Thực trạng và giải pháp công tác thu phí nước thải trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên địa bàn Hà Nội

MỤC LỤC Trang DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TN & MT : Tài nguyên và Môi trường NTCN : Nước thải công nghiệp NTSH : Nước thải sinh hoạt BVMT : Bảo vệ môi trường BOD : Nhu cầu ô xy sinh hóa COD : Nhu cầu ô xy hóa học TSS : Chất rắn lơ lửng Hg : Thủy ngân Cd : Cadmium As : Arsenic DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1. Nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước thải của một số ngành công nghiệp (mg/l) Bảng 1.2. Mức thu đối với các chất gây ô nhiễm có trong nước thải Bảng 1.3: Bảng thống kê kết quả th

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp công tác thu phí nước thải trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên địa bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u phí nước thải công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 12/2004 đến tháng 6/2005 Bảng 2.1. Công tác kê khai quản lý tài nguyên nước trên địa bàn Hà Nội Bảng 2.2: Tình hình nộp phí của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. Biểu đồ thành phố Hà Nội Hình 2.2. Cơ cấu theo ngành các doanh nghiệp công nghiệp tại Hà Nội LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự do hóa thương mại phát triển tạo điều kiện cho Việt Nam có cơ hội để giao lưu trao đổi, học hỏi kinh nghiệm nước bạn. Thế nhưng, song song với quá trình tự do hóa thương mại, vấn đề môi trường có sự biến đổi mạnh mẽ theo cả 2 chiều hướng tích cực và tiêu cực. Việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và môi trường là vấn đề lớn của các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Nhắc đến vấn đề Môi trường ở Việt Nam, cụ thể là nguồn nước trên địa bàn Hà Nội- một trong những thành phố lớn nhất của Việt Nam, lượng nước thải của thành phố thải ra hằng ngày là rất lớn và chủ yếu tập trung vào ba nguồn lớn: Nước thải sinh hoạt, từ sản xuất và bệnh viện. Tuy nhiên, hệ thống xử lý nước thải của thành phố lại chưa có, còn của doanh nghiệp thì lại chỉ có một số ít doanh nghiệp có hệ thống xử lý, còn lại là hầu như thải trực tiếp ra môi trường từ đó gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khỏe đời sống của nhân dân, ảnh hưởng tới sản xuất cũng như gây mất mỹ quan đô thị. Để góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác bảo vệ môi trường bằng phí môi trường với yêu cầu thực tế phát triển đời sống xã hội,bảo đảm phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước theo chủ trương của Đảng và Chính phủ trong giai đoạn hiện nay và thời gian tới, thì Với xu thế "hội nhập kinh tế quốc tế", các doanh nghiệp Việt Nam phải hội nhập về các chuẩn mực hành xử trong quy tắc kinh doanh, trong đó có điều kiện tiên quyết là phát triển bền vững, trách nhiệm với môi trường thì Chính phủ cần áp dụng ngày càng nhiều hơn các biện pháp nhằm hạn chế hoặc giảm bớt tác động của các hoạt động sản xuất, tiêu dùng của xã hội đối với môi trường như các quy định về thuế, phí môi trường nhằm khuyến khích ý thức tự bảo vệ môi trường. Chế độ thu phí sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm, sản xuất sạch hơn bằng công nghệ tiên tiến, nhằm giảm thiểu lượng ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Việc thu phí còn giúp phục vụ cho công tác quản lý môi trường và cải thiện môi trường. Với những mục đích đó, tôi muốn tìm hiểu xem tình hình thu phí môi trường, đặc biệt là phí nước thải trên địa bàn Hà Nội để từ đó có cái nhìn toàn diện, cách đánh giá các vấn đề môi trường, nâng cao nhận thức và hiểu biết. 2. Mục tiêu của chuyên đề Nghiên cứu đề tài nhằm đạt được những yêu cầu sau: Thứ nhất, tìm hiểu thực trạng hoạt động thu phí nước thải trên địa bàn Hà Nội để từ đó nâng cao nhận thức của các tổ chức và cá nhân, tăng cường kiểm soát ô nhiễm, góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững, làm trong sạch môi trường. Thứ hai, từ những thực trạng đó, đưa ra một số giải pháp để công tác thu phí nước thải bảo vệ môi trường được thực hiện một cách tốt hơn 3. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề Phạm vi không gian- địa bàn nghiên cứu: Hà Nội Phạm vi thời gian: Từ ngày 9/3 đến ngày 9/5 4. Các phương pháp sẽ sử dụng Điều tra Phân tích 5. Các môn học chuyên ngành có liên quan trực tiếp đến chuyên đề: Kinh tế và Quản lý môi trường Quản lý Tài nguyên môi trường 6. Nội dung chuyên đề Để tài mà tôi chọn là “thực trạng và giải pháp công tác thu phí nước thải trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trên địa bàn Hà Nội”. Nội dung của nó là tìm hiểu về Thành phố Hà Nội và hoạt động thu phí nước thải trên địa bàn. Từ đó đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hoạt động về phí môi trường ở đây. Chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần mở đầu, phần kết luận, lời cảm ơn, lời cam đoan, còn có phần nội dung gồm các chương chính sau: Chương I. Tổng quan về phí môi trường và đối tượng chịu phí môi trường Chương II. Hiện trạng công tác thu phí nước thải trên địa bàn Hà Nội Chương III. Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả của công tác thu phí nước thải trong bảo vệ môi trường trên địa bàn Hà Nội CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ PHÍ NƯỚC THẢI VÀ ĐỐI TƯỢNG CHỊU PHÍ NƯỚC THẢI 1.1. Sơ lược về nước thải và các đặc trưng của nước thải 1.1.1. Nước thải công nghiệp Theo điều 2 chương I của nghị định 67/2003/ NĐ- CP của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải ngày 13/6/2003: “nước thải công nghiệp là nước thải ra môi trường từ các cơ sở sản xuất công nghiệp, cơ sở chế biến nông sản, lâm sản, thủy sản”. Theo lĩnh vực công nghệ: Nước thải công nghiệp là nước thải được sinh ra trong quá trình sản xuất công nghiệp từ công đoạn sản xuất và các hoạt động phục vụ cho sản xuất như nước thải khi tiến hành vệ sinh công nghệ hoặc hoạt động sinh hoạt của công nhân viên. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Nước thải công nghiệp là nước bị thải loại ra bề mặt sau khi đã qua sử dụng trong công nghiệp (với mục đích khác nhau như làm lạnh, vệ sinh và sản xuất). Trong chuyên đề tốt nghiệp này, định nghĩa về nước thải được sử dụng theo điều 2 chương I của nghị định 67/2003/NĐ- CP của Chính phủ Những khái niệm trên cho thấy, nước thải công nghiệp là nước phát sinh từ các cơ sở sản xuất kinh doanh, với đặc tính có chứa rất nhiều chất gây ô nhiễm: COD, chất rắn lơ lửng, thủy ngân, chì, Arsenic, Cadmium, các chất hữu cơ, dầu mỡ… với nồng độ các chất ô nhiễm khác nhau. Nước thải công nghiệp không được xử lý mà thải trực tiếp ra môi trường thì sẽ gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, hủy hoại hệ sinh thái Các đặc trưng của nước thải công nghiệp: Nước thải công nghiệp có chứa rất nhiều chất gây ô nhiễm như là COD, BOD, TSS, các loại chất hóa học khác… Và nước thải công nghiệp mang tính chất đặc trưng của từng loại hình sản xuất công nghiệp. Những ngành công nghiệp khác nhau thì nước thải của chúng cũng mang những tính chất khác nhau. Dưới đây là đặc trưng của một số ngành công nghiệp: Ngành dệt nhuộm: Là một trong những ngành gây ô nhiễm môi trường nước nhất, ngành này sử dụng công đoạn tẩy, nhuộm, in. Các đặc trưng ô nhiễm của nước thải dệt nhuộm chủ yếu đánh giá qua các thông số: pH, COD, BOD, TDS (tổng chất rắn hòa tan) và SS (chất lơ lửng) Nước thải này có các đặc trưng: Ô nhiễm chất hữu cơ được thể hiện qua thông qua chỉ số COD, BOD. Nước thải của ngành này có nồng độ hai chất này rất cao. Độ pH cao, trong khoảng 8-12. Ô nhiễm kim loại nặng chủ yếu do sử dụng hóa chất tẩy và thuốc nhuộm dưới dạng các hợp chất kim loại. Một trong những nguồn ô nhiễm kim loại là pigment, có nguồn gốc chủ yếu từ các hợp chất cơ kim dạng halogen hóa. Độ dẫn điện cao hay tổng chất rắn