Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng Lũng Lô

Mục lục Chương I những vấn đề lý luận chung về phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp. I. Khái niệm, phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. 1. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm xây lắp ảnh hưởng đến quá trình hình thành chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Khác với các ngành sản xuất vật chất khác, ngành xây dựng cơ bản là ngành có khả năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền kinh tế q

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện công tác phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty xây dựng Lũng Lô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uốc dân. Nó tạo ra cơ sở vật chất cho toàn xã hội, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân, tăng cường tiềm lực kinh tế, lẫn quốc phòng cho đất nước. Ngành xây dựng cơ bản có nhiều đặc điểm riêng biệt xuất phát từ tính đặc thù của sản phẩm ngành xây dựng và sản xuất xây dựng. Chúng có ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức sản xuất và quản lý tài chính trong ngành xây dựng. Sản phẩm xây lắp có tính chất cố định: Sản phẩm xây dựng sau khi hoàn thành thì không thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác, mà nơi sản xuất đồng thời là nơi sử dụng công trình sau này. Do đó, các điều kiện địa chất, thuỷ văn, cơ sở hạ tầng ở nơi địa điểm xây dựng công trình được lựa chọn có ảnh hưởng rất lớn đến quá trinhf xây dựng và khai thác công trình, vì thế trong quản lý kinh tế xây dựng phải nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, điều tra, khảo sát để lựa chọn địa bàn xây dựng. Mặt khác, do sản phẩm xây dựng cố định nên lực lựơng sản xuất của ngành xây dựng thường xuyên di chuyển từ công trình này sang công trình khác. Điều đó có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của người lao động, chi phí cho khâu di chuyển đòi hỏi công tác quản lý xây dựng cơ bản phải đặc biệt chú ý. Sản phẩm xây dựng có thời gian sử dụng lâu dài: Sản phẩm của xây dựng cơ bản thường tồn tại và hoạt động trong nhiều năm và có thể tồn tại vĩnh viễn. Đặc điểm này đòi hỏi phải đặc biệt chú trọng tới công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong tất cả các khâu từ điều tra, khảo sát, thiết kế cho đến thi công, nghiệm thu và bàn giao công trình. Sản phẩm xây dựng có quy mô lớn, kết cấu phức tạp: Quy mô của sản phẩm xây dựng được thể hiện về mặt hiện vật là hình khối vật chất lớn, về mặt giá trị là vốn nhiều. Kết cấu sản phẩm phức tạp, một công trình gồm các hạng mục công trình, một hạng mục công trình có thể gồm nhiều đơn vị công trình, một đơn vị công trình bao gồm nhiều bộ phận, các bộ phân công trình lại có yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Đặc điểm này đòi hỏi khối lượng vốn đầu tư, vật tư, lao động, máy móc thi công nhiều và đòi hỏi phải có nhiều giải pháp thi công khác nhau. Do vậy, trong quản lý xây dựng phải chú trọng kế hoạch khối lượng, kế hoạch vốn đầu tư, lập định mức kinh tế kỹ thuật và quản lý. Thời gian xây dựng công trình dài: Điều này dẫn đến vốn đầu tư xây dựng của chủ đầu tư và vốn sản xuất của tổ chức xây dựng bị ứ đọng lâu. Các tổ chức xây dựng dễ gặp phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian như: thời tiết, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, giá cả thị trường… Công trình xây dựng dễ bị hao mòn ngay khi hoàn thành, do sự phát triển của khoa học công nghệ nếu thời gian thiết kế và thi công xây dựng dài. Điều này đòi hỏi các bên tham gia phải chú trọng về mặt thời gian, phương thức thanh toán, lựa chon phương án, tiến độ thi công phù hợp cho từng hạng mục công trình, toàn bộ công trình. Sản phẩm xây dựng mang tính đơn chiếc: Không bao giờ có hai công trình xây dựng giống hệt nhau, bởi lẽ sản phẩm xây dựng được sản xuất theo đơn đặt hàng, ngay sau khi hoàn thành sẽ được tiêu thụ ngay theo giá cả đã thoả thuận giữa các bên tham gia. Điều này dẫn đến năng xuất lao động không cao, gây khó khăn trong việc so sánh giá thành, mức hạ giá thành của sản phẩm xây lắp. Hoạt động xây dựng chủ yếu ngoài trời nên chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên, ảnh hưởng này thường xuyên làm gián đoạn quá trình thi công, năng lực của doanh nghiệp không điều hoà, ảnh huưởng đến sản phẩm dở dang, vật tư thiết bị thi công…Đặc điểm này yêu cầu doanh nghiệp xây dựng phải lập tiến độ thi công, tổ chức lao động hợp lý để tránh thời tiết xấu, giảm thiểu tổn thất do thời tiết gây ra, tổ chức cải thiện đời sống của người lao động. Những đặc điểm trên đây của ngành xây dựng cơ bản cũng như sản phẩm xây lắp có ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý chi phí và gía thành sản phẩm xây lắp, đòi hỏi các doanh nghiệp xây lắp phải có các biện pháp, kế hoạch chi phí và giá thành sản phẩm hiệu quả để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Để thực hiện được điều này, trước hết chúng ta phải cùng tìm hiểu khái niệm về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 2. Chi phí sản xuất xây lắp. 2.1 Khái niệm chi phí sản xuất xây lắp. Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp của cả 3 yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất cũng chính là quá trình tiêu hao của chính các yếu tố trên. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào yếu tố chủ quan của người sản xuất . Trong nền kinh tế nói chung, đặc biệt là nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực chất là việc sản xuất sản phẩm ra thị trường nhằm mục đích kiếm lời. Đó chính là quá trình doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định, những chi phí đó biểu hiện dưới hình thức hiện vật hay giá trị, đó là điiêù kiện vật chất bắt buộc để các doanh nghiệp có được thu nhập. Do vậy,để tồn tại, phát triển và kinh doanh mang lại lợi nhuận cao, các doanh nghiệp phải tìm mọi cách để quản lý tốt chi phí của mình. Muốn vậy, các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải nắm chắc bản chất và khái niệm chi phí sản xuất. Vậy chi phí sản xuất kinh doanh là gì? Ta có cách hiểu chung nhất về chi phí sản xuất như sau :” Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp thực tế đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất trong một kỳ kinh doanh nhất định”. Đối với doanh nghiệp xây lắp: Doanh nghiệp xây lắp là một đơn vị kinh tế cơ sở, có tư cách pháp nhân, được Nhà nước giao vốn có trách nhiệm sử dụng vốn có hiệu quả, bảo toàn vốn, phát triển vốn và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước, hoạt động nhằm mục tiêu kinh tế Nhà nước giao. Là một doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất vật chất, hoạt động sản xuất mang tính đặc thù, khác với các ngành sản xuất khác. Địa điểm sản xuất không cố định, sản phẩm là những công trình, hạng mục công trình có kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất dài phải lập dự toán cho từng công trình, hạng mục công trình trước khi sản xuất, nơi sản xuất cũng chính là nơi tiêu thụ. Quá trình hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp là sự kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất đó là: Sức lao động của con người, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Sự tham gia của các yếu tố vào quá trình sản xuất hình thành nên các khoản chi phí tương ứng.Tương ứng với việc sử dụng TSCĐ là chi phí khấu hao TSCĐ, tương ứng với sử dụng nguyên vật liệu là chi phí về nguyên vật liệu,tương ứng với việc sử dụng lao động là chi phí tiền công, tiền lương… Như vậy, chi phí sản xuất xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí cần thiết khác mà doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành hoạt động sản xuất xây lắp trong một thời kỳ nhất định. Trong doanh nghiệp xây lắp ngoài hoạt động sản xuất xây lắp tạo ra các sản phẩm xây lắp còn có các hoạt động khác. Do đó chỉ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất xây lắp nhằm tạo ra sản phẩm xây lắp mới được coi là chi phí sản xuất xây lắp. 2.2 Phân loại chi phí sản xuất xây lắp. Chi phí sản xuất xây lắp trong các doanh nghiệp xây lắp phát sinh thường xuyên trong quá trình sản xuất và bao gồm nhiêù loại, có nội dung, công dụng và đặc tính khác nhau nên yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Vì vậy, để quản lý tốt chi phí thì cần phải phân loại chi phí sản xuất xây lắp. Có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại chi phí sản xuất xây lắp. Có nhiều cách phân chia chi phí sản xuất, song mỗi cách phân chia chi phí sản xuất phải đảm bảo được các yêu cầu sau: - Tạo điều kiện sử dụng thông tin kinh tế nhanh nhất cho công tác quản lý chi phí sản xuất phát sinh, phục vụ tốt cho công việc kiểm tra, giám sát chi phí sản xuất của doanh nghiệp - Đáp ứng đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc tính toán hiệu quả các phương án sản xuất nhưng lại cho phép tiết kiệm chi phí hạch toán và thuận lợi sử dụng thông tin hạch toán. Dưới đây trình bày các cách phân loại chi phí sản xuất xây lắp chủ yếu. 2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí sản xuất . Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có mục đích và công dụng nhất định. Theo cách phân loại này các khoản chi phí có mục đích, công dụng giống nhau được xếp vào cùng một khoản chi phí ,không cần xét đến khoản mục chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Chi phí sản xuất xây lắp được chia thành các khoản mục sau: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là chi phí về các loại vật liệu chính, vật liệu phụ, vật kết cấu, vật liệu luân chuyển (ván khuôn, đà giáo) cần thiết để tạo nên sản phẩm xây lắp, không bao gồm chi phí vật liệu đã tính vào chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung. Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí tiền công, tiền lương, các khoản phụ cấp có tính chất lương của công nhân trực tiếp xây lắp, khoản mục này không bao gồm các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất xây lắp và chi phí tiền lương nhân viên quản lý đội, nhân viên điềukhiển máy thi công. Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí sử dụng xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất xây lắp công trình bao gồm: Chi phí khấu hao máy thi công; Chi phí sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên máy thi công; chi phí tiền lương của nhân viên điều khiển máy và phục vụ máy thi công; Chi phí nhiên liệu và động lực dùng cho máy thi công và các khoản chi phi khác liên quan trực tiếp đến việc sử dụng máy thi công như chi phí di chuyển, tháo, lắp máy thi công … Khoản mục chi phí sử dụng máy thi công không bao gồm khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương nhân viên điều khiển máy thi công. Chi phí sản xuất chung: là các khoản chi phí trực tiếp khác ngoài các khoản chi phí trên phát sinh ở tổ đội, công trường xây dựng bao gồm: Lương nhân viên quản lý đội, các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất xây lắp, nhân viên quản lý đội, công nhân điều khiển máy thi công, Khấu hao tài sản cố định dùng chung cho hoạt động của tổ, đội và chi phí khác liên quan đến hoạt động của tổ, đội. Phân loại chi phí theo tiêu thức này chỉ rõ chi phí doanh nghiệp bỏ ra cho từng lĩnh vực hoạt động, từng địa điểm phát sinh, làm cơ sở cho việc tính giá thành sản phẩm xây lắp theo khoản mục, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. 2.2.2. Phân loại chi phí sản xuất xây lắp theo mối quan hệ giữa chi phí với đối tượng chịu chi phí . Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất xây lắp được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. - Chi phí tực tiếp: là chi phí liên quan trực tiếp đến từng đối tượng chịu chi phí. Những chi phí này được tập hợp trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. - Chi phí gián tiếp: là chi phí liên quan đến nhiều đối tượng chịu chi phí, kế toán không thể tập hợp trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công trình mà phải tập hợp riêng sau đó phân sau đó phân bổ cho từng đối tượng theo các tiêu chuẩn phân bổ. Do mỗi loại chi phí có tác dụng khác nhau đối với mỗi loại công trình, hạng mục công trình nên việc phân loại rõ chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp có ý nghĩa thực tiễn cho việc đánh giá hợp lý chi phí và tìm biện pháp không ngừng giảm chi phí gián tiếp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. 2.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm. Theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với khối lượng sản phẩm thì chi phí sản xuất của doanh nghiệp dược chia thành chi phí cố định (bất biến), chi phí biến đổi (khả biến), chi phí hỗn hợp. - Chi phí bất biến (hay còn gọi là định phí) là các chi phí mà tổng số không thay đổi khi có sự thay đổi về khối lượng của hoạt động sản xuất hoặc khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. - Chi phí khả biến (hay còn gọi là biến phí) là những chi phí thay đổi về tổng số tỷ lệ với sự thay đổi của mưc độ hoạt động, khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ. Chi phí hỗn hợp là chi phí mà bản thân nó gồm các yếu tố của định phí và biến phí. Phân loại chi phí theo cách này có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý của doanh nghiệp, phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra quyết định quản lý cần thiết để hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả kinh doanh. Ngoài các cách phân loại chi phí sản xuất trên tuỳ thuộc vào yêu cầu công tác quản lý chi phí sản xuất xây lắp có thể phân loại theo các tiêu chí khác nhau: phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế của chi phí, phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với quy trình công nghệ, phân loại theo thẩm quyền ra quyết định. 3. Giá thành sản phẩm xây lắp. 3.1. Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp. Trong quá trình sản xuất ở doanh nghiệp xây lắp phải bỏ ra các khoản chi phí sản xuất , mặt khác kết quả sản xuất mà doanh nghiệp thu được là những sản phẩm, công việc xây lắp nhất định đã hoàn thành. Những sản phẩm, công việc xây lắp đã hoàn thành cần phải tính được giá thành thực tế, tức là những chi phí đã bỏ ra để sản xuất ra chúng. Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ những chi phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phí khác biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp xây lắp bỏ ra để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình theo quy định. Sản phẩm xây lắp có thể là khối lượng công việc hoặc giai đoạn công việc có dự toán riêng, có thể lá công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành toàn bộ. Khác với các doanh nghiệp sản xuất khác, giá thành sản phẩm xây lắp mang tính chất cá biệt, mỗi công trình, hạng mục công trình hay khối lượng xây lắp khi đã hoàn thành đều có giá thành riêng. Giá thành sản phẩm xây lắp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất, cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà doanh nghiệp đã sử dụng nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. 3.2. Các loại giá thành sản phẩm xây lắp Việc phân biệt các loại giá thành trong sản xuất xây lắp sẽ giúp cho doanh nghiệp trong việc nghiên cứu và quản lý tốt gía thành sản phẩm. Giá thành được chia thành các loại: giá thành dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành thực tế. Giá thành dự toán: Do đặc điểm hoạt động xây lắp, thời gian sản xuất thi công dài, mang tính đơn chiếc nên mỗi công trình, hạng mục công trình đều phải lập dự toán trước khi sản xuất thi công. Giá thành dự toán là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình. Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá của nhà nước. Giá thành dự toán là chênh lệch giữa giá trị dự toán và phần lãi định mức. Giá thành dự toán Giá trị dự toán của Của công trình, hạng = công trình, hạng mục - Lãi định mức Mục công trình công trình Giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch là giá thành được xác định trên cơ sở những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức, đơn giá, các biện pháp thi công. Giá thành kế hoạch Giá thành dự toán của Mức hạ giá Của công trình, hạng = công trình, hạng - thành Mục công trình mục công trình kế hoạch Giá thành thực tế: Giá thành thực tế của khối lượng xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí thực tế để hoàn thành khối lượng xây lắp gồm: Chi phí định mức, vượt định mức và không định mức như các khoản bội chi, lãng phí về vật tư, lao động trong quá trình sản xuất xây lắp của đơn vị được phép tính vào giá thành. Giá thành thực tế được tính trên cơ sở số liệu kế toán về chi phí sản xuất xây lắp của khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ. 4. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp. Trong quá trình sản xuất thi công, chi phí sản xuất xây lắp thể hiện hao phí trong kỳ của doanh nghiệp xây lắp, chi phí này phải được xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai của quá trình sản xuất đó là kết quả của sản xuất. Giữa chi phí sản xuất xây lắp và giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chi phí sản xuất xây lắp và giá thành sản phẩm xây lắp là hai mặt thống nhất của cùng một quá trình sản xuất, vì vậy chúng giống nhau về mặt chất. Chúng đều bao gồm các loại chi phí về lao động sống, lao động vật hoá, các chi phí khác mà doanh nghiệp bỏ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên chi phí và giá thành sản phẩm có sự khác nhau về lượng. Chi phí sản xuất thể hiện những chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm trong một kỳ (tháng, quý, năm) không tính đến chi phí đó có liên quan đến sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Chi phí sản xuất không những chỉ liên quan đến khối lượng sản phẩm hoàn thành mà còn liên quan đến khôí lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ và sản phẩm hỏng. Chi phí sản xuất gắn liền với từng thời kỳ phát sinh. Giá thành sản phẩm gắn với khối lượng sản phẩm hoàn thành. Giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối lượng công việc xây lắp hoàn thành theo quy định. Giá thành sản phẩm xây lắp còn có thể bao gồm cả chi phí sản xuất khối lượng dở dang đầu kỳ và không bao gồm chi phí của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ được chuyển sang kỳ sau. Mặc dù có sự khác nhau, nhưng giữa giá thành và chi phí sản xuất xây lắp lại có mối quan hệ mật thiết vơí nhau. Chi phí sản xuất là cơ sở để tính giá thành sản phẩm, chi phí sản xuất biểu hiện sự hao phí còn giá thành biểu hiện kết quả của quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất trước hết thể hiện theo các yếu tố chi phí, sau đó khi tính giá thành sản phẩm thì chi phí được thể hiện theo các khoản mục tính giá thành. Mức tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực sẽ ảnh hưởng đến kết quả tài chính khi thi công công trình. II Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Chi phí sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp để đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất trong quá trình kinh doanh, cũng như chính bản thân doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. chi phí sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, trong đó có những nhân tố mang tính chất khách quan và có những nhân tố mang tính chủ quan, các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng tác động tới chi phí. 1. Những nhân tố khách quan. Nhân tố khách quan là những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp hay những nhân tố thuộc môi trường hoạt động của doanh nghiệp. - Các chính sách của Nhà nước: Đặc trưng của nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là Nhà nước không đứng ngoài sự phát triển của nền kinh tế mà đóng vai trò là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô thông qua các luật lệ, chính sách và các biện pháp kinh tế. Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh vào những nghề có lợi cho đất nước, cho đời sống của nhân dân. Doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước phải tuân thủ chế độ quản lý kinh tế của Nhà nước đang áp dụng như : Chế độ tiền lương, tiền công, cơ chế hạch toán kinh tế… Sự hoàn thiện các chế độ quản lý kinh tế là điều kiện cơ bản cho việc áp dụng chế độ phân tích, kiểm tra và hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh. Các chế độ thể lệ của Nhà nước là chỗ dựa cho công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. - Giá cả và cạnh tranh: Nói đến thị trường, chúng ta không thể không đề cập đến hai nhân tố cơ bản là giá cả và sự cạnh tranh. Trước hết là sự ảnh hưởng của nhân tố giá cả đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Biểu hiện, đó là khi giá cả của nhiên, nguyên liệu, vật liệu, dụng cụ, đồ dùng…hoặc giá cả của các lao vụ, dịch vụ thay đổi sẽ làm thay đổi chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Nếu giá cả của nguyên liệu, vật liệu, dụng cụ tăng lên thì chi phí sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên và ngược lại. Vì vậy, lựa chọn việc thay thế các loại nguyên , vật liệu với giá cả hợp lý nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp cũng là yếu tố quan trọng để giảm chi phí. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh một mặt thúc đẩy doanh nghiệp hạ thấp hao phí lao động cá biệt để tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác nó lại có tác động làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .Trong thị trường xây dựng, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây lắp diễn ra cũng không kém phần gay gắt và khốc liệt như trong thị trường hàng hoá tiêu dùng thông thường. Biểu hiện rõ nét nhất của cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây lắp trên thị trường xây dựng đó là hoạt động tranh thầu. Như đã biết, đối với các doanh nghiệp xây lắp điều kiện tiên quyết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện là doanh nghiệp phải ký được các hợp đồng xây dựng- tức là bằng mọi giá doanh nghiệp phải thắng thầu. Vì thế doanh nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí để có dược những hợp đồng xây dựng đó như: Chi phí trả cho dịch vụ môi giới, tư vấn xây dựng, chi phí quảng cáo… Chính vì thế nó có tác động làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Ngoài các nhân tố khách quan trên: Nhân tố tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ cũng ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, những quy trình công nghệ mới được ứng dụng vào sản xuất cùng với xu hướng chuyên môn hoá sản xuất ngày càng tăng sẽ góp phần tăng năng xuất lao động và chất lượng tốt nhằm giảm lao động chân tay… Đó cũng là nhân tố góp phần làm giảm chi phí. Trong giai đoạn hiện nay, các khoản mục chi phí luôn có sự thay đổi. Nhất là các khoản tiền lương, chi phí nhiên liệu, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí trả lãi tiền vay,chi phí công cụ lao động. Những khoản này nằm ngoài ý muốn của doanh nghiệp và làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh. 2. Những nhân tố chủ quan bên trong doanh nghiệp. Bên cạnh những nhân tố khách quan trên còn có