỉnh. Ở cấp huyện, Phòng Nông nghiệp, trạm khuyến nông cần phối hợp với Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Liên minh HTX tỉnh tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các HTX trên địa bàn huyện một cách phổ biến, thường xuyên thông qua mô hình trình diễn khuyến nông (xây dựng mô hình HTX). Về thời gian đào tạo, nên mở các lớp tập huấn ngắn hạn tại huyện hoặc tập trung về tỉnh. - Về nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng: Cần biên soạn và hoàn thiện hệ thống giáo trình bài giảng như: kiến thức về HTX nông nghiệp; nội dung kinh tế thị trường; phát triển cộng đồng; nhiệm vụ về quản lý, kỹ thuật trong HTX. Phương pháp đào tạo nên gắn giữa lý thuyết và thực hành; đặc biệt chú trọng đến việc học tập, nghiên cứu tại mô hình HTX điển hình, tiên tiến. Để thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phát triển HTX, trước hết hàng năm huyện trích ngân sách để đào tạo tại các xã, thị trấn cho cán bộ HTX và xã viên HTX, Nhà nước cần hỗ trợ 100% kinh phí đào tạo trong giai đoạn trước mắt. Đồng thời, có sự phân cấp đào tạo từ Trung ương đến địa phương. Cùng với công tác đào tạo cán bộ HTX, cần coi trọng khâu sử dụng cán bộ HTX phù hợp với trình độ năng lực của họ nhằm đảm bảo tính thiết thực và có hiệu quả. Cần coi trọng đúng mức khâu đào tạo lao động nông thôn. Hiện nay, lao động nông thôn đã qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất thấp. Bởi vậy, việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn phải được coi là chương trình quốc gia. Trước mắt, có thể bằng ngân sách Nhà nước kết hợp với các chương trình, dự án và người lao động tự đóng góp để nhanh chóng nâng cao trình độ lao động nông thôn. Ngoài việc mở các lớp đào tạo, cần có chế độ thù lao thỏa đáng và sớm thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội cho cán bộ xã viên HTX, trước hết là đối với cán bộ quản lý HTX. Có thể nói, chính sách đào tạo cán bộ HTX là một chính sách rất quan trọng và lâu dài, nó thể hiện vai trò hỗ trợ của Nhà nước đối với HTX nông nghiệp cả nước nói chung và các HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên nói riêng. Vì vậy rất cần được khẩn trương hướng dẫn triển khai trong thời gian tới. 1.4. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước đối với hợp tác xã. Sự quản lý của Nhà nước đối với HTX là rất quan trọng và cần thiết. Nó giúp các HTX định hướng được quá trình dịch vụ, kinh doanh; tồn tại và hoạt động có hiệu quả; đề xuất các chủ trương, chính sách phù hợp nhằm phát triển HTX thành một hệ thống. Để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên theo Luật HTX, cần tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo của các cấp chính quyền từ tỉnh tới huyện ở các mặt: - Xây dựng nội dung, chương trình tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể và HTX. - Xây dựng các kế hoạch dài hạn, hàng năm về mục tiêu, biên pháp để phát triển HTX thành một bộ phận kế hoạch về phát triển nông nghiệp, nông thôn. - Hướng dẫn chỉ đạo, thực hiện Luật HTX năm 2003, các văn bản hướng dẫn, triển khai sửa đổi, bổ xung Điều lệ của các HTX và các chính sách có liên quan; chỉ đạo địa phương, cơ sở xây dựng mô hình HTX nông nghiệp. - Hàng năm cấp tỉnh, huyện cần tiến hành sơ kết, tổng kết và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn chuyển đổi của các HTX theo loại hình HTX kiểu mới để có những cơ sở đề xuất các chủ trương, chính sách phù hợp trong chỉ đạo và thực hiện. - Xây dựng chương trình, dự án để giúp các HTX mở mang các ngành nghề nông thôn, áp dụng công cụ, máy móc, phương pháp quản lý mới, mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động