hòa tan cao (TDS) do sử dụng các muối tan khá lớn, như Na2SO4, NaCl. Một đặc trưng của nước thải dệt nhuộm nữa là độ màu. Ô nhiễm màu phụ thuộc vào mức độ gắn màu giữa thuốc nhuộm và sợi dệt. Nó còn phụ thuộc vào thiết bị và trình độ vận hành công nghệ của từng cơ sở sản xuất. Ngành cơ khí – mạ: Nước thải ngành này chủ yếu chứa hàm lượng các kim loại nặng rất cao, gây độc với sinh vật, gây tác hại xấu đến sức khỏe con người: Cr, Ni, Mg…Ngoài ra còn chứa các chất gây ô nhiễm khác như chất hoạt động bề mặt, dầu, TSS, COD,… Ngành công nghiệp giấy và bột giấy: Đây cũng là ngành gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trong thành phần của nước thải của nó có chứa các chất gây ô nhiễm như: Chất lơ lửng, chất tẩy trắng,… Bảng 1.1. Nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước thải của một số ngành công nghiệp (mg/l) STT COD TSS Hg Pb As Cd 1 Ngành chế biến thực phẩm 3.970 300 0,004 0,00042 0,003 0,00073 2 Dệt nhuộm 1.303 172 0,0015 0,047 0,0045 0,0022 3 Giấy và bột 1.127 527 0,0009 0,004 0,012 0,003 4 Cơ khí- mạ 255 2.289 0,00028 0,251 0,00012 0,0021 5 Đóng tàu 180 110 0,00028 0,0032 0,0035 0,0021 6 Hóa chất 1.500 250 0,00077 0,0084 0,0069 0,0014 7 Dược 941 408 0,0011 0,005 0,011 0,005 8 Sản xuất VLXD 242 242 235 0,00068 0,0043 0,00075 (Nguồn: Tác giả tự tổng hợp) 1.1.2. Nước thải sinh hoạt Nước thải sinh hoạt là nước thải phát sinh từ hoạt động sinh hoạt của các cộng đồng dân cư như: khu vực đô thị, trung tâm thương mại, khu vực vui chơi giải trí, cơ quan công sở,…Thông thường, nước thải sinh hoạt của hộ gia đình được chia ra làm 2 loại chính: nước đen và nước xám. Nước đen là nước từ nhà vệ sinh, chứa phần lớn các chất ô nhiễm, chủ yếu là chất hữu cơ, các vi sinh vật gây bệnh và cặn lơ lửng. nước xám là nước phát sinh từ quá trình tắm rửa, giặt, với thành phần các chất ô nhiễm không đáng kể. các thành phần ô nhiễm chính đặc trưng thường thấy ở nước thải sinh hoạt là BOD5, COD, nito (N) và phốt pho (P). Trong nước thải sinh hoạt, hàm lượng N và P rất lớn, nếu không được loại bỏ thì sẽ làm cho nguồn tiếp nhận nước thải bị phú dưỡng- một hiện tượng thường xảy ra ở nguồn nước có hàm lượng N và P cao, trong đó các loài thực vật thủy sinh phát triển mạnh rồi chết đi, thối rửa, làm cho nguồn nước trở nên ô nhiễm. Một yếu tố gây ô nhiễm quan trọng trong nước thải sinh hoạt, đặc biệt là trong phân, đó là các loại mầm bệnh được lây truyền bởi các vi sinh vật có trong phân. Vi sinh vật gây bệnh từ nước thải có khả năng lây qua nhiều nguồn khác nhau, qua tiếp xúc trực tiếp, qua môi trường (đất, nước, không khí, cây trồng, vật nuoi, côn trùng,…), thâm nhập vào cơ thể người qua đường thức ăn, nước uống, hô hấp,…và sau đó có thể gây bênh. Vi sinh vật gây bệnh cho người bao gồm các nhóm chính là virus, vi khuẩn, nguyên sinh bào và giun sán. Với thành phần ô nhiễm là các tạp chất nhiễm bẩn có tính chất khác nhau, từ các loại chất không tan đến các chất ít tan và cả những hợp chất tan trong nước, việc xử lý nước thải sinh hoạt là loại bỏ các tạp chất đó, làm sạch nước và có thể đưa nước vào nguồn tiếp nhận hoặc đưa vào tái sử dụng. việc lựa chọn phương pháp xử lý thích hợp thường được căn cứ trên đặc điểm cuả các loại tạp chất có trong nước thải. các phương pháp chính thường được sử dụng trong các công trình xử lý nước thải sinh hoạt: phương pháp hóa học, phương pháphóa lý, phương pháp sinh học 1.2. Tổng quan về phí môi trường 1.2.1. Vài nét về công cụ kinh tế Công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ dựa vào thị trường là các công cụ chính sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức kinh tế để tạo ra cấc tác động ảnh hưởng đến hành vi của các tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường. Một số công cụ kinh tế chủ yếu: Thuế tài nguyên Thuế/ phí môi trường Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường Hệ thống đặt cọc – hoàn trả Ký quỹ môi trường Trợ cấp môi trường Nhãn sinh thái Quỹ môi trường Các công cụ này cho phép các doanh nghiệp lựa chọn phương án tối ưu đáp ứng các yêu cầu về môi trường Thu phí môi trường chỉ là một trong nhiều công cụ kinh tế quản lý môi trường đã, đang và sẽ được đẩy mạnh áp dụng trong thời gian tới. Giải pháp ưu tiên này đã được ghi rõ trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 vừa được Thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 02 tháng 12 năm 2003. 