những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: Năng xuất lao động của con người, cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý sản xuất…ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp. Đây là những nhân tố thuộc về chủ thể kinh doanh và nó mang tính chất bên trong hay còn gọi là những nhân tố bên trong doanh nghiệp. - Nhân tố năng xuất lao động con người: Năng xuất lao động cũng là một yếu tố ảnh hưởng nhiều đến chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Trong bất cứ doanh nghiệp sản xuất nào thì yếu tố con người là vô cùng quan trọng mà không thể thiếu được, đi đôi với con người là năng suất lao động của họ. Nếu năng xuất lao động của người lao động mà cao thì sẽ tiết kiệm được quỹ tiền lương, giảm chi phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm tiêu thụ và điều này sẽ làm cho tổng chi phí sản xuất kinh doanh giảm xuống. - Nhân tố cơ sở vật chất kỹ thuật: Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi nếu doanh nghiệp có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tốt thì nó sẽ góp phần tiết kiệm chi phí sản xuất cho doanh nghiệp. Nếu máy móc thiết bị sản xuất, dụng cụ quản lý đầy đủ, hiện đại thì nó sẽ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất được thông suốt và giảm dược các khoản chi phí do thuê ngoài. Ngoài ra, điều kiện kho bãi để bảo quản vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị mà tốt sẽ làm giảm chi phí hao hụt trong khâu bảo quản, đồng thời hạn chế được sự suy giảm chất lượng, hao mòn của vật tư, máy móc thiết bị… - Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất và tài chính: Nhờ vào việc bố chí các khâu sản xuất hợp lý có thể hạn chế được sự lãng phí nguyên vật liệu, chi phí về ngừng sản xuất … Bên cạnh đó, việc sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu cho việc mua sắm vật tư sẽ tránh được những tổn thất cho sản xuất như việc ngừng sản xuất do thiếu vật tư… Đồng thời, thông qua việc tổ chức sử dụng vốn sẽ kiểm tra được tình hình dự trữ vật tư, từ đó phát hiện ngăn ngừa kịp thời tình trạng ứ đọng, mất mát hao hụt vật tư… Việc đẩy nhanh sự chu chuyển vốn có thể giảm bớt nhu cầu vay vốn, giảm bớt được chi phí trả lãi tiền vay… Tất cả sự tác động trên đều làm giảm bớt chi phí sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Trên đây là các yếu tố chủ quan cũng như khách quan ảnh hưởng đến chi phí sản xuất kinh doanh. Việc nghiên cứu các nhân tố này có ý nghĩa quan trọng trong các doanh nghiệp sản xuất vì nó là cơ sở để các doanh nghiệp đề ra các phương hướng và các biện pháp chung nhằm phấn đấu hạ thấp chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. III. Mục đích, ý nghĩa phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở một doanh nghiệp . 1. Mục đích phân tích chi phí và giá thành sản phẩm ở một doanh nghiệp. Mục đích phân tích chi phí: Phân tích tình hình chi phí nhằm mục đích nhận thức và đánh giá chính xác, toàn diện và khách quan tình hình quản lý và sử dụng chi phí, qua đó thấy được tác động ảnh hưởng của nó đến quá trình và kết quả kinh doanh. Qua phân tích chi phí có thể thấy được tình hình quản lý và sử dụng chi phí có hợp lý hay không; có phù hợp với những nhu cầu kinh doanh, với những nguyên tắc quản lý kinh tế – tài chính và mang lại hiệu quả kinh tế hay không? Đồng thời, tìm ra những mặt tồn tại bất hợp lý trong quản lý và sử dụng chi phí. Từ đó, đề xuất những chính sách, biện pháp khắc phục nhằm quản lý và sử dụng chi phí sản xuất kinh doanh tốt hơn. Mục đích phân tích giá thành: Là nhằm nhận thức, đánh giá một cách chính xác, toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất gia công của doanh nghiệp trong kỳ về mặt số lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm và chất lượng sản phẩm sản xuất ra...,qua đó thấy được mức độ hoàn thành và số chênh lệch tăng giảm. Đồng thời qua phân tích cũng thấy được những mâu thuẫn trong việc tổ chức và quản lý quá trình sản xuất gia công và tiêu thụ sản phẩm. Từ đó đề ra được những chính sách và biện pháp cải tiến, hoàn thiện quá trình sản xuất và quản lý sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. 2. ý nghĩa phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở một doanh nghiệp. Chi phí sản xuất là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp để đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất trong quá trình kinh doanh. Phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm có một ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp. Giúp cho doanh nghiệp đánh giá một cách chính xác, toàn diện và khách quan tình hình quản lý và sử dụng chi phí sản xuất ở doanh nghiệp. Qua việc phân tích các khoản mục chi phí sản xuất để tìm ra những mặt còn tồn tại bất hợp lý trong việc quản lý và sử dụng chi phí, từ đó xác định những nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân chủ quan có ảnh hưởng tới sự biến động của chi phí, từ đó đề ra các phương hướng và biện pháp khắc phục nhằm quản lý chi phí sản xuất sao cho có hiệu quả hơn. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là cơ sở để đề ra các giải pháp quản lí có căn cứ khoa học. Một trong những phương hướng quan trọng của việc hoàn thiện quản lí của các doanh nghiệp là nâng cao tính có căn cứ của các giải pháp được chấp nhận. Bất kì một giải pháp nào được đưa ra trong quá trình quản lí chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm chỉ được chấp nhận trên cơ sở phân tích các thông tin có liên quan đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp có thể đi sâu vào quá trình sản xuất, phát hiện những khả năng tiềm tàng, lựa chọn các phương án tối ưu của các giải pháp. Như vậy, để quản lí tốt hoạt động sản xuất kinh doanh, để nâng cao tính có căn cứ của các giải pháp được chấp nhận cần thiết phải tiến hành thường xuyên và có chất lượng công tác phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Qua phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể đánh giá tổng hợp tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể quản lí kinh doanh, cần thiết phải biết được quá trình sản xuất kinh doanh đang diễn ra như thế nào và kết quả ra sao. Qua phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể đánh giá tổng hơp, khách quan có phê phán tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp thực hiện hạch toán kinh doanh. Hạch toán kinh doanh là một quá trình bắt đầu từ việc tìm hiểu nhu cầu thị trường, xây dựng kế hoạch và phương án sản xuất kinh doanh, tổ chức phương án sản xuất kinh cho đến việc phân tích và đánh giá kết quả đạt được của phương án sản xuất kinh doanh đã được thực hiện. Qua phân tích, đánh giá có thể vạch ra mặt mạnh, mặt yếu kém, các nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có căn cứ đúng đắn cho việc đề ra các biện pháp nhằm cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. -Phân tích chi phí sản xuất giúp doanh nghiệp phát hiện và khai thác những khả năng tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quản lí chi phí sản xuất, phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm được xác định như phương pháp phát hiện khả năng tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh của doanh và đề ra những biện pháp sử dụng chúng. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh phần lớn phụ thuộc vào những khả năng tiềm tàng được phát hiện và thực hiện như thế nào. Khả năng tiềm tàng luôn sẵn có trong các doanh nghiệp vì các lí do sau đây: + Các doanh nghiệp luôn được phát triển về năng lực sản xuất như bổ sung máy móc thiết bị, lao động, đổi mới trang thiết bị kĩ thuật. +Các khả năng tiềm tàng hết sức đa dạng và luôn thay đổi về mức độ bởi vì việc sử dụng một số khả năng tiềm tàng này sẽ làm xuất hiện những điều kiện để tiếp tục khả năng tiềm tàng khác, do đó việc khai thác chúng là vô tận. Có thể nói, các khả năng tiềm tàng là một nguồn vô tận để nâng cao khối lượng và chất lượng sản phẩm, côn._.g việc, không ngừng hoàn thiện phương thức quản lí doanh nghiệp, cải thiện điều kiện làm việc và đời sống của cán bộ công nhân viên. Do hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là sự kết hợp hữu cơ của các yếu tố sản xuất và các yếu tố quản lí sản xuất nên khả năng tiềm tàng trong sản xuất được biểu hiện ở dạng tổng hợp các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các yếu tố lao động, các khả năng tiềm tàng thường được biểu hiện ở số lượng, thời gian lao động và năng xuất lao động. Đối với yếu tố tư liệu lao động, các khả năng tiềm tàng thường được biểu hiện ở số lượng và kết cấu tài sản cố định, số lượng, thời gian và năng suất của máy móc thiết bị. Đối với yếu tố nguyên vật liệu, khả năng tiềm tàng thể hiện ở sự hạ thấp mức sử dụng nguyên vật liệu cho một đơn vị sản phẩm. Ngoài ra, việc thay thế các nguyên vật liệu quý hiếm, đắt tiền phải nhập từ nước ngoài bằng các nguyên vật liệu sản xuất trong nước cũng là một nguồn khả năng tiềm tàng to lớn. Đối với các yếu tố quản lí sản xuất, khả năng tiềm tàng thể hiện ở việc cân đối các yếu tố sản xuất, đồng bộ các yếu tố sản xuất, cân đối giữa chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất, cân đối giữa các hoạt động trước mắt và phương hướng phát triển lâu dài. Phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp là một công việc không thể thiếu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. IV. Nội dung và các phương pháp sử dụng trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp. 1. Nội dung phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp xây dựng nói riêng, thì nội dung phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm đều bao gồm các nội dung chính sau: - Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nguyên vật liệu. Bao gồm hai nội dung phân tích sau: Phân tích đánh gía chung tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong giá thành sản phẩm. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến khoản mục chi phí nguyên vật liệu. Tài liệu sử dụng là: + Các chỉ tiêu kế hoạch, định mức tiêu hao nguyên vật liệu của doanh nghiệp. + Các số liệu, tài liệu kế toán chi phí nguyên vật liệu của doanh nghiệp bao gồm cả kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết. + Các tài liệu thông tin về thị trường, giá cả của các loại nguyên vật liệu mà doanh nghiệp đang sử dụng. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nhân công trực tiếp sản xuất. Bao gồm hai nội dung phân tích sau: Phân tích chung tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nhân công trực tiếp sản xuất. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực tiếp. Tài liệu sử dụng để phân tích Các chỉ tiêu kế hoạch, định mức tiền lương ở doanh nghiệp. Các số liệu tài liệu kế toán chi phí tiền lương của doanh nghiệp bao gồm cả kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết và các tài liệu thống kê. + Các chế độ, chính sách về tiền lương của nhà nước, của doanh nghiệp bao gồm cả những văn bản quy định hướng dẫn của nghành hoặc cơ quan chủ quản, của cơ quan bảo hiểm xã hội. + Các hợp đồng lao động và chính sách về quản lý lao động. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí sử dụng máy thi công. Bao gồm các nội dung phân tích sau: Phân tích chung tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí sử dụng máy thi công. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng máy thi tự có của doanh nghiệp và mày thi công thuê ngoài không có công nhân điều khiển máy đi kèm. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng máy thi công thuê ngoài có công nhân điều khiển máy đi kèm. Tài liệu sử dụng : + Các chỉ tiêu kế hoạch về chi phí sử dụng máy thi công ở doanh nghiệp. + Các tài liệu, số liệu kế toán chi phí sử dụng máy thi công, bao gồm kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết và các tài liệu thống kê. + Các hợp đồng thuê máy thi công… - Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí sản xuất chung. Tài liệu sử dụng : Các chỉ tiêu kế hoạch về chi phí sản xuất chung; các tài liệu, số liệu kế toán về chi phí sản xuất chung bao gồm kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết… - Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm. 2. Các phương pháp phân tích sử dụng trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại doanh nghiệp. 2.1 Phương pháp chi tiết. Phương pháp chi tiết là phương pháp phân chia chỉ tiêu phân tích thành nhiều bộ phân cấu thành để phục vụ một yêu cầu phân tích cụ thể.. Theo phương pháp này, một chỉ tiêu phân tích có thể chi tiết theo các hướng như sau: chi tiết theo các bộ phận cấu thành, chi tiết theo thời gian, chi tiết theo địa điểm. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp, chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp được chi tiết theo từng khoản mục chi phí, như khoản mục chi phí nguyên vật liệu, khoản mục chi phí nhân công trực tiếp, khoản mục chi phí sử dụng máy thi công, khoản mục chi phí sản xuất chung. Các khoản mục chi phí này lại được chi tiết theo từng khoản mục chi phí nhỏ khác. 2.2 Phương pháp so sánh. Là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích nhằm xác định mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, chúng ta phải so sánh giá trị sản phẩm đạt được với chi phí sản xuất bỏ ra trong kỳ kinh doanh, So sánh chỉ tiêu tổng chi phí sản xuất kì thực hiện so với kì kế hoạch cũng như chi phí của từng khoản mục trong giá thành, so sánh mức giá thành công trình thực tế đạt được với giá thành công trình lập theo dự toán thi công ( giá thành kế hoạch). Phương pháp so sánh có ưu điểm là đơn giản, dễ tính toán và có thể nhanh chóng đánh giá các chỉ tiêu cần phân tích. Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này thì sẽ không xác định được cụ thể sự ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Vì vậy, việc đề xuất những biện pháp khắc phục những tồn tại hay phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp bị hạn chế. Để khắc phục nhược điểm này, trong phân tích người ta còn sử dụng phương pháp loại trừ. Phương pháp loại trừ. Là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích, bằng cách khi xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố này thì loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Có hai hình thức: Phương pháp thay thế liên hoàn: là phương pháp thay thế lần lượt số liệu gốc bằng số liệu muốn so sánh của các nhân tố có ảnh hưởng đến chỉ tiêu kinh tế được phân tích theo một lôgic xác định. Thông thường, trình tự thay thế được quy định: nhân tố số lượng thay thế trước, nhân tố chất lượng thay thế sau. Phương pháp số chênh lệch: đây là hình thức biến tướng của hình thức thay thế liên hoàn. Xét theo toán học thì phương pháp số chênh lệch là hình thức rút gọn của phương pháp thay thế liên hoàn bằng cách đặt thừa số chung. Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến các khoản mục chi phí trong gía thành sản phẩm. Phương pháp cân đối. Là phương pháp được dùng trong phân tích dựa trên cơ sở cân đối giữa nguồn và việc phân phối các nguồn đó. Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phương pháp cân đối được dùng để cân đối giữa tổng chi phí và các yếu tố chi phí, cân đối giữa tổng giá thành và khoản mục giá thành. Phương pháp dùng biểu mẫu. Biểu trong phân tích kinh tế nói chung và trong phân tích chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm nói riêng được thiết lập theo các dòng, các cột, trong đó ghi chép đầy đủ các khoản mục, các chỉ tiêu, các số liệu phân tích. Chương II Thực trạng về công tác phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở công ty xây dựng Lũng lô I. Khái quát chung về Công ty Xây dựng Lũng Lô. 1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của Công ty xây dựng Lũng Lô. Tiền thân của Công ty Xây dựng Lũng Lô là Công ty khảo sát – thiết kế và xây dựng Lũng Lô, đựơc thành lập ngày 16/11/1989 theo quyết định số 294/QĐ- QP của Bộ Quốc Phòng. Lúc này đất nước đã chuyển sang thời bình, đang gắng mình hiện đại hoá, công nghiệp hoá đất nước, các chiến sỹ của Cục công trình thuộc Bộ Tư Lệnh Công Binh trước đây tham gia xây dựng hầm, đào hào chiến đấu thì nay chuyển sang làm công tác xây dựng. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty lúc này là nhận thầu quy hoạch, khảo sát, thiết kế, thi công các công trình ngầm trong công nghiệp dân dụng, giao thông thuỷ lợi. Công ty khảo sát – thiết kế và xây dựng Lũng Lô có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, phương thức hạch toán đơn giản. Công ty chưa có giấy phép hành nghề và hoạt động chủ yếu ở phía Bắc. Tài sản cố định của công ty chưa được theo dõi vì phần lớn đó là những thiết bị quân đội chuyển sang. Ngày 26/8/1993, Bộ Quốc Phòng có quyết định 577/QĐ - QP thành lập Công ty xây dựng Lũng Lô theo nghị định 388- DNNN với số vốn pháp định là 2232.4 triệu đồng. Công ty xây dựng Lũng Lô bao gồm 9 xí nghiệp trực thuộc. Lúc này nhiệm vụ sản xuất của Công ty không thay đổi. Công ty được Bộ giao thông vận tải, Bộ xây dựng, Bộ Quốc Phòng cấp giấy phép hành nghề, có tư cách pháp nhân, được phép kí kết hợp đồng kinh tế trong phạm vi cả nước. Phương pháp hạch toán của Công ty là các xí nghiệp tự hạch toán, lập báo cáo rồi gửi lên Công ty. Các xí nghiệp tự tìm việc, Công ty ký duyệt hoặc uỷ quyền cho xí nghiệp ký, sau đó xí nghiệp nộp lợi nhuận cho Công ty theo tỷ lệ quy định trước. Ngày 17/4/1996, Bộ Quốc Phòng có quyết định 466/ QĐ-QP thành lập Công ty xây dựng Lũng Lô mới, trên cơ sở sát nhập của: - Công ty xây dựng Lũng Lô cũ. - Công ty xây dựng 25/3. - Xí nghiệp khảo sát thiết kế và tư vấn xây dựng. Công ty xây dựng Lũng Lô hiện nay có: - Tên giao dịch quốc tế: LCC. - Trụ sở của Công ty đặt tại 162 Đường Trường Chinh- Đống Đa- Hà Nội. Và hiện nay Công ty có hai chi nhánh: 1. Văn phòng đại diện miền Trung: 21/22 Lê Hồng Phong- Đà Nẵng. 2. Văn phòng đại diện tại miền Nam: 28M- Đường 3/2- Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh. 2. Chức năng và ngành nghề kinh doanh của công ty. Theo quyết định của Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng về việc xác định ngành nghề kinh doanh của công ty Công ty xây dựng Lũng Lô, quyết định số 171/QĐ-BQP ngày 15/9/2003. Theo giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh doanh nghiệp Nhà nước số 110753 do Uỷ Ban kế hoạch thành phố Hà Nội cấp ngày 21/10/2003. Gồm những ngành nghề sau: + Thi công xây lắp các công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông, thuỷ lợi, công trình ngầm, sân bay, cảng biển. + Duy tôn tu tạo, sữa chữa, nâng cấp các công trình bảo tồn bảo tàng và di tích lịch sử. + Thi công, xây lắp công trình đường dây và trạm biến áp đến 35kv. + Đầu tư, phát triển hạ tầng và kinh doanh nhà. + Tư vấn khảo sát thiết kế xây dựng. + Khảo sát dò tìm xử lý bom mìn, vật nổ (giấy phép số 120/BQP do bộ quốc phòng cấp ngày 14/01/2002). + Xây lắp đường cáp quang (các công trình bưu điện viễn thông). + Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng. + Giấy chứng nhận doanh nghiệp hạng 1 do Bộ Quốc Phòng cấp. Chỉ có Công ty mới có tư cách pháp nhân đầy đủ trong quan hệ giao dịch, ký kết các hợp đồng với khách hàng, với các tổ chức, các cơ quan quản lý và trực tiếp thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước. Các xí nghiệp trực thuộc chỉ ký kết hợp đồng kinh tế khi được sự uỷ quyền cuả Công ty. Trong giới hạn cho phép, các xí nghiệp trực thuộc được mở tài khoản giao dịch (chuyên thu hoặc chuyên chi), không được mở tài khoản tiền vay, có thể có con dấu để thực hiện các hoạt động giao dịch. Năng lực của Công ty: Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật của Công ty không ngừng phát triển cả về số lượng, chất lượng. Công ty thường xuyên cử cán bộ, công nhân kỹ thuật tham gia các lớp học, khoá học về quản lý, kỹ thuật, kiểm soát chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển không ngừng của Công ty. Công tác trẻ hoá đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý được chú trọng, Công ty luôn khuyến khích và tiếp nhận đội ngũ cán bộ trẻ có tay nghề và tiếp thu được trình độ khoa học và công nghệ hiện đại. Hệ thống trang thiết bị của Công ty: Với mục tiêu từng bước hiện đại hoá trang thiết bị thi công, đáp ứng được nhu cầu phát triển của Công ty cũng như có đủ khả năng, năng lực tham gia thi công các dự án lớn và đòi hỏi cao về tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng và tiến độ. Công ty luôn luôn chú trọng trong việc đầu tư trang bị công nghệ hiện đại. Trong những năm qua Công ty đã tập trung đầu tư hàng trăm tỷ đồng thiết bị phục vụ các công việc như thi công công trình ngầm, thi công san nền, bốc xúc, vận chuyển, thi công công trình giao thông, thuỷ điện, thuỷ lợi, công nghiệp, xây dựng dân dụng… Với trang thiết bị cơ giới đa dạng và hiện đại cùng đội ngũ cán bộ kỹ thuật nhiều kinh nghiệm, lực lượng công nhân kỹ thuật lành nghề, Công ty xây dựng Lũng Lô đã thi công công trình dân dụng cao tầng, các công trình giao thông đường, cầu cảng, công trình ngầm…trên phạm vi cả nước. Công ty sẵn sàng hợp tác, liên doanh, liên kết dưới nhiều hình thức với các đơn vị trong và ngoài nước trên cơ sở các bên cùng có lợi. 3. Đặc điểm tổ chức và quy trình hoạt động chung Thực hiện phương châm của Bộ Tư lệnh, ban giám đốc Công ty đặt ra: toàn diện, chặt chẽ, uy tín, chất lượng. Công ty đã tổ chức các ban quản lý, chỉ đạo theo quy trình xây dựng chung ứng với từng ngành nghề cụ thể, từng đơn vị trực thuộc Công ty. Đặc điểm tổ chức sản xuất. Do các công trình có đặc điểm thi công khác nhau, thời gian xây dựng thường kéo dài, mang tính đơn chiếc…nên lực lượng lao động của xí nghiệp được tổ chức thành các đội sản xuất, mỗi đội sản xuất phụ trách thi công trọn vẹn một công trình hoặc một hạng mục công trình. Trong mỗi đội thi công lại được tổ chức thành các tổ sản xuất theo yêu cầu thi công, tuỳ thuộc vào nhu cầu trong từng thời kỳ mà số lượng các đội công trình, các tổ sản xuất trong mỗi đội sẽ thay đổi phù hợp với điều kiện cụ thể. Thể hiện qua sơ đồ sau: Ban quản lý công trình Tổ sản xuất Tổ sản xuất Tổ sản xuất … Mô hình tổ chức sản xuất của Công ty xây dựng Lũng Lô b. Đặc điểm quy trình công nghệ xây dựng Do đặc điểm của sản phẩm xây lắp là những công trình, hạng mục công trình được xây dựng và sử dụng tại chỗ, sản phẩm mang tính đơn chiếc, có kích thước và chi phí lớn, thời gian sử dụng lâu dài... Xuất phát từ đặc điểm đó, nên quá trình sản xuất các loại sản phẩm chủ yếu của Công ty xây dựng Lũng Lô có đặc điểm là: sản xuất phức tạp liên tục, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi công trình đều có dự toán, thiết kế riêng và phân bổ rải rác ở các địa điểm khác nhau, tuy nhiên hầu hết các công trình đều phải tuân theo một quy trình công nghệ sản xuất như sau: Nhận thầu thông qua đấu thầu hoặc giao thầu trực tiếp. Ký hợp đồng xây dựng với bên A ( là chủ đầu tư công trình, hoặc nhà thầu chính). Trên cơ sở hồ sơ thiết kế và hợp đồng xây dựng đã được ký kết, Công ty đã tổ chức quá trình thi công để tạo ra sản phẩm: Giải quyết mặt bằng thi công, tổ chức lao động, bố trí máy móc thiết bị thi công, tổ chức cung ứng vật tư, tiến hành xây dựng và hoàn thiện. Công trình được hoàn thành dưới sự giám sát của chủ đầu tư công trình hoặc nhà thầu chính về mặt kỹ thuật và tiến độ thi công. Bàn giao công trình và thanh quyết toán hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư hoặc nhà thầu chính. Quy trình công nghệ xây dựng của Công ty được thể hiện theo sơ đồ sau: Nhận thầu ký hợp đồng Lập kế hoạch Tổ chức thi công Mua vật tư, tổ chức thi công… Nghiệm thu, bàn giao, quyết toán công trình Quy trình công nghệ xây dựng của Công ty xây dựng Lũng Lô Trong cùng một thời gian, Công ty xây dựng Lũng Lô thường phải triển khai thực hiện nhiều hợp đồng xây dựng khác nhau, trên các địa điểm khác nhau nhằm hoàn thành theo theo hợp đồng xây dựng đã kí kết với chủ đầu tư. Với một năng lực sản xuất nhất định, để có thể thực hiện được điều này Công ty đã tổ chức lao động tại chỗ, tuy nhiên cũng có lúc Công ty phải điều lao động từ công trình này đến công trình khác nhằm đảm bảo công trình được tiến hành đúng tiến độ thi công. 4. Tổ chức bộ máy quản lý và phân cấp tài cấp tài chính của Công ty. 4.1. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Xây dựng Lũng Lô. Do Công ty có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước, hoạt động sản xuất kinh doanh là thi công các công trình, các công trình có địa bàn không tập trung, hầu hết ở xa trung tâm. Và kết cấu của mỗi một công trình lại khác nhau nên việc tổ chức bộ máy quản lý của Công ty có những đặc điểm riêng không giống với những ngành sản xuất khác và được thể hiện qua sơ đồ sau: Ban giám đốc Phòng kế hoạch tổng hợp Phòng tài chính kế toán Phòng kỹ thuật thi công Phòng chính trị Văn phòng công ty XN xây dựng công trình ngầm XN xây dựng sân đường cảng XN xử lý môi trường và ứng dụng vật liệu nổ XN xây dựng phía bắc Xí nghiệp xây dựng phía nam Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Xây dựng Lũng Lô XN khảo sát thiết kế và tư vấn xây dựng XN cầu đường 25/3 N Ngay từ khi mới ra đời, Công ty đã đặt ra mục tiêu hàng đầu cho sự tồn tại đó là: chặt chẽ – vững vàng về tổ chức, hiệu quả - chất lượng – uy tín trong kinh doanh. Do vậy để quản lý chặt chẽ tới tận các công trình, các tổ sản xuất, Công ty đã tổ chức bộ máy quản lý thành các ban, đứng đầu là ban Giám đốc Công ty. Để giúp việc cho ban Giám đốc công ty có các phòng, các ban chức năng được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý về kỹ thuật. Cụ thể gồm 4 phòng, 1 văn phòng công ty và 7 xí nghiệp thành viên. Dưới ban Giám đốc Công ty lại có các ban giám đốc xí nghiệp. Giúp việc cho Ban giám đốc xí nghiệp cũng có các phòng ban chức năng được tổ chức theo yêu cầu quản lý sản xuất để giám sát chặt chẽ tới các đội công trình, các tổ sản xuất một cách tối ưu nhất. Để đạt được mục tiêu sản xuất của Công ty: chức năng, nhiệm vụ của ban Giám đốc và các phòng ban được phân định cụ thể như sau: - Ban giám đốc gồm: + Giám đốc Công ty: là đại diện pháp nhân của Công ty và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư Lệnh Công Binh và Đảng uỷ Công ty về mọi hoạt động của Công ty và là người điều hành cao nhất trong Công ty. Giám đốc Công ty còn là người thay mặt quản lý, sử dụng có hiệu quả toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh. Giúp việc cho Giám đốc Công ty còn có 3 phó giám đốc. + Phó giám đốc điều hành: giúp giám đốc điều hành sản xuất kinh doanh của Công ty, triển khai các hợp đồng kinh tế, các dự án do giám đốc phân công. Là người giúp giám đốc xây dựng quản lý về kỹ thuật, chất lượng các công trình và xây dựng dự án, tìm kiếm việc làm theo sự phân công của giám đốc. + Phó giám đốc kế hoạch: giúp giám đốc phụ trách công tác kế hoạch xây dựng các dự án liên doanh, liên kết trong và ngoài nước, triển khai các dự án được giám đốc phân công. + Phó giám đốc chính trị: giúp giám đốc phụ trách công tác Đảng, công tác Chính trị của Công ty theo nghị quyết của Đảng uỷ cấp trên. -Phòng kế hoạch tổng hợp: Là cơ quan tổng hợp, tham mưu cho ban Giám đốc trong việc điều hành, quản lý sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ quân sự toàn Công ty, quản lý kế hoạch trung và dài hạn của Công ty, quản lý và triển khai các hợp đồng kinh tế, xây dựng giá thành từng dự án, sắp xếp, điều phối lao động cho đội công trình, tổng hợp tình hình sản xuất kinh doanh hàng tuần, tháng, quý, năm của toàn Công ty. -Phòng kỹ thuật thi công: Có chức năng xây dựng phương án kỹ thuật thi công và kiểm tra chất lượng các công trình, lập hồ sơ kỹ thuật đấu thầu, chỉ đạo thi công công trình , kiểm nghiệm các công trình khi đã hoàn thành. - Phòng tài chính kế toán: Có chức năng theo dõi, kiểm soát , chỉ đạo hệ thống tài chính kế toán của Công ty theo đúng quy định của Nhà nước và Quân đội, tổ chức thực hiện công tác thống kê kế toán chính xác, đúng pháp luật, xây dựng kế hoạch khai thác thị trường vốn có hiệu quả. -Phòng chính trị: Có nhiệm vụ tham mưu giúp Đảng uỷ, ban Giám đốc xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác Đảng, công tác Chính trị trong toàn Công ty. - Văn phòng Công ty: Có chức năng quản lý con dấu của Công ty, lưu giữ, thu phát công văn, tài liệu đúng nguyên tắc bảo mật, quản lý trang thiết bị phục vụ công tác văn phòng. Nhìn vào sơ đồ trên, ta thấy các phòng ban chức năng không trực tiếp chỉ huy quản lý xí nghiệp nhưng có nhiệm vụ theo dõi, hướng dẫn , đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch sản xuất, các quy trình tiêu chuẩn và định mức kinh tế kỹ thuật. Các xí nghiệp có bộ máy quản lí theo hình thức trực tuyến, chức năng cụ thể được thể hiện ở sơ đồ sau: BGĐ xí nghiệp Phòng kinh tế kế hoạch vật tư kĩ thuật Phòng tiền lương Phòng kế toán tài vụ thống kê đội công trình đội công trình đội công trình đội công trình Các phòng ban chức năng của xí nghiệp chịu sự lãnh đạo của ban giám đốc, các đội công trình được thành lập tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ từng thời kỳ của đơn vị. 4.2. Phân cấp tài chính của Công ty Xây dựng Lũng Lô. Các xí nghiệp cũng như chi nhánh trực thuộc được giao vốn cố định và vốn lưu động nhằm thực hiện hợp đồng xây lắp đã được ký kết. Khi đã nhận vốn của Công ty, xí nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Chỉ có Công ty mới có quyền mua hoặc cho thuê tài sản cố định và phương tiện thi công. Vốn lưu động của xí nghiệp được sử dụng vào việc mua sắm nguyên vật liệu, thanh toán tiền lương, tiền thưởng, chi cho quá trình phục vụ sản xuất và quản lý xí nghiệp, nếu thiếu vốn lưu động thì xí nghiệp sẽ được cấp bổ xung theo kế hoạch từng tháng. Quyền lợi của Công ty gắn liền với quyền lợi của xí nghiệp, nếu xí nghiệp làm ăn không hiệu quả thì không chỉ có ảnh hưởng tới xí nghiệp mà còn ảnh hưởng tới lợi ích của Công ty. Do đó, xí nghiệp phải chịu trách nhiệm trực tiếp thanh toán các công trình mà mình đang thi công. Ngoài ra, các xí nghiệp còn được uỷ quyền thu tiền mặt nộp vào tài khoản theo phân cấp hoặc nộp lên cấp trên kèm chứng từ thanh toán. - Xét về vốn cố định: Công ty trực tiếp quản lý nguồn vốn cố định, bất kể nguồn vốn đó được hình thành từ nguồn nào. Các đội được giao quản lý tài sản cố định có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả tài sản, việc mua sắm, thanh lý hay nhượng bán tài sản cố định đều do Công ty quyết định dựa trên cơ sở đề nghị của các xí nghiệp, đội công trình, chi nhánh. Việc huy động các nguồn vốn khác để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty sẽ có quy định hướng dẫn cụ thể bằng văn bản. Nguồn vốn đi vay: Công ty cũng đi vay để đáp ứng nhu cầu của mình. Các đội công trình, các xí nghiệp trực thuộc, các chi nhánh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nếu khả năng về vốn không đủ đáp ứng nhu cầu thì các đơn vị cũng có thể vay vốn để bù đắp các khoản thiếu hụt. Tuy nhiên các đơn vị phải chấp hành đúng các nội dung vay vốn mà Công ty đã đặt ra. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, có sự thay đổi về giá cả các loại tài sản cố định, vật tư,…thì các đơn vị phải tiến hành kiểm tra, đánh giá và báo cáo về Công ty để Công ty đưa ra các biện pháp kịp thời. nhằm đáp ứng cho việc bảo toàn và phát triển vốn. Xí nghiệp có thể tự huy động vốn từ liên doanh, liên kết cho các công trình dự án, với điều kiện là các dự án này không liên quan tới An ninh quốc phòng và phải được Bộ Tư Lệnh Công Binh và Công ty phê duyệt trước khi thực hiện. Các xí nghiệp tự cân đối chi phí sản xuất kinh doanh theo nhiệm vụ của mình, ngoài ra còn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước, với Bộ Tư Lệnh và Công ty. Đối với các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn thì các xí nghiệp phải thực hiện đầy đủ cho cán bộ công nhân viên theo đúng chế độ của Nhà nước, Công ty là chủ thể đại diện thu và nộp. Các xí nghiệp có toàn quyền sử dụng và phân phối lợi nhuận còn lại của mình bằng cách lập quỹ phát triển kinh doanh, quỹ khen thưởng…. Các công trường trực thuộc Công ty cũng phải hạch toán như các xí nghiệp, riêng lợi nhuận còn lại phải nộp vào quỹ Công ty. Việc thanh toán giữa Công ty và các đơn vị trực thuộc , thanh toán giữa các đơn vị nội bộ với nhau được thực hiện theo hợp đồng đã ký kết. Công ty là trung gian thanh toán bù trừ cho các đơn vị, các đơn vị nội bộ không được thanh toán cho nhau. 5. Tổ chức công tác kế toán tại Công ty xây dựng Lũng Lô. 5.1. Hình thức tổ chức công tác kế toán tại Công ty xây dựng Lũng Lô. Hiện nay bộ máy kế toán của Công ty xây dựng Lũng Lô được tổ chức tại phòng Tài chính kế toán, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc công ty. Trên cơ sở chế độ hiện hành về tổ chức công tác kế toán, phù hợp với tình hình thực tế của Công ty về tổ chức sản xuất và quản lý sản xuất, Công ty thực hiện tổ chức công tác kế toán theo hình thức nửa tập trung và nửa phân tán. ở Công ty có phòng kế toán của Công ty, các xí nghiệp trực thuộc có phòng kế toán của xí nghiệp. Tổ chức hạch toán cho các công trình trực thuộc Công ty do khối văn phòng Công ty thực hiện. Bộ máy kế toán Công ty thực hiện tổng hợp tài liệu tùy các đội trực thuộc, tính giá thành sản phẩm cuối cùng, xác định lỗ lãi của toàn Công ty và chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. ở phòng kế toán Công ty: Sau khi nhận được chứng từ ban đầu theo sự phân công thực hiện các công việc. Kế toán tự kiểm tra, phân loại, xử lý chứng từ, lập các nhật ký cho tới việc ghi sổ, tổng hợp hoá đơn, số liệu và cung cấp thông tin phục vụ cho nhu cầu quản lý. Trên cơ sở các báo cáo kế toán đã lập tiến hành các hoạt động phân tích kinh tế để giúp lãnh đạo Công ty trong việc quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các đơn vị trực thuộc việc tổ chức hạch toán ban đầu, lập chứng từ tới việc lập sổ sách theo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh một cách khoa học, đúng pháp luật và theo hướng dẫn. Xí nghiệp chịu trách nhiệm cung cấp một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời các số liệu kế toán thống kê theo yêu cầu của công ty, lập và giữ đúng kỳ hạn các báo cáo quyết toán, báo cáo thống kê định kỳ theo đúng biểu mẫu về phòng kế toán Công ty. Các xí nghiệp tự tìm kiếm công ăn việc làm, tự củng cố và mở rộng thị trường, thực hiện việc đấu thầu theo sự ủy nhiệm, theo dõi quyết toán công trình, bảo toàn và phát triển vốn, các xí nghiệp chịu trách nhiệm trước Công ty và pháp luật về các hoạt động tài chính được phân cấp. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các xí nghiệp có quyền kiểm tra, kiểm soát việc bảo toàn vốn, vật tư trang thiết bị. Xem xét việc sử dụng chúng có đúng mục đích, pháp luật hướng dẫn hay không. Các xí nghiệp có quyền tham gia vào việc quản lý đơn vị mình thông qua công tác tham mưu lãnh đạo, đề xuất các phương án biện pháp hoạt động sản xuât kinh doanh, xây dựng các định mức kinh tế... Hơn nữa xí nghiệp có quyền kiến nghị lên giám đốc công ty xử lý sai phạm của cán bộ kế toán công ty, những sai phạm về quản lý tài chính ở đơn vị mình. 5.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty xây dựng Lũng Lô. Đứng đầu phòng kế toán Công ty là kế toán trưởng. Phòng kế toán của Công ty dưới sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của kế toán trưởng. Các bộ phận kế toán xí nghiệp cũng đều đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của trưởng phòng kế toán xí nghiệp. Để thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, đảm bảo sự lãnh đạo tập trung thống nhất của kế toán trưởng, đảm bảo sự chuyên môn hoá công tác kế toán của bộ phận kế toán, đồng thời căn cứ vào đặc trưng tổ chức sản xuất, đặc thù của nghành xây dựng, yêu cầu và trình độ quản lý của Công ty, bộ máy kế toán Công ty xây dựng Lũng Lô bao gồm: Kế Toán trưởng Kế toán tổng hợp Kế toán chuyên quản XN và công trường Kế toán thanh toán, công nợ nội bộ, lương,BHXH, BHYT, KPCĐ Kế toán ngân hàng Kế toán tài sản cố định và vật tư Kế toán giá thành Bộ phận kế toán Ban &C.trường trực thuộc Kế toán quỹ tiền mặt Kế toán ngân sách nhà nước Ban kế toán xí nghiệp Trưởng ban kế toán Kế toán tổng hợp và giá thành sản xuất Kế toán máy Kế toán tổng hợp và giá thành sản xuất Kế toán thanh toán, công nợ, lương , BH Kế toán tài sản cố định Kế toán ngân sách Kế toán quỹ tiền mặt Bộ phận kế toán công trường Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại công ty xây dựng lũng lô Chế độ kế toán: Công ty đang áp dụng hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp do bộ phận tài chính ban hành theo quy định 1141/TC/QĐ chế độ kế toán, ngoài ra Công ty còn mở thêm một số tài khoản chi tiết nữa. Công ty áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Các nghiệp vụ kinh tế đều phải ghi vào sổ nhật ký chung theo trình tự thời gian phát sinh chi phí và định khoản kế toán các nghiệp vụ đó. Từ đó lấy số liệu từ nhật ký chung để ghi vào sổ cái theo nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Hiện nay phòng tài chính của Công ty đã được trang bị hệ thống máy vi tính và được thực hiện đồng bộ công tác kế toán trên máy vi tính nhằm giảm bớt được các chi phí có thể trong công việc hạch toán kế toán, cũng từ đó giảm được giá thành của sản phẩm. 5.3. Hình thức kế toán áp dụng ở Công ty Xây dựng Lũng Lô Hình thức kế toán nhật ký chung được áp dụng tại Công ty xây dựng Lũng Lô bao gồm các loại sổ kế toán sau: - Sổ nhật ký chung: là sổ kế toán căn bản để ghi chép các nghiệp vụ phát sinh theo trình tự thời gian và nội dung kinh tế của các nghiệp vụ đó làm căn cứ để ghi sổ cái. - Sổ cái: là sổ kế toán tổng hợp và hệ thống hoá các nghiệp vụ phát sinh theo từng tài khoản kế toán. Số liệu của một số tài khoản được dùng vào bảng cân đối kế toán và các báo cáo kế toán khác. Sổ kế toán chi tiết Chứng từ gốc Nhật ký đặc biệt Sổ nhật ký chung Sổ cái Bảng cân đối số phát sinh Bảng tổng hợp chi tiết Trình tự ghi sổ và hạch toán theo hình thức kế toán nhật ký chung. Báo cáo tài chính - Sổ kế toán chi tiết: nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý cụ thể đối với từng loại tài sản hoặc từng loại vật tư, hàng hoá. Sổ kế toán chi tiết Chứng từ gốc Nhật ký đặc biệt Sổ nhật ký chung Sổ cái Bảng cân đối số phát sinh Bảng tổng hợp chi tiết Trình tự ghi sổ và hạch toán theo hình thức kế toán nhật ký chung. Báo cáo tài chính Ghi chú: Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Kiểm tra, đối chiếu số liệu. Tương tự như một số đơn vị khác trong ngành xây dựng cơ bản, vừa hạch toán tập trung (tại Công ty),vừa hạch toán phụ thuộc(tại xí nghiệp thành viên). Đối với các xí nghiệp, công ty giao quản lý vốn kinh doanh và cho phép hình thành bộ máy quản lý và kế toán tại đơn vị. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp c._. tích: Trong phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, ngoài việc xác định mức độ tiết kiệm hay lãng phí của các khoản mục chi phí, chúng ta còn phải xác định xem việc sử dụng các khoản mục chi phí của giá thành sản phẩm đã hợp lý hay chưa, có tương xứng với kết quả đạt được hay không. Để từ đó đưa ra các biện pháp giải quyết phù hợp. 2.2.1. Hoàn thiện nội dung phân tích khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Trong nội dung phân tích này công ty nên sử dụng biểu mẫu 8 cột, và xây dựng thêm chỉ tiêu: tỷ suất chi phí nguyên vật liệu trên giá thành công trình hoàn thành. Tỷ suất chi phí nguyên vật liệu là tỷ lệ % giữa chi phí nguyên vật liệu bỏ ra với giá thành công trình hoàn thành, Đây là chỉ tiêu nhằm đánh giá xem việc bỏ ra chi phí nguyên vật liệu có tương xứng với kết quả đạt được hay không. Công thức xác định tỷ suất chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Tỷ suất chi phí nguyên vậtliệu vật liệu trực tiếp = Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp x100% Giá thành công trình hoàn thành ý nghĩa của chỉ tiêu: để hoàn thành 100đ giá thành sản phẩm thì ta phải bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí nguyên vật liệu. Tỷ suất này càng giảm càng tốt, nhưng để đảm bảo tính chất hợp lý trong việc quản lý và sử dụng chi phí nguyên vật liệu. Có nghĩa là tỷ lệ giảm của chi phí nguyên vật liệu phải lớn hơn tỷ lệ giảm của giá thành sản phẩm. Ví dụ: Khi phân tích chi tiết tình hình thực hiện kế hoạch khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong giá thành công trình Cấp Nước Tân Thuận. Ta sử dụng dạng bảng phân tích sau: ( Bảng 8): Bảng phân tích chi tiết tình hình thực hiện kế hoạch khoản mụcchi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Các chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện So sánh ST TS ST TS CL ±TL% ±TS Chi phí mua gạch 278.640 16.87 271.625 16,82 -7.015 -2,52 -0,07 Chi phí mua Xi măng 547.150 33.16 541.593 33,54 -5.557 -1,02 +0,38 Chi phí mua Thép F 10 7.080 0.43 7.440,9 0,46 +360,9 +5,1 +0,03 Chi phí mua Cát vàng 71.550 4.34 68.692 4,25 -2.858 -3,99 -0,09 Chi phí mua Đá 58.047 3.52 52.890 3,28 -5.157 -8,88 -0,24 Tổng cộng chi phí nguyên vật liệu 962.467 58.33 942.240,9 58,35 -20.226,1 -2,1 +0,02 Giá thành công trình hoàn thành 1.650.123 - 1.614.875 - -35.248 -2,14 - Đơn vị tính: nghìn đồng Nhận xét: Qua số liệu bảng trên ta thấy: Tổng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp kỳ kế hoạch so với kỳ thực hiện giảm 20.226,1 (nghìn đồng), tương ứng với tỷ lệ giảm là -2,1%. Giá thành công trình thực hiện so với kế hoạch giảm 35.248 ( nghìn đồng), tương ứng với tỷ lệ giảm là -2,14 %. Như vậy, tỷ lệ giảm của chi phí nguyên vật liệu thấp hơn tỷ lệ giảm của giá thành sản phẩm, làm cho tỷ suất chi phí nguyên vật liệu trên giá thành công trình tăng 0,02 %. Nếu so sánh giữa chi phí nguyên vật liệu bỏ ra với kết quả đạt được thì việc tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu của công ty là chưa phù hợp với kết quả đạt được. Công ty cần phải có các biện pháp để giảm chi phí nguyên vật liệu hơn nữa. Các khoản chi của chi phí nguyên vật liệu thực hiện so với kế hoạch đều giảm ( trừ khoản chi phí mua Xi măng). Nếu so sánh chi phí của các khoản chi này với kết quả đạt được thì chỉ có việc tiết kiệm chi phí mua gạch, mua cát và mua đá là đã đạt kết quả tốt vì tỷ lệ giảm của các khoản chi phí này lớn hơn tỷ lệ giảm của giá thành công trình. Còn việc giảm chi phí mua Xi măng là chưa tốt vì tỷ lệ giảm của khoản chi này thấp hơn tỷ lệ giảm của giá thành công trình hoàn thành. Công ty cần phải có những biện pháp nhằm giảm thiểu các khoản chi phí này. Khoản chi phí mua thép thực hiện so với kế hoạch tăng ( bảng 2) , nguyên nhân làm cho chi phí này tăng là do giá mua của loại vật liệu này thực hiện so với kế hoạch tăng, đây là nguyên nhân khách quan, song Công ty vẫn có thể đưa ra những biện pháp nhằm giảm chi phí của khoản chi này, nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tốt. + Khi phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới khoản mục chi phí vật liệu, cần chú ý đi sâu tìm hiểu các nhân tố giá cả nào dẫn tới chênh lệch trong giá vật liệu và những nguyên nhân gây lên sự chênh lệch đó. Ví dụ: Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả các loại nguyên vật liệu. ( Bảng 9): Bảng phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới giá mua nguyên vật liệu Đơn vị tính: 1000 đ Tên vật liệu Đơn vị tính Giá gốc Chi phí vận chuyển bốc dỡ Chi phí thu mua kho bãi Giá vật liệu KH TH +,- KH TH +,- KH TH +,- KH TH +,- Gạch 1000v 250 247 -3 14 14 0 6 4 -2 270 265 -5 Xi măng Tấn 1529 1524 -5 17 16 -1 4 3 -1 1550 1543 -7 Thép F 10 Kg 4,3 4,7 +0,4 0,3 0.2 -0,1 0,2 0,3 +0,1 4,8 5,1 +0,3 Cát Khối 47 48 +1 4 3 -1 1 1 0 54 52 -2 Đá Khối 27 25 -2 3 3 0 3 2 -1 33 30 -3 Một số giải pháp nhằm hạ thấp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong giá thành công trình. Vì vậy, việc tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có ảnh hưởng lớn đến mức hạ giá thành công trình hoàn thành. Để tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, công ty cần phải thực hiện một số biện pháp sau: - Đối với định mức tiêu hao nguyên vật liệu: Công ty cần phải quản lý chặt chẽ hơn nữa số vật liệu nhập và xuất kho của mình; thường xuyên kiểm tra đôn đốc các đơn vị thi công sử dụng tiết kiệm và đúng mục đích các loại nguyên vật liệu để tránh tình trạng lãng phí; giao trách nhiệm quản lý nguyên vật liệu đến từng đội thi công công trình; thường xuyên kiểm tra chất lượng thi công công trình để tránh thiệt hại do việc phá đi làm lại; kho, bãi dự trữ nguyên vật liệu phải đảm bảo phù hợp với đặc tính từng loại nguyên vật liệu để tránh tình trạng hao hụt trong quá trình bảo quản... - Đối với giá mua nguyên vật liệu, đây là nhân tố khách quan. Sự biến động của giá mua nguyên vật liệu phụ thuộc vào tình hình biến động giá cả thị trường vật liệu theo mùa xây dựng, do kết quả hoạt động kinh doanh của các đơn vị sản xuất vật liệu. Song công ty vẫn có thể tác động được vào giá cả của từng loại nguyên vật liệu bằng các biện pháp như: Thường xuyên theo dõi, cập nhật những thông tin về giá cả vật liệu để có thể lựa chọn thời điểm mua nguyên vật liệu với giá rẻ nhất; thiết lập mối quan hệ thường xuyên với các nhà cung cấp vật tư; giảm chi phí vận chuyển, chi phí lưu kho, lưu bãi bằng cách: lựa chon địa điểm cung cấp nguyên vật liệu gần nơi thi công công trình để rút ngắn quãng đường vận chuyển, nhưng phải đảm bảo cung cấp đủ nguyên vật liệu (về số lượng, chất lượng), thời gian cung ứng vật liệu phải kịp thời để đảm bảo kịp tiến độ thi công công trình, giảm chi phí lưu kho, lưu bãi... Đối với những loại nguyên vật liệu quý hiếm trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu từ nước ngoài hoặc những nguyên vật liệu đắt liệu đắt tiền. Công ty có thể lựa chọn những loại nguyên vật liệu khác để thay thế, song phải đảm bảo điều kiện giá cả của vật liệu thay thế phải rẻ hơn, nhưng vẫn đảm bảo chất lượng tốt, tận dụng tối đa phế liệu thu hồi... 2.2.2. Hoàn thiện nội dung phân tích khoản mục chi phí nhân công trực tiếp. Để phân tích tình hình quản lý và sử dụng quỹ tiền lương của công nhân trực tiếp xây lắp tại công trình. Trong Phần nội dung phân tích của công ty, nên thêm chỉ tiêu năng suất lao động bình quân của một công nhân xây lắp, để xem xem việc sử dụng lao động của công ty có hiệu quả hay không. Công thức xác định năng suất lao động bình quân của một công nhân xây lắp Năng suất lao động bình quân một công nhân xây lắp = Tổng giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành trong kỳ x100% Số công nhân bình quân trực tiếp xây lắp Đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động trong công ty, chỉ tiêu này càng tăng thì càng tốt. Ví dụ: Phân tích tình hình quản lý và sử dụng quỹ tiền lương của công nhân xây lắp tại công trình Cấp Nước Tân thuận (quý III/2003). (Bảng 10): Bảng phân tích tình hình quản lý và sử dụng quỹ tiền lương công nhân trực tiếp xây lắp công trình Cấp Nước Tân Thuận ( quý III/2003) Các chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện So sánh CL ± TL% 1. Tổng giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành trong kỳ (1000 đ) 612.117 596.879 - 15.238 - 2,49 2. Tổng quỹ lương của công nhân trực tiếp xây lắp công trình (1000) 65.052 60.971 -4.081 -6,27 3. Số công nhân xây lắp bình quân trong danh sách làm việc tại công trình ( người) 25 22 - 3 - 12 4. Mức lương bình quân người/ tháng (1000đ) 867,37 923,81 +56,44 +6,51 5. Tỉ suất tiền lương/ giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành ( % ) 10,63 10,22 - 0,41 6. Năng suất lao động bình quân (1000) 24.484,68 27.130,86 +2.646,18 10,8 Nhận xét: Qua bảng phân tích trên ta thấy Tổng quỹ lương của công nhân xây lắp trực tiếp trên công trình (trong quý III/ 2003) thực hiện so với kế hoạch giảm 4.081 (nghìn đồng), với tỷ lệ giảm là 6,27 %. Giá thành khối lượng công tác xây lắp thực tế so với kế hoạch giảm 15.238 (nghìn đồng), với tỷ lệ tăng là 2,49 %. Tỷ lệ giảm của tổng quỹ lương lớn hơn tỷ lệ giảm của tổng giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành, làm cho tyư suất chi phí tiền lương giảm 0,41%. Điều đó chứng tỏ tình hình quản lý và sử dụng quỹ tiền lương của công nhân xây lắp trực tiếp ở công ty là hợp lý. Thu nhập bình quân của một công nhân trực tiếp xây lắp trong kỳ thực hiện so với kế hoạch tăng, với tỷ lệ tăng là 6,51 %, năng suất lao động bình quân của một công nhân trực tiếp xây lắp thực hiện so với kế hoạch tăng 2.646,18 (nghìn đồng), với tỷ lệ tăng 10,8 %. So sánh tỷ lệ tăng của mức lương bình quân với tỷ lệ tăng của năng suất lao động bình quân, ta thấy tỷ lệ tăng của năng suất lao động bình quân lớn hơn tỷ lệ tăng của mức lương bình quân. Chứng tỏ tình hình sử dụng lao động của công ty tại công trình là tốt, đời sống của người lao động được quan tâm hơn. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quỹ tiền lương của công nhân xây lắp trực tiếp. Quỹ lương của công nhân liên quan mật thiết với kết quả sản xuất. Nó biểu hiện ở chỉ tiêu năng suất lao động của công nhân. Vì vậy, Quỹ lương của công nhân được xác định như sau: Trong đó: Z Là tổng giá thành Khối lượng công tác xấy lắp hoàn thành năng suất lao động bình quân của một công nhân xây lắp. tiền lương bình quân của một công nhân xây lắp. Sử dụng phương pháp loại trừ để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới sự tăng ( giảm) của tổng quỹ lương: - Do ảnh hưởng của tổng giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành: - Do ảnh hưởng của năng suất lao động bình quân: - Do ảnh hưởng của tiền lương bình quân: ( trong đó: 1 kí hiệu là kỳ thực hiện, 0 kí hiệu là kỳ kế hoạch) Vận dụng nội dung phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quỹ tiền lương vào việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí nhân công trực tiếp ở công ty. Dựa vào số liệu bảng 10 để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến quỹ lương của Công ty: Mức độ ảnh hưởng của nhân tố tổng giá thành khối lượng công tác xây lắp hoàn thành: (Nghìn đồng) Mức độ ảnh hưởng của nhân tố năng suất lao động bình quân của một công nhân xây lắp: (Nghìn đồng) Mức độ ảnh hưởng của nhân tố tiền lương bình quân một công nhân xây lắp: (+ 2.015 x3 nghìn đồng). (Nghìn đồng) Nhận xét: Do tổng giá thành khối lượng công tác xây lắp hoàn thành giảm, làm cho quỹ lương giảm 1.619,4 nghìn đồng. Điều đó có nghĩa là chi phí tiền lương trong giá thành khối lượng công tác giảm, dẫn đến giá thành công trình giảm Do năng suất lao động bình quân tăng, làm cho quỹ tiền lương giảm 6.186,9 nghìn đồng. Năng suất lao động bình quân tăng, số công nhân sử dụng bình quân giảm, tất yếu làm giảm chi phí tiền lương dẫn đến giảm giá thành. Do tiền lương bình quân của người lao động tăng, làm quỹ tiền lương tăng 3.725 nghìn đồng. Công tác quản lý sản xuất nói chung, công tác quản lý và sử dụng quỹ lương nói riêng của công ty là tốt. Đạt được điều này là do, công ty đã thực hiện tốt các biện pháp như: Loại trừ được những tổn thất do ngừng viêc, loại bỏ những bất hợp lý trong tổ chức lao động, không sử dụng công nhân lành nghề trong các công việc phụ, tổ chức tốt các quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động của công nhân trên công trường..Công ty đã thực hiện tốt các chế độ, chính sách tăng lương của nhà nước đối với người lao động, Công ty thường xuyên quan tâm đến đời sống vật chất, và tinh thần của người lao động thông qua việc tăng tiền lương, tiền thưởng cho công nhân. Các biện pháp này cần phải được phát huy trong các kỳ sản xuất tiếp theo. 2.2.3 Hoàn thiện nội dung phân tích khoản mục chi phí sử dụng máy thi công. Đối với nội dung phân tích này, Công ty nên sử dụng Biểu mẫu 8 cột, và sử dụng thêm chỉ tiêu: tỷ suất chi phí sử dụng máy thi công trên gía thành công trình hoàn thành. Đây là chỉ tiêu giúp Công ty đánh giá xem việc bỏ chi phí sử dụng máy thi công có phù hợp với kết quả đạt được hay không. Công thức xác định tỷ suất chi phí sử dụng máy thi công: Tỷ suất chi phí sử dụng máy thi công = Chi phí sử dụng máy thi công x100% Giá thành công trình hoàn thành Tỷ suất chi phí này càng giảm càng tốt. Tỷ lệ giảm của chi phí sử dụng máy thi công phải lớn hơn tỷ lệ giảm của giá thành công trình hoàn thành. Vận dụng nội dung này vào phân tích khoản mục chi phí sử dụng máy thi công trong giá thành sản phẩm ở công ty. Ta có bảng phân tích sau: (Bảng 11): Bảng phân tích chi tiết tình hình thực hiện kế hoạch chi phí sử dụng máy thi công trong giá thành công trình. Các chỉ tiêu Kế hoạch Thực hiện So sánh ST TS ST TS CL ±TL% ±TS 1. Chi phí sử dụng máy thi công tự có 199.509 12 190.228 11,78 -9.281 -4,65 -0,22 Trong đó: Chi phí tiền lương nhân viên phục vụ và điều khiển máy thi công 53.397 3,2 54.488 3,37 +1.091 +2,04 +0,17 Chi phí khấu hao máy thi công 102.128 6,19 95.540 5,92 -6.588 -6,45 -0,27 Chi phí nhiên liệu động lực 30.607 1,85 28.809 1,78 -1.798 -5,87 -0,07 Chi phí sửa chữa máy thi công 13.377 0,81 11.391 0,71 - 1.986 -14,84 - 0,1 2. Chi phí sử dụng máy thuê ngoài có công nhân điều khiển máy đi kèm 52.436 3,18 49.257 3,05 -3.179 -6,06 -0,13 Tổng chi phí sử dụng máy thi công 251.945 15,27 239.485 14,82 -12.460 -4,95 -0,45 Giá thành công trình hoàn thành 1.650.123 - 1.614.875 - -35.248 -2,14 - Nhận xét: Chi phí sử dụng máy thi công thực hiện so với kế hoạch giảm, với tỷ lệ giảm là 4,95 %, trong khi đó tỷ lệ giảm giá thành công trình là 2,14 %. So sánh ta thấy, tỷ lệ giảm chi phí sử dụng máy thi công lớn hơn tỷ lệ giảm giá thành công trìn, dẫn đến tỷ suất chi phí sử dụng máy thi công thực hiện so với kế hoạch giảm. Như vậy, hiệu việc sử dụng chi phí sử dụng máy thi công ở công ty là tốt. Trong đó: Chi phí sử dụng máy tự có của công ty thực hiện so với kế hoạch giảm, với tỷ lệ giảm 4,65%. So sánh với tỷ lệ giảm của giá thành công trình ta thấy, tỷ lệ giảm của chi phí sử dụng máy thi công tự có lớn hơn tỷ lệ giảm của giá thành công trình hoàn thành, dẫn đến tỷ suất chi phí sử dụng máy thi công tự có thực hiện so với kế hoạch giảm. Như vậy, hiệu quả việc sử dụng chi phí sử dụng máy thi công tự có của công ty là tố. Xem xét chi tiết từng mục chi phí trong khoản mục chi phí sử dụng máy thi công: Chi phí nhân viên phục vụ và điều khiển máy thi công thực hiện so với kế hoạch tăng với số tiền là 1.091 nghìn đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 2,04 %, việc tăng chi phí nhân viên phục vụ và điều khiển máy thi công là không hợp lý, công ty phải tìm hiểu nguyên nhân để có những biện pháp khắc phục.Còn các khoản chi phí khác đều giảm và tỷ lệ giảm của các khoản chi phí này lớn hơn tỷ lệ giảm của giá thành sản phẩm, dẫn đến tỷ suất của các khoản chi phí này cũng giảm. Như vậy, hiệu quả của việc sử dụng các khoản mục chi phí là cao. Chi phí sử dụng máy thuê ngoài có công nhân điều khiển máy đi kèm thực hiện so với kế hoạch giảm 3.179 nghìn đồng, với tỷ lệ giảm là 6,06 %. So sánh với tỷ lệ giảm của giá thành, tỷ lệ giảm của chi phí sử dụng máy thuê ngoài lớn hơn tỷ lệ giảm của giá thành, làm cho tỷ suất chi phí sử dụng máy thuê ngoài giảm. Như vậy, hiệu quả của việc sử dụng chi phí máy thuê ngoài ở công ty là cao. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng máy thi công. + Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sử dụng máy tự có Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí sử dụng máy tự có bao gồm: Khối lượng các công tác xây lắp được thực hiện bằng máy (Qim); Thời gian ca - máy ( hoặc giờ - máy) cần thiết để máy thực hiện một đơn vị khối lượng công tác xây lắp (tim); Giá thành một ca- máy ( Zim). Mối quan hệ giữa các nhân tố trên đối với chi phí sử dụng máy thi công được biểu diễn qua mô hình sau: ZM = ồ ( Qim x tim x Zim ) Sự biến động của chi phí sử dụng máy tự có : ZM1 – ZM0 = ồ Qim1 x tim1 x Zim1 - ồ Qim0 x tim0 x Zim0 Bằng phương pháp phân tích loại trừ ta xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố trên đối với chênh lệch cuả khoản mục chi phí sử dụng máy thi công giữa kì phân tích (thực tế) so với kì gốc ( kế hoạch): ảnh hưởng của nhân tố khối lượng công tác xây lắp được thực hiện bằng máy (Qim): DZMq = ồ ( Qim1 – Qim0 ) x tim0 x Zim0 - ảnh hưởng của nhân tố thời gian máy thực hiện một đơn vị khối lượng công tác xây lắp (tim) DZMt = ồ Qim1 x (tim1 – tim0 ) x Z im0 ảnh hưởng của nhân tố giá thành một ca máy (Zim): D ZMz = ồ Qim1 x tim1 x ( Zim1 – Zim0) Tổng hợp mức độ ảnh hưởng của các nhân tố: DZMq + DZMt + D ZMz = ± DZM ( kí hiệu: i là loại công tác máy thực hiện; 1 kí hiệu là kỳ thực hiện; 0 kí hiệu là kì kế hoạch). Vận dụng nội dung phân tích này vào phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sử dụng máy sử dụng máy thi công ở công ty xây dựng Lũng Lô. Bảng tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí sử dụng máy thi công của công ty. Các chỉ tiêu Loại công tác Đào đất San nền … KH TH KH TH KH TH 1. Khối lượng công tác do máy thực hiện (100 ) 210 209,2 25 25.4 2. Hao phí thời gian máy thực hiện một đơn vị khối lượng (ca- máy) 0,67 0,6 0,08 0,077 3. Giá thành ca máy (1000đ) 280,3 281,5 227,6 229,2 Tổng chi phí sử dụng máy (1000đ) 39.438 35.334 455 448 Nhận xét: ở cả hai loại công tác đào đất và san đất giảm được chi phí sử dụng máy. Riêng công tác đào đất giảm được 4.104 nghìn đồng. Đi sâu phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc giảm chi phí sử dụng máy ở loại công đào đất ta nhận thấy, nguyên nhân chủ yếu là do công ty đã tìm được các biện pháp tổ chức thi công hợp lý, giảm được hao phí thời gian ca- máy trong thực hiện khối lượng công tác xây lắp, qua đó giảm được 4.105 nghìn đồng chi phí. Công tác san đất cũng đạt được thành tích đáng kể trong tổ chức thi công, giảm được hao phí ca máy trong thực hiện khối lượng công tác đề ra trong kế hoạch. Một số giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí sử dụng máy thi công ở công ty xây dựng Lũng Lô. Tìm các biện pháp tổ chức thi công hợp lý, phù hợp với địa điểm thi công công trình; lập các biện pháp thi công cơ giới hoá hợp lý; lựa chọn các phương án tối ưu trên cơ sở so sánh