Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam

Lời mở đầu Ngành Cà phê là một ngành kinh tế mũi nhọn với Việt nam hiện nay là ngành phát huy được lợi thế so sánh của Việt nam để tham gia vào thương mại quốc tế hiệu quả đem lại nguồn thu ngoại tệ to lớn và giải quyết được việc làm cho hàng triệu lao động với thu nhập cao, góp phần cải thiện môi trường sinh thái. Phủ xanh đất trống đồi trọc, xoá bỏ nạn trồng cây thuốc phiện, khắc phục nạn du canh, du cư của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Tây nguyên và vùng trung du miền núi phía Bắc. Đảng v

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à Nhà nước ta còn xác định ngành xuất khẩu cà phê là ngành mang tính chiến lượcphục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và cơ cấu kinh tế quốc dân. Xoá bỏ dân tính độc canh cây lúa. Nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước mà cây cà phê nhanh chóng trở thành mặt hàng nông sản xuất khẩu thứ 2 sau gạo. Trong thời gian vừa qua ngành cà phê Việt nam đã gặt hái được nhiều thành công trên thị trường thế giới Việt nam trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trế giới sau Brazin. Uy tín của ngành cà phê Việt nam trở thành thành viên của tổ chức cà phê thế giới (ICO) và nhiều lần được Hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê (ACPC) đề nghị ra nhập. Bên cạnh những thành tựu to lớn như ngành xuất khẩu cà phê đã dành được trong thời gian vừa qua ngành cà phê Việt nam còn rất nhiều hạn chế như chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt nam còn kém, bộ máy tổ chức xuất khẩu cà phê Việt nam hoạt động chưa hiệu quả, ngành cà phê Việt nam còn đang ở tình trạng tự phát trong sản xuất, rối loạn trong xuất khẩu chưa có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhành giữa các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu các chính sách khuyến khích của Chính phủ chưa phát huy được tác dụng vốn thiếu nguyên trọng công nghệ sản xuất cũ kỹ, lạc hậu, ảnh hưởng của ngành cà phê Việt nam tới thị trường cà phê thế giới còn yếu. Tình hình giá cà phê trên thị trường thế giới biến động phức tạp ta luôn luôn thụ động trước sự biến động đó… tất cả các yếu tố này dẫn đến ngành cà phê xuất khẩu của Việt Nam hoạt động trong thời gian vừa qua chưa có hiệu quả. Nhận thức rõ vai trò to lớn của ngành xuất khẩu cà phê đối với Việt nam và nhất là giai đoạn đầu của thời kỳ đảy mạnh CNH - HĐH đất nước. thông qua quá trình thực tập tại Vụ kế hoạch thống kê Bộ Thương mại và quá trình tìm hiểu thông tin về tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt nam thơì gian qua tại Vụ và Trung tâm tư liệu thư viện, đồng thời kết hợp các kiến thức đã được trang bị tại trường em đã quyết định chọn đề tài: "Các phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt nam tới năm 2005". Mục đích của chuyên đề thực tập này là tổng hợp lại bức tranh toàn cảnh về tình hình sau xuất, chế biến và xuất khẩu của ngành cà phê Việt nam trong thời gian qua. Qua đó phân tích những thành tựu và những mặt hạn chế của ngành Xuất khẩu Cà phê Việt nam. Đồng thời qua dự báo về tình hình biến động cung cầu giá cả Cà phê trên thị trường thế giới kết hợp với quan điểm chú trọng của Đảng trong việc pháthị trường riển ngành xuất khẩu Cà phê . Để tìm ra định hướng đúng đắn cho ngành cà phê Việt nam trong thời gian tới và quá độ đề xuất một giải pháp để giải quyết những khó khăn hạn chế đang còn tồn tại với ngành cà phê Xuất khẩu Việt nam. Kết cấu của chuyên đề chia làm 3 chương . Chương I. Các vấn đề lý luận về sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng . Chương II: Thực trạng xuất khẩu Cà phê Việt nam trong thời gian qua. Chương III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt Nam từ nay đến năm 2005. Chương I Các vấn đề lý luận về sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu cà phê nói riêng I. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu. 1. Khái niệm về hoạt động ngoại thương. Ngoại thương là một bộ phận quan trọng trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, phản ánh mối quan hệ kinh tế của một quốc gia (bao gồm toàn bộ các quan hệ kinh tế của các thành viên thuộc quốc gia đó) với phần còn lại của thế giới trong quan hệ trong đổi hàng hoá. Hoạt động ngoại thương có một quá trình lịch sử phát triển của nó từ đơn giản đến phức tạp cùng với sự phát triển của văn minh loài người. Hình thức sơ khai của hoạt động ngoại thương là trao đổi hiện vật, mang tính ngẫu nhiên ngày nay hoạt động ngoại thương lấy tiền tệ làm môi giới trung gian, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá. Hoạt động ngoại thương là hoạt động mang tính khách quan vì nó bị chi phối bởi xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Theo xu hướng này mọi quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Mức độ phụ thuộc ngày càng chặt chẽ cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Không một quốc gia nào tồn tại độc lập, riêng rẽ vì không một quốc gia nào có đủ nguồn lực để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước buộc các nước phải hội nhập, mở cửa với bên ngoài. Hoạt động ngoại thương làm tăng khả năng thương mại của một quốc gia. Phân bố lực lượng sản xuất giữa các quốc gia có sự khác nhau. Các quốc gia có lợi thế về lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn, trình độ khoa học công nghệ … khác nhau. Chính sự khác nhau dẫn đến có một sự chênh lệch lớn về chi phí sản xuất để sản xuất ra các hàng hoá, các sản phẩm. Hoạt động ngoại thương giúp cho các nước hợp tác chặt chẽ với nhau trong sản xuất. Chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi quốc tế, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động trong từng quốc gia, làm cho hai bên cùng có lợi. Mặt khác, ngoại thương làm mở rộng thị trường, phát triển thị hiếu của nhân dân thông qua việc trao đổi sản phẩm giữa các nước trên thế giới. Như vậy hoạt động ngoại thương là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia, lấy tiền tệ làm môi giới theo nguyên tắc ngang giá, được thực hiện thông qua hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Trong đó hoạt động xuất khẩu được hiểu là việc mang hàng hoá và dịch vụ bán ra nước ngoài để thu được tiền hoặc hàng hoá, dịch vụ về. Còn nhập khẩu được hiểu là việc mang những hàng hoá và dịch vụ mua từ nước ngoài về được trả bằng tiền hay hàng hoá, dịch vụ trong nước. So với các hoạt động trao đổi kinh doanh bằng hàng hoá và dịch vụ trong nước thì hoạt động ngoại thương có đặc điểm khác biệt là: - Thứ nhất: Hoạt động ngoại thương là hoạt động buôn bán vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, hàng hoá được vận chuyển sang quốc gia khác khi có nhu cầu mua bán. Mọi hoạt động mua bán này được kiểm soát bởi các đơn vị hải quan, cửa khẩu của các quốc gia có tham gia vào hoạt động ngoại thương. - Thứ hai: Đối tượng tham gia hoạt động ngoại thương bao gồm các cá nhân, các tổ chức, các đơn vị có quốc tịch khác nhau. - Thứ ba: Đồng tiền trong quan hệ thanh toán trong hoạt động ngoại thương là tiền tệ của 1 bên tham gia hoặc của cả hai bên. 2. Cơ sở lý luận của hoạt động ngoại thương. Hoạt động ngoại thương là hoạt động mang tính tất yếu khách quan vì các nước tham gia vào hoạt động ngoại thương đều có lợi. Ngoại thương đã trở thành nhân tố của tăng trưởng kinh tế đối với các bên tham gia. Vậy vì sao các nước tham gia vào hoạt động ngoại thương lại có lợi, các lý thuyết sau sẽ giải thích rõ về vấn đề này. 2.1. Lợi thế tuyệt đối của A.Smith Theo A.Smith một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá sử dụng tốt nhất tài nguyên của nước mình. Đây là cách giải thích đơn giản nhất về lợi ích của ngoại thương. Lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương là lợi ích thu được do sự chênh lệch về chi phí sản xuất giữa các quốc gia sản xuất cùng một loại sản phẩm nào đó. Khi đó nước sản xuất có chi phí cao sẽ nhập khẩu sản phẩm đó từ nước có chi phí thấp hơn. Như vậy bản chất của lợi thế tuyệt đối được xét từ hai phía. Đối với nước bán sản phẩm có chi phí thấp hơn sẽ có lợi nhuận cao hơn khi bán trên thị trường quốc tế. Còn đối với nước có chi phí sản xuất sản phẩm có chi phí cao sẽ được sản phẩm mà trong nước không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất không đem lại lợi nhuận. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối vẫn có ý nghĩa quan trọng với các nước đang phát triển. Do thiếu vốn đầu tư phát triển, trình độ khoa học công nghệ thấp nên chi phí sản xuất các tư liệu sản xuất như máy móc, thiết bị cao. Các nước đang phát triển phải nhập khẩu các tư liệu sản xuất này từ các nước phát triển. Đồng thời xuất khẩu các hàng hoá mà họ có ưu thế về nguồn lao động, từ nguyên liệu thiên nhiên … để sản xuất ra chúng. 2.2. Lợi thế tuyệt đối của D.Ricardo Hạn chế của lý thuyết tuyệt đối của A.Smith là chỉ giải thích được vai trò của ngoại thương trong trường hợp một nước có lợi thế trong sản xuất sản phẩm, hàng hoá này nhưng không lợi thế bằng nước khác trong việc sản xuất một sản phẩm khác. Còn trường hợp khác một nước có lợi thế hơn nước khác trong sản xuất tất cả các sản phẩm hàng hoá đều có thể tham gia trao đôỉ và đều được lợi thì không giải thích được. Kế thừa đồng thời khắc phục những hạn chế trên của A.Smith, D.Ricardo đã cho ra đời lý thuyết lợi thế tương đối. Nguyên tắc cơ bản để có lợi thế tương đối chính là việc thực hiện cách mạng hoá sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm có chi phí sản xuất tương đối thấp hơn so với các nước khác. Lợi thế tương đối chứng minh rằng bất kỳ nước nào cũng có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tăng thu nhập. Sau đây là ví dụ chứng minh rằng các nước sẽ thu được lợi từ hoạt động thương mại bằng sự cách mạng hoá trong sản xuất và xuất khẩu. Giả sử ta có số liệu sau về chi phí sản xuất ra vải và cà phê của hai nước Việt Nam và Nhật Bản tính bằng ngày công lao động: Sản phẩm Chi phí sản xuất (ngày công lao động) Việt Nam Nhật Bản Vải (tấn) 10 8 Cà phê (tấn) 8 5 Như vậy, néu xét về chi phí sản xuất thì hao phí lao động của Việt Nam cao hơn của Nhật Bản trong cả hai mặt hàng. Do đó theo lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nào sang Nhật Bản. Nhưng theo quan điểm lợi thế tương đối của D.Ricardo, ta tính chi phí cơ hội sản xuất của từng sản phẩm cà phê và thép của Nhật Bản và Việt Nam như ở bảng sau: Quốc gia Chi phí cơ hội Việt Nam Nhật Bản Vải 5/4 cà phê 8/5 cà phê Cà phê 4.5 vải 5/8 vải Theo bảng trên: Để sản xuất ra 1 tấn vải Việt Nam bị bỏ đi cơ hội sản xuất ra 5/4 tấn cà phê ngược lại để sản xuất được 1 tấn cà phê Việt Nam phải dừng sản xuất 4/5 tấn vải. Về phía Nhật Bản để sản xuất ra 1 tấn vải chi phí cơ hội là 8/5 tấn cà phê và sản xuất 1 tấn cà phê chi phí cơ hội là 5/8 tấn vải. Vậy cùng sản xuất 1 tấn vải Nhật Bản phải dừng sản xuất 8/5 tấn cà phê Việt Nam mất 5/4 tấn cà phê suy ra chi phí cơ hội sản xuất 1 tấn vải của Việt Nam (8/5 - 5/4). Vậy Nhật Bản sẽ chuyên môn hoá và xuất khẩu cà phê. Việt Nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất vải. Tỷ lệ trao đổi quốc tế là: 5 < Vải < 8 4 Cà phê 5 Giả sử tỷ lệ trao đổi quốc tế chính xác là Vải < 7 Cà phê 5 Khi Việt Nam sản xuất và xuất khẩu 1 tấn vải thì tỷ lệ trao đổi trong nước là: Vải < 5 Cà phê 4 Vậy mỗi tấn vải xuất khẩu của Việt Nam được lãi là 4 - 5 = 3 (tấn Cà phê) 5 4 20 Ngược lại đối với Nhật Bản mỗi tấn cà phê xuất khẩu của họ được lãi là: 5 - 5 = 5 (Tấn vải) 7 8 56 Vậy nếu mỗi nước sản xuất và xuất khẩu 5 tấn sản phẩm thì 5 tấn sản phẩm vải xuất khẩu của Việt Nam được lãi là: 5 x 3 = 3 (Tấn cà phê) 20 4 Và 5 tấn sản phẩm cà phê của Nhật Bản xuất khẩu được lãi: 5 x 5 = 25 (Tấn vải) 56 56 Bây giờ ta tiếp tục xét sự gia tăng về năng lực