1.2.2. Khái niệm về phí môi trường 1.2.2.1. Thuế Pigou Ý tưởng sử dụng công cụ thuế để sửa chữa những ngoại tác có hại tới môi trường đã được Pigou đưa ra từ năm 1920 nên thuế môi trường còn được gọi là thuế Pigou. Đây là loại thuế thay vì đánh vào đầu ra sản phẩm,người ta đánh cho mỗi đơn vị phát thải ô nhiễm đầu vào 1.2.2.2. Phí môi trường Một dạng của thuế Pigou, đó là một công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Phí môi trường được sử dụng khá phổ biến tại các nước công nghiệp phát triển (OECD) từ hơn hai thập kỷ qua và đã bước đầu được áp dụng có kết quả ở các nước cháu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Singapore, Philippin…. Phí bảo vệ môi trường được quy định tại nghị định số 57/2002/NĐ – CP ngày 03/06/2002 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí quy định thành 6 loại sau: - Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. - Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các nguyên liệu khác. - Phí bảo vệ môi trường với chất thải rắn. - Phí bảo vệ môi trường tiếng ồn. - Phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ môi trường với việc khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoáng sản khác. Như vậy, phí bảo vệ môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng có thể được hiểu là một khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi được hưởng một dịch vụ về môi trường. Phí môi trường nhằm hai mục đích chủ yếu: Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách chung của Chính phủ như các nguồn thu thuế khác, còn nguồn thu từ phí môi trường sẽ được dành riêng để chi cho hoạt động bảo vệ môi trường, như để thu gom xử lý phế thải, nước thải, khắc phục ô nhiễm, hỗ trợ các nạn nhân của ô nhiễm… Có thể nói đây là một công cụ quản lý cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lý nhằm đạt được các mục tiêu môi trường. 1.2.3. Sự cần thiết của việc áp dụng phí nước thải Việc sử dụng phí nước thải là cần thiết và phù hợp với thực tế chung của thế giới cũng như tình hình phát triển kinh tế của nước ta trong những năm trở lại đây. Xuất phát từ thực tế cuộc sống của con người gắn liền với môi trường tự nhiên mà trong quá trình phát triển kinh tế hiện nay đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng tới những khu vực có người dân sống quanh khu vực ô nhiễm. Kinh nghiệm trên thực tế của các nước trên thế giới cho thấy việc nhà nước dùng các công cụ kinh tế mà cụ thể ở đây là phí nước thải là một biện pháp hữu hiệu trong việc bảo vệ môi trường. Những nước này đã thu được nhiều thành công cải thiện môi trường hiện tại, bảo vệ môi trường hiện có. Còn với nước ta, phí bảo vệ môi trường có mục đích khuyến khích các nhà sản xuất, kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô nhiễm theo hướng tích cực cho môi trường, có lợi cho môi trường. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư khắc phục cải thiện môi trường. Với mục đích này, phí bảo vệ môi trường là công cụ kinh tế được xây dựng theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm môi trường và cải thiện môi trường” và ai hưởng lợi từ việc môi trường trong lành phải đóng phí khắc phục ô nhiễm. 1.3. Cơ sở kinh tế của phí nước thải 1.3.