của HTX, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của HTX. Để thực hiện tốt các nội dung nêu trên, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước cần phải được quán triệt, củng cố và tăng cường từ tỉnh đến huyện, xã đủ mạnh bao gồm lực lượng cán bộ, kinh phí, phương tiện hoạt động. Hiện nay Phòng Nông nghiệp huyện là cơ quan tham mưu của UBND huyện thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước đối với kinh tế tập thể, HTXNN ở huyện. Tuy nhiên, hiện tại ở Phòng Nông nghiệp huyện vẫn chưa đủ số cán bộ để phụ trách từng bộ phận, chuyên môn riêng. Mới chỉ có một cán bộ được phân công theo dõi các HTX ngưng lại phải làm kiêm nhiệm một số việc khác nên không đủ sức, thời gian tập trung cho nhiệm vụ tổ chức quản lý kinh tế HTX. Hơn nữa, sự phối hợp giữa Phòng Nông nghiệp huyện với các cơ quan có thẩm quyền liên quan trong công tác tổ chức quản lý HTX còn thiếu chặt chẽ và hiệu quả chưa cao. Vì vậy, UBND tỉnh, UBND huyện cần tăng cường lực lượng cán bộ làm công tác này; đồng thời phải đảm bảo đủ phương tiện, kinh phí cho bộ máy này hoạt động. Mặt khác, cần thường xuyên nâng cao trình độ quản lý Nhà nước đối với HTX thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm quản lý HTX cho cán bộ quản lý Nhà nước về HTX. 1.5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách của Nhà nước nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của hợp tác xã. a. Chính sách tín dụng: Nguồn vốn của HTX được hình thành từ hai nguồn: vốn từ nội bộ HTX và nguồn vốn từ bên ngoài. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy, nguồn vốn từ nội bộ HTX rất nhỏ bé. Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tín dụng đối với HTX như: Quyết định số 67/1999/QĐ – TTg ngày 30/3/1999 về một số chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, Quyết định số 146/2001/TTg ngày 2/10/2001 về việc xử lý nợ tồn đọng từ năm 1996 của HTXNN; Quyết định số 80/2002QĐ – TTg ngày 24/06/2002 về cho vay đối với người sản xuất, doanh nghiệp ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa và nhiều quyết định khác. Đặc biệt là Nghị định số 88/2005/NĐ – CP ngày 11/07/2005 về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX… Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính cũng đã ban hành nhiều thông tư, chỉ thị để các tổ chức tín dụng thực hiện chính sách tín dụng theo quy định của Chính phủ. Trong đó, các ngân hàng thương mại cũng đã có những quy định cụ thể áp dụng các cơ chế đảm bảo tiền vay, như: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn ban hành Quyết định số 72/QĐ – HDQT ngày 31/2/2002 về quy định cho vay đối với khách hàng. Ngân hàng Công thương cũng đã ban hành Quyết định số 49/QĐ – NHCT ngày 31/6/2002 về cho vay đối với khách hàng… Mặc dù đã có rất nhiều chính sách tín dụng được ban hành và thông thoáng hơn trước rất nhiều, nhưng cho đến nay hầu hết các HTX dich vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện chưa được vay trực tiếp bất kỳ một nguồn vốn nào của Nhà nước (Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn). Để có thêm vốn cho hoạt động của mình, các HTX thường phải huy động vốn của các cá nhân, chủ yếu từ cán bộ quản lý hoặc cán bộ quản lý HTX phải tự đứng ra thế chấp tài sản của gia đình để vay vốn cho HTX nhưng số vốn này cũng không nhiều. Tình hình trên do rất nhiều nguyên nhân khác nhau: Nguyên nhân từ phía HTX, từ phía ngân hàng và từ phía các cơ quan Nhà nước. Trong đó chủ yếu là do năng lực tài chính của đa số HTX còn thấp; tài sản, máy móc thiết bị lạc hậu không đủ giá trị để thế chấp khi vay vốn; thiếu dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả; năng lực