sản xuất của mỗi quốc gia khi tham gia thương mại quốc tế. Giả sử quỹ thời gian sản xuất của mỗi nước là 80 ngày công ta có hàm năng lực sản xuất như sau: 2.3. Lý thuyết của Heakscher - Ohlin về lợi thế tương đối. * Các giả thiết của Heakscher - Ohlin: - Thế giới chỉ có 2 quốc gia chỉ có 2 loại hàng hoá và chỉ có 2 yếu tố là lao động và tư bản. - Hai quốc gia sử dụng công nghệ sản xuất hàng hoá giống nhau và thị hiếu của các dân tộc như nhau. - Hàng hoá này chưa nhiều lao động, hàng hoá chưa nhiều tư bản. - Tỷ lệ giữa đầu tư và sản lượng của 2 loại hàng hoá trong 2 quốc gia là một hằng số: cả hai quốc gia đều chuyên môn hoá sản xuất ở mức không hoàn hảo. - Cạnh tranh hoàn hảo trong thị trường hàng hoá và thị trường các yếu tố đầu vào ở cả hai quốc gia. - Các yếu tố đầu vào di chuyển tự do trong phạm vi quốc gia nhưng bị cản trở trong phạm vi quốc tế. - Không có chi phí vận tải, không có hàng rào thuế quan và các trở ngại khác trong thương mại giữa 2 nước. * Nội dung về lợi thế tương đối. Nếu: Giá tư bản của quốc gia I > Giá thuê tư bản của quốc gia II Tiền lương của quốc gia I Tiền lương của quốc gia II Thì ta coi quốc gia I có sẵn tư bản hơn quốc gia II và quốc gia II có lợi thế về lao động hơn so với quốc gia I. Ta lấy một ví dụ làm cơ sở như sau: Việt Nam là quốc gia yếu, kém tư bản hơn so với Đài Loan nhưng sẵn có lao động hơn Đài Loan vì vậy khi có hoạt động ngoại thương giữa 2 nước Việt Nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xã hội những hàng hoá và dịch vụ cần nhiều lao động để sản xuất ra chung hơn là cần tư bản (sản xuất vải). Còn Đài Loan sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ cần nhiều tư bản hơn là lao động (sản xuất thép) Nếu chọn phương án chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu như trên giữa 2 nước thì cả 2 nước sẽ được lợi. Đường giới hạn khả năng sản xuất của 2 nước với mặt hàng vải và thép như sau: Nếu quy mô sản xuất là 5 tấn Thép Thép Thép Việt Nam 0 0 Vải Vải Đài Loan 3.1. Lý thuyết về đầu tư. Có nhiều nguyên nhân khiến cho một Công ty thâm nhập ra nước ngoài như khai thác lợi thế về tính không hoàn hảo của các thị trường thâm nhập khi lợi thế cạnh tranh của nó lớn hơn chi phí, do uy tín về nhãn hiệu sản phẩm, lợi thế quy mô, dễ tiếp cận thị trường, phản ứng cạnh tranh với các hoạt động chi phối ngành công nghiệp hoặc bình quân hoá các lợi thế tương đối hoặc do nhu cầu mở rộng thị trường hoặc khai thác các lợi thế công nghệ, nguồn nguyên liệu sẵn có ở các cơ sở sản xuất khác. Các nguyên nhân bên ngoài khiến một Công ty quyết định thâm nhập ra nước ngoài là: Các hoạt động cạnh tranh, yêu cầu của khách hàng hoặc các chính sách của Chính phủ. 3.2. Lý thuyết chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm Sản lượng Suy giảm triệt tiêu Phát triển Chín muồi bão hoà Đổi mới 0 Mô hình này chứng minh về động cơ buôn bán giữa các nước. Mô hình trên cho biết giữa 4 giai đoạn phát triển quan hệ trao đổi một hàng hoá nào đó của một nước với các nước khác giai đoạn đổi mới, giai đoạn phát triển, giai đoạn chín muồi, giai đoạn suy giảm và triệt tiêu. 4. Vai trò của ngoại thương đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế 4.1. Tác động của ngoại thương đến tăng trưởng và phát triển kinh tế Ngoại thương là một nhân tố của tăng trưởng và phát triển kinh tế vĩ mô, là một nhân tố cấu thành nên tổng cầu theo công thức: AD = C + G + I + NX NX = EX - IM Đây là nhân tố ngoại thương phải xuất khẩu rộng của một nước được rút ra từ "cán cân thanh toán quốc tế" trong tài khoản "Cán cân xuất khẩu" của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định. Tác động của ngoại thương đến tăng trưởng kinh tế thể hiện trong mô hình tổng cung - tổng cầu sau: PL1 PL0 PL2 AD2 AD0 AD1 0 AD = C + G + I + NX AD: Tổng cầu của nền kinh tế AS: Tổng cung EX: Kim ngạch xuất khẩu IM: Kim ngạch nhập khẩu C: Tiêu dùng của dân cư G: Chi tiêu của chính phủ I: Tổng đầu tư xã hội PL: Mức giá chung Y: Sản lượng Nếu NX tăng làm cho tổng cầu chuyển từ AD0 đến AD1 dẫn đến sản lượng tăng từ Y0 đến Y1 Nếu NX giảm làm cho tổng cầu dịch chuyển xuống phía dưới từ AD0 đến AD2 sản lượng sẽ giảm từ Y0 đến Y2 4.2. Giữ vai trò của xuất khẩu đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. 4.2.1. Khái niệm xuất khẩu: Xuất khẩu là hoạt động bán những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nước ra nước ngoài trên cơ sở lấy tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền sử dụng để thanh toán là ngoại tệ đối với một quốc gia hay đối với cả hai quốc gia. Kết quả của hoạt động xuất khẩu là làm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nước xuất khẩu và thay đổi cán cân thanh toán quốc tế theo hướng cơ lợi. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn hoạt động mua bán trong nước vì hàng hoá được vận chuyển ra ngoài biên giới quốc gia xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu vô cùng rộng lớn. Đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh. Các quốc gia tham gia đều phát triển theo các thông lệ quốc tế. Từ đó hoạt động liên quan đến xuất khẩu thường được tổ chức một cách chặt chẽ trong khu chế xuất. 4.2.2. Vai trò của xuất khẩu với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất khẩu có vai trò lo lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, vì hoạt động xuất khẩu làm tăng nguồn thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống cho nhân dân. 4.2.2.1. Xuất khẩu trực tiếp cải thiện cán cân thương mại quốc tế, cán cân thanh toán quốc tế và yếu tố tạo nên tăng trưởng kinh tế. Như phân tích ở mục 4.1 ta có: NX = EX - IM NX: là cán cân thương mại quốc tế. EX: là kim ngạch xuất khẩu Nếu EC tăng dẫn đến NX tăng dẫn đến sản lượng tăng. Mặt khác khi xuất khẩu tăng làm cho nguồn ngoại tệ chảy vào trong nước tăng dẫn đến làm cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. 4.2.2.2. Xuất khẩu làm tăng tích luỹ phát triển sản xuất và tạo nguồn cho nhập khẩu. Như đã phân tích ở trên xuất khẩu là yếu tố của tăng trưởng kinh tế nếu tăng xuất khẩu làm cho sản lượng quốc dân tăng do đó làm tăng tích luỹ trong nước cho sản xuất. Theo xu hướng quốc tế hoá nếu kinh tế thế giới các quốc gia trên thế giới lệ thuộc chặt chẽ vào nhau. Không một quốc gia nào tồn tại một cách độc lập riêng rẽ. Các nước phải trao đổi hàng hoá lẫn nhau, không một quốc gia nào có đủ nguồn lực để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng buộc phải nhập khẩu từ nước ngoài. Việc nhập khẩu lấy từ các nguồn vốn như: vốn vay, viện trợ, đầu tư từ nước ngoài và tích luỹ từ xuất khẩu. Nguồn vốn tích luỹ từ xuất khẩu đóng góp đáng kể vì vốn tích lũy từ xuất khẩu dùng cho nhập khẩu không gây ra những ảnh hưởng xấu. Nếu dùng vốn vay để nhập khẩu làm cho nợ nước ngoài tăng. Nguồn viện trợ có hạn, tăng nhập khẩu nhất là nhập khẩu tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất. Như vậy nguồn tích luỹ từ xuất khẩu đã tác động gián tiếp vào tích luỹ sản xuất. 4.2.2.3. Xuất khẩu làm tạo thêm việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động. Sản phẩm xuất khẩu được tổ chức sản xuất và tiêu thụ chặt chẽ. Công đoạn sản xuất nhiều và phức tạp cần nhiều lao động với trình độ tay nghề khác nhau tạo ra công ăn việc làm nhiều với thu nhập cao, không ngừng cải thiện đời sống người lao động, tăng thu nhập quốc dân. Không những thế việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu còn góp phần làm mở rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sản xuất mới (như ngành bổ trợ, ngành phụ, cấp 1, cấp 2 …) thu hút lao động. Có thể nói những ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu mang tầm cỡ là những ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm, trong có cần các ngành sản xuất nó rất được quan tâm phát triển và có một hệ thống tổ chức rất quy mô, sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều ngành khác nhau. Do đó, ngoài việc làm tăng đáng kể thu nhập quốc dân nó còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội khác đặc biệt là lao động, việc làm, công bằng xã hội … 4.2.2.4. Xuất khẩu là một yếu tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi. Ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu được đánh giá là ngành có vị trí ngành mũi nhọn và ngành trọng điểm trong quy hoạch và kế hoạch phát triển hệ thống các ngành kinh tế. Vì việc lựa chọn ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu được phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống về nhu cầu thị trường thế giới và các điều kiện trong nước để sản xuất hàng hoá đó khiến cho ngành này được xem như là ngành có khả năng chi phối đối với sự phát triển của nhiều ngành kinh tế quốc dân. Theo định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và là ngành đang chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP về lâu dài vẫn có khă năng phát triển. Đồng thời những ngành này còn là ngành phát huy ưu thế đất nước, tham gia có hiệu quả trong phân công lao động quốc tế. Như vậy chỉ thông qua hoạt động xuất khẩu mà ta có thể nhận thức được ngành nào là ngành mũi nhọn, ngành trọng điểm thực sự phát huy được lợi thế so sánh của đất nước. Tham gia có hiệu quả vào phân công lao động thế giới thông qua nhu cầu thị trường thế giới, phân tích khả năng, nguồn lực trong nước từ đó đẩy mạnh phát triển có hệ thống các ngành theo đúng định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng với xu hướng hội nhập quốc tế. Xuất khẩu tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở: - Xuất khẩu phát triển tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển như các ngành bổ xung, ngành phụ trợ, các ngành khác có liên quan đến việc làm cơ sở cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu. - Xuất khẩu phát triển làm mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo cơ hội cho các ngành có lợi thế so sánh phát triển, tiếp cận các lĩnh vực sản xuất hiện đại, tiên tiến. - Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. 4.2.2.5. Xuất khẩu làm tăng quan hệ hợp tác và tham gia ngày càng tích cực hơn vào phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh. Nhờ có cạnh tranh thúc đẩy doanh nghiệp cải tiến công nghệ để có thể sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao, tạo ra năng lực sản xuất mới hơn nữa. Hoạt động xuất khẩu gắn liền với quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nước làm cho các nước có cơ hội giao lưu trao đổi hàng hoá, học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế, tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến … Đây là điều kiện tất yếu nâng cao uy tín và vị thế của mình trên trường quốc tế. 