Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ trong quá trình đô thị hoá

Tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ trong quá trình đô thị hoá: ... Ebook Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ trong quá trình đô thị hoá

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1602 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ trong quá trình đô thị hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay ở nước ta, vấn đề quản lý chặt chẽ đất đai đang là yêu cầu cấp thiết nhằm đạt mục đích là đưa quỹ đất vào sử dụng hợp lí và có hiệu quả, đưa đất đai trở thành nguồn nội lực, nguồn vốn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước. Để Nhà nước quản lý thống nhất được đất đai theo quy định của pháp luật, có cơ sở pháp lý về bảo hộ quyền sử dụng hợp pháp của người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất nhất thiết phải có thông tin về đất đai. Do vậy, việc thiết lập, quản lý hệ thống hồ sơ địa chính là một yêu cầu tất yếu. Hệ thống hồ sơ địa chính được thiết lập, cập nhật trong các quá trình điều tra, qua các thời kỳ khác nhau, bằng các hoạt động khác nhau như đo đạc lập bản đồ địa chính, đăng ký ban đầu và đăng ký biến động đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hệ thống này chứa đựng đầy đủ thông tin cần thiết về các mặt điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý của từng thửa đất. Hệ thống là công cụ đắc lực của nhà nước, giúp nhà nước khai thác mọi nguồn lực đất đai, đồng thời cung cấp cho cộng đồng dân cư các thông tin cần thiết để thực hiện các quyền và nghĩa vị của công dân trong quan hệ đất đai. Quận Tây Hồ là một quận của Thành phố Hà Nội được thành lập năm 1995 theo Nghị định 69/CP của Chính phủ trên cơ sở các phường: Bưởi, Thụy Khê, Yên Phụ của quận Ba Đình và các xã: Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng của huyện Từ Liêm. Trong những năm vừa qua, quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở quận Tây Hồ đã dẫn đến nhiều biến động về sử dụng đất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý chặt chẽ và thống nhất quỹ đất trên địa bàn quận thì vấn đề hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính nhằm cập nhật và quản lí một cách đầy đủ các biến động về đất đai là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của vấn đề này, Vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ trong quá trình đô thị hóa”. Mục tiêu của đề tài: Đánh giá đúng thực trạng của hệ thống hồ sơ địa chính đã được thiết lập tại quận Tây Hồ, làm rõ những yếu kém, bất cập để có phương hướng khắc phục để từ đó đề xuất các giải pháp khả thi nhằm góp phần hoàn thiện công tác đăng kí, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn quận Tây Hồ. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp điều tra khảo sát đây là phương pháp điều tra nhằm thu thập số liệu, tài liệu, thông tin cần thiết cho mục đích đánh giá thực trạng hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ; Phương pháp thống kê nhằm phân tích thống kê các số liệu về tình hình đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập hồ sơ địa chính trên địa bàn quận; phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp tức là sử dụng để phân tích làm rõ thực trạng hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá. Nội dung gồm 3 phần: Chương I: Cơ sở lý luận của công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính. Chương II: Thực trạng hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ Chương III: Các giải pháp hoàn thiện, đổi mới hệ thống hồ sơ địa chính trên địa bàn quận Tây Hồ. Em xin chân thành cảm ơn sự giúo đỡ và hướng dẫn tận tình của PGS.TS.Ngô Đức Cát và các cô chú phòng Tài nguyên và Môi Trường đã hướng dẫn em hoàn thành tốt đề tài này. CHƯƠNG I CƠ SỞ KHOA HỌC VIỆC LẬP VÀ QUẢN LÝ HỒ SƠ ĐỊA CHÍNH I VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI Đất đai là nguồn lực tự nhiên có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của mỗi một quốc gia, là yếu tố quan trọng bậc nhất cấu thành thị trường bất động sản. Hiện nay, thị trường hàng hoá, dịch vụ phát triển nhanh chóng nhưng còn mang nhiều yếu tố tự phát, thiếu định hướng. Thị trường bất động sản, thị trường sức lao động phát triển còn chậm chạp, tự phát. Thị trường vốn, công nghệ còn yếu kém. Do vậy, việc hành thành đồng bộ các loại thị trường là yếu cầu cấp bách nhằm đáp ứng đòi hỏi của sản xuất, đời sống. Nhà nước đóng vai trò là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự hình thành đồng bộ các loại thị trường tạo ra sự vận động nền kinh tế đa dạng. Vai trò quản lý Nhà nước về đất đai thể hiện: Thông qua hoạch định chiến lược, quy hoạch, lập kế hoạch phân bổ đất đai nhằm phục vụ cho mục đích kinh tế-xã hội của đất nước, đảm bảo sử dụng đất đúng mục đích, đạt hiểu quả cao và tiết kiệm, giúp cho Nhà nước quản lý đất đai chặt chẽ, giúp cho người sử dụng đất có các biện pháp hữu hiệu để bảo vệ và sử dụng đất có hiệu quả cao. Thông qua công tác đánh giá, phân hạng, kiểm kê, thống kê đất để có các biện pháp kinh tế- xã hội có hệ thống, có căn cứ khoa học nhằm sử dụng đất đai có hiệu quả. Thông qua việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách về đất đai như chính sách giá cả, chính sách thuế, chính sách đầu tư…Nhà nước khuyến khích các tổ chức, các chủ thể kinh tế, các cá nhân sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai, tiết kiệm đất đai nhằm nâng cao khả năng sinh lời của đát đai, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế-xã hội của cả nước và bảo vệ môi trường sinh thái. Thông qua việc kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng đất đai, Nhà nước nắm chắc tình hình diễn biến về sử dụng đất đai, phát hiện những vi phạm và giải quyết những vi phạm pháp luật đất đai II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI LẬP VÀ QUẢN LÝ HỒ SƠ ĐỊA CHÍNH TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI. 1. Khái niệm, phân loại và đặc điểm hồ sơ địa chính. 1.1 Khái niệm. Hồ sơ địa chính là hệ thống tài liệu, số liệu, bản đồ, sổ sách…, chứa đựng những thông tin cần thiết về các mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý của đất đai và những thông tin này chúng ta có được trong quá trình đo đạc lập bản đồ địa chính, đăng ký ban đầu và đăng ký biến động đất đai, cấp GCNQSD đất. Tất cả các thông tin về tự nhiên của đất đai được lấy thông qua đo đạc khảo sát; còn các yếu tố kinh tế của đất đai lấy thông tin từ việc phân loại, đánh giá, phân hạng đất đai là điều kiện để xác định giá đất và thu thuế. Yếu tố xã hội về đất đai lấy từ hoạt động của Nhà nước về quy định quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, các quan hệ về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp…Còn yếu tố pháp luật của đất đai thì căn cứ vào quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ví dụ như quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, các quy định pháp luật về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất… Như vậy, tất cả các thông tin đất đai ở trong HSĐC như trên là cơ sở để thực hiện quản lý Nhà nước về đất đai. Phân loại. Hồ sơ địa chính nói chung bao gồm các tài liệu, số liệu, bản đồ, sổ sách…chứa đựng toàn bộ thông tin về đất đai. HSĐC có các loại sau: - Hệ thống địa bạ: là một hệ thống hồ sơ ghi chép, cập nhật những dữ liệu cơ bản về tình hình đất đai, chứa đựng những thông tin về đất đai do chính quyền quản lý. Hệ thống địa bạ chứa đựng các thông tin về vị trí, hình thể, kích thước, ranh giới, loại đất, tên chủ sử dụng đất. Hệ thống địa bạ bao gồm: sổ địa bạ là sổ sách đăng ký thông tin chứa dựng thông tin về đất đai, thường do cơ quan chính quyền cấp xã (cấp cơ sở) cấp và quản lý; thứ hai là các giấy tờ chứng minh xác định quyền SDĐ, những giấy tờ này do người nắm giữ quản lý. Việc sử dụng hệ thống địa bạ đơn giản, dễ thực hiện, là hệ thống đạt được mục tiêu cấp cơ sở, sử dụng trong phạm vi hẹp. Bên cạnh những ưu điểm trên thì nó có nhược điểm đó là: thông tin về đất đai không chính xác, không thống nhất trong công tác quản lý đất đai do việc quản lý chỉ sử dụng ở đơn vị hành chính nhỏ và quản lý trên từng mảnh đất, lô đất. Nếu quản lý đất trong phạm vi rộng hơn thì khó thực hiện, sử dụng trong trường hợp điều kiện kỹ thuật chưa phát triển, điều kiện đất đai ít biến động, ít có sự thay đổi về mục đích sử dụng, cũng như chủ thể sử dụng và các quan hệ sử dụng. - Hệ thống bằng khoán: là hệ thống hồ sơ quản lý đất đai một cách thống nhất, trên cơ sở đó hệ thống bản đồ địa chính cùng với các hệ thống quản lý hoàn chỉnh và đồng bộ. Hệ thống bằng khoán ra đời sau khi hệ thống thông tin phát triển, khi có các quan hệ đất đai phát triển và phức tạp nằm ngoài quản lý của địa phương Nội dung của hệ thống bằng khoán bao gồm: Hệ thống bản đồ địa chính quy định thống nhất trong cả nước; thứ hai là hệ thống hồ sơ sổ sách để ghi chép, quản lý thông tin về mảnh đất, và cuối cùng là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong cả nước. Với nội dung trên thì hệ thống bằng khoán đảm bảo thông tin thống nhất, chặt chẽ, việc quản lý diễn ra trên cả nước. Việc sử dụng hệ thống này tạo điều kiện để phát triển quan hệ hàng hoá tiền tệ về đất đai một cách chính xác, đầy đủ sẽ ngăn chặn tình trạng thông tin ngầm tạo điều kiện cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh. Đồng thời cho phép điều chỉnh quy hoạch và thay đổi mục đích sử dụng đất một cách linh hoạt. Với những ưu điểm trên thì hệ thống bằng khoán cũng có những nhược điểm của nó như: để tạo được hệ thống bằng khoán thì cần phải có chi phí đầu tư rất lớn, hệ thống vận hành quản lý phải có đủ trình độ và phương tiện, các cán bộ phải có trình độ chuyên môn ngiệp vụ cao. Bên cạnh việc sử dụng hai hệ thống trên thì có thể sử dụng hệ thống hỗn hợp tức là sử dụng đồng thời hai hệ thống địa bạ và bằng khoán. Việc kết hợp hai hệ thống trên không có nghĩa là sử dụng 2 thông tin hệ thống trên một mảnh đất mà có loại thì sử dụng hệ thống địa bạ thì tốt, đơn giản, dễ làm, nhưng có loại đất thì phải sử dụng thông tin đất đai. Thật vậy, có những những loại đất ít biến động thì ta nên sử dụng hệ thống địa bạ sẽ đơn giản mà vẫn đảm bảo được thông tin đầy đủ. Còn đối với đất đô thị, công nghiệp có rất nhiều biến động xẩy ra nếu sử dụng hệ thống địa bạ thì thông tin về thửa đất sẽ không chính xác bằng việc sử dụng hệ thống bằng khoán. Vì với những loại đất đô thị, công nghiệp mang nhiều yếu tố kinh tế, nó chứa đựng nhiều yếu tố về vốn và sử dụng vốn nên rất cần thông tin được cập nhật đầy đủ, chính xác có như thế mới tạo được sự công bằng trong việc sử dụng đất. Qua đó cho ta thấy được việc lập và quản lý HSĐC có vai trò và ý nghĩa rất lớn trong việc quản lý đất đai.Thế nhưng vấn đề đặt ra là ta nên sử dụng hồ sơ địa chính nào cho mục đích nào là tốt nhất và cần thiết hoàn thiện loại hồ sơ như thế nào để phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai là tốt nhất. * Hồ sơ địa chính bao gồm nhiều tài liệu khác nhau, căn cứ vào giá trị sử dụng, hệ thống các tài liệu hồ sơ địa chính được phân loại như sau: - Hồ sơ địa chính phục vụ thường xuyên trong quản lí: + Bản đồ địa chính: UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc lập bản đồ địa chính ở địa phương mình. Bản đồ địa chính được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Bản đồ địa chính được lập thành 03 bộ: bản gốc lưu tại Sở Địa chính, hai bản sao được lưu tại cấp huyện và cấp xã có giá trị như bản gốc. + Sổ địa chính: được lập nhằm đăng kí‎ toàn bộ diện tích đất đai được Nhà nước giao quyền sử dụng cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và diện tích các loại đất chưa giao, chưa cho thuê sử dụng; làm cơ sở để Nhà nước thực hiện chức năng quản lí đất đai theo pháp luật. Sổ lập theo đơn vị xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) và do cán bộ địa chính xã chịu trách nhiệm thực hiện. Sổ phải được UBND xã xác nhận và Sở Địa chính duyệt mới có giá trị pháp lí. Sổ địa chính được lập thành 3 bộ, bộ gốc lưu tại Sở địa chính, 01 bộ lưu tại phòng Địa chính cấp huyện, 01 bộ lưu tại UBND xã do cán bộ địa chính trực tiếp quản lí. + Sổ mục kê đất đai: nhằm liệt kê toàn bộ các thửa đất trong phạm vi địa giới hành chính của mỗi xã, phường, thị trấn về các nội dung: tên chủ sử dụng, diện tích, loại đất để đáp ứng yêu cầu tổng hợp thống kê diện tích đất đai. Mặt khác, sổ mục kê còn giúp tra cứu và sử dụng các tài liệu khác trong HSĐC Sổ được lập cho từng xã và phải được UBND xã xác nhận và Sở Địa chính duyệt mới có giá trị pháp lí. Sổ mục kê đất được lập thành 3 bộ, bộ gốc lưu tại Sở địa chính, 01 bộ lưu tại phòng Địa chính cấp huyện, 01 bộ lưu tại UBND xã do cán bộ địa chính trực tiếp quản lí. + Sổ theo dõi biến động đất đai: được lập để theo dõi và quản lí chặt chẽ tình hình thực hiện đăng kí biến động, chỉnh lí HSĐC hàng năm và tổng hợp báo cáo thống kê diện tích theo định kỳ. Sổ theo dõi biến động đất đai được lập cho từng xã, mỗi xã lập một bộ lưu tại UBND xã, do cán bộ địa chính lập và quản lí. + Sổ cấp GCNQSD đất: nhằm theo dõi quá trình cấp giấy GCNQSD đất; ghi nhận những thông tin về từng thửa đất đã cấp GCNQSD đất. Đơn vị lập và giữ sổ: Phòng Địa chính cấp huyện chịu trách nhiệm lập và giữ sổ cấp giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền của cấp huyện; Sở Địa chính cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm lập và giữ sổ cấp giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền của cấp tỉnh. + Biểu thống kê diện tích đất đai - Hệ thống tài liệu gốc, lưu trữ và tra cứu khi cần thiết: Các tài liệu gốc hình thành trong quá trình đo đạc, lập bản đồ địa chính bao gồm: toàn bộ thành quả giao nộp sản phẩm theo Luận chứng kinh tế - kĩ thuật đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt của mỗi công trình đo vẽ lập bản đồ địa chính, trừ bản đồ địa chính, hồ sơ kỹ thuật thửa đất, sơ đồ trích thửa. Các tài liệu gốc hình thành trong quá trình đăng ký ban đầu, đăng ký biến động đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bao gồm: + Các giấy tờ do chủ SDĐ giao nộp khi kê khai đăng ký như: đơn kê khai đăng ký, các giấy tờ pháp lý về nguồn gốc SDĐ (Quyết định giao đất, GCNQSD đất được cấp ở những giai đoạn trước, giấy tờ chuyển nhượng đất đai v.v...) các giấy tờ có liên quan đến nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước mà người SDĐ đã thực hiện v.v... + Hồ sơ tài liệu được hình thành trong quá trình thẩm tra xét duyệt đơn kê khai đăng ký của cấp xã, cấp huyện. + Các văn bản pháp lý của cấp có thẩm quyền trong thực hiện đăng ký đất đai, cấp GCNQSD đất như quyết định thành lập Hội đồng đăng ký đất đai, biên bản xét duyệt của hội đồng, quyết định cấp GCNQSD đất, quyết định xử lý các vi phạm pháp luật đất đai v.v... + Hồ sơ kiểm tra kỹ thuật, nghiệm thu sản phẩm đăng ký đất đai, xét cấp GCNQSD đất. 2 Yêu cầu, phân cấp lập và quản lý hồ sơ địa chính. 2.1 Yêu cầu. Với một công tác quản lý Nhà nước về đất đai thì đều có một yêu cầu phù hợp với đặc điểm của từng nội dung quản lý Nhà nước. Việc lập HSĐC phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây: - Phải lập đầy đủ các tài liệu theo quy định của thủ tục đăng ký đất. Bởi nếu không lập đầy đủ thì những thông tin về đất đai sẽ không chính xác, tính pháp lý không đầy đủ dẫn đến việc sử dụng tài liệu không đạt yêu cầu. - Bên cạnh việc đầy đủ các tài liệu thì mỗi loại tài liệu thiết lập phải thể hiện đầy đủ các nội dung và đúng quy cách quy định với mỗi tài liệu. Các nội dung thông tin phải thể hiện chính xác, thống nhất trên tất cả các tài liệu của HSĐC. Với yêu cầu này đòi hỏi người SDĐ kê khai đăng ký phải chính xác, đồng thời việc thẩm tra xem thông tin của người SDĐ kê khai có chính xác hay không? đã đúng với hiện trạng SDĐ hay không? có như thế thông tin mới đảm bảo tính chính xác. Bên cạnh tính chính xác thì các thông tin còn phải đảm bảo tính thống nhất tức là các thông tin đưa vào trong hồ sơ phải nhất quán, thống nhất với nhau. Thông tin về thửa đất không chỉ ở một sổ mà phải nằm nhiều sổ, nếu không nhất quán, thống nhất với nhau thì khi kiểm tra hồ sơ sẽ gây khó khăn cho việc quản lý. - Một yêu cầu nữa trong công tác lập HSĐC là hình thức trình bày các tài liệu hồ sơ phải rõ ràng, không được tẩy xoá, cạo hoặc dùng bút phủ nội dung đã viết, việc chỉnh lý biến động trên tài liệu phải theo đúng quy định đối với mỗi loại tài liệu. Có như vậy thì các thông tin đưa vào sẽ rõ ràng, tiện cho việc tra cứu, quản lý, đảm bảo đúng quy định về sửa chữa. 2.2. Phân cấp lập và quản lý. Để đảm bảo việc thực hiện các yêu cầu trên thì cần thực hiện việc phân cấp công việc lập và quản lý HSĐC. Về lập hồ sơ Cấp xã, phường, thị trấn thực hiện lập sổ địa chính thông qua đăng ký đất đai ở cấp xã, lập sổ mục kê theo địa giới địa chính, lập sổ theo dõi biến động đất đai ngày khi kết thúc đăng ký đất đai ban đầu và bắt đầu thực hiện đăng ký biến động đất đai, lập biểu số liệu thống kê đất đai. Cấp huyện lập biểu số liệu thống kê đất đai; thực hiện nghiệm thu, kiểm tra, xác minh công tác lập sổ của cấp xã, phường, thị trấn; tiến hành lập sổ theo dõi cấp GCNQSDĐ của hộ gia đình, cá nhân. Cấp tỉnh tiến hành lập sổ cấp GCNQSD đất do cấp tỉnh quản lý, đồng thời thành lập hệ thống hồ sơ xác định, kiểm tra công tác đăng ký, cấp GCNQSDĐ của cấp huyện; lập bản đồ địa chính, biểu số liệu thống kê; thành lập tài liệu liên quan đến quyết định hành chính trong công tác phúc tra, thanh tra. Về phân cấp quản lý HSĐC - Cấp xã quản lý hồ sơ do mình lập ra và bản đồ địa chính. - Cấp huyện quản lý hồ sơ do mình lập ra, bản đồ địa chính và toàn bộ hồ sơ của cấp xã. - Cấp tỉnh quản lý hồ sơ do mình lập ra và toàn bộ hồ sơ của cấp huyện. Cấp nào thành lập và phê duyệt tài liệu nào thì có quyền lưu trữ tài liệu đó. Như thế HSĐC được lữu trữ ở hai nơi: nơi hình thành và nơi tiến hành phê duyệt. Với việc phân cấp như thế này sẽ giúp cho ta tra cứu thông tin một cách dẽ dàng, giúp cho việc kiểm tra, thanh tra sẽ nhanh chóng hơn. 3. Vai trò của việc xác lập hồ sơ địa chính. Đất đai có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội và Nhà nước nào cũng muốn nắm giữ quyền lúc đó để phát triển kinh tế-xã hội, vì vậy cần phải có sự quản lý của Nhà nước về đất đai. ở nước ta Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, nhằm đảm bảo việc sử dụng đất một cách hợp lý, đầy đủ, tiết kiệm và có hiệu quả cao. Công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính là một trong những nội dung quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai, nó là cơ sở để bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân với đất đai, là điều kiện đảm bảo để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ quỹ đất trong phạm vị lãnh thổ, đảm bảo cho đất đai được sử dụng đầy đủ, tiết kiệm, hợp lý và có hiệu quả cao. Thực hiện tốt công tác này là điều kiện để thực hiện các nội dụng và nhiệm vụ khác của quản lý Nhà nước về đất đai. Cụ thể như sau: Thực hiện việc lập và quản lý HSĐC là cơ sở để bảo vệ chế độ sở hữu toàn dân. Thật vậy, chế độ sở hữu gồm ba quyền: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đất đai, quyền định đoạt. Quyền chiếm hữu đất đai thể hiện Nhà nước chiếm giữ, quản lý, kiểm soát toàn bộ đất đai. Đây là sự chiếm hữu tuyết đối, toàn bộ lãnh thổ thuộc về Nhà nước, chỉ có Nhà nước có quyền duy nhất trong chiếm hữu đất đai. Do vậy, Nhà nước phải thực hiện việc đăng ký đất, lập hồ sơ địa chính, cấp GCN. Bởi toàn bộ tài liệu về HSĐC nó chứa đựng toàn bộ thông tin về đất đai. Còn về phía người sử dụng đất quyền chiếm giữ đất đai chỉ giới hạn trong phạm vi Nhà nước giao nhưng người SDĐ phải biết rõ thông tin về thửa đất thông qua việc đăng ký và thiết lập HSĐC. HSĐC là tài liệu khẳng định quyền chiếm giữ hợp pháp của người SDĐ đai khi Nhà nước giao đất. Còn quyền sử dụng thể hiện ở Nhà nước quyết định về mục đích SDĐ và người SDĐ có quyền sử dụng và khai thác đất đai một cách hợp lý trong phạm vi, mục đích Nhà nước đã quy định và việc sử dụng vào mục đích gì, sử dụng như thế nào đều phải được Nhà nước đồng ý. Để Nhà nước có những quyết định về mục đích SDĐ thì phải nắm rõ toàn bộ thông tin về đất đai, phải dựa vào HSĐC. Nếu không có HSĐC thì Nhà nước không quản lý được việc sử dụng đất đai có đúng mục đích hay không, có hiệu quả hay không. Còn đối với người SDĐ nếu không thực hiện việc đăng ký đất đai thì người SDĐ sẽ không yên tâm khai thác đầu tư. Xét về quyền định đoạt, đây là quyền tối cao nhất của Nhà nước. Nhà nước thực hiện mục đích SDĐ thông qua quy hoạch sử dụng đất, Nhà nước có quyền định đoạt quan hệ đất đai như giao, cho thuê đất, thu hồi…Để có những quyết định đó thì Nhà nước cần căn cứ vào hiện trạng sử dụng đất, tất cả các thông tin đều thể hiện trong HSĐC. Thông qua việc đăng ký, lập và quản lý HSĐC, cấp GCNQSD đất sẽ quy định trách nhiệm pháp ký giữa Nhà nước và người sử dụng đất trong việc chấp hành pháp luật. Thực hiện việc lập HSĐC là điều kiện đảm bảo để Nhà nước quản lý chặt chẽ toàn bộ quỹ đất trong phạm vi lãnh thổ, đảm bảo cho đất được sử dụng đầy đủ, tiết kiệm và có hiệu quả cao. Thực hiện lập hồ sơ địa chính để tăng cường vai trò quản lý của nhà nước. Nhà nước muốn quản lý chặt chẽ toàn bộ đất đai trước hết cần nắm vững các thông tin về tình hình đất đai bao gồm: Đối với đất đai Nhà nước đã giao quyền sử dụng đất, các thông tin cần biết gồm: tên chủ sử dụng, hình thể, vị trí, kích thước, diện tích, hạng đất, mục đích sử dung, hạn mức sử dụng đất, những ràng buộc về quyền sử dụng, những thay đổi trong quá trình sử dụng đất và cơ sở pháp lý. Đối với đất chưa giao quyền sử dung, các thông tin cần biết: vị trí, hình thể, diện tích, loại đất. Tất cả các thông tin trên phải được thể hiện chi tiết đến từng thửa đất. Đây là đơn vị nhỏ nhất chứa đựng các thông tin về tình hình tự nhiên, kinh tế, xã hội và pháp lý của đất đai theo yêu cầu quản lý Nhà nước về đất đai. Với những yêu cầu về thông tin đất đai đó, qua việc thực hiện đăng ký đất đai, thiết lập HSĐC đầy đủ, chi tiết đến từng thửa đất trên cơ sở thực hiện đồng loạt các nội dung: đo đạc lập bản đồ địa chính, quy hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất…Nhà nước mới thực sự quản lý được tình hình đất đai trong phạm vi lãnh thổ và thực hiện quản lý chặt chẽ mọi biến động theo đúng pháp luật. Lập và quản lý HSĐC là một trong những nội dung quan trọng trong công tác quản lý Nhà nước có quan hệ hữu cơ với các nội dung, nhiệm vụ khác của quản lý Nhà nước. Hệ thống HSĐC chứa đựng đầy đủ các thông tin về tự nhiên, kinh tế, xã hội của từng thửa đất. Hệ thống các thông đó là sản phẩm kế thừa từ việc thực hiện các nội dung, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai khác như: + Đối với hệ thống chính sách về quản lý và sử dụng đất: Đây là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện lập HSĐC. Lập HSĐC không chỉ tuân thủ các quy định về đăng ký đất đai, lập HSĐC và cấp GCNQSD đất mà còn chấp hành đúng chế độ và quản lý đất đai giúp cho việc lập HSĐC đầy đủ hơn. Đồng thời HSĐC sẽ cung cấp thông tin và tình hình đất đai để phân tích, đánh giá việc thực hiện các chính sách, bổ sung, điều chỉnh chủ trương chính sách quản lý đất đai. + Với nhiệm vụ điều tra, đo đạc