các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật; sử dụng tối đa công suất của máy máy; thường xuyên kiểm tra việc cung cấp vật liệu, nhiên liệu cần thiết cho máy để tránh tình trạng ngừng việc giữa ca do không đảm bảo đầy đủ nhiên liệu cho máy hoạt động; phải đảm bảo đủ số công nhân vận hành máy; tiến hành sửa chữa thường xuyên và định kỳ cho máy móc, đối với những máy đã hết thời gian sử dụng hoặc còn nhưng đã lạc hậu thì công ty nên thanh lý ngay để đầu tư những máy móc mới hơn, hiện đại hơn nhằm tăng năng suất của máy, giảm tiêu hao nhiên liệu... Đối với máy thi công thuê ngoài kèm theo người điều khiển máy. Đối với máy thi công thuê ngoài có công nhân điều khiển máy đi kèm thì số chênh lệch về chi phí sử dụng máy chỉ chịu ảnh hưởng của nhân tố số lượng ca máy sử dụng. Đối với những máy thuê ngoài có công nhân điều khiển đi kèm, công ty không chịu trách nhiệm quản lý mọi phí tổn trong quá trình sử dụng máy mà chỉ theo dõi tiến độ thi công để bảo đảm khối lượng công tác cho máy có thể hoạt động được bình thường và liên tục, kiểm tra chất lượng các công tác đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật được quy định trong thiết kế. Bảng phân tích ảnh hưởng của nhân tố số lượng ca máy đến chi phí sử dụng máy thuê ngoài: Nội dung công việc Phí tổn sử dụng máy tính theo định mức (nghìn đồng) Tiền thuê máy thực tế đã trả theo số ca kí trong hợp đồng (nghìn đồng) Những ca làm việc Những ca ngừng việc Cẩu bê tông 6000 Trộn bê tông Cộng chi phí Nếu Công ty lập tốt kế hoạch thuê máy và sử dụng số lượng ca máy đi thuê trên cơ sở thiết kế tổ chức thi công hợp lý sẽ hạn chế và loại trừ được thời gian ngừng việc, tận dụng được công suất máy thi công và giảm được số ca máy cần thuê để hoàn thành khối lượng công tác xây lắp. 3. Hoàn thiện phương pháp phân tích chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 3.1 Phương pháp liên hệ hàm số. Liên hệ hàm số là mối liên hệ của một biến số phụ thuộc với một hoặc nhiều biến số độc lập khác , mà ứng với một hoặc một tập hợp trị số của các biến số độc lập hoàn toàn có thể xác định một trị số của biến số phụ thuộc. Ví dụ: khối lượng công tác xây lắp hoàn thành có mối liên hệ với các chỉ tiêu năng suất lao động bình quân của một công nhân xây lắp và số lượng công nhân xây lắp. Q = S x W Trong đó: Q là khối lượng công tác xây lắp hoàn thành S là số lượng công nhân xây lắp bình quân trong kỳ W là năng suất lao động bình quân của một công nhân xây lắp trong kỳ. Giá trị vật liệu có mối liên hệ với số lượng vật liệu và đơn giá vật liệu; tiền lương bình quân tháng của một công nhân có mối liên hệ với số ngày làm việc bình quân trong tháng và tiền lương bình quân ngày. Trong phân tích kinh tế có thể gặp nhiều chỉ tiêu nghiên cứu như là những biến số phụ thuộc có mối liên hệ với các chỉ tiêu khác là những nhân tố ảnh hưởng như là các biến số độc lập. Biến số phụ thuộc và biến số độc lập có mối liên hệ với nhau bằng nhiều dạng hằng số khác nhau, tuy nhiên trong phân tích kinh tế thường gặp các mối liên hệ tương đối đơn giản như là một tích số hoặc một thương số. Trong phân tích thường gặp nhiều chỉ tiêu về phương diện tính toán được xác định bởi 2 chỉ tiêu khác mà giữa chúng có mối quan hệ là một thương số. Ví dụ: Chỉ tiêu hiệu suất chi phí sản xuất (HQ) được xác định theo công thức sau: Trong đó B: Giá trị khối lượng công tác hoàn thành trong kỳ. H: Chi phí sản xuất trong trong kỳ. Vấn đề đặt ra là HQ sẽ thay đổi như thế nào khi B và H biến đổi hay nói cách khác là sự thay đổi của B và H sẽ ảnh hưởng như thế nào đến HQ? Xem xét mối liên hệ này, ta thấy HQ sẽ thay đổi tỷ lệ thuận với sự thay đổi của B hay là B có mối liên hệ thuận chiều với HQ, còn HQ sẽ thay đổi tỷ lệ nghịch với sự thay đổi của H hay là H có mối liên hệ ngược chiều với HQ. Vậy mối liên hệ thuận chiều là mối liên hệ của các chỉ tiêu cùng hướng, nghĩa là sự tăng lên của chỉ tiêu này cũng đẫn tới sự tăng lên của chỉ tiêu kia và ngược lại. Mối liên hệ ngược chiều là mối liên hệ của hai chỉ tiêu có hướng biến động trái ngược nhau, tức là làm tăng chỉ tiêu này sẽ dẫn đến làm giảm chỉ tiêu kia và ngược lại. Mối liên hệ của chỉ tiêu nghiên cứu với các chỉ tiêu nhân tố có thể được biểu diễn bằng một hàm số có hai biêns số, trong đó một biến số là một chỉ tiêu có mối liên hệ thuận, biến số còn lại là chỉ tiêu có mối liên hệ nghịch với chỉ tiêu nghiên cứu đóng vai trò là biến ó phụ thuộc. Phương pháp xác định ảnh hưởng của sự biến động các chỉ tiêu nhân tốđối với chỉ tiêu nghiên cứu trong mối liên hệ thuận - nghịch này như sau: Mức độ ảnh hưởng của nhân tố có mối liên hệ thuận đến chỉ tiêu nghiên cứu được tính toán theo công thức: Trong đó Mt : Mức độ ảnh hưởng của nhân tố có mối liên hệ thuận chiều đối với chỉ tiêu nghiên cứu tính băng %. dt, dn : Mức tăng hoặc giảm của chỉ tiêu nhân tố có mối liên hệ thuận chiều và ngược chiều với chỉ tiêu nghiên cứu tính bằng %. Mức độ ảnh hưởng của sự thay đổi chỉ tiêu nhân tố có mối liên hệ ngược chiều đối với chỉ tiêu nghiên cứu được tính toán theo công thức: Trong đó Mn : Mức độ ảnh hưởng của nhân tố có mối liên hệ ngược đối với chỉ tiêu nghiên cứu tính bằng %. 3.2 Phương pháp liên hệ tương quan. Trong phân tích kinh tế, việc đưa các mối liên hệ của các chỉ tiêu kinh tế về dạng liên hệ hàm số thường chỉ có ý nghĩa về phương diện tính toán hoặc ít nhiều đã đơn giản hoá mối liên hệ của chúng bởi vì các chỉ tiêu nhân tố đặc trưng cho các hiện tượng, quá trình kinh tế ngoài sự tác động đồng thời đối với chỉ tiêu nghiên cứu, chúng còn tác động qua lại lẫn nhau. Bản thân các chỉ tiêu nhân tố chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, một số các yếu tố hoạt động có tính chất khách quan, một số các yếu tố khác lại là kết quả của sự hoạt động có mục đích và sáng tạo của con người, đồng thời không loại trừ những tác động hoàn toàn ngẫu nhiên. Tính quy luật không biểu thị trong lĩnh vực kinh tế với sự chính xác tuyệt đối như trong lĩnh vực tự nhiên. Vì vậy, khi nghiên cứu các mối liên hệ qua lại giữa các chỉ tiêu kinh tế thường áp dụng phương pháp phân tích tương quan. Hai đại lượng X và Y được gọi là có mối liên hệ tương quan nếu với mối giá trị của biến số X tương ứng có một dãy phân phối các đại lượng của Y; Biến số X thay đổi thì dãy số phân phối của Y cũng thay đổi một cách có quy luật. Phân tích tương quan trong kinh tế nhằm xác định sự tồn tại và dạng của mối liên hệ giữa các đại lượng ngẫu nhiên, đồng thời cũng cho phép đánh giá mức độ chặt chẽ của mối liên hệ đó. Với việc áp dụng phương pháp phân tích tương quan và hồi quy không những có thể tính tới ảnh hưởng riêng của từng nhân tố, mà còn tìm ra tác động đồng thời của cả nhóm nhân tố đối với chỉ tiêu nghiên cứu. Trong phân tích kinh tế, áp dụng phương pháp phân tích tương quan để xác định vai trò của các nhân tố đối với hiện tượng nghiên cứu, dự báo các chỉ tiêu kinh tế. Nhược điển của phương pháp liên hệ tương quan là phải tiến hành trên cơ sở khối lượng lớn các số liệu quan sát bằng phương pháp tính toán riêng của thống kê và áp dụng các phương tiện kĩ thuật tính toán hiện đại. 3.3 Phương pháp liên hệ phân tổ. Phân tổ là sự phân chia các chỉ tiêu, hiện tượng kinh tế thành các nhóm (tổ) có tính chất giống nhau theo một tiêu thức nhất định. Việc phân tổ các hiện tượng quá trình kinh tế chỉ có thể tiến hành trên cơ sở nghiên cứu một cách tỷ mỉ bản chất kinh tế của các hiện tượng, quá trình đó. Nhờ phương pháp phân tổ có thể xác định được đặc trưng của mối liên hệ, nguyên nhân, kết quả và sự phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau của các hiện tượng nghiên cứu, xác định được phương hướng tác động và đặc trưng ảnh hưởng của các nhân tố đối với hiện tượng nghiên cứu. Phân tổ còn được sử dụng để tìm ra kết cấu của một quá trình, một hiện tượng kinh tế và sự biến động của chúng. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu phân tích mà người ta có các phương thức phân tổ khác nhau: Phân tổ phân loại là sự phân chia một tổng thể gồm các hiện tượng, quá trình kinh tế không đồng nhất về nội dung hoặc có chất lượng khác nhau thành các nhóm (tổ) có nội dung hoặc chất lượng giống nhau. Ví dụ: nghiên cứu tổng thể lực lượng lao động của doanh nghiệp xây lắp được chia thành các nhóm (tổ): công nhân viên xây lắp và công nhân viên ngoài xây lắp. Tổng khối lượng công việc xây lắp hoàn thành được chia ra là khối lượng công việc do bản thân doanh nghiệp thực hiện và khối lượng công việc do các bên thầu phụ thực hiện. Nhờ có phân tổ phân loại, việc phân tích, đánh giá các chỉ tiêu phân tích được rễ ràng chính xác tạo điều kiện thuận lợi để tìm ra các nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả của các chỉ tiêu phân tích, thấy được khâu yếu, khâu mạnh trong tổng thể. Phân tổ kết cấu là sự phân chia các hiện tượng, quá trình kinh tế tổng hợp thành các nhóm (tổ) theo các yếu tố cấu thành của hiện tượng, quá trình đó. Ví dụ: Giá thành các công tác xây lắp có thể được phân tổ theo các khoản mục cấu thành nên toàn bộ giá thành các công tác xây lắp: Chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy và chi phí chung. Đối với chi phí mua sắm máy móc thiết bị cho các công trình có thể phân chia thành: Giá gốc, chi phí vân chuyển, bốc dỡ, lắp đặt… Phân tổ kết cấu cho phép thấy rõ kết cấu của từng hiện tượng, quá trình kinh tế, vai trò của từng bộ phận cũng như khuynh hướng biến động của từng bộ phận, của hiện tượng, quá trình kinh tế đó. Nhờ phân tổ kết cấu đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phân tích so sánh, tìm ra các nguồn dự trữ tiềm tàng cũng như nguyên nhân gây ra kết quả. Cần thấy rõ sự khác nhau cơ bản giữa phân tổ phân loại và phân tổ kết cấu thể hiện ở chỗ: Phân tổ kết cấu chỉ tiến hành đối với các hiện tượng, quá trình kinh tế đồng nhất có cùng chất lượng. Phân tổ phân tích – là sự phân chia các hiện tượng, quá trình kinh tế theo mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau của chúng. Phân tổ phân tích thường được sử dụng khi phân tích các báo cáo tổng hợp để nghiên cứu mối liên hệ của các chỉ tiêu kinh tế khác nhau, sự tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau của chúng. Ví dụ: nghiên cứu tình hình quỹ lương của doanh nghiệp có thể phân tổ theo các tổ: lương chính, lương phụ và phụ cấp lương. Việc sử dụng phương pháp phân tổ tuỳ thuộc vào mục đích và yêu cầu phân tích và có thể kết hợp các cách phân tổ khác nhau để kết quả phân tích được tỉ mỉ và sâu sắc hơn. Sự phân tổ các chỉ tiêu hợp lý và đúng đắn bao nhiêu thì kết quả phân tích càng sâu sắc và chính xác bấy nhiêu. 3.4 Phương pháp mô hình xương cá. Đối với phương pháp này các nguyên nhân, các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu hoặc hiện tượng nghiên cứu được sắp xếp một cách khoa học. Mỗi nguyên nhân chính được quy thành các nguyên nhân nhỏ và các nguyên nhân nhỏ này có thể lại đuực chia nhỏ nữa. Nguyên nhân phụ Tác động Nguyên nhân chính Phương pháp này có tác dụng là trong quá trình phân tích nêu ra được hết mọi nguyên nhân, mọi nhân tố tác động vào đầu ra, đồng thời các nguyên nhân chính , chủ yếu cũng được xác định rõ ràng, không trùng lặp. Phương pháp này là một phương pháp hữu hiệu để xử lý các trục trặc, điều chỉnh các sai lệch trong quá trình tác nghiệp thực hiện các quy trình công nghệ xây dựng, hoặc để phân tích dự báo trước các nguyên nhân tác động đến quá trình sử dụng xe máy thiết bị thi công. IV. Những điều kiện để thực hiện những nội dung hoàn thiện đã nêu ở công ty xây dựng Lũng Lô. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29253.doc
Tài liệu liên quan