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động buôn bán rộng lớn nó có quan hệ với thị trường thế giới vì vậy nó chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố này có thể làm thúc đẩy hoặc hạn chế hoạt động xuất khẩu của một nước. Vì hoạt động xuất khẩu có vai trò rất to lớn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nên ta cần phải nghiên cứu các yếu tố này. 5.1. Các yếu tố văn hoá xã hội. Các yếu tố văn hoá xã hội sẽ tác động đến thị hiếu người tiêu dùng và do đó sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu hay sự yêu thích được tiêu dùng một loại hàng hoá nào đó. Chẳng hạn như một xu hướng mẫu thời trang nào đó mới ra đời làm cho nhu cầu tiêu thụ loại mẫu thời trang đó trên thị trường thế giới tăng lên. Như vậy các yếu tố văn hoá xã hội bao gồm: lối sống, phong tục tập quán, tôn giáo, ngôn ngữ, thị hiếu tiêu dùng … Từ phân tích trên ta thấy muốn tạo ra lợi thế cạnh tranh và vị thế của mình cần phải phân tích, nghiên cứu lại yếu tố văn hoá xã hội để tìm ra những xu hướng thay đổi của nhu cầu mới. 5.2. Các yếu tố về pháp luật. Mỗi quốc gia đều cơ những hệ thống pháp luật điều tiết hoạt động văn hoá - kinh tế - xã hội. Yếu tố pháp luật này cũng chi phối đến cả các hoạt động kinh tế quốc tế. Vì vậy khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ sang thị trường nào đó cần phải tìm hiểu các chính sách pháp luật của quốc gia mà mình định kinh doanh. Các yếu tố pháp luật ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu: - Quy định về giao dịch, về hợp đồng, về bảo hộ quyền tác giả, quyền bảo hộ trí tuệ … - Quy định về cạnh tranh, độc quyền. - Quy định về giá cả, các loại thuế đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu. - Quy định về vấn đề bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn chất lượng bao bì, tiêu chuẩn sức khoẻ, vệ sinh môi trường. - Quy định về quảng cáo và hướng dẫn sử dụng. - Quy định về vấn đề tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch. Như vậy, các yếu tố pháp luật có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu từ quốc gia này sang quốc gia khác. Nhưng nói chung pháp luật của một quốc gia cũng thay đổi cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội mỗi giai đoạn phát triển khác nhau. Pháp luật có những thay đổi khác nhau cho phù hợp với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội mới, phục vụ cho lợi ích quốc gia. Chẳng hạn nhu chính sách bảo hộ mậu dịch chặt chẽ sẽ áp dụng cho giai đoạn đầu để bảo vệ ngành sản xuất "non trẻ". Khi sự cạnh tranh khắc nghiệt từ bên ngoài, những chính sách bảo hộ mậu dịch sẽ giảm dần cùng với sự ngày càng trưởng thành của sản xuất trong nước. 5.3. Các yếu tố chính trị. Các yếu tố chính trị xem như là các quan hệ chính trị trong nước tại một quốc gia và tổng thể các quan hệ hợp tác và phát triển giữa quốc gia đó với các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác. Các quan hệ chính trị trong nước phản ánh mức độ thống nhất về lợi ích kinh tế chính trị xã hội của các tầng lớp dân cư trong nước hoặc mức độ xung đột giữa các tầng lớp dân cư. Nếu chính trị trong nước ổn định sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động buôn bán trao đổi giữa các quốc gia diễn ra thuận lợi hơn. Tăng cường hơn nữa mức độ hợp tác quốc tế và tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Trái lại nếu chính trị trong nước mất ổn định, mâu thuẫn dân tộc, xunh đột vũ trang giữa các tầng lớp dân cư sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế, kìm hãm phát triển khoa học kỹ thuật nền kinh tế xã hội hầu như bị co lại với bên ngoài. Quan hệ thương mại giữa 2 quốc gia thuận lợi hay khó khăn phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ chính trị giữa hai nước. 5.4. Các yếu tố kinh tế. Các yếu tố kinh tế tác động và hoạt động xuất khẩu thể hiện qua những lợi ích kinh tế và những thiệt hại kinh tế mà tổ chức xuất khẩu được hưởng hoặc phải gánh chịu. Điều này tác động đến giải quyết xuất khẩu của họ. Lợi ích và chi phí kinh tế của một tổ chức xuất khẩu được phân tích thông qua 2 phía: phía nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và có thể được xem xét trên 2 khía cạnh kinh tế và tài chính tuỳ theo cả kỳ vọng của tổ chức đó. Về phía nước xuất khẩu các yếu tố tạo ra môi trường cho nhà xuất khẩu gồm: - Chính sách tài chính: Chế độ thuế xuất nhập khẩu, các ưu đãi khác của chính phủ như trợ cấp … - Chính sách tiền tệ: Chính sách về lãi suất, chính sách tỷ giá hối đoái, mức cung đồng tiền … - Chính sách thu nhâp …. Những chính sách này có thể tạo ra nhiều cơ hội đầu tư hoặc không tạo ra cơ hội đầu tư có thể khuyến khích hoặc không khuyến khích nhà xuất khẩu. Đối với các nước nhập khẩu ngoài các yếu tố về chính sách nêu trên ta cần nhấn mạnh các chính sách về chế độ bảo hộ mậu dịch. Chế độ bảo hộ mậu dịch thay đổi theo một xu hướng ngày càng giảm dần. Vì nếu bảo hộ quá chặt chẽ sẽ gây ra những méo mó trong nền kinh tế. Nhà nước chỉ bảo hộ cho nền sản xuất trong nước ở giai đoạn đầu, khi còn non trẻ không đủ sức cạnh tranh với bên ngoài. Khi chế độ bảo hộ của một quốc gia còn chặt chẽ biểu hiện ở các công cụ như: - Thuế quan nhập khẩu cao. - Hạn ngạch nhập khẩu hạn chế. - Tiêu chuẩn kỹ thuật cao. Thì xâm nhập vào thị trường của quốc gia đó rất khó. Do các công cụ trên làm giảm lợi nhuận của nhà xuất khẩu hoặc bị hạn chế số lượng xuất khẩu. 5.5. Các yếu tố khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ phát triển làm cho các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn. Hợp tác quốc tế phát triển mạnh mẽ hơn. Kết quả là điều kiện xu hướng quốc tế hoà nền kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc trong đó chuyên môn hoá sản xuất được phát triển mạnh mẽ trong phạm vi quốc tế (khu vực và thế giới). Chuyên môn hoá để phát huy những yếu lợi thế so sánh. Tận dụng tối đa nguồn lực của từng nước vào sự phát triển cho từng quốc gia nói riêng và sự phát triển cho nhân loại nói chung. Chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong phạm vi quốc tế là yếu tố phát huy tối đa nguồn lực phạm vi quốc tế, từng quốc gia. Dưới tác động của khoa học công nghệ đó là xet về mặt vĩ mô khoa học công nghệ làm cho xuất khẩu hàng hoá phát triển biểu hiện ở chỗ: - Khoa học công nghệ phát triển làm cho các cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc giao dịch, mua bán giữa các quốc gia được thuận tiện, nhanh gọn như hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng, tài chính … phát triển rộng khắp phục vụ cho các hoạt động mua bán trao đổi. - Khoa học công nghệ tác động vào phương thức giao dịch mua bán hàng hoá, chào hàng. Chẳng hạn khi khoa học kỹ thuật còn lạc hậu hoạt động mua bán giữa các quốc gia thực hiện bằng cách người bán vận chuyển hàng hoá sang quốc gia khác trực tiếp bán sản phẩm khi khoa học công nghệ phát triển người ta chỉ dùng hoá đơn danh mục hàng hoá và dùng các phương tiện hiện đại khác để chào hàng. - Khoa học công nghệ tác động vào sản xuất làm tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã phù hợp với sở thích người tiêu dùng, giá thành thấp, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội tạo ra sức cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế, tăng lợi nhuận cho nhà xuất khẩu. Khoa học công nghệ cũng là một loại hàng hoá trong vai trò là tư liệu sản xuất. Việc trao đổi hàng hoá khoa học công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ. Đây là 1 yếu tố phát huy lợi thế so sánh của các nước có tiềm năng khoa học công nghệ lớn. Các nước khác sẽ sản xuất các loại hàng hoá và dịch vụ khác để đổi lấy khoa học công nghệ. Việc trao đổi này cũng làm tăng cường hoạt động xuất khẩu. 5.6. Yếu tố tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là yếu tố tác động mạnh đến hoạt động xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái đã thay đổi làm thay đổi nhu cầu đồng tiền nội tệ trên thị trường tiền tệ quốc tế làm cho giá cả hàng hoá xuất khẩu thay đổi do đó ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu cụ thể: Nếu giá trị đồng tiền nội tệ tăng trên thị trường ngoại hối làm cho cầu đồng tiền nội tệ giảm làm giá cả hàng hoá xuất khẩu tăng do đó làm giảm nhu cầu mua hàng hoá xuất khẩu và ngược lại nếu giá trị đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ sẽ làm cho giá cả hàng hoá xuất khẩu giảm và làm tăng nhu cầu tiêu thụ các hàng hoá xuất khẩu vì tỷ giá hối đoái tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu nên tỷ giá hối đoái được coi như là một công cụ giúp cho Nhà nước điều tiết các hoạt động xuất nhập khẩu. Để khuyến khích xã hội và giảm nhập khẩu chính phủ có thể dùng chính sách phá giá tiền tệ làm cho giá trị đồng nội tệ giảm xuống làm tăng nhu cầu tiêu thụ hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Thực chất của chính sách phá giá tiền tệ là một hình thức trợ cấp xuất khẩu. II. Vị trí của ngành Cà phê trong nền kinh tế xã hội và tính khách quan đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cây Cà phê ở Việt Nam. 1. Vị trí ngành Cà phê đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vị trí của ngành cà phê là rất quan trọng với sự phát triển kinh tế xã hội. Vị trí này lại càng đặc biệt đối với các nước đang phát triển,. Tìm hiểu vai trò và vị trí của ngành cà phê là cơ sở quan trọng đối với việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê. Vai trò vị trí của ngành cà phê thể hiện trên một số mặt sau: 1.1. Vị trí của ngành cà p._.hê đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Ngành cà phê có chi phí cơ hội thấp hơn đối với các ngành sản xuất nông sản khác. Hay nói cách khác doanh lợi của ngành sản xuất cà phê cao hơn so với các ngành sản xuất sản phẩm nông sản khác. Điều này đã được cisng minh thông qua sự so sánh xu hướng tiêu dùng sản phẩm cà phê đối với các sản phẩm nông sản khác. Cũng như giá trị to lớn của cà phê cho việc tiêu dùng nó. Khiến cho cà phê được đánh giá cao và người tiêu dùng sẵn sàng trả nó với một giá cao để sử dụng nó. Từ đó có thể suy ra rằng gia strị kinh tế của cà phê cao hơn so với các sản phẩm nông sản khác. Tăng cường sản xuất và xuất khẩu cà phê đồng nghĩa với việc tăng giá trị sản lượng nông sản, nâng cao giá trị sử dụng đất đai. Việc phát triển thâm canh cây cà phê kéo theo sự phát triển của ngành chế biến cà phê và các ngành khác có liên quan đến việc sử dụng cà phê làm nguyên liệu chế biến cho ngành mình (ngành bánh kẹo...). các ngành này phát triển cũng tạo ra giá trị kinh tế to lớn cho nền kinh tế. Nhu cầu về số lượng và chất lượng cà phê trên thế giới không ngừng tăng, vì vậy tạo ra tiềm năng to lớn cho việc phát triển ngành chế biến cà phê xuất khẩu. Giá cà phê chế biến xuất khẩu tăng nhanh và xo xu hướng tăng nhanh hơn nhiều so với cà phê sơ chế. Do đó việc phát triển ngành chế biến cà phê xuất khẩu là một xu hướng đúng đắn trong chiến lược phát triển ngành cà phê. Ngành xuất khẩu cà phê lại càng trở nên quan trọng hơn đối với việc phát triển kinh tế xã hội các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy các nước đang phát triển chính là các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê. Các nước công nghiệp phát triển là các nước tiêu thụ sản phẩm cà phê chủ yếu. Nhu cầu tiêu thụ cà phê trên thế giới không ngừng tăng và rất ổn định, điều này tạo ra triển vọng to lớn cho các nước xuất khẩu cà phê. Việc tăng cường xuất khẩu cà phê sẽ đem lại cho họ nguồn ngoại tệ to lớn phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 1.2. Cà phê đối với việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng có xu hướng tăng Xu hướng tiêu thụ cà phê trên thế giới ngày càng tăng cùng với mức tăng lên của thu nhập. Cà phê là mặt hàng rất nhạy cảm với thu nhập, khi thu nhập tăng lên người tiêu dùng sẽ chuyển sang tiêu thụ cà phê nhiều hơn và giảm tiêu thụ các loại thức uống khác như chè... vì giá trị của việc tiêu dùng cà phê cũng như việc đem lại cho con người sự sảng khoái và tỉnh táo về mặt tinh thần, hương vị cà phê đậm đà hơn các thức uống khác, người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả với mức giá cao hơn. Bảng 1. Đánh giá và dự kiến về sản lượng cà phê ACPC năm 2000/2001 Đơn vị: triệu bao Sản lượng (Niên vụ) 2000/2001 2001/2002 Cà phê dịu êm Côlômbia 12,267 12,45 Các loại cà phê dịu êm khác 27,705 28,441 Châu Mỹ 22,660 23,374 Chấu á 3,550 3,533 Châu Phi 1,395 1,533 Cà phê tự nhiên (chưa rửa) 30,100 26,945 Tổng sản lượng Arabica 70,073 67,836 Tổng sản lượng Robusta 45,330 46,602 Châu Mỹ 7,975 10,575 Châu á 27,113 25,810 Châu Phi 10,242 10,217 Tổng cộng 115,403 114,438 Các nước thành viên ACPC 81,190 81,034 Tổng xuất khẩu 88,0 89,7 Nguồn: Dự đoán của Hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê (ACPC) Bảng 2. Sản lượng tiêu thụ cà phê ACPC năm 2000/2001 và 2001/2002 Đơn vị: triệu bao Tiêu thụ (niên lịch) 2000/2001 2001/2002 Các nước