quản trị, điều hành của Ban quản trị chưa đáp ứng được yêu cầu nên khó đáp ứng yêu cầu xin vay; chủ nhiệm HTX thường thay đổi nên tính chịu trách nhiệm chưa cao… Như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng hiện hành chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho HTX huy động vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động của HTX. Để giải quyết vốn cho các HTX đảm bảo hoạt động bình thường cũng như việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp, Nhà nước cần taọ điều kiện cho các HTX tạo lập vốn dưới nhiều hình thức, cụ thể như: + Xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bảo lãnh tín dụng để HTX bảo lãnh vay vốn. + Hướng dẫn HTX để được vay vốn các chương trình, dự án của Nhà nước. + Cho phép HTX được là tín dụng nội bộ (đối với xã viên của HTX). Thực tế vừa qua, nhiều HTX dịch vụ nông nghiệp trên địa bàn huyện đã qua hoạt động tín dụng nội bộ có kết quả tốt nhưng chưa được Nhà nước chính thức cho phép hoạt động nên không có sự hướng dẫn, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy, Nhà nước cần sớm cho phép các HTX được thực hiện dịch vụ tín dụng nội bộ với nội dung: huy động tiền tiết kiệm của xã viên và sử dụng vốn tự có của mình cũng như các khoản vay ngân hàng để cho xã viên vay phát triển sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống. Đồng thời, cần có những hướng dẫn nghiệp vụ và chỉ đạo chặt chẽ đối với hoạt động tín dụng nội bộ trong HTX. HTX là một loại hình doanh nghiệp nên cũng cần được vay vốn bình đẳng như doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế chính sách tín dụng và chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh theo đúng quy định. Có thể nói, việc sớm tháo gỡ những khó khăn về vốn cho các HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên hiện nay sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của HTX. b. Chính sách đất đai. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt trong nông nghiệp, do đó việc quản lý sử dụng đất có hiệu quả là hết sức cần thiết. Các chính sách về đất đai hết sức quan trọng, có vai trò và tác động rất lớn không những đến nông nghiệp, nông thôn nói chung mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTXNN. Thực hiện tốt chính sách này sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng ngành nghề, khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân dồn điền đổi thửa, tập trung ruộng đất theo chính sách của Nhà nước để phát triển sản xuất hàng hóa, tao ra những nhu cầu hợp tác mới. Đều này thể hiện rất rõ từ khi các địa phương trong huyện tiến hành việc dồn đổi ruộng đất vào năm 2002 tạo ra những mảnh ruộng lớn giúp các hộ nông dân dễ dàng hơn trong việc canh tác, tiết kiệm công sức, chi phí, tập trung sản xuất, dần phát triển các mô hình trang trại với quy mô khá lớn theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao hiệu quả sản xuất, đồng thời cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX dịch vụ nông nghiệp trong việc điều hành các dịch vụ, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả và mở rộng dần quy mô hoạt động. Tuy vậy, nhìn chung ruộng đất ở các địa phương vẫn còn manh mún, phân tán, chưa thực sự tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa của huyện phát triển mạnh. Do vậy, trong thời gian tới, Nhà nước cần có cơ chế kiểm tra đôn đốc các địa phương khẩn trương thực hiện chính sách giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân. Cần thể chế hóa 7 quyền trong Luật đất đai năm 2003, khuyến khích quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất cho các hộ, các trang trại phát triển sản xuất hàng hóa; tiếp tục hướng dẫn các hộ nông dân thực hiện dồn đổi ruộng đất tạo điều kiện cho sản xuất hàng hóa phát triển thuận lợi. Các cấp chính quyền từ tỉnh, huyện đến xã dưới sự chỉ đạo của Nhà nước cần khẩn trương thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến các hộ nông dân để từ đó xã viên có thể góp vốn vào HTX bằng giá trị quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003. Đồng thời, cần tuyên truyền, áp dụng kinh nghiệm của một số địa phương về việc dồn điền, đổi thửa để hạn chế tình trạng manh mún ruộng đất, tạo điều kiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Cùng với quá trình nói trên, cần bổ sung chính sách miễn giảm tiền thuê đất đối với HTXNN đã được cấp giấy đăng ký kinh doanh. Đối với các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới cần miễn không thời hạn tiền thuê đất mà HTX sử dụng để làm các công trình dịch vụ phục vụ sản xuất, miễn với thời hạn 5 năm kể từ khi có quyết định giao đất đối với HTXNN thuộc vùng đồng bằng. Sau thời hạn đó, nếu HTX còn khó khăn, cần nghiên cứu cụ thể để cho miễn giảm tiếp. Đồng thời, phải có cơ chế quản lý chặt chẽ để tránh tình trạng sử dụng đất lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác. Ngoài ra, đến nay còn nhiều HTX dịch vụ nông nghiệp ở huyện Việt Yên vẫn chưa được giao đất để xây dựng trụ sở làm việc, nhà kho… Do vậy, có HTX phải thuê, mượn đất của UBND xã hoặc phải mượn tạm của gia đình xã viên để làm việc, hội họp; đã không đáp ứng được yêu cầu mở mang các hoạt động dịch vụ cho hộ xã viên. Nhiều HTX muốn tranh thủ khi giá cả thị trường tương đối ổn định sẽ chú trọng tiếp cận với các đơn vị cung cấp phân bón, giống cây trồng,… để mua về cất trữ, đến khi thời vụ sẽ kịp thời cung ứng cho các hộ xã viên, nông dân với giá cả hợp lý và chất lượng đảm bảo, nhưng do không có mặt bằng để xây dựng kho chứa nên HTX đã không thực hiện được việc này, đành phải đợi đến khi thời vụ, giá cả thị trường lên cao mới có thể tiếp cận và cung ứng cho xã viên, như vậy là kém hiệu quả. Đây thực sự đang là một khó khăn lớn đối với nhiều HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên. Vì vậy, Nhà nước cần sớm thực hiện việc giao đất không thu tiền cho các HTX để HTX xây dựng trụ sở làm việc, nhà kho, sân phơi, cửa hàng… Như vậy, sự quan tâm kịp thời và đúng mức của Nhà nước về vấn đề này vừa khả thi mà lại có ý nghĩa thiết thực đối với HTX. Tuy nhiên, những chính sách về đất đai trên đây đối với các HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên cần sớm được cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành thì HTX mới có cơ hội để hưởng lợi theo đúng chủ trương khuyến khích của Nhà nước. c. Chính sách thuế. Theo quy định hiện hành, đến nay nhiều HTXNN đã phải đóng thuế mặc dù chính sách thuế chưa đủ khuyến khích các HTXNN hoạt động chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, nhiều HTX vẫn chưa nộp thuế, các HTXNN cần nghiêm túc thực hiện các chính sách thuế hiện hành. Việc này một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, mặt khác việc kiểm tra giám sát của ngành thuế giúp làm lành mạnh hóa nền tài chính của HTXNN. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy cho đến nay, các HTX dịch vụ nông nghiệp ở huyện chưa được hưởng chính sách miễn giảm thuế trong thời gian đầu theo quyết định của Nghị định 15/CP của Chính phủ. Vì vậy, các HTX đã gặp nhiều khó khăn khi thực hiện các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống của hộ xã viên trong điều kiện cạnh tranh của cơ chế thị trường. Để khuyến khích HTX mở rộng các hoạt động dịch vụ, sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu sản xuất của kinh tế hộ, tăng cường tích lũy tập thể, ngoài chính sách hiện hành về thuế, Nhà nước nên miễn giảm thuế cho các hoạt động dịch vụ của HTXNN bao gồm cung ứng vật tư sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm… phục vụ sản xuất và đời sống hộ xã viên vì hoạt động cung ứng vật tư, chế biến tiêu thụ sản phẩm đang là nhu cầu lớn của kinh tế hộ song phần lớn HTX đều chưa đáp ứng được. Một số HTX có làm thì gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh của cơ chế thị trường, hơn nữa hoạt động dịch vụ của HTX hoàn toàn không vì mục tiêu lợi nhuận mà chủ yếu nhằm mục tiêu phát triển kinh tế hộ xã viên. Ngoài ra, Nhà nước cần cải thiện nguồn đầu tư ngân sách cho nông nghiệp; ngoài phần đầu tư thuỷ lợi, cần tạo vốn để huy động các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng nguyên liệu hàng hóa và cơ sở chế biến, hỗ trợ công nghiệp, thương mại đầu tư phục vụ chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở huyện. 1.6.Tăng cường mối liên hệ hợp tác giữa HTX và các thành phần kinh tế khác nhất là kinh tế Nhà nước. Đối với nước ta, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có tính quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Thông qua các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp trực thuộc mà Nhà nước chi phối hoạt động của các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự phát triển bình đẳng, cân đối giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là trong vấn đề hỗ trợ sự phát triển của các hình thức tổ chức hợp tác. Trong nông nghiệp biểu hiện của kinh tế Nhà nước là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, thủy lợi, cung cấp giống vật tư, chế biến nông sản, các trung tâm nghiên cứu khoa học… Trong mối liên hệ này, HTX giữ vai trò là người đại diện tiếp nhận sự trợ giúp từ Nhà nước tới các nông hộ và trang trại. Ngược lại, khi kinh tế HTX phát triển thì nhu cầu về các vật tư kỹ thuật để mở rộng sản xuất ngày càng cao tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dịch vụ của Nhà nước có thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đoàn thể đối với sự phát triển hợp tác xã trên địa bàn. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, quyền quyết định cao nhất trong HTX là đại hội xã viên. Tuy nhiên, HTX nằm trong địa bàn nên sự phát triển của HTX có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Bởi vậy, các tổ chức kinh tế hợp tác, HTX phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và quản lý giúp đỡ của chính quyền địa phương. Đó là đòi hỏi khách quan trong quá trình phát triển. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTXNN là một quá trình phức tạp, lâu dài. Qua hơn 7 năm thực hiện Luật Hợp tác xã, các địa phương trong huyện đã quan tâm triển khai và đã đạt được một số kết quả. Những thành công ở các HTX dịch vụ nông nghiệp trong mấy năm gần đây đã cho thấy rõ điều đó. Tuy vậy, để thúc đẩy phong trào HTX phát triển cần thực hiện đầy đủ các quy định của Luật HTX năm 2003 và các quy định của Chính phủ. Trong những năm tới từ tỉnh đến huyện và các xã cần phải tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về HTX. Công tác tuyên truyền HTX mới phải trên cơ sở thực tiễn để thảo luận, tranh luận trong sinh hoạt chính trị trong tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể trong nông nghiệp, nông thôn; làm cho mọi cán bộ trong Đảng, cơ quan quản lý Nhà nước thống nhất nhận thức về sự cần thiết và vị trí, vai trò của kinh tế tập thể và HTX nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế nông hộ, nông trại trong nền kinh tế thị trường; làm cho nông dân hiểu HTX mới, thấy được lợi ích tham gia HTX, vị trí và