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP) Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền bắt nguồn từ các sáng kiến do tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974. PPP “tiêu chuẩn” 1972 cho rằng, những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP “mở rộng” năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thì ngoài việc phải tuân thủ các chi phí tiêu chuẩn đối với việc gây ô nhiễm, còn phải bổi thường cho những người bị thiệt hại do ô nhiễm gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ra ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho môi trường ở trong trạng thái có thể chấp nhận được. Nguyên tắc PPP xuất phát từ những luận điểm của Pigou về nền kinh tế phúc lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất đối với một nền kinh tế lý tưởng là giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể cả các chi phí môi trường (bao gồm các chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài nguyên cũng như những dạng ảnh hưởng khác của môi trường). Giá cả phải “nói lên sự thật” về những chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Nếu không, sẽ dẫn đến việc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm trở nên trầm trọng hơn so với mức tối ưu đối với xã hội. Việc buộc những người gây ô nhiễm trả tiền là một trong những cách tốt nhất để làm giảm bớt các tác động của ngoại ứng gây ra làm thất bại thị trường. 1.3.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền (BPP) Nguyên tắc này chủ trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường. Đối nghịch với việc người trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người được hưởng một môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Nguyên tắc BPP đưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường với một cách nhìn nhận riêng. Thay vì PPP, nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được hỗ trợ từ phía những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho các chất thải gây ô nhiễm môi trường. Thực hiện nguyên tắc BPP cũng sẽ tạo ra một khoản thu nhập đáng kể. Mức phí tính theo đầu người càng cao và càng có nhiều người nộp phí, thì số thu được càng nhiều. Số tiền thu được theo nguyên tắc BPP có thể do các cá nhân muốn bảo vệ môi trường, hoặc do những cá nhân không phải trả tiền cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm trong giá thành sản phẩm nộp. Tuy nhiên, vì tiền không phải do các công ty gây ô nhiễm trực tiếp trả, nên nguyên tắc BPP không tạo ra một sự khuyến khích nào đối với việc bảo vệ môi trường trực tiếp. Về thực chất, nguyên tắc BPP có thể được sử dụng như là một định hướng hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu bảo vệ môi trường, cho dù đó là mục tiêu bảo vệ hay là phục hồi môi trường. Nếu mức phí có thể được thu đủ để dành cho các mục tiêu môi trường, thì lúc đó chính sách này có thể được coi là chính sách có hiệu quả về môi trường. Đích hướng tới của BPP là nhằm bảo vệ môi trường, nên có thể coi là nó được công chúng ủng hộ rộng rãi. Xét về mặt hiệu quả kinh tế, thì nguyên tắc BPP là nguyên tắc có tính phù hợp cao, vì rằng hiệu quả kinh tế chỉ có thể đạt được, nếu các nguồn lợi được sử dụng ở mức tối ưu. Do vậy, hiệu quả kinh tế có thể đạt được, nếu việc xác định mức phí, lệ phí môi trường đưa ra ở mức tối ưu và khoản phí, lệ phí thu được chủ yếu phục vụ cho các biện pháp cụ thể có liên quan đến bảo vệ môi trường. Nếu xét theo tính công bằng kinh tế, thì nguyên tắc BPP không đáp ứng được, bởi lẽ tính công bằng kinh tế đòi hỏi mọi người phải trả đầy đủ chi phí cho hàng hóa dịch vụ mà họ sử dụng. Vì các công ty có thể sử dụng nguồn lợi môi trường để sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ mà họ không phải trả tiền, và ngược lại người khác phải chịu chi phí đó. Như vậy là họ đã không trả đủ chi phí cho hàng hóa và dịch vụ mà họ tiêu thụ trên thị trường. 