nhập khẩu Bắc Mỹ 22,157 21,986 Tây Âu 37,023 36,563 Đông Âu 7,525 7,070 Châu á 8,225 8,050 Austraylia 0,898 0,888 Các nước khác 5,950 5,750 Tổng tiêu thụ của các nước nhập khẩu 81,778 80,307 So sánh (%) + 1,8 + 17 Tổng tiêu thụ các nước sản xuất 26,477 26,019 So sánh (%) + 1,8 + 31 Tổng tiêu thụ cà phê thế giới 108,255 106,326 So sánh (%) + 1,8 + 2,0 Nguồn: Dự đoán của Hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê (ACPC) 1.3. Cà phê đối với vấn đề phát triển xã hội Vai trò của cà phê không chỉ đối với phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng mà còn giải quyết nhiều vấn đề xã hội như: - Tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển thu nhập của người dân còn thấp, tình hình thất nghiệp rất nghiêm trọng. - Tạo công ăm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. - Phủ xanh đất trống đồi trọc, bảo vệ môi trường sinh thái. - Thực hiện tốt các chương trình định canh định cư cho người trồng cà phê. 1.4. Vai trò và vị trí của ngành cà phê trong nền kinh tế Việt Nam. Cà phê là loại cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế. Xã hội của nhiều nước trên thế giới. Một số nước còn coi ngành sản xuất cà phê là ngành cứu cánh đối với sự phát triển kinh tế nước mình. Cây cà phê là loại cây phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên đất đai, khí hậu, thời tiết... Việc trồng rất công phu vì vậy không phải quốc gia nào cũng có điều kiện phát triển nó mà chỉ có một số quốc gia có những lợi thế mới phát triển được. Vì vậy nhu cầu tiêu thụ cà phê trên thị trường thế giới rất lớn. Cây cà phê chủ yếu được sản xuất ở các nước đang phát triển nhưng lại được tiêu thụ chủ yếu ở các nước phát triển điều này tạo ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu ở các quốc gia này. Hiện nay theo thống kê tổng kim ngạch xuất khẩu trên thế giới vào khoảng hơn 1,3 tỷ USD trong đó tỷ trọng của các nước xuất khẩu cà phê chủ yếu do tổng kim ngạch xuất khẩu của họ như sau: Brazil 8 - 12% Colombia 85 - 90% Uganda 90% Ruanda 65% Etiopia 60% Trung phi 62% Burundi 80% Tandania 32 - 37% Việt Nam 20 - 25% Cà phê đang là mặt hàng xuất khẩu rất quan trọng đối với nước ta theo thống kê năm 1982 sản lượng cà phê toàn quốc là dưới 8000 tấn đến năm 1992 sản lượng cà phê đạt 112.400 tấn gấp 23,31% giá kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 1982 đạt 4.100 tấn thì đến năm 1992 xuất khẩu được 107.000 tấn gấp 26 lần so với năm 1982 kim ngạch xuất khẩu đạt 75.600.000 USD năm 1993 giá trị kim ngạch nhập khẩu đạt 560 triệu USD Các con số này nói lên rằng ngành cà phê trong những năm vừa qua đã có những phương hướng phát triển hợp lý đồng thời ngành cà phê còn có rất nhiều tiềm năng cần phải đẩy mạnh khai thác phát triển hơn nữa. Năm 1998 sản lượng cà phê đạt 409.300 tấn với diện tích gieo trồnglà 362.300 ha trong số đó diện tích thu hoạch là 230.000 ha. Năm 1999 diện tích gieo trồng tăng 3,4% đạt sản lượng 399.926 tấn. Tình hình sản xuất cà phê năm 2000 diện tích đạt 400.000 ha, sản lượng đạt 690.000 tấn. Năm 2001 ta tiếp tục tăng quy mô sản xuất cà phê, diện tích đạt 432.000 ha, tăng 8% so với năm 2000. Bảng 3. Tình hình sản xuất cà phê giai đoạn 1991 - 2001 Năm chỉ tiêu Diện tích gieo trồng (1000ha) Diện tích thu hoạch (1000ha) % so với năm trước (Diện tích) Năng suất (Tạ/ha) Sản lượng (1000 tấn) % so với năm trước (sản lượng) 1991 115,052 73,154 - 13,7 100,000 - 1992 103,727 81,791 90,2 14,5 119,000 119 1993 101,295 82,134 97,7 16,6 136,100 114,3 1994 123,871 99,886 122,3 18,1 180,500 132,6 1995 186,499 99,900 150,5 21,8 218,100 120,8 1996 254,200 220,000 136,3 14,5 316,900 145,3 1997 340,400 223,000 133,9 17,8 420,500 132,7 1998 362,300 230,000 106,9 17,5 409,300 97,3 1999 399,926 241,903 110,3 20,9 539,060 131,7 2000 400,000 300,000 100,02 23,3 690,000 128,5 2001 432,000 108 23,2 1002,100 135 Tốc độ tăng trưởng bình quân 14,8 - 16,9 6,07 23,9 Nguồn: Niên giám thống kê Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng một số mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam Năm Mặt hàng 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng giá trị kim ngạch nông sản xuất khẩu 2.373 2.457 2.602 2.819 3.200 - Gạo + Số lượng 3003 3575 3749 4508 4400 + Giá trị 854,6 870,9 1024 1025 1000 + Tỷ trọng 36,01 35,45 39,35 36,36 31,25 - Cà phê + Số lượng 283 391,6 3582 483 500 + Giá trị 336,8 497,5 594 585 600 + Tỷ trọng 14,19 20,5 22,83 20,75 18,75 - Cao su + Số lượng 195 194 191 265 2800 + Giá trị 263 191 128 147 153 + Tỷ trọng 11,08 7,77 4,92 5,21 4,78 - Hạt điều + Số lượng 103,5 149,9 115 83 90 + Giá trị 100,8 133,3 117 110 120 + Tỷ trọng 4,25 5,43 4,50 3,9 3,75 Nguồn: Vụ kế hoạch thống kê - Bộ Thương mại Theo như bảng thống kê trên cho thấy hiện nay cà phê là một mặt hàng nông sản sản xuất xuất khẩu có giá trị lớn thứ 2 sau gạo. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cà phê trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản hàng năm khoảng trên dưới 10%. Do đó có thể khẳng định ngành cà phê là một ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên trong những năm gần đây mặc dù sản lượng cà phê không ngừng tăng nhưng kim ngạch xuất khẩu cà phê luôn giảm xuống làm cho tỷ trọng cà phê trong tổng kim ngạch xuất khẩu luôn giảm. Sở dĩ có những trục trặc này là do có những biến động bất lợi về cà phê trên thị trường thế giới. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam chiếm 12% tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê trên thế giới và Việt Nam đã chính thức trở thành nước xuất khẩu cà phê thứ hai thế giới sau Braxin. Ngoài ra Việt Nam còn trở thành nước đứng đầu trong việc sản xuất cà phê Robusta. Như phân tích ở trên ta có thể hình dung ra vai trò của ngành cà phê đối với tăng trưởng kinh tế là rất lớn ngành cà phê trở thành một ngành mũi nhọn đã phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam. Bên cạnh đó ngành cà phê còn giải quyết được các vấn đề xã hội rất lớn như tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập cho nhân dân, phát triển nền kinh tế mới, góp phần cải thiện môi trường sinh thái … Cụ thể là: - Ngành cà phê tạo công ăn việc làm không ngừng cải thiện đời sống nhân dân đặc biệt là cải thiện đời sống cho đồng bào thiểu số ở vùng Tây Nguyên, vùng Trung du và miền Núi phía Bắc, nơi sản xuất cà phê nhiều nhất. - Xây dựng được các vùng kinh tế mới vùng Tây Nguyên, vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Tạo điều kiện cho việc phân bố dân cư hợp lý hơn giúp cho việc phát triển hài hoà hơn các vùng kinh tế. - Góp phần thực hiện chương trình định canh, định cư cho các đồng bào dân tộc thiểu số. - Tạo điều kiện cho việc cải tạo môi trường sinh thái, tăng phủ xanh đất trồng đồi trọc… góp phần quan trọng và củng cố an ninh quốc phòng vùng Tây Nguyên và vùng Trung du và miền Núi phía Bắc. Do những vai trò và vị trí của ngành cà phê đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam là rất to lớn. Vì vậy cần phải tổ chức phát triển ngành cà phê một cách chặt chẽ trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Cần phải quan tâm hơn nữa đến việc phát triển ngành cà phê ngang tầm với lợi thế của ta. Vấn đề với chúng ta hiện nay là cần phải đưa ra những kế hoạch và chiến lược phát triển ngành cà phê một cách hợp lý. 2. Sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu cà phê ở Việt Nam. Như đã phân tích ở trên vai trò và vị trí của ngành cà phê là vô cùng to lớn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam. Ngành cà phê của nước ta vẫn còn nhiều khả năng tiềm lực phát triển nhưng chúng ta chưa thể phát huy do hạn chế về vốn đầu tư và khoa học công nghệ còn lạc hậu. Chúng ta vẫn phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra những biện pháp và giải pháp hợp lý để phát triển nó cả về mặt ngắn hạn lẫn dài hạn. Trong giai đoạn hiện nay việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê là một tất yếu khách quan vì: - Thứ nhất: Nó góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động với thu nhập cao. Việc trồng cà phê rất công phu đòi hỏi phải mất nhiều công chăm bón, tưới tiêu mới đem lại vụ mùa bội thu. Cây cà phê là cây công nghiệp có giá thành cao nên tiền công lao động sản xuất cà phê cũng rất cao. Tiền công lao động nông nghiệp nói chung và tiền công lao động kinh doanh sản xuất các cây công nghiệp khác nói riêng. - Thứ hai: Việc tăng cường sản xuất và xuất khẩu cà phê là một định hướng đúng trong việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng của Việt Nam hiện nay trong cơ cấu cây tròng vẫn ở tình trạng mất cân đối. Cây công nghiệp chiếm tỷ trọng còn quá lớn so với cây công nghiệp và cây ăn quả. Vì vậy xu hướng đúng đắn trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng là tăng cường sản xuất và xuất khẩu cây công nghiệp và giảm tỷ trọng cây công nghiệp. Cây công nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cây nông nghiệp. Để tạo đà cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước ta phải phát triển được nền nông nghiệp có cơ cấu cây trồng hợp lý mới đem lại giá trị kinh tế và giá trị xã hội cao thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến cà phê phát triển, tăng thu ngoại tệ phục vụ cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đồng thời giúp ta thoát khỏi thế độc canh cây lúa. - Thứ ba: Tăng cường sản xuất và xuất khẩu cà phê là phát huy được lợi thế so sánh của nước ta trong thương mại quốc tế. Xét về điều kiện tự nhiên, nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng lắm, mưa nhiều, độ ẩm không khí cao, … Bên cạnh đó đất nông nghiệp của ta tơi, xốp phù hợp với trồng cây cà phê. Ngoài vị thế về điều kiện tự nhiên và đất đai, Việt Nam còn nằm ở vị trí giáp biển nên chi phí vận chuyển cà phê là thấp. Những điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý của Việt Nam làm giảm chi phí sản xuất cà phê của Việt Nam thấp hơn so với các quốc gia khác khi họ cùng sản xuất cà phê. Chính điều này tạo ra lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh cà phê. Xét về điều kiện nhân lực Việt Nam là một nước mà tỷ lệ lao động trong nông nghiệp chiếm khoảng 70% tổng lực lượng lao động với quy mô 23 triệu người và hàng năm được bổ sung thêm 1 triệu lao động. Con số này nói lên sự căng thẳng trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động đồng thời cũng khẳng định rằng lao động nông nghiệp Việt Nam rất rồi rào về số lượng. Tuy về mặt chất lượng lao động nông nghiệp của ta còn ở mức kém so với khu vực nhưng việc so sánh với một nền nông nghiệp kém phát triển thì nguồn lao động nông nghiệp của ta được đánh giá cao, nhờ nguồn lao động nông nghiệp rồi rào nên giá lao động tương đối rẻ. Việc trồng và sản xuất cây cà phê cần một lực lượng lao động đông đảo. Vì vậy đây là yếu tố làm giảm chi phí sản xuất cà phê và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh cà phê của Việt Nam. Tuy nhiên việc sản xuất cà phê của ta còn ở tình trạng lộn xộn thiếu sự quản lý chặt chẽ dẫn đến chất lượng cà phê kém. Mở rộng diện tích trồng quá mức mà không quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Khả năng gây ảnh hưởng đến thị trường thế giới còn kém do tiếp thị của ta còn kém chủ yếu là thị trường trung gian. Đây là những vấn đề nghịch lý đối với một quốc gia đứng hàng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê. Vì vậy tăng cường sản xuất và xuất khẩu cà phê là một tất yếu khách quan trong đó mấu chốt của vấn đề là phải khắc phục những yếu kém và hạn chế nói trên ta mới có thể khẳng định đúng vị trí và khả năng của ngành cà phê Việt Nam. Những vấn đề đó là phải có sự nỗ lực trong đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực tiếp thị, đảm bảo tính cạnh tranh, thâm nhập thị trường. Bảng Tình hình sản