vai trò của HTX trong việc phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và của đất nước. Vì vậy, cấp tỉnh, huyện và nhất là các xã trong toàn huyện cần phải có kế hoạch cụ thể, có các hình thức tuyên truyền, vận động đa dạng để dân dễ tiếp cận, đặc biệt tuyên truyền qua việc tổ chức tham quan, học tập HTX điển hình để dân biết, dân làm. Các tổ chức đoàn thể như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân… cũng cần tích cực tham gia vào công tác này, góp phần tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế HTX trong huyện hoạt động có hiệu quả. 2. Giải pháp vi mô. 2.1. Mở rộng dịch vụ, xây dựng chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh của các hợp tác xã. Trong điều kiện hiện nay, nhu cầu về dịch vụ cho nông nghiệp bị giới hạn do quỹ ruộng đất có hạn, tỷ lệ hàng hóa nông sản thấp, yêu cầu về dịch vụ cho nông nghiệp sẽ bị hạn chế. HTX không thể tiếp tục mở rộng hơn nữa quy mô kinh doanh dịch vụ nông nghiệp cho các hộ nông dân, cho dù là sản xuất nông nghiệp chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thì dịch vụ cho các hộ sản xuất nông nghiệp vẫn có giới hạn. Vì vậy, các HTXNN ngoài dịch vụ nông nghiệp tất yếu phải phát triển ngành nghề và các loại dịch vụ khác, nếu thuần túy dịch vụ nông nghiệp sẽ không có triển vọng phát triển. Qua thực trạng hoạt động của các HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên, đề án xin đề xuất hai hướng mở rộng dịch vụ: Một là: Đối với HTXNN nào chưa phát triển được dịch vụ cần thiết cho sản xuất nông nghiệp như bảo vệ thực vật, vật tư nông nghiệp, tiêu thụ nông sản… (những HTX này phần lớn là trung bình và yếu thường xuyên thua lỗ, tồn tại chỉ là hình thức) thì nên mở rộng sang loại hình dịch vụ này vừa tạo điều kiện cho HTX giữ được tài sản, bảo toàn vốn quỹ và duy trì được hoạt động. Khi kinh doanh dịch vụ này có thể có nhiều lực lượng tham gia, HTX muốn tồn tại và phát triển thì phải thực sự chấp nhận cạnh tranh trên thị trường dịch vụ đó. Hai là: Đối với HTXNN đã phát triển được những dịch vụ cần thiết trên cho hộ nông dân thì nên hướng vào phát triển các dịch vụ nông nghiệp gắn với sản xuất kinh doanh ngành nghề và các dịch vụ khác, thoát khỏi sự hạn chế của kinh doanh dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tạo ra đa dạng thu nhập, san sẻ rủi ro, tạo việc làm và tăng thu nhập cho các hộ xã viên, thậm chí hỗ trợ cho kinh doanh dịch vụ nông nghiệp. 2.2. Quản lý tốt tài chính, tài sản và các quỹ của HTX dịch vụ nông nghiệp. Tài chính và các quỹ là điều kiện, cơ sở để HTX hoạt động, nếu không có nguồn này HTX sẽ không có vốn hoạt động. Vì vậy, HTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay cần đặc biệt chú ý quản lý tốt nguồn này. Hiện nay, đa phần tư duy của các cán bộ cũng như xã viên vẫn theo lối cũ, coi tài sản của HTX là tài sản chung nên không gìn giữ. Nhiều công trình xây dựng cơ bản của HTX do không quản lý tốt nên đã hư hỏng, xuống cấp nhiều mà không được bảo vệ, quản lý. Nhưng sự thực HTX dịch vụ nông nghiệp đã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh nên những tài sản của HTX cũng là của bản thân mỗi xã viên. Quỹ HTX chủ yếu là quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự phòng và quỹ phúc lợi xã hội. Các quỹ này thường lớn ở các HTX nhưng do sử dụng không đúng mục đích (lợi dụng quỹ phúc lợi chi tiêu bất hợp lý) nên quỹ ngày càng cạn kiệt. Đặc biệt có một số cán bộ lợi dụng quỹ chung tham ô, biển thủ công quỹ, vay quỹ HTX tiêu dùng cá nhân đến khi HTX cần quỹ để sử dụng lại không thể trả nên quỹ không có hoặc rất ít. Vì vậy, HTX nói chung và HTX dịch vụ nông nghiệp nói riêng cần có biện pháp quản