1.4. Đối tượng chịu phí và nguyên tắc xác định phí nước thải 1.4.1. Đối tượng chịu phí nước thải Theo nghị định 67/2003 NĐ - CP ngày 13 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ và Thông tư 125/2003/ TTLT – BTC – BTNMT hướng dẫn thi hành nghị định 67; nghị định 04/2007/ NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là nước thải công nghiệp và nước thải sinh hoạt. Nước thải công nghiệp là nước thải ra môi trường từ: -Cơ sở sản xuất công nghiệp; - Cơ sở chế biến thực phẩm, nông sản, lâm sản, thủy sản; cơ sở hoạt động giết mổ gia súc; - Cơ sở sản xuất rượu, bia, nước giải khát; cơ sở thuộc da, tái chế da; - Cơ sở sản xuất thủ công nghiệp trong các làng nghề; - Cơ sở chăn nuôi công nghiệp tập trung; - Cơ sở cơ khí, sữa chữa ô tô, xe máy tập trung; - Cơ sở khai thác, chế biến khoáng sản; - Cơ sở nuôi tôm công nghiệp; cơ sở sản xuất và ươm tôm giống; - Nhà máy cấp nước sạch; hệ thống xử lý nước thải tập trung. Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ: - Hộ gia đình; - Cơ quan nhà nước; - Đơn vị vũ trang nhân dân; - Trụ sở điều hành, chi nhánh, văn phòng của các tổ chức, cá nhân; - Các cơ sở rửa ô tô, xe máy; - Bệnh viện, phòng khám chữa bệnh; nhà hàng, khách sạn; cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác; 1.4.2. Nguyên tắc xác định phí nước thải Theo nghị định 67/2003/NĐ- CP của Chính phủ ban hành việc thu phí nước thải và thông tư 125/2003/TTLT – BTNMT hướng dẫn thi hành nghị định 67, thông tư này quy định rõ đối tượng phải chịu phí bảo vệ môi trường với nước thải và cách tính phí. 1.4.2.1. Nguyên tắc xác định phí nước thải công nghiệp Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp được tính cho từng chất gây ô nhiễm theo công thức sau: Số phí = Tổng lượng nước thải thải ra (m3) * Hàm lượng chất gây ô nhiễm có trong nước thải (mg/l) * 10-3 * Mức thu phí đối với nước thải ra môi trường (đ/kg) 1.4.2.2. Nguyên tắc xác định phí nước thải sinh hoạt - Số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được xác định: Số phí (đồng) = Lượng nước sử dụng * Giá bán (đồng/m3) * Tỷ lệ thu phí (%) + Trường hợp mức thu phí được quy định theo tỷ lệ phần trăm trên giá bán nước sạch: Qua các văn bản pháp luật có thể thấy phí nước thải nước ta được tính dựa vào các tiêu chí: + Tổng lượng thải + Hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước tính bằng mg/l. + Đặc tính các chất gây ô nhiễm. Mỗi chất gây ô nhiễm khác nhau có một mức phí tối đa và tối thiểu khác nhau, tùy theo mức độ độc hại của mỗi loại chất và được quy định tại nghị định 67. Các chất gây ô nhiễm chủ yếu được quy định trong luật là: BOD, COD, TSS, Hg, As, Cd. Bảng 1.2. Mức thu đối với các chất gây ô nhiễm có trong nước thải Stt Chất gây ô nhiễm trong nước thải Mức thu (đ/kg chất gây ô nhiễm có trong nước thải) Tên gọi Ký hiệu Môi trường tiếp nhận A Môi trường tiếp nhận B Môi trường tiếp nhận C Môi trường tiếp nhận D 1 Nhu cầu ô xy sinh hóa ABOD 300 250 200 100 2 Nhu cầu ô xy hóa học ACOD 300 250 200 100 3 Chất rắn lơ lửng ATSS 400 350 300 200 4 Thủy ngân AHg 20.000.000 18.000.000 15.000.000 10.000.000 5 Chì APb 500.000 450.000 400.000 300.000 6 Arsenic AAs 1.000.000 900.000 800.000 600.000 7 Cadmium ACd 1.000.000 900.000 800.000 600.000 Nguồn: Thông tư 125 Trong đó: Môi trường tiếp nhận nước thải loại A: Nội thành, nội thị của các đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III. Môi trường tiếp nhận nước thải loại B: Nội thành, nội thị của các đô thị loại IV, loại V và ngoại thành, ngoại thị của các đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III. Môi trường tiếp nhận nước thải loại C: Ngoại thành, ngoại thị của các đô thị loại IV và các xã không thuộc đô thị, trừ các xã thuộc môi trường tiếp nhận nước thải thuộc nhóm D. Môi trường tiếp nhận nước thải loại D: Các xã biên giới, miền núi, vùng cao, vùng sâu và vùng xa. Việc thực phí nước thải ở nhiều nước trên thế giới đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Do đó, việc thực thi phí nước thải với nước ta cũng có nhiều ảnh hưởng tác động đến môi trường nước mặt, cụ thể ở đây là nước mặt và môi trường sông Tô Lịch, giúp mọi người nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, Nhà nước và địa phương có thêm nguồn thu từ đó có đầu tư trở lại vào môi trường nhằm bảo vệ môi trường, kích thích các doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống xử lý nước thải hoặc đổi mới công nghệ nhằm làm giảm lượng ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường. Hiện nay, tổng lượng nước thải sinh hoạt của khu vực nội thành Hà Nội khoảng 500.000m3/ ngày đêm trong đó có khoảng 100.000m3/ ngày đêm là nước thải của các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, bệnh viện. Toàn bộ lượng nước thải này được tiêu thoát chủ yếu qua 4 con sông chính của thành phố: Sông Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ngưu và sông Lừ. Nước thải sinh hoạt phần lớn qua xử lý sơ bộ tại các bể tự hoại trước khi thải vào tuyến cống chung, kênh, mương, ao, hồ. Tuy nhiên các bể tự hoại này làm việc kém hiệu quả do xây dựng không đúng quy cách, không hút phân cặn thường xuyên nên hàm lượng chất bẩn trong nước cao, gây ảnh hưởng xấu trong chất lượng nước trong các kênh mương. Sông Tô Lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông tiêu thoát nước chính của thành phố Hà Nội. Qua đánh giá thực tế ban đầu bằng việc quan sát trực tiếp sông, có thể nói sông đang bị ô nhiễm nặng mùi dù mùa khô hay mùa mưa. Vào những ngày nóng bức mùi từ sông bốc lên gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, cũng như sản xuất của người dân hai bên bờ sông. Không những thế nó còn gây mất mỹ quan đô thị làm giảm hình ảnh thủ đô cũng như môi trường của thành phố. Tuy nhiên với việc áp dụng phí nước thải với các cơ sở sản xuất và các hộ gia đình, sẽ có những tác động tích cực tới môi trường. Phí nước thải có thể buộc các doanh nghiệp phải làm giảm lượng gây ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường. Với nguồn thu từ phí nước thải, chính phủ có thể đầu tư trở lại môi trường thực hiện các công việc khảo sát đo đạc, lập báo cáo, thực hiện các công việc quản lý cũng như các công trình về môi trường, khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cũng như xây dựng hệ thống xử lý nước thải, đổi mới công nghệ. Song vấn đề đặt ra trong giai đoạn đầu của chương trình là thu phí ô nhiễm đối với nước thải là có thể xác định phí nói trên tất cả các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ở Hà Nội hay không? 1.5. Kinh nghiệm tổ chức thu phí nước thải công nghiệp 1.5.1. Kinh nghiệm của địa phương ở Việt Nam(Thành phố Hồ Chí Minh) Nghị định 67 có hiệu lực từ tháng 1/2004 nhưng đến tháng 7/2004 UBND thành phố Hồ Chí Minh mới ban hành quyết định thực hiện và phải đến tháng 12/2004 việc thu phí mới thực sự bắt đầu. Phòng tài vụ của Chi cục Bảo vệ môi trường thuộc Sở Tài nguyên & Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm triển khai quá trình thu phí nước thải công nghiệp. Đầu tiên sẽ tiến hành phát phiếu kê khai nộp phí cho các doanh nghiệp. Sau đó doanh nghiệp sẽ tự khai báo lượng nước thải và thành phần nước thải. Và việc kê khai cho phép sai số đến 30%. Do cán bộ chuyên trách về môi trường còn mỏng và kinh phí hạn hẹp nên Sở không thể tiến hành thẩm định lại được hết hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên Sở căn cứ vào phiếu kê khai này định ra mức phí phải nộp hàng quý cho doanh nghiệp. Chỉ kiểm tra việc khai báo nếu có nghi ngờ. Sau đây là một số kết quả thu phí nước thải công nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến hết tháng 6 năm 2005 thì: Số doanh nghiệp dự kiến phải nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp là 6000 đơn vị. Số doanh nghiệp đã đăng ký nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp: 1.689 đơn vị. Số doanh nghiệp đã được thẩm định và thông báo nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp: 1.537 đơn vị. Số doanh nghiệp đã nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp: 827 đơn vị Bảng 1.3: Bảng thống kê kết quả thu phí nước thải công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 12/2004 đến tháng 6/2005. Số lượng doanh nghiệp Tổng số phí bảo vệ môi trường thu được Tỷ lệ % Doanh nghiệp đã kê khai 1689/6000 3.262.726.115 28.15 Doanh nghiệp đã được thẩm định và thông báo nộp phí 1537 3.433.310.178 25.61 Doanh nghiệp đã nộp phí 827 2.426.927.494 13.78 (Nguồn: vietnamnet.vn) Như vậy, sau hơn một năm thực hiện nghị định tỷ lệ thu phí nước thải công nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ thu được hơn 2 tỷ chỉ đạt 13.78%. Nhiều doanh nghiệp không chịu kê khai và các doanh nghiệp đã được thông báo nộp phí nhưng không nộp chiếm khoảng 53.8% trong tổng số doanh nghiệp đã được thẩm định và thông báo nộp phí. Hiệu quả đạt được là rất thấp. Đến hết năm 2006 thành phố mới chỉ thu được hơn 6.5 tỷ đồng, nhưng năm 2008 thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu cả nước thực hiện tốt công tác thu phí đạt 23 tỷ đồng. Sở đang đề nghị tăng mức phí đối với nước thải công nghiệp vì mức phí hiện nay quá thấp chỉ khoảng 200 – 300 đồng/m2. Tổng số phí thu được không đủ để giải quyết những vấn đề ô nhiễm từ nước thải công nghiệp của thành phố và nó không mang tính chất răn đe trong vấn đề bảo vệ môi trường. 1.5.2. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới Từ những năm 70, công cụ phí mới chỉ được áp dụng trong một số ít nước có nền kinh tế phát triển hơn như các nước thuộc nhóm OECD, các nước công nghiệp mới NIC, Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc với hạn vi còn hạn chế trong một số ngành hoặc lĩnh vực. Phí nước thải công nghiệp đã được sử dụng thành công ở một số nước: 1.5.2.1. Trung Quốc Một số quốc gia điển hình là Trung Quốc, có xuất phát điểm giống với Việt Nam, nhưng họ đã có một hệ thống phí phạt do vi phạm tiêu chuẩn môi trường. Hệ thống này bao gồm hơn 100 mức đánh phí vào các nguồn gây ô nhiễm môi trường với nước thải, khí thải, phế thải, tiếng ồn và các loại khác. Lệ phí từ ô nhiễm nước chiếm 70% tổng lệ phí thu được. Lệ phí này được tình từ năm 1979 bằng việc thử nghiệm ở thành phố Suzhan. Kết quả là đã làm giảm tới 60,4% tổng lượng chất gây ô nhiễm thải ra trong giai đoạn 1979 – 1986. Lệ phí được quy định theo nguyên tắc sau: + Lệ phí cao hơn một chút so với chi phí vận hành thiết bị + Lệ phí thay đổi theo số lượng, nồng độ và loại chất gây ô nhiễm được thải ra. + Lệ phí ô nhiễm áp dụng cho việc xả thải nước thải công nghiệp đối với chất gây ô nhiễm nhất định nào đó được tính bằng cách nhân với lượng nồng độ chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn 1.5.2.2. Hàn Quốc Phí nước thải đánh vào nguồn gây ô nhiễm được Hàn Quốc áp dụng từ những năm 1983. Ban đầu phí được áp dụng dưới dạng phạt do không thực hiện đúng cam kết. Cơ quan môi trường (hiện nay là Bộ Môi Trường của Hàn Quốc) được quyền phạt tiền các cơ sở gây ô nhiễm nếu như vi phạm tiêu chuẩn môi trường và sau đó yêu cầu phải có biện pháp xử lý nếu vẫn tiếp tục thải vượt tiêu chuẩn cho phép. Từ năm 1986 biện pháp này đã được thay đổi bằng thu phí với phần thải vượt tiêu chuẩn. Mức phí được xác định dựa trên cơ sở nồng độ chất gây ô nhiễm, vị trí thải ô nhiễm, thời gian vượt tiêu chuẩn cho phép và tùy vào số lần vi phạm tiêu chuẩn. Nhưng sau một thời gian thực hiện biện pháp này đã bộc lộ một số nhược điểm như: Xuất phí đặt ra quá thấp, trong một số trường hợp thấp hơn cả chi phí vận hành và mua các thiết bị xử lý ô nhiễm nên không có tác dụng khuyến khích giảm ô nhiễm. Việc chỉ dựa vào nồng độ chất gây ô nhiễm để tính phí có thể không buộc các cơ sở sản xuất kinh doanh giảm lượng ô nhiễm thải ra môi trường bởi vì họ cố tình lẩn tránh bằng cách pha loãng nồng độ chất thải trong khi đó lượng chất._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31607.doc
Tài liệu liên quan