xuất cà phê giai đoạn 1991 - 2001 Năm chỉ tiêu Diện tích gieo trồng (1000ha) Diện tích thu hoạch (1000ha) % so với năm trước (Diện tích) Năng suất (Tạ/ha) Sản lượng (1000 tấn) % so với năm trước (sản lượng) 1991 115,052 73,154 - 13,7 100,000 - 1992 103,727 81,791 90,2 14,5 119,000 119 1993 101,295 82,134 97,7 16,6 136,100 114,3 1994 123,871 99,886 122,3 18,1 180,500 132,6 1995 186,499 99,900 150,5 21,8 218,100 120,8 1996 254,200 220,000 136,3 14,5 316,900 145,3 1997 340,400 223,000 133,9 17,8 420,500 132,7 1998 362,300 230,000 106,9 17,5 409,300 97,3 1999 399,926 241,903 110,3 20,9 539,060 131,7 2000 400,000 300,000 100,02 23,3 690,000 128,5 2001 432,000 350.000 108 23,2 1002,100 135 Tốc độ tăng trưởng bình quân 14,8 - 16,9 6,07 23,9 Nguồn: Niên giám thống kê 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam 3.1. Các nhân tố đẩy: Các nhân tố đẩy về bản chất chính là các cơ chế quản lý hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê do Nhà nước ban hành. Nó phụ thuộc vào cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước. Các nhân tố này trở thành những yếu tố nội lực thúc đẩy hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê. Nó trực tiếp ảnh hưởng đến lợi ích của người sản xuất cà phê tạo ra động lực cho họ bỏ vốn đầu tư, công lao động, đất đai của họ vào sản xuất cà phê từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động của ngành cà phê. ở thời kỳ kế hoạch hoá tập trung tất cả nông dân đều là các nông trang Nhà nước, làm việc tính theo công điểm (dựa trên ngày làm việc), phân phối sản phẩm theo nhu cầu và công điểm. Cơ chế này không động viên nỗ lực của cá nhân qua thu nhập nên làm mất động lực khuyến khích làm việc trong khi ngành cà phê cần sự kiên trì và làm việc vất vả liên tục (chăm sóc, kiểm tra, bệnh dịch, bón phân, tưới nước …). Nhờ quá trình đổi mới đất hợp tác xã phân bổ cho hộ gia đình, hợp pháp hoá sở hữu tư nhân, dỡ bỏ luật hạn chế kinh doanh sản phẩm nông nghiệp và giá cả làm nâng mức giá trị đối với nông sản đặc biệt là cà phê. Khuyến khích hộ mở rộng diện tích trồng đầu tư tối đa vốn, lao động đất đai, hỗ trợ thành người thuê đất, chịu trách nhiệm sản xuất trên mảnh đất cụ thể. Hai xu hướng trên làm giảm tỷ trọng diện tích cà phê nằm dưới sự quản lý của nông trang Nhà nước từ 75% xuống còn khoảng 10 - 15%. Kết quả như sau 3.2. Các nhân tố kéo. Các nhân tố kéo là các nhân tố từ bên ngoài gồm các nhân tố về cung và cầu hàng hoá trên thị trường thế giới và mức thuận lợi khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế ... Nếu nhu cầu tiêu thụ cà phê tăng và cung cà phê giảm trên thị trường cà phê quốc tế sẽ làm khuyến khích hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê trong nước. Vì giá cà phê thế giới tăng làm tăng lợi nhuận cho người sản xuất và xuất khẩu cà phê. Các hoạt động của các tổ chức xuất khẩu, nhập khẩu cà phê sẽ tác động trực tiếp đến giá cả cà phê trên thị trường thế giới làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của người sản xuất cà phê. Sau đổi mới đã tạo ra "lối thoát" cho hoạt động sản xuất cà phê Việt Nam. Hương vị đặc biệt, chất lượng tự nhiên, giá rẻ đã làm cà phê Việt Nam hấp dẫn trên thị trường quốc tế. Đây là nhân tố quyết định cho cà phê xâm nhập và mở rộng tới thị trường thế giới. Cầu trên thị trường thế giới ngày một tăng. Sự sụp đổ của Hiệp hội cà phê quốc tế (ICA) vào năm 1989 làm tiêu tan những cản trở từ ICA. Đây là những động lực còn thúc đẩy ngành cà phê Việt Nam phát triển. 3.3. Các chủ thể kinh tế trong ngành cà phê Việt Nam. Các chủ thể kinh tế trong ngành cà phê là người trực tiếp tác động đến năng suất cà phê. Đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê. Vì vậy ta cần phải nghiên cứu những vấn đề khó khăn bức xúc đối với họ để tìm ra những biện pháp và giải pháp khắc phục những khó khăn này. Nếu giải quyết được những vấn đề liên quan đến người sản xuất sẽ tác động trực tiếp làm tăng năng suất lao động trong ngành cà phê Việt Nam. Qua đó tăng vị thế cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trường cà phê thế giới. Khẳng định hơn nữa vai trò và khả năng của ngành cà phê Việt Nam trên trường quốc tế. Các chủ thể kinh tế chủ chốt trong ngành cà phê Việt Nam bao gồm nông dân, người kinh doanh, người lập kế hoạch kinh doanh, các nhà kinh doanh ở Việt Nam gồm có người thu gom, người chế biến, người trồng, người xuất khẩu. 3.3.1. Nông dân trồng cà phê. Nông dân trồng cà phê Việt Nam tập trung chủ yếu ở vùng Cao Nguyên Trung bộ. Hầu hết là người nghèo diện tích trồng cà phê khoảng 1 - 2 ha. Thiếu vốn đầu tư, ở Đắc Lắk đầu tư trung bình là 25.349.370 VND/ha, Nghệ An là 7.491.990 VND/ha (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1998) nên người dân phụ thuộc vào vốn tài trợ, tín dụng ngân hàng. Cà phê sau khi thu hoạch được nông dân sấy khô chủ yếu bằng phơi nắng. Nhiều nơi phơi trên nền gạch, có người đầu tư sân phơi bê tông hay tấm nhựa, nhưng nói chung công suất rất hạn chế chỉ có 0,8 ha sân phơi phù hợp trên 100 ha. Mức tối ưu chỉ đạt 3 ha trên 100 ha. Do vậy cà phê được phơi quá dày. Số cà phê còn lại được phơi dưới nền đất hoặc thậm chí trên mặt đường làm lẫn đất, đá và tạp chất khác cũng như có mùi lạ. Nông dân có thể loại bỏ những tạp chất khi chế biến hoặc loại những hạt mất màu nhưng chi phí rất cao. Vì sao nông dân không có gắng nâng cao chất lượng cà phê: - Thứ nhất: Do chất lượng đất thiếu nên cùng chi phí trên 1 ha cà phê nông dân Việt Nam thu được cà phê nhiều gấp 3 lần Brazil và Colombia nên chi phí cơ hội dùng đất chế biến là quá cao, nên nông dân thích trồng cà phê hơn là chế biến cà phê. - Thứ hai: Do người xã hội độc quyền đặt giá qua người thu gom nên không khuyến khích nông dân sản xuất nâng cao chất lượng cà phê. - Hầu hết nông dân thiếu vốn chỉ có ngân hàng tín dụng trung hạn (6 tháng) là chủ yếu nên sau khi thu hoạch phải bán càng nhanh càng tốt để trả nợ nên không đầu tư cho kho tàng, sân phơi … 3.3.2. Người thu gom cà phê. Giá mua do các doanh nghiệp xuất khẩu bảo người thu gom. Người thu gom có sức mạnh độc quyền nhờ sự liên kết dọc với nhà xuất khẩu độc quyền. Theo điều tra 1996 ở Đắc Lắc giá cà phê tại vườn là 10322,6 VND/kg trong khi giá mà các Công ty xuất khẩu phải trả là 14562 VND/kg. Phần chênh lệch 4239,4 VND thuộc về người thu gom. Đặc điểm nổi bật l6à Công ty xuất khẩu kiếm được lợi nhuận rất ít (theo báo cáo 1995 chỉ thu được 750 VND/kg). Hiện tượng là do lý do sau: - Nhà sản xuất có thể thuê một người hoạt động thay mình. Người này có mục tiêu khác với người chủ. Họ có thể tối đa hoá lợi ích của họ với chi phí tiền bạc của người chủ nhờ quan hệ liên kết dọc với người thu gom trong điều kiện hệ thống tài chính yếu kém, thiếu thông tin và tính kỹ thuật tài chính. - Do số liệu nhà xuất khẩu báo cáo sai làm sai lệch bản chất độc quyền trong ngành cà phê. 3.3.3. Nguồn, chế biến cà phê. * Cơ cấu chế biến cà phê: Tại Việt Nam số nhà chế biến là nhỏ nhất nhưng lại đông nhất. Việc đầu tiên là sơ chế công suất trung bình 1000 tấn/năm. Rừng Đắc Lắk chiếm 60% tổng sản lượng chế biến cả nước, 10 đến 15 nhà chế biến tư nhân công suất 1000 - 2000 tấn/năm, 3 Công ty với công suất 5000 tấn trở lên. Các Công ty không được phép trực tiếp xuất khẩu, các nhà máy chế biến cỡ lớn (công suất trên 5000 tấn) của Công ty chuyên môn hoá chế biến và xuất khẩu thuộc sở hữu Nhà nước. Nhà máy chế biến lớn nhất là DALIMEXCO (doanh nghiệp Nhà nước) và E.D&F.Mann (của Anh công suất 15 - 20.000 tấn/năm). * Hoạt động chế biến. Sau sơ chế do số Công ty nhỏ tiến hành là tái chế biến (gồm làm sạch, chọn lọc và xếp loại). Xếp loại gồm 3 hạng dựa trên 4 tiêu thức (ở Colombia 6 hạng 7 tiêu thức) là độ ẩm, tạp chất, kích cỡ hạt. Tiêu chuẩn xếp hạng của Việt Nam khác và tiêu chuẩn quốc tế làm cho nhà chế biến, xuất khẩu Việt Nam phụ thuộc vào người mua nước ngoài. 3.3.4. Nhà xuất khẩu. * Đặc điểm của các nhà xuất khẩu Việt Nam - Tại Việt Nam, ngành xuất khẩu cà phê cho tới giữa năm 1998 chủ yếu do doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ. Doanh nghiệp tư nhân bị hạn chế. Công ty lớn nhất chiếm 94% tổng lượng cà phê xuất khẩu tại Việt Nam (còn lại hơn 100 Công ty xuất khẩu không quá 2000 tấn/ đơn vị, vài đơn vị chỉ xuất khẩu vài trăm tấn). - Doanh nghiệp Nhà nước thiếu vốn phải lệ thuộc vào khoản vay trung hạn tại ngân hàng. - Mỗi chuyển sang cơ chế thị trường nên các nhà xuất khẩu cà phê tại Việt Nam gần như không có kinh nghiệm trên thị trường cạnh tranh quốc tế. Xuất khẩu thông qua thị trường trung gian của 1 nước thứ ba (các nước Châu á). - Mặc dù Việt Nam là nước đã được xếp thứ 3 thế giới về xuất khẩu cà phê nhưng lượng hàng hoá xuất khẩu vẫn nhỏ (khoảng 6%) có thể nói nhà xuất khẩu Việt Nam phải chấp nhận giá hàng hoá của họ không có khả năng ảnh hưởng tới thị trường thế giới. * Hoạt động của các nhà xuất khẩu cà phê. - Xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng về số lượng không tăng về chất lượng. Mặc dù hương vị ngon so với cà phê Robusta nhưng không cao bằng giá thế giới. - Chất lượng cà phê kém do không tạo động lực khuyến khích tăng chất lượng cà phê. - Thiếu vốn lưu động, chỉ có khoản đầu tư ngắn hạn vì quỹ phát triển rất nhỏ hoặc lợi nhuận quá thấp (2 - 4%) - Các doanh nghiệp Nhà nước thiếu kỹ thuật, khả năng điều hành trong môi trường cạnh tranh, hoạt động kinh doanh tập trung hầu hết ở khâu sản xuất, khâu marketing không được nhận thức rõ hoặc bỏ qua. - áp lực phải hoàn trả vốn cho ngân hàng và các nhà xuất khẩu phải bán cà phê hạt nhanh thậm chí cả khi giá cà phê giảm nên cà phê chất lượng kém phải chấp nhận giá thấp hơn giá thế giới. - Thiếu kinh nghiệm cạnh tranh, đầu tư ít ỏi cho marketing nên bị thiếu thông tin trên thị trường quốc tế nên sức mạnh đàm phán về giá cả đều bị giảm sút. III. Kinh nghiệm của các nước trong việc sản xuất và xuất khẩu cà phê. 1. Brazil. Brazil hiện đang là nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê nói chung, Cà phê arabia nói riêng, đứng thứ 2 về sản xuất cà phê là Robusta (sau Việt Nam). ảnh hưởng của ngành cà phê Brazil là rất to lớn tới thị trường thế giới có thể quyết định đến cung, cầu và giá cà phê thế giới. Cho tới những năm 1970 Brazil chỉ sản xuất cà phê Arabia (khoảng 2 triệu tấn). Đầu năm 1990, Brazil bắt đầu tăng sản xuất cà phê Robusta sản lượng đạt 250 - 300 ngàn tấn chiếm 15% sản lượng sản xuất. Hầu hết cà phê Robusta được phục vụ cho nhu cầu trong nước. Hiện nay cà phê Robusta đang được đẩy mạnh sản xuất ở Brazil, khiến Brazil trở thành đối thủ cạnh tranh với các nước ở khu vực Châu á và Châu phi. Công nghiệp sản xuất cà phê của Brazil ở trình độ tổ chức rất cao. Có sự phối hợp rất đồng bộ giữa các chủ thể. Nổi bật là có vai trò hỗ trợ to lớn của Nhà nước trong việc khuyến khích sản xuất và xuất khẩu cà phê. Trước đây cà phê Brazil được điều hành bởi chính phủ và cục cà phê quốc gia (DNC). Cục này nắm các luật lệ về sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu. Từ năm 1990, cơ quan quản lý Nhà nước ngành cà phê của Brazil là việc cà phê Brazil (IBC) cùng với DNC có chức năng định ra tối thiểu để bảo vệ người trồng cà phê, xây dựng hệ thống kho dự trữ để bảo quản và lưu kho dự trữ cà phê quốc gia để đảm bảo hiệu quả xuất khẩu. Khi giá tăng có ngay cà phê để xuất khẩu, khi giá giảm có kho để lưu trữ cho giá tăng. Quản lý về marketing xuất khẩu cà phê ở Brazil do một cơ quan khác chính phủ nắm. Brazil rất chú trọng đến khâu marketing vì vậy họ rất chủ động về giá cả và thị trường tiêu thụ. Từ tháng 3 - 1990 các chính sách về cà phê và quản lý cà phê xuất khẩu được chính phủ giao cho ban thư ký quốc gia về kinh tế - một cơ quan điều hành thuộc bộ kinh tế tài chính và kế hoạch. Hiện tại việc kinh doanh cà phê ở Brazil cho thị trường