lý tài sản, tài chính và quỹ chặt chẽ như giao quỹ, tài chính cho thủ quỹ có uy tín, tinh thần trách nhiệm cao, được nhiều người tin tưởng; trong các khoản thu chi phải rạch ròi, minh bạch, cần xem xét các khoản chi không rõ nội dung như: Chi tiếp khách, hội nghị…; mở sổ theo dõi chi tiết thường xuyên và có nề nếp; xử lý nghiêm minh nhiều trường hợp tham ô vi phạm đến quỹ chung của HTX. 2.3. Thực hiện đầy đủ hạch toán và phân tích kinh doanh. - Hạch toán kinh doanh giúp cho việc quản lý tài chính của HTX một cách có kế hoạch và tiết kiệm, chỉ có hạch toán kinh doanh mới có thể tính đúng, đủ các khoản thu chi, bảo toàn và phát triển vốn, không ngừng tăng tích lũy để thực hiện tái sản xuất mở rộng, tăng thu nhập và cải thiện đời sống của mọi thành viên trong HTX. Một yêu cầu trước nhất của hạch toán kinh doanh trong KTX dịch vụ nông nghiệp hiện nay là phải thực hiện chế độ ghi chép ban đầu vào sổ sách một cách thường xuyên và có nề nếp, ghi chép phải xác định rõ nguồn số liệu, các chứng từ, hóa đơn… Tuy nhiên, do HTXNN chủ yếu kinh doanh dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp nên chịu ảnh hưởng nhiều của sản xuất nông nghiệp như: Chu kỳ sản xuất dài, chia ra nhiều công đoạn và khâu công việc, có tính thời vụ cao nên việc tính toán là hết sức khó khăn. Vì vậy, yêu cầu khi hạch toán phải chú ý đến đặc điểm này để đánh giá và tính toán đúng kết quả sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc: Tự bù đắp, tự trang trải chi phí để kinh doanh có lãi, bảo toàn vốn và mở rộng sản xuất kinh doanh. - Bên cạnh hạch toán kinh doanh các HTX dịch vụ nông nghiệp cũng cần thực hiện chế độ phân tích kinh doanh: Phân tích kinh doanh phải được tiến hành thường xuyên nhằm tìm ra những bất hợp lý trong quá trình kinh doanh của HTX để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Đồng thời giúp HTX dịch vụ nông nghiệp phát hiện nhiều khả năng tiềm tàng, những nguồn lực sản xuất chưa được sử dụng hoặc sử dụng chưa có hiệu quả để có biện pháp tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý tốt hơn. Như vậy, để phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX dịch vụ nông nghiệp huyện Việt Yên đòi hỏi phải có nhiều thời gian và cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp. Trong quá trình thực hiện tổng thể các giải pháp, ngoài sự nỗ lực phấn đấu vươn lên trong cơ chế thị trường của bản thân mỗi HTX thì vai trò tổ chức và quản lý của Nhà nước là hết sức cần thiết. Đồng thời, các tổ chức Đảng, đoàn thể, các tổ chức xã hội cũng cần phải tham gia vào quá trình đó. KẾT LUẬN Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và thực hiện chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, em thấy chuyên đề đã đạt được một số kết quả như: Nêu lên được cơ sở lý luận về kinh tế tập thể và hợp tác xã như bản chất, vai trò, đặc trưng, các loại hình…; Tính tất yếu khách quan của kinh tế tập thể và hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp ở Việt Nam; Những nhân tố tác động đến sự phát triển của HTX dịch vụ nông nghiệp…; Phản ánh được tình hình đổi mới và phát triển của HTX dịch vụ nông nghiệp ở huyện Việt Yên qua các năm: về số lượng HTX, xã viên; về vốn, tài sản; về bộ máy tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh… Nhờ đó nắm bắt được phần nào trạng thái của chúng để đưa ra được một số giải pháp để tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp như: giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý; về tổ chức quản lý; ngành nghề dịch vụ mới… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được ở trên và dù đã rất cố gắng nhưng chuyên đề thực tập tốt nghiệp này vẫn còn tồn tại