thì kết quả công tác điều tra, đo đạc là tài liệu lập nên HSĐC, bên cạnh đó thông qua HSĐC để góp phần nâng cao độ chính xác của kết quả đo đạc. + Với công tác quy hoạch, kế hoạch SDĐ: Kết quả quy hoạch, kế hoạch SDĐ là căn cứ cho việc giao đất để đảm bảo việc sử dụng đất một cách ổn định, có hiệu quả. Thông qua việc giao đất, quy hoạch và lập kế hoạch SDĐ tác động gián tiếp đến đăng ký đất để đảm bảo cho việc thiết lập một hệ thống hồ sơ địa chính ban đầu ổn định, đơn giản và tiết kiệm. + Đối với công tác giao đất, cho thuê đất: Quyết định giao đất, cho thuê đất là bước tạo cơ sở pháp lý ban đầu để người được giao đất hay cho thuê đất thực hiện các nghĩa vụ tài chính và các cơ quan chức năng tổ chức bàn giao đất ngoài thực địa, chỉ sau khi người được giao đât, cho thuê đất đã đăng ký và cấp GCNQSDĐ mới chính thức có sự ràng buộc trách nhiệm pháp lý giữa người sử dụng đất và Nhà nước. Vì vậy, hồ sơ địa chính là cơ sở thực hiện kiểm tra, thanh tra tình hình giao đất ở các cấp. + Đối với công tác phân hạng và định giá đất: Kết quả phân hạng và định giá đất là cơ sở cho việc xác định trách nhiệm tài chính cho người sử dụng đất trước và sau khi đăng ký cấp GCNQSD đất, là cơ sở xác định trách nhiệm của người sử dụng đất trong quá trình sử dụng. + Với công tác thanh tra, giải quyết tranh chấp đất đai: Tài liệu trong HSĐC có vai trò quan trọng trong việc xác định đối tượng cũng như nguồn gốc sử dụng đất, xử lý triệt để những tồn tại của lịch sử trong quan hệ sử dụng đất, chấm dứt tình trạng sử dụng đất ngoài sổ sách, ngoài sự quản lý của Nhà nước. Qua đó cho ta thấy hoàn thành tốt việc lập và quản lý HSĐC không chỉ tạo tiền đề mà còn là cơ sở hết sức cần thiết cho việc triển khai thực hiện tốt các nội dung, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đất đai. Thông qua việc lập HSĐC, chất lượng tài liệu đo đạc sẽ được nâng cao do những sai sót tồn tại được người sử dụng đất phát hiện và được chỉnh lý hoàn thiện. 4. Những quy định pháp lý chủ yếu về lập, quản lý hệ thống HSĐC Luật đất đai 2003 tiếp tục có những quy định cụ thể về hồ sơ địa chính nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai trong quá trình CNH- HĐH đất nước. Điều 47 quy định: 4.1. Hồ sơ địa chính bao gồm: - Bản đồ địa chính; - Sổ địa chính; - Sổ mục kê đất đai; - Sổ theo dõi biến động đất đai. 4.2. Nội dung HSĐC bao gồm các thông tin về thửa đất sau đây: - Số hiệu, kích thước, hình thể, diện tích, vị trí; - Người sử dụng thửa đất; - Nguồn gốc, mục đích, thời hạn sử dụng đất; - Giá đất, tài sản gắn liền với đất, nghĩa vụ tài chính về đất đai đã thực hiện và chưa thực hiện; - GCNQSD đất, quyền và những hạn chế về quyền của người sử dụng đất; - Biến động trong quá trình sử dụng đất và các thông tin khác có liên quan. Nghị định 181/CP của Chính phủ về thi hành luật đất đai ban hành ngày 29/10/2004 đã quy định “nội dung của hồ sơ địa chính phải được thể hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời, phải được chỉnh lý thường xuyên đối với các biến động theo quy định của pháp luật trong quá trình sử dụng đất”,… Thực hiện Luật đất đai và Nghị định 181/CP của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT về việc hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý HSĐC, trong đó nội dung chủ yếu về lập, quản lý HSĐC như sau: *Nguyên tắc lập HSĐC: - HSĐC được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. - Việc lập và chỉnh lý HSĐC thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục hành chính quy định tại chương XI của Nghị định 181/2004/NĐ-CP về thi hành luật đất đai. - HSĐC phải đảm bảo tính thống nhất giữa bản đồ địa chính, sổ địa chính, sổ mục kê đất đai, sổ theo dõi biến động đất đai; thống nhất giữa bản gốc và bản sao; thống nhất giữa GCNQSD đất và hiện trạng sử dụng đất. * Bản đồ địa chính: là bản đồ về các thửa đất, được lập để mô tả các yếu tố tự nhiên của thửa đất và các yếu tố địa hình có liên quan đến SDĐ. Nội dung bản đồ địa chính gồm các thông tin về thửa đất gồm vị trí, kích thước, hình thể, số thứ tự, diện tích, mục đích SDĐ về hệ thống thuỷ văn gồm sông, ngòi, kênh, rạch, suối; về hệ thống thuỷ lợi gồm hệ thống dẫn nước, đê, đập, cống; về đường giao thông gồm đường bộ, đường sắt, cầu; về khu vực đất chưa sử dụng không có ranh giới thửa khép kín; về mốc giới và đường địa giới hành chính các cấp, mốc giới và chỉ giới quy hoạch SDĐ, mốc giới và ranh giới hành lang bảo vệ an toàn công trình; về điểm toạ độ địa chính, địa danh và các ghi chú thuyết minh. Trường hợp thửa đất quá nhỏ hoặc cần xác định rõ ranh giới thửa đất thì lập sơ đồ thửa đất kèm theo bản đồ địa chính để thể hiện chính xác hơn về ranh giới thửa đất, hình dạng, kích thước, chiều dài cạnh thửa, toạ độ đỉnh thửa, diện tích chiếm đất của tài sản gắn liền với đất, địa giới hành chính, chỉ giới quy hoạch, ranh giới hành lang bảo vệ an toàn công trình. * Sổ địa chính là sổ ghi về người sử dụng đất, các thửa đất của người đó đang sử dụng và tình trạng SDĐ của người đó. Sổ địa chính được lập để quản lý việc sử dụng đất của người sử dụng đất và để tra cứu thông tin đất đai có liên quan đến từng người sử dụng đất. Nội dung sổ địa chính bao gồm: - Người sử dụng đất gồm tên, địa chỉ và thông tin về chứng minh nhân dân, hộ chiếu, hộ khẩu, quyết định thành lập tổ chức, giấy đăng ký kinh doanh của tổ chức kinh tế, giấy phép đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài; - Các thửa đất mà người sử dụng đất sử dụng gồm mã thửa, diện tích, hình thức SDĐ (sử dụng riêng hoặc sử dụng chung), mục đích sử dụng, thời hạn sử dụng, nguồn gốc sử dụng, số giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp; - Ghi chú về thửa đất và quyền SDĐ gồm giá đất, tài sản gắn liền với đất (nhà ở, công trình kiến trúc khác, cây lâu năm, rừng cây), nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện, tình trạng đo đạc lập bản đồ địa chính, những hạn chế về quyền SDĐ (thuộc khu vực phải thu hồi theo quy hoạch sử dụng đất nhưng chưa có quyết định thu hồi, thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình, thuộc địa bàn có quy định hạn chế diện tích xây dựng); - Những biến động về sử dụng đất trong quá trình SDĐ gồm những thay đổi về thửa đất, về người sử dụng, về chế độ sử dụng đất, về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, về GCNQSD đất. * Sổ mục kê đất đai là sổ ghi về thửa đất, về đối tượng chiếm đất nhưng không có ranh giới khép kín trên tờ bản đồ và các thông tin có liên quan đến quá trình SDĐ. Sổ mục kê đất đai được lập để quản lý thửa đất, tra cứu thông tin về thửa đất và phục vụ thống kê, kiểm kê đất đai. Nội dung sổ mục kê đất đai bao gồm: - Thửa đất gồm số thứ tự thửa, tên người sử dụng đất hoặc người được giao đất để quản lý, diện tích, mục đích SDĐ và những ghi chú về thửa đất (khi thửa đất thay đổi, giao để quản lý, chưa giao, chưa cho thuê, đất công ích, v.v.); - Đối tượng có chiếm đất nhưng không tạo thành thửa đất hoặc có hành lang bảo vệ an toàn như đường giao thông; hệ thống thuỷ lợi (dẫn nước phục vụ cấp nước, thoát nước, tưới nước, tiêu nước, đê, đập); công trình khác theo tuyến; sông, ngòi, kênh, rạch, suối và các đối tượng thuỷ văn khác theo tuyến; khu vực đất chưa sử dụng không có ranh giới thửa khép kín trên bản đồ gồm tên đối tượng, diện tích trên tờ bản đồ; trường hợp đối tượng không có tên thì phải đặt tên hoặc ghi ký hiệu trong quá trình đo đạc lập bản đồ địa chính. * Sổ theo dõi biến động đất đai là sổ để ghi những biến động về SDĐ trong quá trình SDĐ. Nội dung sổ theo dõi biến động đất đai gồm tên và địa chỉ của người đăng ký biến động, thời điểm đăng ký biến động, số thứ tự thửa đất có biến động, nội dung biến động về SDĐ trong quá trình sử dụng (thay đổi về thửa đất, về người sử dụng, về chế độ SDĐ, về quyền của người SDĐ, về GCNQSD đất). Các mẫu sổ sách địa chính được ban hành như mẫu sổ địa chính (mẫu số - 01/ĐK), mẫu sổ mục kê đất (mẫu số 02/ĐK), mẫu sổ đăng ký biến động đất đai (mẫu số 03/ĐK) nhằm đáp ứng yêu cầu thay đổi so với quy định trước đây về phân loại mục đích sử dụng đất, đối tượng sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, đăng ký biến động đất đai,... * Lập HSĐC: a. Bản đồ địa chính Bản đồ địa chính được lập trước khi tổ chức việc đăng ký quyền sử dụng đất và hoàn thành sau khi được Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận. Ranh giới, diện tích, mục đích sử dụng của thửa đất thể hiện trên bản đồ địa chính được xác định theo hiện trạng SDĐ. Khi cấp GCNQSD đất mà ranh giới, diện tích, mục đích SDĐ có thay đổi thì Văn ph._.òng đăng ký quyền SDĐ thuộc Sở TN&MT chỉnh sửa bản đồ địa chính thống nhất với GCNQSD đất. Trường hợp lập bản đồ địa chính sau khi đã tổ chức đăng ký quyền SDĐ thì ranh giới, diện tích, mục đích sử dụng đất của thửa đất thể hiện trên bản đồ địa chính được xác định như sau: - Trường hợp đã được cấp GCNQSD đất thì xác định theo GCNQSD đất; - Trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất mà chưa được GCNQSD đất thì xác định theo quyết định giao đất, cho thuê đất; - Nếu không rơi vào 2 trường hợp trên thì xác định theo hiện trạng SDĐ. Bản đồ địa chính được chỉnh lý khi có thay đổi mã thửa đất, tạo thửa đất mới, thửa đất bị sạt lở tự nhiên làm thay đổi ranh giới thửa, có thay đổi mục đích SDĐ; đường giao thông, công trình thuỷ lợi theo tuyến, công trình khác theo tuyến, khu vực đất chưa sử dụng không có ranh giới thửa khép kín, sông, ngòi, kênh, rạch, suối và các đối tượng thuỷ văn khác theo tuyến được tạo lập mới hoặc có thay đổi về ranh giới; có thay đổi về mốc giới và đường địa giới hành chính các cấp, về mốc giới và ranh giới hành lang an toàn công trình, về chỉ giới quy hoạch SDĐ, về địa danh và các ghi chú thuyết minh trên bản đồ. b. Sổ mục kê đất đai Sổ mục kê đất đai được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn trong quá trình đo vẽ bản đồ địa chính. Thông tin thửa đất ghi trên sổ phải phù hợp với hiện trạng SDĐ. Sau khi cấp GCNQSD đất mà có thay đổi nội dung thông tin thửa đất so với hiện trạng khi đo vẽ bản đồ địa chính thì phải được chỉnh sửa cho thống nhất với GCNQSD đất. Sổ mục kê đất đai được ghi dưới dạng bảng với những thông tin sau: - Số thứ tự thửa đất. - Tên người sử dụng đất, người được giao đất để quản lý. - Loại đối tượng sử dụng, quản lý đất được ghi bằng mã (ký hiệu) gồm 3 chữ cái, ví dụ: "GDC" là hộ gia đình, cá nhân, "UBS" là ủy ban nhân dân cấp xã,... - Diện tích thửa đất bao gồm cả phần sử dụng chung và sử dụng riêng. - Mục đích SDĐ được ghi theo mã quy định tại Thông tư 29/2004/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Sổ mục kê đất đai được chỉnh lý theo những biến động về SDĐ. Khi ranh giới thửa đất không bị thay đổi mà có thay đổi về số thứ tự, diện tích, mục đích SDĐ thì các thay đổi đó được chỉnh lý vào phần ghi chú của thửa đất. Khi thửa đất có thay đổi ranh giới, tách thửa, hợp thửa thì thửa đất cũ bị xoá bỏ và bổ sung thửa đất mới vào trang sổ của tờ bản đồ đó. c. Sổ địa chính Sổ địa chính được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn để ghi thông tin về người sử dụng đất và thông tin về SDĐ của người đó đối với thửa đất đã cấp GCNQSD đất. Mỗi trang sổ để đăng ký cho một người SDĐgồm tất cả các thửa đất thuộc quyền sử dụng của người đó. Nội dung thông tin về người SDĐvà thửa đất trên sổ địa chính được ghi theo nội dung thông tin đã ghi trên GCNQSD đất đã cấp. d. Sổ theo dõi biến động đất đai Sổ theo dõi biến động đất đai được lập để theo dõi tình hình đăng ký biến động về sử dụng đất và làm cơ sở để thực hiện thống kê diện tích đất đai hàng năm. Sổ theo dõi biến động đất đai được lập theo đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn, do Văn phòng đăng ký quyền SDĐ và cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn lập, quản lý. Việc ghi vào sổ thực hiện đối với tất cả các trường hợp đăng ký biến động về SDĐđã được chỉnh lý trên sổ địa chính. Trách nhiệm lập HSĐC: - Sở TN&MT chịu trách nhiệm tổ chức việc lập HSĐC. - Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Sở TN&MT chịu trách nhiệm triển khai việc lập HSĐC gốc và làm hai (02) bản sao từ bản gốc để gửi cho Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Phòng TN&MT và UBND cấp xã. Văn phòng đăng kí quyền SDĐ được phép thuê dịch vụ tư vấn trong việc đo đạc địa chính, chỉnh lí tư liệu đo đạc và bản đồ, lập bản đồ địa chính, lập sổ mục kê đất đai; phải trực tiếp thực hiện việc lập sổ địa chính, sổ theo dõi biến động đất đai và chỉnh lí HSĐC. Trường hợp chưa lập bản đồ địa chính mà đang có các loại bản đồ, sơ đồ khác thì Sở TN&MT xem xét, quyết định việc sử dụng hoặc chỉnh lí trước khi đưa vào sử dụng để lập hồ sơ địa chính và cấp GCNQSD đất. - HSĐC phải được nghiệm thu, xác nhận trước khi đưa vào quản lí, sử dụng theo quy định sau: + Sở TN&MT có trách nhiệm nghiệm thu, xác nhận bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai, sổ địa chính sau khi lập xong để đưa vào sử dụng. + Trường hợp phải trích đo địa chính thửa đất thì Văn phòng đăng kí quyền SDĐ có trách nhiệm kiểm tra chất lượng trước khi sử dụng. + Nội dung kiểm tra, nghiệm thu thực hiện theo quy định của Bộ TN&MT *Chỉnh lý HSĐC: - Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Sở TN&MT chịu trách nhiệm chỉnh lí, cập nhật HSĐC gốc. - Văn phòng đăng kí quyền SĐĐ thuộc Phòng TN&MT và cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm chỉnh lí, cập nhật bản sao HSĐC. *Quản lý HSĐC: - Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Sở TN&MT chịu trách nhiệm quản lí HSĐC gốc và các tài liệu có liên quan sau đây: + Bản lưu GCNQSD đất, hồ sơ xin cấp GCNQSD đất, hồ sơ xin đăng kí biến động về SDĐ đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (trừ trường hợp mua nhà ở gắn với quyền SDĐ ở), tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài; + GCNQSD đất của tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài đã thu hồi trong các trường hợp thu hồi đất, tách thửa hoặc hợp thửa đất, cấp đổi, cấp lại GCNQSD đất; + Thông báo về nội dung đã chỉnh lí hoặc cấp đổi, cấp lại GCNQSD đất và các giấy tờ kèm theo thông báo do Phòng TN&MT hoặc Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Phòng TN&MT gửi đến để chỉnh lí, cập nhật HSĐC gốc. - Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Phòng TN&MT chịu trách nhiệm quản lí bản sao HSĐC và các tài liệu có liên quan sau đây: + Bản lưu GCNQSD đất, hồ sơ xin cấp GCNQSD đất, hồ sơ xin đăng kí biến động về SDĐ đối với hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được mua nhà ở gắn với quyền sử dụng đất ở, cộng đồng dân cư; + GCNQSD đất của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn với quyền SDĐ ở, cộng đồng dân cư đã thu hồi trong các trường hợp thu hồi đất, tách thửa hoặc hợp thửa đất, cấp đổi, cấp lại GCNQSD đất; + Bản trích sao HSĐC đã được chỉnh lí, cập nhật và các giấy tờ kèm theo do Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Sở TN&MT gửi đến để chỉnh lí, cập nhật bản sao HSĐC. - UBND xã, phường, thị trấn chịu trách nhiệm quản lí bản sao HSĐC; bản trích sao HSĐC đã được chỉnh lí, cập nhật và các giấy tờ kèm theo do Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Phòng TN&MT gửi đến để chỉnh lí, cập nhật bản sao HSĐC. *Hồ sơ địa chính dạng số: - HSĐC dạng số là hệ thống thông tin được lập trên máy tính chứa toàn bộ thông tin về nội dung bản đồ địa chính, sổ mục kê đất đai, sổ địa chính, sổ theo dõi biến động đất đai - Dữ liệu trong hệ thống thông tin được lập theo đúng chuẩn dữ liệu đất đai do Bộ TN&MT quy định. - Văn phòng đăng kí quyền SDĐ thuộc Sở TN&MT chịu trách nhiệm thực hiện việc lập, chỉnh lí và quản lí HSĐC dạng số; cung cấp HSĐC dạng số thay thế bản sao hồ sơ địa chính trên giấy cho Phòng TN&MT, UBND xã, phường, thị trấn để thực hiện nhiệm vụ quản lí đất đai của địa phương. Ngày 02/8/2007 Bộ TN&MT ban hành Thông tư 09/2007/TT-BTNMT thay thế Thông tư số 29/2004/ TT-BTNMT với việc bổ sung hoàn thiện quy định về HSĐC dạng số và thiết lập cơ sở dữ liệu địa chính. - Hồ sơ địa chính gồm Bản đồ địa chính, Sổ địa chính, Sổ mục kê đất đai, Sổ theo dõi biến động đất đai và bản lưu GCNQSD đất. Bản đồ địa chính, Sổ địa chính, Sổ mục kê đất đai, Sổ theo dõi biến động đất đai có nội dung được lập và quản lý trên máy tính dưới dạng số (sau đây gọi là cơ sở dữ liệu địa chính) để phục vụ cho quản lý đất đai ở cấp tỉnh, cấp huyện và được in trên giấy để phục vụ cho quản lý đất đai ở cấp xã. Cơ sở dữ liệu địa chính bao gồm dữ liệu Bản đồ địa chính và các dữ liệu thuộc tính địa chính. - Bản lưu GCNQSD đất được lập theo Quy định về GCN ban hành theo Quyết định số 24/2004/QĐ-BTNMT ngày 01 tháng 11 năm 2004, Quyết định số 08/2006/QĐ-BTNMT ngày 21 tháng 7 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ TNMT; bản lưu Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo quy định tại Nghị định số 60/CP ngày 05 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị; bản sao Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo quy định tại Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (sau đây gọi chung là bản lưu Giấy chứng nhận). Đối với GCNQSD đất đã cấp mà không có bản lưu thì Văn phòng đăng ký quyền SDĐ phải sao Giấy chứng nhận đó (sao y bản chính) khi thực hiện đăng ký biến động về SDĐ; bản sao Giấy chứng nhận này được coi là bản lưu Giấy chứng nhận để sử dụng trong quản lý. Trách nhiệm lập, cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính: - UBND cấp tỉnh có trách nhiệm đầu tư và chỉ đạo việc lập, chỉnh lý HSĐC theo hướng dẫn tại Thông tư này. - Sở TN&MT có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc đo vẽ bản đồ địa chính và chỉ đạo việc xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính, lập và chỉnh lý HSĐC ở địa phương. - Văn phòng đăng ký quyền SDĐ thuộc Sở TN&MT chịu trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: a) Tổ chức xây dựng, quản lý và vận hành cơ sở dữ liệu địa chính; b) Chỉnh lý dữ liệu bản đồ địa chính và cập nhật, chỉnh lý dữ liệu thuộc tính địa chính đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền cấp, chỉnh GCN của cấp tỉnh; c) In Bản đồ địa chính, Sổ địa chính, Sổ mục kê đất đai cấp cho UBND cấp xã sử dụng; d) Trong thời gian chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu địa chính thì thực hiện việc lập, chỉnh lý, quản lý HSĐC trên giấy và sao hai (02) bộ, một (01) bộ gửi Văn phòng đăng ký quyền SDĐ trực thuộc Phòng TN&MT, một (01) bộ gửi Uỷ ban nhân dân cấp xã để phục vụ yêu cầu quản lý đất đai ở địa phương.  - Văn phòng đăng ký quyền SDĐ thuộc Phòng TN&MT chịu trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây: a) Cập nhật, chỉnh lý bản đồ địa chính và dữ liệu thuộc tính địa chính đối với các trường hợp thuộc thẩm quyền cấp mới hoặc chỉnh lý Giấy chứng nhận của cấp huyện; b) Trong thời gian chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu địa chính thì thực hiện việc cập nhật, chỉnh lý HSĐC trên giấy theo quy định của Thông tư này. - UBND cấp xã chịu trách nhiệm cập nhật, chỉnh lý vào HSĐC trên giấy đang quản lý đối với tất cả các trường hợp biến động về sử dụng đất. - Các cơ quan có trách nhiệm thực hiện việc đo đạc lập bản đồ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính được phép thuê dịch vụ tư vấn để thực hiện các nhiệm vụ được giao. III.CÔNG TÁC LẬP VÀ QUẢN LÝ HỒ SƠ ĐỊA CHÍNH Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ. Trong lịch sử phát triển của nước ta, trong đó có lịch sử phát triển và quá trình đô thị hóa thành phố Hà Nội, nhiều mô hình quản lý địa chính khác nhau đã được sử dụng từ quản lý bằng thể thế cống nạp thời kỳ sơ khởi của phong kiến Việt Nam (trước thế kỷ thứ XI), quản lý bằng địa bạ sơ khai vào thời kỳ đầu phong kiến Việt Nam (thế kỷ thứ XI - XV) đến các mô hình quản lý địa chính được thiết lập chính thức thời Hậu Lê và Nhà Nguyễn (1428 – 1888), thời thuộc Pháp (1888 - 1954) và thời kỳ nước Việt Nam DCCH và CHXHCNVN (1954 - nay) 1. Quản lý địa chính bằng hệ thống địa bạ thời kỳ thịnh trị của phong kiến Việt Nam (1428 - 1888) Nhà Hậu Lê (1428 - 1788) và nhà Nguyễn (1802 - 1888) là những vương triều đã thiết lập được bộ máy quản lý nhà nước chặt chẽ và hoàn chỉnh nhất của phong kiến Việt Nam, đồng thời các mô hình quản lý địa chính của hai vương triều này cũng được coi là các mô hình hoàn thiện nhất của các nhà nước phong kiến Việt Nam. Tổ chức nhà nước phong kiến ở 2 thời kỳ này tuy vẫn theo thể thức “nhất nguyên” song đã có phân công cụ thể cho các bộ phận và cá nhân quản lý. Hệ thống quản lý đất đai gồm 3 cấp, ở trung ương là Bộ Hộ, ở các địa phương là quan phủ (phủ Trung Đô, phủ Phụng Thiên thời Hậu Lê, phủ Hoài Đức thời nhà Nguyễn). Các làng, xã, phường tuy phải thực hiện chính sách “quân điền” chia ruộng công của các làng xã theo định kỳ 6 hoặc 4 năm một lần do Triều đình áp đặt song vẫn được quyền tự chủ khá lớn trong quản lý ruộng đất. Hệ thống hồ sơ địa bạ được khởi xướng bởi Lê Lợi (1428) qua bổ sung và củng cố thời Lê Thánh Tông (1483) và được hoàn chỉnh dưới triều Gia Long (1819). Địa bạ là hệ thống tài liệu, sổ sách ghi chép về quyền sở hữu đất đai và các thông tin về thửa đất (vị trí, loại, hạng đất, cây trồng, hình thức canh tác,…) được thành lập cho các xã trong cả nước nhưng không có sơ đồ thửa đất kèm theo. Căn cứ vào địa bạ và biểu thuế của triều đình hàng năm mà các làng xã lập điền bạ và căn cứ vào điền bạ để thu thuế ruộng đất. Trong thời kỳ này tại Thăng Long, do trong mỗi phường đều xen kẽ các hoạt động nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp,…nên địa bạ chỉ dùng để thu thuế đối với diện tích đất canh tác nông nghiệp còn diện tích nhà xưởng thủ công, thương điếm,… phải chịu thuế sản vật riêng. Hình thức thu thuế vừa bằng thóc, vừa bằng tiền. Mô hình quản lý địa chính thời kỳ này thích ứng với nền kinh tế mà sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp là chủ đạo. 2. Quản lý địa chính bằng hệ thống tổng hợp địa bạ và bằng khoán thời thuộc Pháp (1858 - 1954) Trong giai đoạn đầu của thời kỳ này, người Pháp đã cải tiến hệ thống địa bạ của Nhà Nguyễn và dùng chúng vào việc quản lý đất đai và thu thuế đất. Bộ máy quản lý đất đai được chính thức thành lập năm 1906 với 3 cấp. Trung ương là Sở Địa chính trực thuộc Thống sứ (Bắc Kỳ) hoặc trực thuộc Khâm sứ (Trung Kỳ), Thống đốc (Nam Kỳ). Cấp tỉnh là Ty Địa chính (Division Cadastre) và cấp làng xã là Chưởng bạ (1 người). Trên phạm vi cả nước, người Pháp từng bước đưa việc đo đạc, thành lập bản đồ giải thửa (phác họa giải thửa), thành lập HSĐC vào quy phạm, làm cơ sở cho việc tính thuế, quản lí đất đai và bảo vệ quyền sở hữu đất đai. Địa chính đô thị được tiến hành đầu tiên ở Hà Nội sau đó mới đến các thành phố khác. Từ năm 1928, Hà Nội đã lập nền tam giác đạc, triển khai việc cắm mốc và vẽ sơ dồ thửa đất. Năm 1938 Hà Nội đã đo đạc, lập bản đồ được 212 tờ cho 9789 thửa đất. Năm 1948, người Pháp triển khai việc quản lý đất đai ở 36 khu phố nội thành bằng hệ thống hồ sơ dạng bằng khoán. Hệ thống hồ sơ gồm: - Bản đồ giải thửa tỷ lệ 1/200 hoặc 1/500; - Sổ địa chính dùng cho đô thị; - Danh mục các thửa và chủ đất; - Sổ khai báo biến động. ở 5 quận, 136 làng ngoại thành (Pháp đặt là Đại Lý Hoàn Long), người Pháp quản lý đất đai bằng địa bạ giống như ở các vùng nông thôn ở Bắc – Trung Kỳ. Hệ thống hồ sơ gồm: - Bản đồ giải thửa hoặc phác họa giải thửa tỷ lệ 1/1000 hoặc 1/2000; - Sổ địa chính dùng cho nông thôn; - Sổ điền bạ; - Sổ khai báo biến động. Các điền chủ sau khi hoàn tất các thủ tục đăng ký quyền sở hữu được cấp một bằng khoán điền thổ, thuế ruộng đất được thu bằng tiền thay cho thu bằng thóc. Mô hình quản lý hỗn hợp này tỏ ra thích hợp với một đô thị có nền sản xuất nông nghiệp là chính nhưng đã có những mầm mống của một đô thị hiện đại. 3 . Quản lý địa chính bằng hệ thống bằng khoán hiện nay. Để nắm chắc và quản lý chặt chẽ quỹ đất đai trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, hệ thống tổ chức quản lý đất đai ở nước ta được tổ chức thành 4 cấp. Chịu sự chỉ đạo chung của cấp Trung ương là Bộ TN&MT. Cấp tỉnh là Sở TNMT&N đất, cấp huyện, quận là Phòng TN&MT, ở các phường, xã là Cán bộ địa chính. Đây là hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai theo dạng phân tán tương đối, trong đó cấp Trung ương thực hiện quản lý vĩ mô quỹ đất quốc gia, còn ba cấp thấp hơn thực hiện quản lý vi mô đến từng thửa đất. Hệ thống HSĐC dạng bằng khoán được chính thức thành lập năm 1988 và hoàn chỉnh dần từ sau năm 1994, khi Tổng cục Địa chính được thành lập và đảm trách việc quản lý đất đai trong cả nước. Hệ thống bằng khoán được xây dựng cho tất cả các loại hình SDĐ. Trong đó, hệ thống hồ sơ sử dụng thường xuyên gồm: - Bản đồ địa chính; - Sổ địa chính; - Sổ mục kê; - Sổ đăng ký biến động đất đai; Sau khi các chủ SDĐ (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) hoàn tất các thủ tục đăng ký SDĐ, Sở TNMT&N đất cấp tỉnh và Phòng TN&MT các quận, huyện đệ trình UBND cấp GCNQSD đất cho từng thửa đất có đủ điều kiện pháp lý. Đây là mô hình quản lý có tính phù hợp cao đối với quản lý đất đai trong xã hội công nghiệp và thích ứng cho việc phát triển thị trường BĐS hiện nay. IV.NHU CẦU TIN HỌC HOÁ HỆ THỐNG QUẢN LÍ HỒ SƠ ĐỊA CHÍNH 1 Vận dụng tin học hóa hệ thống quản lí HSĐC Công nghệ thông tin trên đà phát triển như vũ bão trong khoảng thời gian 30 năm gần đây đã có tác động vô cùng to lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội và lĩnh vực quản lý đất đai không phải là ngoại lệ. Đối với công tác quản lý HSĐC thì việc áp dụng công nghệ tin học là một nhu cầu tất yếu bởi vì về bản chất, đây là một quá trình xử lý và phân tích thông tin - thông tin về đất đai. Có thể nêu ra những lý do cơ bản tại sao cần phải nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ địa chính: Yêu cầu đối với HSĐC là phải lưu trữ đầy đủ các thông tin về tự nhiên, kinh tế, pháp lý của từng thửa đất cùng với BĐS có trên đó và thông tin về từng ngướngDĐ. Chỉ tính riêng trong nhóm HSĐC phục vụ quản lý đất đai thường xuyên đã có tới gần 50 đơn vị thông tin thuộc tính về thửa đất và người sử dụng đất (theo thông tư 09/2007/TT-BTNMT). Với số lượng thửa đất ước tính trên cả nước là 20 triệu thì có thể dễ dàng tính được lượng thông tin cần phải lưu trữ, xử lý là khoảng 1 tỷ đơn vị. Đây mới chỉ là những thông tin đang mang tính hiện thời, nếu tính cả thông tin quá khứ cần lưu trữ thì lượng thông tin có thể đạt tới 2-3 tỷ đơn vị. Đối với dữ liệu không gian (bản đồ) thì việc áp dụng công nghệ thông tin càng có ý nghĩa hơn nữa vì công nghệ thông tin không chỉ được sử dụng để lưu trữ mà còn được áp dụng trực tiếp để thành lập loại dữ liệu này. Ngoài ra, các dữ liệu dạng số có tính nhất quán cao hơn, độ chính xác tốt hơn so với các dữ liệu được xử lý bằng công nghệ tương tự. Nếu như việc quản lý HSĐC được thực hiện bằng công nghệ truyền thống trên giấy tờ, sổ sách chỉ giới hạn trong việc lưu trữ và cung cấp thông tin khi cần thiết thì khi áp dụng công nghệ thông tin, quá trình này còn bao hàm cả chức năng phân tích, thống kê và chiết xuất thông tin thứ cấp. Đối với người sử dụng, hệ thống như vậy trở nên thông minh hơn, hữu ích hơn. Dưới đây, chúng tôi xin nêu ra một số chức năng của hệ thống quản lý HSĐC mà chỉ có công nghệ thông tin mới có thể mang lại: - Chức năng quản lý truy nhập: hệ thống hồ sơ có rất nhiều người sử dụng và mỗi người sử dụng chỉ có thể thực hiện một số hoạt động (đọc, sửa, tạo mới,...) đối với một nhóm dữ liệu nhất định (dữ liệu của một đơn vị hành chính, dữ liệu theo một chuyên đề nào đó,...). Đối với phương pháp quản lý bằng giấy tờ, sổ sách thì hệ thống đã trở nên hết sức rối rắm khi chỉ có khoảng 10 người sử dụng với những mức độ truy nhập khác nhau. - Chức năng sao lưu dữ liệu: với dữ liệu dạng số, chỉ cần một vài thao tác là dữ liệu có thể được sao lưu trên các thiết bị lưu trữ. Với dữ liệu trên giấy thì việc sao lưu này có thể kéo dài hàng tháng. Hơn nữa, các bản sao dạng số trên đĩa cứng, đĩa quang, băng từ,... có kích thước nhỏ gọn, ít chịu ảnh hưởng của thời gian nên việc bảo quản chúng dễ dàng hơn nhiều lần so với sao lưu các văn bản giấy tờ. Với trình độ phát triển của công nghệ thông tin hiện nay thì toàn bộ một thư viện với nhiều phòng sách có thể được lưu trữ trên một ổ đĩa cứng kích thước bằng lòng bàn tay. Việc sao lưu, nhân bản một thư viện như vậy chỉ tốn một vài giờ là thực hiện xong. - Chức năng mã hóa dữ liệu: các dữ liệu nhạy cảm cần được mã hóa để tránh bị các đối tượng không có thẩm quyền khai thác, sử dụng. Mặc dù việc mã hóa có thể được thực hiện cho dữ liệu dạng tương tự, nhưng nó chỉ có thể áp dụng cho một lượng dữ liệu rất nhỏ bởi đây là quá trình tốn rất nhiều thời gian và công sức. Trong khi đo, việc mã hóa dữ liệu dạng số bằng các thiết bị phần cứng hay phần mềm được thực hiện rất nhanh chóng, thậm chí có thể là trong thời gian thực và người sử dụng hệ thống sẽ không cảm nhận được quá trình này đang được thực hiện. - Chức năng kiểm tra dữ liệu trong quá trình cập nhật: đối với phương pháp quản lý giấy tờ, sổ sách, độ chính xác, độ tin cậy của quá trình nhập dữ liệu (ghi vào sổ, giấy tờ) phụ thuộc hoàn toàn vào kinh nghiệm, năng lực của cán bộ thực hiện công việc này. Với việc áp dụng công nghệ thông tin thì rất nhiều lỗi lầm có thể tự động được kiểm soát bởi hệ thống. Ví dụ như diện tích của thửa đất được xác định là dạng số thập phân có một chữ số sau dấu phẩy thì nếu người sử dụng nhập một chữ cái (a, b, c,...) hay nhập 2, 3 chữ số sau dấu phẩy thì hệ thống sẽ báo lỗi hoặc tự động chỉnh sửa cho thích hợp. Một ví dụ nữa là khi một dữ liệu nào đó có trong nhiều sổ sách, tài liệu khác nhau (ví dụ như họ tên người sử dụng đất) thì với việc áp dụng công nghệ thông tin, dữ liệu này chỉ cần nhập một lần và ở những lần sau đó, người sử dụng chỉ cần chọn nó từ một danh sách có sẵn. Phương thức làm việc như vậy sẽ giúp tránh được tình trạng dữ liệu bị thiếu nhất quán do chúng được nhập vào nhiều lần với một số lỗi lầm nhỏ, khó phát hiện. - Chức năng tra cứu, thống kê: đây là chức năng thường được người ta nghĩ đến khi nói về việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý HSĐC. Chỉ với vài lần nhấn chuột, người sử dụng đã có thể lấy được các dữ liệu cần thiết cho mình. Còn nếu tra cứu trên giấy tờ, sổ sách thì công việc này có thể kéo dài tới vài giờ đồng hồ, thậm chí vài ngày nếu thông tin cần được tổng hợp từ dữ liệu nằm trong nhiều nguồn khác nhau. Mặc dù chức năng tra cứu thông tin là một trong những chức năng đơn giản nhất nhưng lại hay được sử dụng nhất trong hệ thống quản lý HSĐC. Bởi vậy, việc áp dụng công nghệ thông tin sẽ mang lại hiệu quả lớn nhất đối với chức năng này. - Chức năng phân tích thông tin: đây là một chức năng mà công nghệ thông tin có thể thay thế một phần trí tuệ của con ngời. Dựa trên nền tảng của hệ thông tin địa lý, hệ thống có thể tổng hợp dữ liệu, chiết xuất thông tin từ một tập hợp dữ liệu đã có. Ví dụ như bằng cách so sánh các bản đồ ở những thời kỳ khác nhau, hệ thống có thể nhanh chóng đưa ra số liệu về biến động SDĐ hay biến động về giá cả đất đai. Những số liệu đó có thể tiếp tục được xử lý ở mức cao hơn để đưa ra dự báo những diễn biến trong tương lai,... Chức năng phân tích thông tin còn là nền tảng để giải nhiều bài toán ứng dụng trong quản lý đất đai, chẳng hạn như với sự phân bố hiện thời của các loại hình SDĐ, của các khu dân cư và các công trình hạ tầng kỹ thuật thì việc bố trí một đối tượng quy hoạch (trường học, bệnh viện, khu công nghiệp,...) ở vị trí nào là hợp lý nhất? Những bài toán như vậy chỉ có thể giải được bằng phương pháp định lượng nếu như có sự trợ giúp của công nghệ thông tin. 2. Những khó khăn, trở ngại của quá trình tin học hóa hệ thống quản lý HSĐC Những lợi ích mà công nghệ thông tin mang lại cho hệ thống quản lý HSĐC là vô cùng to lớn. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng quá trình tin học hóa hệ thống HSĐC sẽ gặp phải những khó khăn, trở ngại rất lớn. Bởi vậy, cho đến nay mới chỉ có một số rất ít các quốc gia trên thế giới đã tin học hóa thành công hệ thống quản HSĐC ở nước mình. Đáng tiếc là Việt Nam chúng ta lại chưa nằm trong số đó. Dưới đây, chúng tôi xin nêu ra những khó khăn, trở ngại chính đối với công tác tin học hóa hệ thống quản lý HSĐC ở nước ta. Việc nhìn nhận, đánh giá một cách chính xác những nguyên nhân này sẽ tạo cơ sở để nâng cao một cách rõ rệt hiệu quả áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý hồ sơ địa chính. a. Trở ngại lớn nhất có thể nêu ra là hệ thống các quy định của quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta chưa đạt được một sự ổn định tương đối. Cứ khoảng 5 đến 10 năm là Luật đất đai lại phải thay đổi hoặc sửa đổi một lần, các luật này ngay từ khi mới ra đời đã có những vấn đề chưa rõ ràng và để thực thi chúng đòi hỏi phải tiếp tục ra nhiều văn bản dưới luật. Các văn bản dưới luật và các thông tư hướng dẫn thì thay đổi với tốc độ chóng mặt và không lường hết trước được những tình huống có thể xảy ra trong thực tế. Ví dụ như chỉ trong vòng 10 năm, từ năm 1995 đến năm 2004, mẫu (và nội dung) các sổ sách HSĐC đã thay đổi 3 lần theo Quyết định 499 QĐ/ĐC ngày 27/7/1995, Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của Tổng cục Địa chính và Thông tư 29/2004/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Những sự thay đổi nhanh chóng này dẫn đến các hệ quả sau: - Nội dung thông tin trong các hồ sơ cũ và hồ sơ mới không tương ứng với nhau dẫn đến sự thiếu đồng bộ thông tin. Việc chuyển các hệ thống sổ sách cũ sang hệ thống sổ sách mới tốn rất nhiều thời gian, kinh phí và công sức mà vẫn không thể đảm bảo độ tin cậy 100% do các sai sót trong quá trình chuyển đổi cũng như do hệ thống phân loại cũ không tương thích hoàn toàn với hệ thống phân loại mới, điển hình là việc phân loại theo mục đích sử dụng bằng số trước đây và bằng chữ hiện nay. - Mỗi khi có một quy định mới về hệ thống HSĐC thì các phần mềm quản lý hồ sơ cũng bắt buộc phải thay đổi theo. Sự thay đổi này không phải đơn giản như chỉnh sửa một vài chi tiết trên giấy mà là một quy trình phức tạp bao gồm: thiết kế lại cơ sở dữ liệu ® rà soát và chỉnh sửa mã nguồn ® chỉnh sửa giao diện ® chạy thử và phát hiện lỗi. Quy trình này phải được tuân thủ ngay cả khi chỉ có một sự thay đổi nhỏ trong HSĐC và do đó, khi có một quy định nào đó liên quan đến HSĐC thì các nhà sản xuất phần mềm phải mất vài tháng, thậm chí hàng năm, để chỉnh sửa và nâng cấp phần mềm cho phù hợp. Khi công việc này vừa kết thúc thì lại có những quy định mới được đưa ra và phần mềm lại phải tiếp tục được chỉnh sửa. Thực tế này đã tạo ra một vòng luẩn quẩn dẫn đến tình trạng các phần mềm quản lý HSĐC phải liên tục được nâng cấp, chỉnh sửa mà vẫn không thể đáp ứng được nhu cầu. Do đó, hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin là rất thấp. Một vấn đề nữa gây khó khăn cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý HSĐC là do những lý do khách quan và chủ quan, nhiều văn bản pháp quy không đồng bộ hoặc không tính hết được các tình huống trong thực tế. Chẳng hạn như mặc dù Thông tư 29/2004/TT-BTNMT đã quy định rõ ràng về cách ghi mục đích SDĐ trong sổ địa chính, sổ mục kê và sổ theo dõi biến động đất đai, nhưng cho đến nay lại chưa có quy định mới nào về việc ghi loại đất trên bản đồ địa chính, bởi vậy một số địa phương vẫn sử dụng cách ghi theo quy định cũ (ví dụ như T cho đất thổ cư), trong khi đó, ở những địa phương khác người ta lại ghi theo ký hiệu mới (ONT cho đất ở nông thôn hay ODT cho đất ở đô thị). Tình trạng trên đã tạo ra quá nhiều trường hợp ngoại lệ dẫn đến hiệu quả áp dụng công nghệ thông tin rất thấp vì xét về bản chất, công nghệ thông tin chủ yếu được áp dụng để thực hiện một (hay nhiều) quy trình đã được vạch ra cụ thể với những tình huống cụ thể. b. Hệ thống dữ liệu về đất đai ở Việt Nam, đặc biệt là dữ liệu không gian, còn chưa đầy đủ, có độ chính xác không cao và chưa được chuẩn hóa một cách trọn vẹn. Do chiến tranh và do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên trong thời gian trước đây (trước những năm 90 của Thế kỷ trước), công tác đo đạc và thành lập HSĐC được thực hiện bằng các trang thiết bị thô sơ nên độ chính xác kém, tính đồng bộ không cao. ở rất nhiều địa phương, trong thời gian này, công tác đo đạc bản đồ giải thửa được thực hiện chủ yếu bằng thước dây trong hệ tọa độ giả định với độ chính xác rất thấp. Từ những năm 1990 trở lại đây, với sự nỗ lực rất lớn của toàn ngành Địa chính, nhiều công nghệ hiện đại như GPS, ảnh số, toàn đạc điện tử,... đã được triển khai rộng rãi. Các công nghệ này có những đặc tính ưu việt là độ chính xác cao, khả năng tự động hóa tốt và sản phẩm đầu ra là các bản đồ dạng số. Tuy nhiên, các công nghệ này cũng không giải quyết được một cách triệt để các vấn đề. Các dữ liệu vẫn còn nằm ở nhiều định dạng khác nhau (chủ yếu là *.dgn của Microstation và *.dwg / *.dxf của AutoCAD), phần lớn các bản đồ mới chỉ được thành lập dưới dạng sản phẩm đồ họa chứ không phải là sản phẩm GIS nên các vấn đề về topology cũng như dữ liệu thuộc tính hầu như không được quan tâm. Những thực trạng trên về dữ liệu gây khó khăn rất lớn cho việc tin học hóa hệ thống HSĐC bằng cách xây dựng các hệ thống thông tin đất đai. Hệ thống có thể được thiết kế chuẩn, thử nghiệm tốt nhưng khi triển khai trong thực tế lại không có tác dụng do bị "đói" dữ liệu. Kinh phí và thời gian thu thập, chuyển đổi và chuẩn hóa dữ liệu là quá lớn và hiện tại nhiều đơn vị không dám đầu tư vào lĩnh vực này vì không biết quá trình nhập dữ liệu đến bao giờ mới kết thúc trong khi hiệu quả của hệ thống thì chưa khẳng định được ngay. c. Trình độ tin học của các cán bộ chuyên môn không đồng đều, năng lực phát triển phần mềm chưa mạnh. Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ Bưu chính - Viễn thông tại Hội nghị Quốc gia về phát triển Internet tháng 5/2007, số người sử dụng Internet ở Việt Nam đạt tới hơn 18.64% dân số, trên mức trung bình của thế giới (15.9%) và vượt xa các nước trong khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Philippin. Điều này chứng tỏ công nghệ thông tin đã được phổ cập khá rộng rãi ở nước ta. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ thì có thể thấy công nghệ thông tin chỉ phổ biến trong lĩnh vực giải trí, truyền thông. Còn trong các lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực quản lý đất đai, thì vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc phục: - Công nghệ thông tin phát triển quá nhanh và thực tế nó mới chỉ bùng nổ ở Việt Nam trong khoảng thời gian 10-15 năm trở lại đây. Trong khi đó, một số rất đông các cán bộ chuyên ngành hiện nay có độ tuổi trên 40 và khả năng thích ứng với công nghệ thông tin của đội ngũ cán bộ này thấp hơn nhiều so với các cán bộ trẻ (20-30 tuổi). Ngoài ra, do đất nước vừa trải qua nhiều cuộc chiến tranh cùng với hoàn cảnh kinh tế khó khăn trong những năm 70-80 của Thế kỷ trước, rất nhiều cán bộ chuyên môn không được đào tạo một cách bài bản, toàn diện nên đã gặp khó khăn rất lớn khi tiếp cận với công nghệ thông tin. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng mặc dù tỷ lệ số người có kiến thức về công nghệ thông tin cao nhưng phần lớn lại tậ._.u trữ dạng số trên máy tính nhưng chúng ta không thể phủ định vai trò vủa các hồ sơ sổ sách trên giấy tờ. Mặt khác do đặc điểm của con người dễ thu nhận thông tin hơn nếu chúng được chuyển tải thành các văn bản, bảng biểu trên giấy. Bởi vậy, đầu ra của hệ thống phải đáp ứng được nhu cầu đó. Hệ thống cho phép người sử dụng in ấn các loại sổ sách phục vụ cho quản lý đất đai gồm: sổ địa chính, sổ mục kê, ngoài ra còn có các danh sách phân loại, mẫu đơn xin cấp GCNQSDĐ. Hình 8 là ví dụ về in mục kê của tờ bản đồ 8G-IV-38 và hình 9 là in trang sổ địa chính của người sử dụng “Phạm Thị Nhuận”. 2 Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác quản lý địa chính Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác quản lý đất đai gồm hai khâu trọng tâm phải tiến hành song song: 1, Từng bước tiến hành kiện toàn bộ máy quản lý đất đai, kiện toàn đội ngũ làm công tác quản lí đất đai và 2, Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai theo hướng đơn giản hóa. Hai khâu công tác này cần được tiến hành đồng bộ và bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Nếu một khâu không làm tốt thì công cuộc cải cách hành chính trong quản lý đất đai sẽ không đạt hiệu quả và mục tiêu đề ra. 3. Kiện toàn bộ máy quản lý đất đai - điều kiện tiên quyết và là chủ thể của công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quản lý đất đai Kiện toàn bộ máy quản lý đất đai là kiện toàn 4 cơ quan chức năng của bộ máy quản lý và tổ chức dịch vụ công về đất đai liên quan chặt chẽ và trực tiếp tới các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai ở các địa phương. Các cơ quan chức năng gồm: Phòng TN&MT; Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất; Tổ chức phát triển quỹ đất; đội ngũ cán bộ Địa chính xã, phường. Đối với cấp quận, huyện chỉ gồm 3 cơ quan chức năng và tổ chức dịch vụ công là: Phòng TN&MT; Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất và đội ngũ cán bộ Địa chính xã, phường. Phòng TN&MT là cơ quan quản lý đất đai ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Tuy được Văn phòng đăng ký quyền SDĐ và Tổ chức phát triển quỹ đất cùng cấp giúp trong việc thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai và sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật, song Phòng TN&MT vẫn có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra các cơ quan dịch vụ công có chức năng tổ chức thực hiện đăng ký sử dụng đất, chỉnh lý thống nhất về biến động SDĐ và quản lý HSĐC, thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong giải phóng mặt bằng,... ở những địa phương do chưa có đủ điều kiện vật chất, cán bộ hoặc ít nhu cầu dịch vụ công nên chưa thành lập Văn phòng Đăng ký quyền SDĐ thì chính Phòng TN&MT phải trực tiếp thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai. Văn phòng đăng ký quyền SDĐ là tổ chức sự nghiệp của Nhà nước, trực thuộc cơ quan TN&MT, có chức năng thực hiện dịch vụ đăng ký đất đai, lập HSĐC, quản lý thông tin đất đai phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước về đăng ký đất đai, hồ sơ địa chính và cấp GCNQSD đất, tạo thuận lợi cho cải cách thủ tục hành chính, đáp ứng nhu cầu thông tin đất đai cho cộng đồng. Các dịch vụ mà Văn phòng đăng ký quyền SDĐ cung cấp bao gồm: 1. Đăng ký sử dụng đất và chỉnh lý biến động về sử dụng đất theo quy định của pháp luật khi thực hiện các quyền của người SDĐ; 2. Cung cấp số liệu địa chính cho cơ quan có chức năng xác định mức thu tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, các loại thuế có liên quan đến đất đai; 3. Cung cấp bản đồ địa chính, trích lục bản đồ địa chính, trích sao HSĐC và các thông tin khác về đất đai phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu của cộng đồng; 4. Xây dựng, quản lý và phát triển hệ thống thông tin đất đai theo hướng tin học hóa hệ thống quản lý, trong đó Văn phòng đăng ký quyền SDĐ cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng, quản lý và phát triển, Văn phòng đăng ký quyền SDĐ cấp huyện có trách nhiệm quản lý sử dụng. Văn phòng đăng ký quyền SDĐ được giữ lại một phần phí thu được từ dịch vụ để tự trang trải cho hoạt động của mình. Chính vì thế cả 2 cơ quan trên đều liên quan trực tiếp tới các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai. Để đảm nhận được chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo yêu cầu của công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính, các cơ quan trên cần: + Tổ chức bộ máy và bổ nhiệm đội ngũ cán bộ lãnh đạo theo phân cấp quản lý cán bộ địa phương nhưng phải phù hợp với tiêu chuẩn chức danh do Bộ TN&MT ban hành nghĩa là đúng độ tuổi, đúng tiêu chuẩn bằng cấp, đúng chuyên ngành được đào tạo là Địa chính hoặc Quản lý đất đai. + Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 2 cơ quan: Phòng TN&MT, Văn phòng Đăng ký quyền SDĐ phải được cấp có thẩm quyền quy định cụ thể, rõ ràng phù hợp với qui định và tiêu chuẩn - chức danh của Bộ TN&MT nhưng có tính đến các đặc điểm địa phương. *Cán bộ địa chính xã, phường có trách nhiệm giúp UBND xã, phường, thị trấn trong việc quản lý đất đai ở địa phương. Đây là chức danh cán bộ rất quan trọng ở cấp xã, phường, thị trấn vì là đầu mối trực tiếp và là khâu đầu tiên trong việc thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai. Phường là đơn vị hành chính nhà nước cơ sở gắn trực tiếp với dân. Khi nói đến quản lý nhà nước về đất đai thì không thể không nói đến việc quản lý của chính quyền, bởi lẽ phạm vi lãnh thổ phường, cư dân ở lãnh thổ đã gắn liền với công tác quản lý đất đai. Chính quyền cơ sở có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý đất đô thị, thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định. Cán bộ địa chính là cán bộ chuyên môn giúp UBND phường thực hiện quản lý hiệu quả đất đai trên địa bàn. Vì vậy, vai trò của cán bộ địa chính phường có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng trong hệ thống tổ chức ngành Địa chính nước ta. Cán bộ địa chính phường hoạt động tốt là điều kiện tiên quyết để toàn ngành hoạt động có hiệu quả. UBND phường có 09 nhiệm vụ cơ bản trong việc quản lý nhà nước về đất đai, được thực hiện thông qua chức năng nhiệm vụ của cán bộ địa chính phường. Yêu cầu kiện toàn đội ngũ này là một bức xúc và là bước tiến rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Nội dung kiện toàn chính gồm: + Bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn một cách thường xuyên theo các hình thức phù hợp: dài hạn, ngắn hạn,... + Đảm bảo tính ổn định, chuyên nghiệp cho chức danh cán bộ Địa chính cấp phường. Cán bộ địa chính ở phường phải công tác liên tục ở địa bàn, không thay đổi cán bộ địa chính theo nhiệm kỳ của UBND và HĐND cấp hành chính cơ sở, không kiêm nhiệm các công tác khác (quản lý xây dựng đô thị, giao thông,...). + Tăng cường năng lực cho cán bộ địa chính phường để đảm bảo tiêu chuẩn: Cán bộ địa chính phường phải là người am hiểu chính sách, pháp luật quản lý đô thị nói chung và quản lý đất đai nói riêng; hướng dẫn ngời sử dụng đất chấp hành chính sách, pháp luật đất đai, nhà cửa; thực hiện việc hoà giải khi có tranh chấp đất đai, nhà cửa; nắm chắc hiện trạng và quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch đô thị của phường; cụ thể đến nguồn gốc từng thửa đất, đến từng người sử dụng và từng mục đích sử dụng; theo dõi, chỉnh lý kịp thời mọi biến động về đất đai; hướng dẫn người sử dụng đất chấp hành thủ tục đăng ký biến động đất đai; có hiểu biết về công nghệ quản lý đất đai đáp ứng yêu cầu quản lý ở cơ sở; quản lý tốt tài liệu, hồ sơ về đất đai; có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả; có ý thức tổ chức kỷ luật trong công tác; trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. + Đảm bảo chế độ chính sách thoả đáng và ổn định cho cán bộ địa chính phường, quan tâm và có hướng bồi dưỡng lâu dài cho đội ngũ làm cán bộ hợp đồng. Hiện nay về cơ bản chế độ chính sách đã được cán bộ cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên chế độ, chính sách hiện nay còn chưa thoát khỏi tư duy phụ cấp, còn mang tính chất bình quân: cán bộ phường ở đô thị, giá cả sinh hoạt đắt đỏ cũng giống như cán bộ xã nông thôn, miền núi. Điều này không công bằng và không khuyến khích được cán bộ phường. Vì vậy cán bộ địa chính phường cần được hưởng lương, bảo hiểm xã hội như cán bộ, công chức, ngoài ra còn có chế độ phụ cấp thâm niên, phụ cấp đắt đỏ đối với người công tác lâu năm, hoặc tại các vùng đắt đỏ, khó khăn và áp dụng hình thức thưởng đối với các phường làm tốt công tác quản lý đất đai. 4. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai theo hướng đơn giản hóa * Hệ thống thủ tục hành chính trong quản lý đất đai. Thủ tục hành chính trong quản lý đất đai bao gồm rất nhiều nội dung. Các nội dung này đều liên quan mật thiết với nhau và đều có yêu cầu đơn giản hóa: Nó bao gồm thủ tục giao đất; cho thuê đất; chuyển mục đích sử dụng đất; thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thủ tục đăng ký biến động sử dụng đất...Trong mỗi loại thủ tục nêu trên đều có 2 đối tượng tham gia hoạt động: 1, Các bộ phận chức năng của bộ máy quản lý có trách nhiệm tổ chức thực thi, hướng dẫn và giám sát việc chấp hành, thực hiện các thủ tục quản lý đất đai và 2, Các chủ sử dụng đất tự thực hiện theo hướng dẫn của cán bộ các thủ tục cần thiết phục vụ cho việc sử dụng đất. * Hệ thống thủ tục hành chính khi các chủ SDĐ thực hiện quyền và nghĩa vụ trong quản lý và sử dụng đất. Để có được GCNQSD đất - chứng thư pháp lý xác lập quyền và nghĩa vụ của chủ SDĐ - các chủ SDĐ phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính với nhiều nội dung khác nhau và khi đã nắm được GCN trong tay, khi cần thực hiện các quyền cũng như nghĩa vụ của mình, các chủ sử dụng đất vẫn phải thực hiện nhiều thủ tục hành chính khác nhau nữa. Chúng bao gồm: thủ tục đăng ký quyền SDĐ; thủ tục thực hiện quyền chuyển đổi; chuyển nhượng; cho thuê; cho thuê lại; thừa kế; thế chấp; góp vốn; cho tặng; bảo lãnh quyền sử dụng đất; thủ tục chứng thực; công chứng các hợp đồng; các văn bản liên quan đến quyền của chủ sử dụng đất; thủ tục thực hiện nghĩa vụ tài chính,...Các thủ tục này thường liên quan tới nhiều đơn vị quản lý khác nhau: CB địa chính phường; UBND phường; Văn phòng đăng ký QSDĐ; Phòng TN&MT; Phòng Tài chính; Phòng Thuế, tạo nên sự phức tạp, tốn phí sức lực, tài chính, tốn phí thời gian, dễ gây bức xúc cho người thực hiện thủ tục. Tất cả các nội dung trên đều phải được cân nhắc và xác định theo một định hướng chuẩn: cải cách hành chính theo xu hướng đơn giản hoá và cơ chế “Một cửa”. * Phương hướng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đất đai theo hướng đơn giản hóa. + UBND quận chỉ đạo và phố hợp thống nhất, chặt chẽ với Phòng TN&MT, Văn phòng đăng ký quyền SDĐ, UBND phường trong việc triển khai thực hiện công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quản lý đất đai. + Cơ quan chức năng chuyên môn ở Phòng TN&MT, Văn phòng ĐKQSDĐ và cán bộ địa chính kiểm tra việc thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất theo hướng rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết, hoặc không còn phù hợp. Ban hành Quy chế làm việc quy định quy trình chuyển hồ sơ, xử lý, trình ký, trả lại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả; trách nhiệm của các bộ phận có liên quan trong thực hiện cơ chế "một cửa"; trách nhiệm của cán bộ, công chức làm việc ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. + Đẩy mạnh thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý địa chính theo hướng “Một cửa”. Chú trọng ban hành các qui định cụ thể về thủ tục thực hiện mang tính đặc thù địa phương. "Một cửa" là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, công dân thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước từ tiếp nhận yêu cầu, hồ sơ đến trả lại kết quả thông qua một đầu mối là “bộ phận tiếp nhận và trả kết quả” tại cơ quan hành chính nhà nước. Việc thực hiện cơ chế “một cửa” nhằm đạt được bước chuyển căn bản trong quan hệ và thủ tục giải quyết công việc giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức, công dân, giảm phiền hà cho tổ chức, công dân, chống tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền của cán bộ, công chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. + Tạo mọi điều kiện thuận lợi và nhanh chóng cho chủ sử dụng đất thực hiện các thủ tục nộp tiền đối với các khoản thu từ đất. Nghiêm cấm đặt thêm các khoản thu ngoài quy định của pháp luật. + Không đặt thêm các thủ tục hành chính ngoài quy định chung của các cơ quan có thẩm quyền cấp trên. + Thực hiện nghiêm túc quy trình tiếp nhận và giải quyết hồ sơ làm các thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất đai: - Nếu hồ sơ đã đầy đủ, hợp lệ, theo quy định của pháp luật thì viết giấy biên nhận và hẹn ngày trả kết quả. - Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng dẫn cụ thể công dân, tổ chức, doanh nghiệp,... để bổ sung, hoàn chỉnh. - Nếu không thể giải quyết hồ sơ theo đúng hạn thì thông báo cho đương sự về lý do và hẹn lại thời gian trả kết quả. + Cán bộ, công chức kể cả lãnh đạo cần đề cao trách nhiệm, có thái độ hòa nhã, lắng nghe, tôn trọng trong tiếp xúc, tiếp nhận, xử lý, trả lời và trả kết quả cho công đân, tổ chức, doanh nghiệp,... khi thi hành công vụ. Những nội dung cấp thiết cho công tác đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quản lý sử dụng đất ở quận Tây Hồ giai đoạn hiện nay a. Kiện toàn bộ máy quản lý đất đai Quận Tây Hồ có bộ máy quản lý đất đai khá mạnh song chưa hoàn chỉnh vì vậy trong thời gian tới gần cần xúc tiến các việc sau: + Chuẩn bị cơ sở vật chất và nhân sự để thành lập Tổ chức phát triển quỹ đất là cơ quan quan trọng về dịch vụ công trong quản lý đất đai mà Tây Hồ còn thiếu. + Tăng cường đội ngũ cán bộ Địa chính có trình độ Đại học và sau Đại học. + Thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ địa chính, đặc biệt là tiếp cận với công nghệ thông tin. + Đội ngũ cán bộ địa chính ở 8 phường của Tây Hồ đã có 7 người có trình độ Đại học, 1 người trình độ trung cấp song đang theo học Đại học. Kiện toàn đội ngũ này chính là tăng cường tính chuyên nghiệp và ổn định địa bàn công tác, hết sức tránh kiêm nhiệm. Các cán bộ đã tốt nghiệp đại học nhưng có chuyên môn chưa được đào tạo chuẩn về quản lý đất đai phải được bồi dưỡng ở các viện, trường đại học tùy theo hình thức dài hạn, ngắn hạn, vừa học vừa làm, đào tạo tín chỉ,,..và tích cực tự đào tạo. + Phải xác định đội ngũ cán bộ địa chính hợp đồng là dạng hợp đồng đặc biệt, làm công việc gắn với loại tài nguyên đặc biệt nên có chiến lược sử dụng lâu dài. Cần chuẩn hóa và có hướng bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ Địa chính hợp đồng đặc biệt này, tăng thêm hạn hợp đồng và tạo điều kiện thuận lợi để họ yên tâm công tác. + .... b. Cải tiến theo hướng đơn giản hóa một số thủ tục hành chính trong quản lý đất đai + Đẩy mạnh việc thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai theo hướng “một cửa”. Hoàn tất việc ban hành các qui định cụ thể về thủ tục hành chính trong lĩnh vực cấp GCNQSH nhà ở, quyền sử dụng đất ở; thủ tục công chứng thuộc thẩm quyền cấp Quận, các thủ tục trong lĩnh vực đất đai, chứng thực giấy tờ thuộc thẩm quyền cấp cấp xã. + Đề nghị với cơ quan chức năng có thẩm quyền cho phép: - Được thực hiện các thủ tục hành chính về cấp GCNQSD đất cho các chủ sử dụng đất ở ngoài đê sông Hồng. - Bỏ quy định về trình chứng minh thư nhân dân trong hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất. - Thống nhất giá đất theo QĐ 3519/QĐ_UB khi người SDĐnộp các khoản thu từ đất (không tính theo giá đất mới ở QĐ 144/2004/QĐ_UB) để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận. + Đối với trường hợp xin cấp GCNQSD đất ở nơi chưa có bản đồ Địa chính đề nghị thực hiện quy định tự kê khai và tự chịu trách nhiệm về nội dung tự kê khai theo chỉ thị số 18/1999/CT_TTg thay vì phải do đơn vị có tư cách pháp nhân thực hiện. III. KIẾN NGHỊ 1. Các kiến nghị đối với UBND thành phố Hà Nội - Đề nghị UBND, Sở TNMT& Nhà đất thành phố Hà Nội công nhận (bằng văn bản) HSĐC đang lưu trữ bao gồm bản đồ, sổ mục kê, sổ đăng ký ruộng đất các thời kỳ năm 1960, 1978, 1986 tại UBND các phường và phòng TN&MT quận Tây Hồ là tài liệu hồ sơ địa chính hợp lệ. - Đề nghị UBND thành phố, Sở TNMT&Nhà đất cho đo đạc lại và thành lập bản đồ địa chính chính quy của các phường trong thời hạn ngắn nhất. - Đề nghị Văn phòng Đăng ký quyền SDĐ của Sở thường xuyên gửi thông báo về tình hình biến động SDĐ cho cấp quận và phường để kịp thời cập nhật thông tin biến động. - Đề nghị UBND thành phố, Sở TNMT&Nhà đất mở các lớp học bồi dưỡng nghiệp vụ và chuyên ngành nhằm nâng cao trình độ của các cán bộ chuyên môn, trong đó có nghiệp vụ về quản lí HSĐC, cơ sở dữ liệu HSĐC. Đào tạo, tập huấn cho cán bộ địa chính quận và phường nâng cao trình độ tin học và quản lý hệ thống thông tin đất đai. - Đầu tư trang thiết bị máy móc cho các cơ quan quản lí đất đai cấp quận và cấp phường. - Đề nghị UBND thành phố sớm bổ sung hoàn thiện đội ngũ cán bộ địa chính cấp quận và cấp phường giúp UBND các cấp thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về đất đai nói chung và quản lý hệ thống HSĐC nói riêng. 2. Các kiến nghị đối với UBND quận Tây Hồ - Lập Dự án hoàn thiện hệ thống HSĐC của quận trên cơ sở các giải pháp của đề tài đề xuất. - Lập Dự án xây dựng Hệ thống thông tin đất đai của Quận; Bồi dưỡng, nâng cao trình độ tin học của cán bộ địa chính phường, quận. - Bổ sung cán bộ đủ năng lực chuyên môn cho Phòng TN&MT và các phường nhằm đáp ứng công tác quản lí đất đai, nhất là công tác cập nhật và quản lí biến động sử dụng đất; Có lộ trình đào tạo cán bộ địa chính ở trình độ Sau đại học cho cán bộ trong bộ máy quản lý cấp Phòng và Văn phòng, phổ cập Đại học cho tất cả cán bộ địa chính cấp phường, cán bộ hợp đồng; Xoá bỏ việc kiêm nhiệm, nâng cao tính chuyên nghiệp hoá công tác quản lý địa chính cho cán bộ địa chính phường. - Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật - công nghệ phục vụ quản lí đất đai cho Phòng TN&MT và các phường như máy tính, máy in, hệ thống mạng và các phần mềm chuyên ngành,…để tạo hạ tầng kỹ thuật cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính và hệ thống thông tin đất đai của quận. - Đẩy mạnh việc thực hiện các thủ tục hành chính trong quản lý đất đai theo hướng “một cửa”. Hoàn tất việc ban hành các qui định cụ thể về thủ tục hành chính trong lĩnh vực cấp GCNQSH nhà ở, quyền sử dụng đất ở; thủ tục công chứng thuộc thẩm quyền cấp Quận, các thủ tục trong lĩnh vực đất đai, chứng thực giấy tờ thuộc thẩm quyền cấp phường. KẾT LUẬN 1. Hệ thống pháp luật của nước ta quy định về lập, quản lí hệ thống HSĐC ngày càng được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu quản lí đất đai trong quá trình CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên, sự thay đổi thường xuyên những chế định của pháp luật, nhất là những quy định về lập sổ sách địa chính dẫn đến những khó khăn cho các địa phương trong quá trình thực hiện, cụ thể là đối với khu vực đô thị có nhiều quan hệ sử dụng đất phức tạp như quận Tây Hồ. 2. Quận Tây Hồ là một quận của thành phố Hà Nội có tốc độ đô thị hóa nhanh dẫn đến nhiều biến động trong SDĐ đai đòi hỏi phải có thông tin đất đai đầy đủ và kịp thời để đáp ứng cho công tác quản lí địa chính. Vì vậy việc thiết lập và quản lí, chỉnh lí hệ thống HSĐC trên địa bàn quận là yêu cầu cấp thiết. 