tự do điều tiết. Tuy nhiên chính phủ vẫn kiểm soát toàn bộ thủ tục xuất khẩu cà phê. Các nhà xuất khẩu cà phê phải đăng ký và có bảo lãnh của ngân hàng thương mại để xác nhận giấy phép xuất khẩu. Những bài học được rút ra: - Nhà nước có vai trò to lớn trong việc hỗ tợ sản xuất cà phê. Cụ thể là Nhà nước Brazil hỗ trợ cho nông dân trồng cà phê đảm bảo mức giá tối thiểu để họ yên tâm đầu tư sản xuất. Đây là yếu tố rất quan trọng khiến cho sản lượng cà phê của Brazil không ngừng tăng nhanh. Đây là 1 vấn đề khó với nước ta. - Vì đặt mức giá tối thiểu sẽ khuyến khích nông dân tăng sản xuất nhưng Nhà nước lại mất nguồn tài chính rất lớn. - Nhà nước đứng ra tổ chức quản lý quá trình sản xuất về xuất khẩu cà phê đặc biệt là Nhà nước xây dựng hệ thống kho lưu trữ cà phê quốc gia và quan tâm rất chặt chẽ đến công tác marketing. Vì vậy đảm bảo chất lượng cà phê của Brazil cao và luôn chủ động thăm dò thị trường cà phê thế giới. Về giá và thị trường tiêu thụ nên giá xuất khẩu cà phê của Brazil luôn cao, thị trường trực tiếp đến tay người tiêu thụ. - Chính phủ Brazil quản lý công tác đăng ký xuất khẩu cà phê có bảo lãnh của ngân hàng thương mại đảm bảo uy tín cho nhà xuất khẩu dưới sự bảo trợ của Nhà nước. 2. Colombia. Cùng với Brazil, Colombia cũng là một người lãnh đạo trên thị trường cà phê thế giới, sản lượng trung bình xuất khẩu khoảng 90 ngàn tấn/năm, chiếm 19% kim ngạch xuất khẩu thế giới. Trong đó Colombia đứng đầu trong chế biến cà phê Arabica theo phương pháp chế biến ướt. Có khả năng xuất khẩu cà phê quanh năm. Quản lý Nhà nước đối với ngành cà phê Colombia, quản lý mọi hoạt động kinh doanh trong và ngoài nước thông qua liên đoàn cà phê quốc gia (FNC). Hơn 60 năm qua, tổ chức này có ảnh hưởng to lớn đối với các chính sách cà phê của đất nước. Nó có khả năng trợ giá cho xuất khẩu như để phục vụ điều tiết thị trường cà phê trong nước và quốc tế. FNC còn quản lý kho dự trũ quốc gia về cà phê thông qua một hiệp định với chính phủ. FNC cũng điều hành một số trạm nghiên cứu cà phê, cung cấp hệ thống thiết bị bón và tưới tiêu nước tại các vùng nông thôn cũng như tham gia các hoạt động xã hội nhằm cải thiện đời sống nhân dân. Chính phủ còn thông qua FNC quy định mức giá xuất khẩu tối thiểu nhằm tránh thiệt thòi cho quốc gia. Mức giá này thường xuyên được thay đổi tuỳ theo sự biến động trên thị trường cà phê thế giới. Các chính sách hỗ trợ vốn đầu tư được thông qua ngân hàng trung ương và chỉ chấp nhận cho vay đối với những nhà xuất khẩu tuân thủ nghiêm chỉnh chính sách trợ giá tối thiểu của chính phủ. * Những bài học được rút ra: - Mọi hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê cần phải có một sự phói hợp nhịp nhàng đồng bộ của các đơn vị, các cá nhân mọi hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê đều phải thống nhất với nhau và được chỉ đạo bởi một tổ chức. Tổ chức này vừa thay mặt cho vai trò điều tiết của Nhà nước một cách thống nhất, vừa kết hợp với những biến động của thị trường cà phê thế giới để đưa ra những quyết định điều tiết đến mọi hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê, đảm bảo hoạt động xuất khẩu và xuất khẩu cà phê được thống nhất trong một hệ thống từ trên xuống dưới. - Đảm bảo chính sách trợ giá hợp lý thông qua một mức giá tối thiểu được phân tích dựa trên lợi ích của quốc gia vừa phù hợp với những biến động thị trường cà phê thế giới thông qua mức giá tối thiểu này để quyết định các chính sách hỗ trợ vốn đối với các hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê. 3. Indonexia. ở Indonexia có nhiều hòn đảo nhỏ khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mỗi hòn đảo có điều kiện tự nhiên khác nhau do tự nhiên phong phú đa dạng, Indonexia có khả năng trồng được cả hai loại cà phê là cà phê Robusta và Arabica. Tuy nhiên cà phê Robusta vẫn được trồng chủ yếu hiện nay._.ị trường thế giới, vừa góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Nhà nước cần công bố tiêu chuẩn cà phê xuất khẩu Việt Nam phù hợp với tiêu chuẩn thế giới hoặc ít nhất cùng ngang với các tiêu chuẩn chất lượng các khu vực. Cần phải quan tâm chặt chẽ từ khâu thu hái, bảo quản, phơi, sàng, chế biến cà phê. Nhà nước cần cho nhân dân vay vốn để đầu tư vào công nghệ chế biến, phơ sấy. Đồng thời phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng để phục vụ cho việc chế biến cà phê xuất khẩu. Nghiên cứu các loại giống mới phù hợp với điều kiện sinh thái và thổ nhưỡng của từng khu vực, liên kết với các hội nghiên cứu chế độ bón phân, chống sâu bệnh, qui trình thu hoạch và sơ chế hợp lý và phổ biến sâu rộng tới nguồn trồng cà phê. Bộ nông nghiệp và Bộ khoa học công nghệ cần phải ban hành tiêu chuẩn cà phê Việt Nam thay thế cho hệ thống tiêu chuẩn chất lượng cũ không còn phù hợp. Đồng thời phải tiến hành "thử nếm" vào TCVN để đạt yêu cầu khách hàng kết hợp với tiêu chuẩn ngoại quan. Bốn là, nâng cao hơn nữa vai trò của hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam. Vai trò của hiệp hội cà phê ca cao không chỉ là tập hợp các nhà sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ kỹ thuật trong ngành cà phê để phối hợp hành động và nâng cao sức cạnh tranh mà còn cả phối hợp xây dựng qui hoạch phát triển ngành, phổ biến kỹ thuật canh tác, thu hoạch, chế biến, bảo quản đến người trồng cà phê, trọng tài xử lý các mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ ngành và hợp tác quốc tế. Trong thời gian qua vai trò của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam còn mờ nhạt do (thiếu người tài chính, thiếu cơ sở vật chất, thiếu trợ giúp của nhà nước...). Hiện nay đã có những đổi mới quan trọng trong tổ chức và hành động là: - Mọi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê phải là thành viên của hiệp hội. - Cho phép hiệp hội thu phí trên đầu tấn càphê xuất khẩu để có kinh phí thuê trụ sở, thuê tổng thư ký và thuê bộ máy điều hành nhất là nhân sự cho các ban quan trọng như ban kỹ thuật và ban hợp tác quốc tế. - Chuyển giao quyền hạn không hẳn là quyền quản lý nhà nước cho hiệp hội, thí dụ quyền điều hành quỹ phát triển ngành , quyền thống nhất giá tối thiểu... Năm là, có chính sách thu hút vốn đầu tư đúng đắn từ bên ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ đảm bảo khâu chế biến thô. Thời gian tới sẽ thu hút vốn đầu tư bên ngoài vào khâu chế biến sâu như khâu rang xay và chế biến hoà tan, đặc biệt không cho phép các chi nhánh Công ty nước ngoài được kinh doanh cà phê nhóm xuất khẩu. Mục tiêu là tìm mọi cách để thu hút công nghệ chế biến tiên tiến từ nước ngoài. Căn cứ vào xu hướng biến động của thị trường cà phê thế giới và những thực trạng, triển vọng phát triển của ngành cà phê Việt Nam ta xây dựng các mục tiêu bao trùm đến năm 2005 là thâm canh tăng năng suất đầu tư vào khâu chế biến, nâng cao chất lượng và uy tín của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới, nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhằm thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. từ đó ta xây dựng thành các mục tiêu cụ thể là: a/ Về mặt sản xuất: Theo nghị quyết 09.2000/NQCP ngày 11/06/2000 của Chính phủ thì ngành cà phê Việt Nam sẽ trồng được 500.000 ha trong đó 400.000 ha là cà phê và 100.000 ha cà phê arabica đến năm 2005 và sản lượng sẽ đạt từ 700.00 - 800.000 tấn cà phê nhân đưa kim ngạch xuất khẩu của cả nước lên xấp xỉ 1 tỷ USD. b/ Về chỉ tiêu: Xây dựng và nâng cấp một số nhà máy chế biến cà phê công suất 1000 tấn/ năm đến năm 2005. 10 - 12 % sản lượng cà phê của Việt Nam được tinh chế trước khi xuất khẩu. Cà phê xuất khẩu loại tốt, giá cao chiếm khoảng 60%. Đặc biệt nâng cấp các nhà máy chế biến ở các tỉnh Miền Núi hay Trung du Bắc Bộ. Bảng 13: Các nhà máy sẽ được xây dựng ở các tỉnh Tỉnh Số nhà máy Tỉnh Số nhà máy Sơn La Lai Châu Yên Bái Phú Thọ Tuyên Quang Lạng Sơn 2 1 2 1 2 1 Nghệ An Thừa Thiên Huế Đắc Lắc Lâm Đồng Đồng Nai Hà Nội 1 1 3 2 3 1 Nguồn : tổng công ty cà phê Việt Nam c/Về xuất khẩu: Tăng tỷ lệ xuất khẩu cà phê arabica, giảm tỷ lệ xuất khẩu cà phê Robusta phấn đấu đến năm 2005 đạt tỷ lệ: 3,5 - 4 Robusta 1 arabica. Tỷ trọng cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong cơ cấu cà phê xuất khẩu thế giới đạt khoảng 9,6%; sản lượng đạt 800.000 tấn (tốc đọ tăng bình quân 3,9% năm), kim ngạch đạt 800 triệu USD (tốc độ tăng bình quân 8,7%/ năm). Thị trường xuất khẩu: tiếp tục củng cố hơn nữa thị trường truyền thống, tăng cường thâm nhập vào thị trường lớn và có triển vọng, đặc biệt là thị trường Mỹ, Trung quốc, Nhật Bản, Đức, EU... Bảng 14: Dự báo xu hướng xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005 Năm Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 Tốc độ tăng bình quân Sản lượng(1000 tấn) 680 713 741 770 800 3.9 Kim ngạch (triệuUSD) 340 623 677 736 800 8.7 Nguồn: Vụ Kế Hoạch Thống Kê Bộ Thương Mại III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005. 1. Những giải pháp nhằm phát triển sản xuất và chế biến cà phê xuất khẩu: 1.1 Chọn và lai tạo giống cà phê chất lượng tốt, năng suất cao Thực tế cho thấy những công trình chọn và lai tạo giống mới của một số nước trong những năm gần đây cho thấy những kết quả khả quan tạo tiền đề cho việc đổi mới trồng cà phê ở một số nước. Những năm qua ta đã nhập được một số giống cây cà phê cho năng suất cao và sản lượng cao như: Banbon, Catlerra, Amerello, Caturra ... đã ban đầu nhân giống ra một số nước trong những năm gần đâycho thấy những kết quả. Đặc biệt là giống Caturra cho năng suất cao và chịu đựng được điều kiện khí hậu khắc nghiệt như rét đậm và hạn hán. Có được kết quả này là do ta đã hợp tác khoa học kỹ thuật với CuBa. Nhờ có sự đầu tư vào phát triển giống mới thời gian qua nên ta đã đưa vào sản xuất một tập đoàn 29 chủng loại cà phê không có bênh cao. Công tác tuyển chọn lai tạo giống mới rất phức tạp đòi hỏi nhiều qui trình kiểm tra đánh giá với nhiều tiêu chuẩn khác nhau, không những đòi hỏi giống mới phải có năng suất, chất lượng sản phẩm cao mà còn đòi hỏi tính di truyền tốt. Việc chọn và lai tạo giống có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc nâng cao có hiệu quả sản xuất và xuất khẩu cà phê. Có thể nói công việc này có vị trí quan trọng đầu tiên cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm cà phê xuất khẩu. Vì vậy cần phải tăng cường đầu tư phối hợp với viện Eakmat, các trung tâm nghiên cứu có liên quan, vừa nghiên cứu tuyển chọn vừa xây dựng quy trình canh tác thích hợp cho từng vùng. Một mặt sản xuất và cung cấp giống tốt và dịch vụ kỹ thuật cho các địa phương trong khu vực. Công tác chọn giống và lai tạo giống đòi hỏi mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc, có khi hàng vài chục năm mới tìm ra giống cà phê có chất lượng, phẩm chất tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng. Nếu không có phương hướng đúng đắn trong hợp tác nghiên cứu và đầu tư trang thiết bị ngay từ đầu sẽ dẫn đến tốn kém rất lớn công sức và ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và xuất khẩu cà phê. Việc đầu tư vào chọn giống và lai tạo giống là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nếu thành công vừa sẽ đem lại triển vọng lớn trong việc trồng cà phê, nâng cao chất lượng và năng suất cà phê. 1.2 Đẩy mạnh thâm canh diện tích cà phê hiện có . Trong thời gian vừa qua chúng ta chưa chăm lo đúng mức vào việc nâng cao chất lượng cà phê, dẫn đến chất lượng cà phê xuất khẩu của chúng ta kém, giá thấp, trong khi diện tích cà phê của ta tăng một cách ồ ạt dẫn đến cùng một lúc chúng ta vừa phải mở rộng diện tích vừa phải tăng cường đầu tư thâm canh trong điều kiện vốn bị hạn hẹp. Vì thế trình độ thâm canh thấp ảnh hưởng đến cân đối giữa nứoc vườn và cân đối giữa chủng loại Robusta - arabica. So với khả năng thực tế thì mức tăng năng suất