một số mặt hạn chế như: Trình bày chưa thật logic, phân tích chưa sâu, hệ thống số liệu chưa đồng bộ và còn thiếu, các giải pháp đưa ra chưa đầy đủ và đồng bộ, tính khả thi của một số giải pháp chưa cao… Những mặt hạn chế này là do gặp khó khăn trong thu thập tài liệu, xử lý số liệu…, do khả năng và trình độ chuyên môn còn hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm… Cho nên dù đã được sự giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình của TS. Vũ Thị Minh cùng cán bộ Phòng nông nghiệp huyện Việt Yên, bài của em vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót trên. Kính mong Thầy chủ nhiệm khoa, cán bộ Phòng, Thầy Cô trong khoa góp ý, bổ xung thêm cho em. Em xin chân thành cám ơn! Một số kiến nghị. - Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với các HTX dịch vụ nông nghiệp thông qua việc phối hợp các ngành kiểm tra, hướng dẫn, uốn nắn kịp thời các HTX hoạt động theo luật. - Khẩn trương tổ chức triển khai các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX hơn nữa với chương trình, nội dung đào tạo phù hợp với từng đối tượng quản lý HTX. - Tăng cường kinh phí đầu tư để tập huấn, thăm quan mô hình quản lý HTX có hiệu quả. Từ đó tạo điều kiện nhân rộng mô hình HTX hoạt động kinh doanh có hiệu quả trên địa bàn huyện Việt Yên. - Tăng cường kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. - Chỉ đạo, giải quyết dứt điểm những vướng mắc còn tồn đọng ở HTX dịch vụ nông nghiệp nhằm ổn định tình hình và từng bước củng cố HTX phát triển. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cố GS.TS.Nguyễn Thế Nhã – PGS.TS.Vũ Đình Thắng: Giáo trình kinh tế nông nghiệp, Nxb.Thống kê, Hà Nội – 2004. 2. PGS.TS.Trần Quốc Khánh: Giáo trình quản trị kinh doanh nông nghiệp, Nxb.Lao động xã hội, Hà Nội – 2005. 3. PGS.TS.Nguyễn Văn Bích – TS.Chu Tiến Quang: Kinh tế tập thể và HTX ở Việt Nam. Thực trạng và định hướng phát triển, Nxb.Nông nghiệp, Hà Nội – 2001 4. PGS.TS.Vũ Văn Phúc: Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển HTXNN ở Việt Nam trong những năm tới, Tạp chí Nông nghiệp & PTNT - Số 10/2004. 5. TS.Lê Bá Thăng: Tổ chức và quản lý các hoạt động dịch vụ trong các HTXNN kiểu mới, Tạp chí Thông tin lý luận - Số 06/1998. 6. Nguyễn Thái Văn: Một số bài học rút ra từ các HTXNN giỏi sau 6 năm chuyển đổi, Tạp chí Nông nghiệp & PTNT - Số 12/2003. 7.TS.Phạm Thị Cần: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu – Trao đổi - Số 16 (8/2000). 8. Phạm Văn Khánh - Nguyễn Ngọc Hà: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý của HTXNN sau chuyển đổi ở Hà Tây, Tạp chí Giáo dục lý luận - Số 2/2001. 9. Nguyễn Thanh Tài: Một số suy nghĩ về mô hình HTX dịch vụ sản xuất, kinh doanh tổng hợp Duy Sơn 2, Tạp chí Sinh hoạt lý luận - Số 4/2001. 10. Báo cáo tổng kết của một số HTX dịch vụ nông nghiệp, báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Luật Hợp tác xã, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX nông nghiệp, báo cáo thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch và phương hướng, nhiệm vụ của Phòng Nông nghiệp huyện Việt Yên. Môc lôc Lêi më ®Çu danh môc b¶ng biÓu Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của huyện Việt Yên năm 2006. 26 Bảng 2: Số lượng các HTX của huyện Việt Yên. 30 Bảng 3: Kết quả phân loại hoạt động của HTX dịch vụ nông nghiệp huyện qua các năm. 32 Bảng 4: Trình độ của cán bộ quản lý các HTX dịch vụ nông nghiệp năm 2006. 33 Bảng 5: Tình hình nợ phải trả HTX dịch vụ nông nghiệp. 38 Bảng 6: Kết quả sản xuất kinh doanh các hoạt động dịch vụ của huyện Việt Yên năm 2006. 44 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24610.doc
Tài liệu liên quan