3. Qua quá trình điều tra, nghiên cứu, đề tài đã làm rõ được thực trạng hệ thống HSĐC trên địa bàn quận. Hệ thống HSĐC trên địa bàn quận Tây Hồ chưa đầy đủ, nhất là hệ thống sổ sách địa chính từ sau Luật đất đai năm 1993 đến nay dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác quản lí đất đai, nhất là đối với quản lí biến động sử dụng đất. 4. Đề tài đề xuất các giải pháp đề xuất hoàn thiện, đổi mới hệ thống HSĐC của quận theo hai giai đoạn: giai đoạn 1 từ 2008 - 2010 chủ yếu là các giải pháp khắc phục trước mắt để đáp ứng yêu cầu quản lí đất đai, bước đầu xây dựng cơ sở dữ liệu địa chính; giai đoạn 2 từ 2011 -2015 là giai đoạn hoàn thiện với việc hoàn chỉnh cơ sở dữ liệu địa chính và vận hành hệ thống thông tin đất đai của quận. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật đất đai 1993. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1995. 2. Luật đất đai 2003 NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2003. 3. Nghị định 181/CP của Chính phủ về thi hành luật đất đai, 2004. 4. Quyết định số 499/QĐ - ĐC ngày 27/7/1995 và Thông tư 346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của Tổng cục Địa chính 5. Giáo trình Đăng ký Thống kê đất đai. NXB chính trị quốc gia. 6. Giáo trình Quản lý Nhà nước về đất đai. NXB chính trị quốc gia. 7. Hệ thống hồ sơ địa chính. Trường Đại học khoa học Tự nhiên, Hà Nội, 2000. 8. Hệ thống thông tin đất đai quốc gia NaLIS của Malaysia và khả năng ứng dụng tại Việt Nam. Tạp chí Địa chính, số 2/2003, tr. 10-13. 9. Đánh giá hiện trạng cơ sở dữ liệu địa chính và định hướng hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai của tỉnh Nghệ An. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thông báo khoa học của các trường đại học, chuyên san Địa lý, 2002, tr. 33-37. 10. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. Hà Nội, 2004. 11. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính. Hà Nội, 2007. 12. Trần Thị Minh Hà, Hệ thống quản lý đất đai nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Hà Nội, 2000. 13. Trần Thị Minh Hà, Chính sách và tình hình sử dụng đất đai của Ôxtrâylia, Hà Nội, 2000. 14. Nguyễn Thị Hồng, Giới thiệu về chính sách và tình hình quản lý đất đai của Thuỵ Điển, Hà Nội, 2000. 15. Phạm Trọng Mạnh, Phạm Vọng Thành. Cơ sở hệ thống thông tin địa lý trong quy hoạch và quản lý đô thị. NXB Xây dựng, Hà Nội, 1999, 172 tr. 16. Tổng cục Địa chính. Dự án tiền khả thi "Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên đất", Hà Nội, 1998. 17. Chu Tuấn Tú, Chính sách và sử dụng đất đai của Malaixia, Hà Nội, 2000. 18. Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ. Các báo cáo thực hiện công tác địa chính nhà đất và quản lý đô thị qua các năm. 19. Tạp chí Quản Lý Nhà nước số 148/2008 MỤC LỤC Trang Bảng 2.1: Dân cư và mật độ dân cư quận Hồ Tây. STT Tên Phường Dân cư (người) Mật độ dân cư (người/km2) 1 Bưởi 21.919 15746.4 2 Yên Phụ 20.429 13639.3 3 Thuỵ Khuê 15.669 6837.9 4 Tứ Liên 10.404 2963.7 5 Nhật Tân 9.460 2772.3 6 Quảng An 9.493 2745.3 7 Xuân La 15.384 6544.4 8 Phú Thượng 15.434 2532.1 9 Toàn Quận 118.192 4923.0 Nguồn:UBND quận Tây Hồ niêm giám thống kê 2007 Bảng 2.2:Diện tích và cơ cấu các loại đất ở quận Tây Hồ năm 2007 STT Loại đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Tổng diện tích tự nhiên 2400,81 100 1 Đất nông nghiệp 878.65 36.6 1.1. Đất sản xuất nông nghiệp 302.91 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 299.61 1.1.1.1 Đất trồng lúa 61.9 1.1.1.2 Đất cỏ dùng vào chăn nuôi - 1.1.1.3 Đất trồng cây hàng năm khác 237.71 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm 3,3 1.2 Đất nuôi trồng thuỷ sản 575.74 1.3 Đất nông nghiệp khác - 2. Đất phi nông nghiệp 1392.95 58.02 2.1 Đất ở 421.76 2.1.1 Đất ở tại nông thôn 2.1.2 Đất ở tại đô thị 421.76 2.2 Đất chuyên dùng 456.25 2.2.1 Đất trụ sở cơ quan, CT sự nghiệp 36.94 2.2.2 Đất quốc phòng, an ninh 21.39 2.2.3 Đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp 69.72 2.2.4 Đất có mục đích công cộng 328.20 2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 5,7 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 9,5 2.5 Đất sông, suối và mặt nước chuyên dùng 499.74 2.6 Đất phi nông nghiệp khác 3 Đất chưa sử dụng 129,1 5,38 3.1 Đất bằng chưa sử dụng 129,1 Nguồn: Báo cáo kiểm kê đất đai quận Tây Hồ năm 2007 Bảng 2.3. Biến động diện tích các loại đất quận Tây Hồ 1995-2007 STT Loại đất Diện tích năm 1995 (ha) Diện tích năm 2007 (ha) Tăng (+) Giảm (-) (ha) Tổng diện tích tự nhiên 2393.78 2400,81 +7,03 I. Đất nông nghiệp 1185.14 878,65 -251,86 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 648.51 302,91 -345.60 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm 565.20 299.61 -265.59 1.1.1.1 Đất trồng lúa 214.63 61.9 -152.73 1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm khác 335,57 237.71 -97.86 1.2 Đất nuôi trồng thủy sản 617.62 575.74 - 41.88 II Đất phi nông nghiệp 1174.44 1392,95 +218.51 2.1 Đất ở đô thị 306.58 421.76 +115.18 2.2 Đất chuyên dùng 297.42 456,25 +158.83 2.3 Đất tôn giáo tín ngưỡng 5.82 5,70 -0.12 2.4 Đất nghĩa trang, nghĩa địa 14.72 9,50 -5.22 2.5 Đất sông, suối và MNCD 554.58 499,74 -54.84 III Đất chưa sử dụng 34.19 129,1 +94.91 Nguồn: Số liệu kiểm kê đất đai quận Tây Hồ ngày 31/12/2007 Bảng 2.4. Tiến độ cấp GCN của quận Tây Hồ giai đoạn 2000-2007 Năm Tổng hồ sơ kê khai xin cấp GCN Số GCN cấp theo KH năm trước KH năm hiện trạng Số lượng đã cấp % đạt được so với KH Tổng số GCN đã cấp % đạt được so với tổng số cần cấp 2000 20150 818 3000 3538 117,93 4356 21,62 2001 21146 4356 3500 3827 104,00 8183 38,70 2002 21645 8183 3500 3500 100,00 11683 53,97 2003 22054 11683 4000 2900 72,50 13583 61,59 2004 22967 13583 3000 2338 77,93 15921 69,32 2005 22967 15921 5000 2757 55,14 19644 85,53 2006 22967 18615 1400 1411 102,39 20026 87,19 2007 23.464 18646 1000 1233 123.3 20705 88.24 Nguồn : Sở TNMT&nhà đất Hà Nội, 2007 Bảng 2.5.Kết quả cấp GCNQSD đất quận Tây Hồ (tính đến ngày 01/01/2005) Số TT Loại đất cấp GCN Hiện trạng đang sử dụng Cấp GCN Hộ gia đình, cá nhân Tổ chức Hộ gia đình, cá nhân Cấp GCN cho tổ chức Số hộ đã cấp Số GCN đã cấp Số GCN đã giao Số TC đã cấp GCN Số GCN đã cấp Số GCN đã giao Toàn quận 28645 251 15477 15639 15333 12 15 11 1 Nhóm đất nông nghiệp 3623 4 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp 3599 1.2 Đất nuôi trồng thuỷ sản 24 4 2 Nhóm đất phi nông nghiệp 25022 247 5477 15639 15333 12 15 11 2.1 Đất ở tại đô thị 25015 16 15477 15639 15333 2 2 2 2.2 Đất chuyên dùng 183 7 10 6 2.3 Đất tôn giáo, tín ngưỡng 7 7 2.4 Đất phi nông nghiệp khác 41 3 3 3 Nguồn : Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ, 2005 Bảng 2.6. Tiến độ cấp GCN quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội (tính đến ngày 31/12/2007) Quận, Huyện Tổng số HS kê khai 2005 Đã thực hiện đến hết 2006 Số hộ cần cấp GCN 2007 (tư nhân) Đã thực hiện Đạt tỷ lệ (%) Số GCN cấp theo NĐ 61 Hoàn Kiếm 14424 6518 800 700 87,5 1045 Hai Bà Trưng 35324 24500 2537 1566 61,7 2101 Ba Đình 21667 16877 1718 3000 174,6 1768 Đống Đa 40720 35420 3400 2775 81,6 3225 Tây Hồ 23464 18646 1000 1233 123.3 368 Cầu Giấy 18231 17990 1500 2247 149,8 663 Thanh Xuân 18071 16921 1500 1550 103,3 720 Long Biên 24333 19996 6920 2675 38,7 300 Hoàng Mai 38344 27266 12451 4913 39,5 685 Từ Liêm 37177 34890 11547 9090 78,7 2699 Gia Lâm 43031 27394 11000 4780 43,5 220 Đông Anh 57477 50319 3000 4000 133,3 145 Sóc Sơn 52772 35267 15944 3575 22,4 - Thanh Trì 36339 24417 3800 3682 96,9 123 Tổng 461374 356421 77117 45786 59,37 14062 Nguồn : Sở TNMT&Nhà đất Hà Nội, 2007 Bảng 7. Hiện trạng hệ thống bản đồ địa chính quận Tây Hồ Phường Năm đo vẽ (thành lập) Số mảnh bản đồ Tỷ lệ Dạng dữ liệu Tình hình chỉnh lý, cập nhật thay đổi Giấy Dạng số Đã chỉnh lý Chưa chỉnh lý Quảng An 1960 13 1/1000 + + 1986 13 1/1000 + + 1994 53 1/500 + + Nhật Tân 1960 12 1/1000 + + 1986 8 1/1000 + + 1994 28 1/500 + + Tứ Liên 1960 14 1/1000 + + 1986 4 1/1000 + + 1994 16 1/500 + + Xuân La 1960 9 1/1000 + + 1986 2 3 1/2000 1/1000 + + 1994 28 1/500 + + Phú Thượng 1994 37 1/500 + + Bưởi 1994 49 1/200 + + Yên Phụ 1994 65 1/200 + + Thụy Khê 1994 28 1/200 + + 1999 25 1/200 + + + Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ, Bảng 8. Tình hình lập sổ sách hồ sơ địa chính của quận Tây Hồ Đơn vị: quyển STT Tên đơn vị hành chính Hồ sơ lập theo mẫu cũ (Trước thông tư 29/2004/TT- BTNMT) Sổ mục kê lưu tại Sổ đăng ký (Mẫu QĐ 56/1981) lưu tại Sổ địa chính (Mẫu QĐ 499 và TT 1990) lưu tại Sổ theo dõi biến động lưu tại Phường Quận Phường Quận Phường Quận Phường Quận (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) 1 Thuỵ Khê 3 3 8 1 1 2 Tứ liên 2 2 0 0 0 3 Phú Thượng 11 11 0 0 0 4 Bưởi 6 6 10 0 0 5 Quảng An 9 9 0 0 0 6 Nhật Tân 3 3 4 0 2 7 Xuân La 16 16 34 1 0 8 Yên Phụ 3 3 0 0 0 Tổng 53 53 56 02 03 Nguồn: Phòng Tài nguyên và Môi trường quận Tây Hồ, H×nh 3.3. Giao diÖn cña chøc n¨ng “HÖ thèng” H×nh 3.4. Giao diÖn cña chøc n¨ng “CËp nhËt th«ng tin thöa ®Êt” H×nh.3.5 Giao diÖn cña chøc n¨ng “T×m kiÕm th«ng tin” thöa ®Êt H×nh 3.6 Giao diÖn cña chøc n¨ng “Thèng kª theo chñ sö dông H×nh 3.7. Chøc n¨ng t×m kiÕm trªn b¶n ®å H×nh 3.8. In sæ môc kª H×nh 3.9. In trang sæ ®Þa chÝnh DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Hồ sơ địa chính : HS ĐC Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất : GCNQSDĐ Giấy chứng nhận : GCN Uỷ ban nhân dân : UBND Sử dụng đất : SDĐ Bất động sản : BĐS Tài nguyên và Môi trường : TN&MT Tài nguyên Môi trường và Nhà : TNMT&N Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá : CNH-HĐH Phổ thông trung học cơ sở : PT THCS Dân chủ cộng hoà : DCCH Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam : CHXHCNVN Cơ sở dữ liệu : CSDL Lêi c¶m ¬n! Trong thêi gian bèn th¸ng thùc tËp tèt nghiÖp, em ®· hoµn thµnh ®Ò tµi: “Thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p hoµn thiÖn hÖ thèng hå s¬ ®Þa chÝnh trªn ®Þa bµn quËn T©y Hå trong qu¸ tr×nh ®« thÞ hãa”. §Ó cã ®­îc kÕt qu¶ nµy, bªn c¹nh sù cè g¾ng cña b¶n th©n em ®· nhËn ®­îc nhiÒu sù gióp ®ì, ®éng viªn. Em xin bµy tá lßng biÕt ¬n s©u s¾c tíi tÊt c¶ nh÷ng ng­êi ®· kh«ng ngõng khuyÕn khÝch, san sÎ cïng em trong suèt qu¸ tr×nh sèng vµ häc tËp. Em xin c¶m ¬n sù d¹y dç cña c¸c thÇy c« gi¸o ®· truyÒn thô nh÷ng kiÕn thøc cÇn thiÕt ®Ó t«i cã nÒn t¶ng v÷ng ch¾c tù tin lµm viÖc. Em rÊt biÕt ¬n c¸c c« chó c¸c anh chÞ lµm viÖc t¹i phßng Tµi nguyªn M«i tr­êng quËn T©y Hå thµnh phè Hµ Néi ®· chØ b¶o em nhiÒu ®iÒu trong c«ng t¸c chuyªn m«n thùc tÕ. Em xin ch©n thµnh c¶m ¬n sù h­íng dÉn nhiÖt t×nh cña thÇy gi¸o PGS.TS Ng« §øc C¸t ®· gióp em hoµn thµnh ®Ò tµi. Em còng bµy tá sù c¶m kÝch s©u s¾c tr­íc sù cæ vò ®éng viªn cña gia ®×nh, b¹n bÌ trong suèt thêi gian em häc tËp vµ lµm ®Ò tµi tèt nghiÖp. Tuy nhiªn, do tr×nh ®é vµ kinh nghiÖm cßn h¹n chÕ nªn b¸o c¸o kh«ng tr¸nh khái nh÷ng khiÕm khuyÕt. RÊt mong ®­îc sù chØ dÉn vµ ®ãng gãp thªm cña thÇy c« vµ c¸c b¹n ®Ó em rót kinh nghiÖm vµ hoµn chØnh thªm b¸o c¸o cña m×nh. Hµ Néi, ngµy 28 th¸ng 4 n¨m 2008 Sinh viªn Lª ThÞ BÝnh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33227.doc