của ta chưa cao và còn không đồng đều. hơn nữa việc mở rộng diện tích cà phê mang tính chất phong trào, tự phát, diện tích trồng của ta đã trồng kém hiệu quả. Chính vì vậy ta phải tiến hành đánh giá lại chất lượng cây cà phê giảm diện tích kém hiệu quả để tập trung đầu tư thâm canh trên phần diện tích cà phê hiện có để nân cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Về hướng đầu tư thâm canh cần tập trung vào một số vấn đề sau: - Tập trung giải quyết tốt vấn đề đáp ứng nhu cầu về phân bón cho thâm canh. Thời gian vừa qua cung cấp phân bón cho thâm canh cà phê rất ít và còn thiếu nhiều, vì vậy cần phải quy hoạch hợp lý các nguồn phân bón ở các trạm, nhà máy, nuôi gia súc, gia cầm để đáp ứng nhu cầu phân bón cho việc trồng cà phê. Nếu các cơ sở cung cấp phân bón không cung cấp đủ số lượng cần thiết cho ngành cà phê thì phải nhập khẩu phân, mở rộng hệ thống dịch vụ đáp ứng kịp thời yêu cầu phân bón cho thâm canh cây cà phê. Số lượng và chất lượng của phân bón phải phù hợp với quy trình kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê, phân bón hữu cơ với 2 năm 1 lần khối lượng từ 12 - 15 tấn/ ha và hàng năm cuối vụ phải bón khoảng 200 kg đạm nguyên chất, 100 kg kali và 200 kg lân. - Tập trung mọi nguồn lực vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho thâm canh vì cây cà phê không yêu cầu chi phí hàng năm lớn. - Tập trung giải quyết tốt vấn đề về nước tưới cho cà phê. Vấn đề nước tưới rất khó khăn cho 2 vùng Tây nguyên và Đông Nam Bộ. thực tế đầu tư của 2 vùng vào hệ thông tưới tiêu là rất lớn nhưng hiệu quả vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu trông cà phê, nguồn nước mạnh hiện nay rất thiếu do nạn phá rừng, nguồn nước ngầm cũng cạn dần do quá trình giếng khoan khai thác. Mặt khác thiết bị máy tưới ống dẫn, nguồn năng lượng cho mạng lưới tưới có nhiều khó khăn, điều đó ảnh hưởng toí năng suất cà phê do đó cần thực hiện một số biện pháp sau: + Trồng rừng là phương pháp quan trọng, lâu dài + Xây dựng hệ thống thuỷ điện để tiếp thu nguồn điện lưới quốc gia + Cung cấp đầy đủ các thiết bị phục vụ cho việc tưới nước - Cần đáp ứng kịp thời yêu cầu phòng trừ sâu bệnh cho cà phê Sâu bệnh phá hại làm ảnh hưởng rất lớn đến năng suất cà phê. Khi mở rộng quy mô sản xuất - Hỗ trợ, tạo điều kiện giúp đỡ, khuyến khích cà phê ngoài quốc doanh, đẩy mạnh thâm canh sản xuất. Vì hiện nay cà phê ngoài quốc doanh chiếm ngoài 30% diện tích cà phê trong nước. 1.3. Tiếp tục phát triển cay cà phê, ổn định cay cà phê với giảm sự chênh lệch về chủng loại cà phê. Do đặc điểm về thị trường cà phê thế giới hiện nay chủ yếu tiêu thụ cà phê arabica (chiếm 70%), nhu cầu tiêu thụ cà phê này vẫn tăng, trong khi cơ cấu sản xuất cà phê của ta 90% cà phê Robusta, 10% cà phê arabica đây là sự bất hợp lý lớn. giá cà phê arabica trên thị trường thế giới cao hơn giá cà phê robusta trung bình khoảng 20 - 30% thậm chí có lúc cao hơn 42,5%. Hơn nữa việc trồng cà phê arabica có lợi hơn cà phê Robusta thể hiện ở đầu tư xây dựng cơ bản để sản xuất một ha cà phê. Cà phê được trồng chủ yếu ở miền Núi phía Bắc, giá ngày công lao động thấp. Cà phê chỉ có thời gian kiến thiêt cơ bản ngắn. 1.4. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ sản xuất. Cây cà phê là cây công nghiệp dài ngày đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu và phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí hậu và các điều kiện tự nhiên khác. Vì vậy để tạo ra những động lực khuyến khích người sản xuất tăng cường đầu tư sản xuất nhà nước phải có những chính sách sau: * Chính sách hỗ trợ vốn: Thông qua các chính sách trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm vào một số vấn đề cơ bản sau: - Đầu tư vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng có tác dụng lớn trên các vùng sản xuất cà phê rộng lớn nhất định cụ thể là việc đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi phục vụ cho tưới tiêu nước, hệ thống giao thông, các cơ sở chế biến có trình độ khác, hệ thống kho tàng bảo quản sản phẩm, các cơ sở dịch vụ sửa chữa máy móc thiết bị, dịch vụ mua bán vật tư sản phẩm. - Khi đầu tư thì một phần vốn đầu tư do ngân sách cấp, phần khác nhà nước cho vay hoặc nhà nước và nhân dân cùng làm để huy động vốn trong dân. - Mọi công trình cơ bản đã hoàn thành phải giao cho các cơ quan nhất định quản lý, sử dụng, các cơ quan này có trách nhiệm khai thác các công trình qua dịch vụ sản xuất hoặc thu lệ phí sử dụng công trình đó để hoàn thành vốn nâng cấp. - Nhà nước áp dụng chính sách cho vay dài hạn với việc mở rộng diện tích cà phê và cho vay ngắn hạn đối với cà phê thâm canh. Nhà nước căn cứ vào thực trạng của thị trường cà phê mà có chính sách hỗ trợ nông dân một cách kịp thời và hợp lý. * Chính sách thuế nông nghiệp: chính sách thuế nông nghiệp tác động thông qua các biện pháp sau: - Thu thuế theo hạng đất và theo biến động của giá cả thị trường với mục đích để xây dựng giá bảo hiểm cho sản xuất khi giá cà phê thế giới xuống thấp. - Với các vùng đất trống, đồi trọc phải áp dụng thời gian miễn thuế dài hơn cụ thể là khoảng 3 - 5 năm, từ khi cây cà phê được đưa vào khai thác mới thu thuế để khuyến khích trồng trên các vùng đất này. * Chính sách trợ giá sản xuất: Đặc diểm rất quan trọng trong sản xuất công, nông nghiệp dài ngày nói chung và cây cà phê nói riêng là nhu cầu tiêu thụ đều đặn qua các kỳ, còn cung cà phê chỉ tập trung vào thu hoạch, vì vậy đến kỳ thu hoạch cung cà phê có thể vượt quá cầu nên giảm giá cà phê là ảnh hưởng đến lợi ích của người trồng cà phê. Hơn nữa giá cà phê trên thị trường thế giới biến động mạnh gây ra hiện tượng người thu gom và người xuất khẩu, ép giá đối với người trồng cà phê. Vì vậy để đảm bảo lợi ích cho người trồng cà phê, nhà nước quy định mức giá sàn đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất và có lãi cho người trồng cà phê. Nhà nước cũng cần sử dụng quỹ dự trữ để bình ổn giá cà phê trên thị trường. * Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực chế biến cà phê như khâu rang xay và chế biến cà phê hoà tan. Đặc biệt không cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tham gia sản xuất cà phê nhân. 2. Các giải pháp nhằm đầy mạnh xuất khẩu cà phê Việt Nam. 2.1. Giải pháp về chế biến, nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu. Để tăng sức cạnh tranh và đảm bảo uy tín cà phê Việt Nam trên thị trường thời trang cần phải tập trung vào đổi mới công nghệ trong sản xuất, giải quyết tốt công tác thu hoạch, chế biến và bảo quản sản phẩm là nội dung cơ bản nhất là thách thức lớn của ngành cà phê Việt Nam hiện nay. Khâu đầu tiên rất quan trọng quyết định đến chất lượng cà phê chế biến đảm bảo nguồn nguyên liệu tốt khâu này được quyết định bởi khâu thu hái cà phê cần tăng cường công tác đảm bảo công tác thu hoạch tốt, loại bỏ quả hái quá xanh, đảm bảo cà phê chín được thu hoạch phải chiếm 95%. Nếu đảm bảo được chất lượng quả trên thì vẫn áp dụng công nghệ chế biến ướt hoặc áp dụng cán bộ chế biến phơi xát khô vẫn đạt yêu cầu chất lượng, xuất bán theo tiêu chuẩn thử nếm, mới bảo đảm lượng vị và các tiêu chất chất lượng khác. Về chế biến nâng cao chất lượng, cà phê xuất khẩu ta có các giải pháp như sau: * Tập trung đầu tư chế biến cà phê nhằm xuất khẩu Hiện nay chúng ta xuất khẩu cà phê nhân sống là chủ yếu, được thực hiện qua hai công đoạn. Sơ chế cà phê nhân và chế biến cà phê nhân xuất khẩu. - Sơ chế cà phê nhân: Đây là công đoạn có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong công đoạn này khi thu hoạch cà phê người ta lấy quả cả phê tươi phối khô theo phương pháp chế biến khô hoặc theo phương pháp chế biến ướt cà phê tươi cho vào máy xay xát thành nhân cà phê. Để thực hiện tốt và có hiệu quả công đoạn sơ chế cà phê nhân ta phải: * Đầu tư xây dựng hệ thống sản phối, đúng kỹ thuật và tiêu chuẩn về cự ly khoảng cách, không để các quả tương chồng đống lên nhau, nhằm hạn chế tỷ lệ hạt đen, hạt bị nấm mốc. Hạtrách nhiệm chế phối sạn đất, trên đường giao thông để không bị lẫn cát, đá và đất. * Đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến theo phương pháp ướt đảm bảo màu sắc, hương vị và chất lượng sản phẩm để bán theo tiêu chuẩn chế biến thử nếm, nâng cao giá trị xuất khẩu. + Nghiên cứu, trang bị hoàn thiện các thiết bị xay xát tươi, xát khô, hệ thống sấy nhập ngoại hoặc chế tạo trong nước với quy mô nhỏ và vừa cho hộ gia đình hoặc nhóm hộ gia đình. Đồng thời khuyến khích các đơn vị, cá nhân, hộ gia đình có điều kiện đầu tư những công nghệ chế biến trên để thực hiện dịch vụ sơ chế cho các hộ sản xuất. - Chế biến cà phê nhân xuất khẩu, đây là công đoạn chế biến quan trọng sau thu hoạch, được thực hiện trong các doanh nghiệp Nhà nước và các đại lý thu mua chế biến xuất khẩu. Với công đoạn này cần được đâù tư dây chuyền công nghệ tái chế, sàng phân loại, sàng tạp chất, hệ thống sấy khô đổi mới độ ẩm, đánh bóng và chia nhỏ hạt đem về. Khuyến khích các cơ sở chế biến đầu tư xây dựng cơ sở nhà kho bảo quản, đổi mới công nghệ các thiết bị tiên tiến hiện đại đánh bóng, sấy khô và tách mẫu bày laser để nâng cao sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam. Đảm bảo trên 80% lượng cà phê xuất khẩu đạt loại cao nhất. * Quan tâm đầu tư chiều sâu. Cần phải đầu tư công nghệ để đa dạng hoá sản phẩm cà phê chế biến chiều sâu. Làm tăng tính cạnh tranh của cà phê xuất khẩu trên thị trường, làm tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê. Ngoài sản phẩm cà phê nhân sống xuất khẩu cần đầu tư chế biến sâu là các sản phẩm cà phê khác như cà phê rang xay, cà phê hoà tan đã có sản phẩm cơ sở dùng nguyên liệu là cà phê như: Bánh, kẹo, sữa và các dạng cà phê lỏng đóng hộp... - Cà phê rang xay, là sản phẩm tiêu thụ chính trên thị trường nội địa, chủ yếi do hộ gia đình và các doanh nghiệp chế biến. Trong tương lai chúng ta sẽ phát triển loại cà phê này trên thị trường thế giới trước hết là thị trường Trung Quốc và Hoa Kỳ. - Cà phê hoà tan: ngày càng được tiêu dùng rộng rãi trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các sản phẩm mới chất lượng cao được chế biến trên dây truyền công nghệ tiên tiến, hiện đại, được người tiêu dùng ưu chuộng do vậy ngoài việc là đổi mới công nghệ, nâng cao công suất chế biến cà phê hoà tan. Cần có chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư 100% vốn vào lĩnh vực này, hoặc Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn xây dựng cơ sở chế biến cà phê hoà tan. * Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng cà phê xuất khẩu phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài các biện pháp kỹ thuật công tác và công nghệ chế biến ta có thể nâng cao chất lượng cà phê bằng biện pháp rà soát, sửa đổi, bổ sung và sớm hoặc thiên hệ thống tiêu chuẩn cà phê Việt Nam phù hợp với hệ thống tiêu chuẩn quốc tế. Hơn thế nữa muốn cho người dân thực hiện đúng với hệ thống tiêu chuẩn thì phải tăng cường công tác quản lý và tuyên truyền phổ cập rộng rãi tiêu chuẩn chất lượng cà phê Việt Nam đến tận nguồn sản xuất, người thu mua, tạo cho mọi người có ý thức trách nhiệm thực hiện nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo uy tín cà phê nước ta trên thị trường thế giới. 2.2. Giải pháp về Marketing mở rộng thị trường. Sự phát triển của ngành cà phê phụ thuộc vào những yếu tố nhất là giai đoạn hiện nay thì nhân tố thị trường đóng vai trò càng đặc biệt quan trọng hơn. Nhân tố thị trường là nhân tố cơ bản còn nan giải đối với ngành cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong thế giới qua. Nhìn ra thị trường thế giới một điều bất lợi cho ngành cà phê nói chung là nhu cầu tiêu thụ cà phê tăng không nhiều, trong khi khả năng sản xuất và xuất khẩu ngày càng tăng nhanh. Các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn luôn được mùa. Không những thế ngành cà phê đang còn phải cạnh tranh với các ngành sản xuất đồ uống khác. Hơn nữa thị trường cà phê thế giới còn mới mẻ và phức tạo đối với chúng ta. Tuy sức mạnh cạnh tranh của cà phê xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới trở nên là một vấn đề bức xúc hiện nay. Trong đó tăng cường Marketing mở rộng thị trường là giải pháp ưu tiên hàng đầu để đẩy mạnh xuất khẩu cà phê cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sai: - Nghiên cứu và dự báo thị trường. Dự báo thị trường là căn cứ để ta tiến hành điều chỉnh sản xuất, cho ơhù hợp với nhu cầu thị trường, để xây dựng một chiến lược kế hoạch, sản xuất kinh doanh hợp lý cho ngành cà phê nhằm thúc đẩy mọi nỗ lực của từng doanh nghiệp từng tổ chức kinh doanh cà phê xuất khẩu thì cần phải nắm bắt thị trường nghiên cứu thị trường đầy đủ và dự báo chính xác thị trường tiêu thụ. - Tổ chức hệ thống thu mua tiêu thụ sản phẩm: Thực tế cho thấy doanh nghiệp nào tổ chức hệ thống thu mau tốt thì mua được khối lượng sản phẩm lớn hơn. Đây là phương thức chủ yếu hạn chế rui ro, đảm bảo chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh. Các đơn vị kinh doanh chất lượng cần tổ chức, củng cố và quản lý thu mau sản phẩm của mình, mua trực tiếp từ nguồn sản xuất. Hệ thống thu mua của Việt Nam rất đa dạng và phức tạp, các cơ quan chức năng cần làm tốt hơn nữa công tác quản lý Nhà nước về hoạt động của hệ thống thu mua cà phê hiện nay, đảm bảo tính hợp lý, thuận lợi, thông suốt và bình đẳng. - Tổ chức tốt công tác thông tin, giới thiệu sản phẩm, tiếp cận thị trường sản xuất cà phê chủ yếu để xuất khẩu, cần đâù tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu và phát triển thị trường phải nắm chắc thông tin thị trường, xử lý thông tin tốt về giá cả thị trường thế giới, tránh tình trạng nhiều loại thị trường, lũng đoạn thị trường đồng thời tăng cường công tác tiếp thị và khai thác thị trường, xây dựng chiến lược thị trường lâu dài và ổn định. - Phát huy lợi thế để mở rộng thị trường tiêu thụ cà phê: Nước ta có lợi thế so sánh trong việc đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu cà phê so với các loại khác trên thế giới. Vì vậy tăng cường sản xuất cà phê xuất khẩu cà phê là hướng đi đúng nhằm phát huy lợi thế so sánh trong hợp tác quốc tế. Đối với nước ta cà phê là cây mang lại giá trị kinh tế cao nhất trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta đối với thế giới cà phê là mặt hàng được đầu cơ mạnh nhất nên kinh doanh cà phê đối với một số doanh nghiệp kinh doanh cà phê thế giới mang nặng tính chiến thuật. Vì vậy giá cà phê trên thị trường thế giới biến động rất phức tạp. Tuy nhiên Việt Nam là một trong những nước hàng đầu trong sản xuất và xuất khẩu cà phê nếu chúng ta biết mở rộng thị trường tiêu thụ và phát huy hơn nữa yếu tố thị trường thì giá cà phê Việt Nam có thể nganh với giá cà phê của các nước trong khu vực. Hiện nay thị trường tiêu thụ của ta còn phần lớn là thị trường trung gian. Chênh lệch giữa giá cà phê Arabica và cá phê Robusta đã được thu hẹp. Điều này rất có lợi cho cà phê Việt Nam. 2.3. Giải pháp về hỗ trợ xuất khẩu. Việc thiếu vốn đầu tư cũng dẫn đến những thuật hai cho các doanh nghiệp xuất khẩu vì họ không thể thu mua cà phê để dự trữ và chờ cơ hội giá lên thì xuất khẩu thiếu vốn cũng dần đến thụ động với biến động của thị trường thế giới. Vì vậy cần phải có biện pháp cơ bản để giải quyết tình trạng thiếu vốn đó là: - Nhà nước cần thông qua hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vay vốn khoán tín lớn đặc biệt là thời gian hoàn vốn đủ dài để các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê có thể thu mua cà phê xuất khẩu kịp thời và đủ thời gian tiêu thụ được với giá cao. - Cho phép các doanh nghiệp Nhà nước giữ lại số tiền hao mòn tài sản cố định, tạo cho họ có nguồn vốn lớn để đầu tư phát triển. Bên cạnh đó Chính phủ nên bổ sung thêm vốn lưu động cho các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả, có lượng tồn kho lớn. - Từng bước cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước bằng cách bán một phần sở hữu cho ngay những công nhân thương trường, các Công ty thuộc VINACAFE. - Đối với vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta sẽ tăng cường thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài để phát triển ngành cà phê đặc biệt là lĩnh vực chế biến sâu. nhưng chỉ khuyến khích các dự án đầu tư dưới hình thức liên doanh nghiệp không cho phép. Các dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài: như vậy sẽ quản lý tốt hơn đồng thời ngăn chặn nạn "đầu tư chui" của các Công ty nước ngoài. 2.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả của bộ mạng quản lý hoạt động xuất khẩu cà phê. Việc quản lý hoạt động sản xuất và xuất khẩu của tụ hội phân tán ngoài hai tổ chức quản lý lớn nhất là Vicacaphe và Vicofa còn có nhiều cơ quan khác nữa đang chịu trách nhiệm về những mặt khác nhau trong công tác quản lý cà phê xuất khẩu. Mô hình quản lý kiểu này khác so với mô hình quản lý các hoạt động xuất khẩu cà phê của một số nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới. Họ thường tổ chức một cơ quan chịu thương mại quản lý mọi hoạt động của ngành. Thực tế các nước này đã thu được những thành công nhất định đem lại hiệu quả cao và phát huy được những nỗ lực trong nuôi hộ. Chúng ta cần phải áp dụng có chọn lọc những bài học kinh nghiệm của những nước này. Chúng ta phải nhanh chóng thành lập một tổ chức liên kết được mọi hoạt động của sản xuất xuất khẩu lại (có thể phát triển bắt đầy từ Vinacaphe hoặc Vicofa). Tổ chức này sẽ chịu trách nhiệm đối với mọi hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam bao gồm: sản xuất, thị trường, chế biến, xuất khẩu. Tổ chức này sẽ xây dựng và quản lý một hệ thống kho để trích trừ và bảo quản cà phê. Việc xây dựng hệ thống kho giúp chúng ta chủ động đối phó với mọi biến động của thị trường cà phê thế giới (khi giá giảm ta có hệ thống kho để giữ hàng lại, khi giá cao ta có hàng ngay để xuất), đồng thời nó là một điều kiện để tạo ra những ACPC. Hệ thống kho này còn dùng để cá nhà kinh doanh xuất khẩu cà phê bảo quản hàng hóa của mình. có như thế mới có thể thích nghi được với biến động cà phê thế giới. Kinh phí ban đầu có thể do Nhà nước cấp, nhưng sau đó chủ yếu lấy từ nguồn thu trên mỗi tấn cà phê xuất khẩu mà nó cập giải pháp và khoản đóng góp thường xuyên của các hội viên. Tuy hoạt động độc lập nhưng nó lại thực hiện các chính sách dưới sự giám sát của Chính phủ, Bộ nông nghiệp, Bộ thương mại... Vị trí vai trò của tổ chức này có thể ví như vị trí vai trò của Phòng công nghiệp và Phòng thương mại Việt Nam đối với hoạt động công nghiệp và thương mại ở nước ta. Một số kiến nghị . 1. Về phía Nhà nước: Việc nghiên cứu tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt nam trong thời gian vừa qua em xin nêu một số kiến nghị sau. 1) Rõ ràng cây càphê xứng đáng là mặt hàng chủ chủ lực trong chiến lược phát triển nông nghiệp Việt nam. Vì vậy tăng cường sản xuất và xuất khẩu cà phê là hướng đi đúng khai thác được lợi thế so sánh của ta, đồng thời góp vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay vì vậy Nhà nước cần phải có những chính sách khuyến khích thoả đáng để ngành cà phê phát triển, phát huy được vị trí và tầm quan trọng to lớn của nó trong giai đoạn hiện nay bằng việc hoàn thiện hệ thống các chính sách, đòn bẩy (về vốn đầu tư, tín dụng, đất đai….) nhằm tạo ra môi trường thông thoáng dễ chịu thúc đẩy đầu tư phát triển cây cà phê hiệu quả nhất. 2) Nhà nước có những chính sách trợ giá thoả đáng cho các hộ gia đình cùng kỳ sản xuất cà phê đảm bảo lợi ích cá nhân của họ. 3) Nhà nước còn đứng ra tổ chức tích tụ và tập chung vốn, của nhiều thành phần kinh tế trên nền tảng là các doanh nghiệp Nhà nước để có vốn dự trù cà phê với số lượng lớn nhằm chủ động đối phó với những biến động giá cả cà phê trên thị trường thế giới vì lợi ích của toàn ngành cà phê Việt nam kết hợp với các doanh nghiệp của các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh cà phê xuất khẩu. 4) Nhà nước đứng ra tổ chức kiện toàn hệ thống các tổ chức, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu để thống nhất, phối hợp chặt chẽ mọi hoạt động sản xuất, xuất khẩu cà phê từ người trồng cà phê, người thu gom, người chế biến, người xuất khẩu. Nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh của ngành xuất khẩu cà phê Việt nam . 5) Nhà nước đứng ra tập trung và tích tụ vốn cho một doanh nghiệp Nhà nước đầu đàn của ngành cà phê để phát triển công nghệ chế biến cà phê nhằm nâng cao chất lượng của của cà phê Việt nam từ đó tăng tính canh tranh của cà phê xuất khẩu . 6) Nhà nước xây dựng chính sách giao đất trồng đồi trọc cho các hộ gia đình du canh du cư. 7) Nhà nước phát triển thời cơ chế để thu hút vốn đầu tưtừ nước ngoài và lĩnh vực chế biến sau cà phê xuất khẩu để nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu và tăng tính cạnh tranh. 2. Về phía ngành. - Xuất phát từ tình hình thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê Việt nam. Thời gian qua trên cơ sở những thành tựu và những mặt còn hạn chế của ngành xuất khẩut càphê. Em xin cô những kiến nghị sau đối với ngành. - Ngành cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác Marketing, xúc tiến thị trường, tìm thị trường mới giảm và tăng bước xoá sổ thị trường xuất khẩu trung gian vì lợi ích của quốc gia và lợi ích của ngành và củangười sản xuất và xuất khẩu cà phê. - Cần phải chú ý đến nâng cao chất lượng cà phê để tăng tính cạnh tranh và uy tín của Cà phê Việt nam trên thị trường thế giới bằng việc tăng cường đầu tư vào công nghệ chế biến luôn mới. - Quan tâm đặc biệt đến việc nghiên cứu chọn và tạo giống mới đồng thời nhập khẩu những giống cà phê mới hiệu quả cao, chất lượng nhiều - Không ngừng nghiên cứu đến đổi mới công nghệ học hỏi công nghệ tiên tiến từ nước ngoài trong sản xuất và chế biến cà phê nhằm nâng cao chất lượng cà phê. - Tìm mọi cách để giảm thiểu giá thành sản xuất nhằm nâng cao tính cạnh tranh của cà phê xuất khẩu Việt nam. - Luôn luôn kiện toàn chỉnh đốn bộ máy hoạt động của mình để tạo ra sự phối hợp đồng bộ chăth chẽ giữa các khâu từ sản xuất đến xuất khẩu để nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh của cà phê Việt nam . - Không ngừng đổi mới, hoàn thiện hệ thống điều chuẩn chất lượng để từng bước nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam ngang tầm với khu vực và thế giới. Kết luận Trên đây là tất cả những gì em nhận thức về thực trạng phát triển của ngành cà phê Việt nam trong thời gian qua. Nhờ làm chuyên đề này của em đã hiểu được mộy cách sâu sắc và bản chất hơn về ngành cà phê Việt nam đồng thời tạo điều kiện cho em vận dụng những kiến thức đã được trang bị của mình vào những tình huống cụ thể là tìm ra giải pháp phát triển cho ngành Cà phê Việt nam. Nhằm nâng cao hơn nữa uy tín cũng như tính cạnh tranh của ngành cà phê Việt nam trên thị trường thế giới. Đây là cơ hội rất quan trọng bước đầu để em cọ sát những kiến thức với thực tiến sinh động. Em xin kết thúc chuyên đề tại đây. Xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ của thầy giáo Ngô Thắng Lợi cùng cán bộ hướng dẫn Hoàng Thị Lâm và các cô chú trong Vụ Kế Hoạch Thống Kê Bộ Thương Mại. Em rất mừng được làm việc với các thầy và các cô chú đã giúp cho em hiểu được nhiều vấn đề mang tính xã hội qua đó em được rèn luyện rất phong làm việc. Tất nhiên trong kỳ thực tập vừa qua em đã mắc rất nhiều thiếu xót và khuyết điểm em xin thầy và các cô chú thông cảm cho em. Em xin chân thành cảm ơn Mục lục Trang Nhận xét của cơ quan thực tập Nhận xét của giáo viên hướng dẫn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29141.doc
Tài liệu liên quan