Thực trạng và giải pháp hoàn thiện phát triển hoạt động truyền thông Marketing tại Công ty cổ phần kiến trúc miền Bắc

LỜI NÓI ĐẦU Kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cùng với sự đào thải của cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn năng động tìm hướng đi cho doanh nghiệp mình để có thể cạnh tranh và đứng vững trong kinh doanh. Marketing là 1 công cụ hữu ích giúp doanh nghiệp thực hiện điều đó. Nền kinh tế ngày càng phát triển thì những ứng dụng khoa học Marketing vào kinh doanh là điều không thể thiếu. Marketing giúp doanh nghiệp đi đến quyết định sản xuất cho ai? Sản xuất

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1180 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp hoàn thiện phát triển hoạt động truyền thông Marketing tại Công ty cổ phần kiến trúc miền Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cái gì? Phân phối ra sao? Giá cả thế nào? Trong thời kì kinh tế thị trường, bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải chú trọng đến việc tạo và duy trì hình ảnh của mình trong tâm trí người tiêu dùng. Và truyền thông Marketing là 1 công cụ hữu ích để cho các công ty thực hiện mục tiêu của mình. Dù vậy các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc nói riêng thực hiện hoạt động này còn rất nhiều hạn chế, chưa thấy hết được vai trò của nó, dưới sự giúp đỡ của cô giáo Phạm Thị Thanh Thuỷ tôi quyết định chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp của mình là “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, phát triển hoạt động truyền thông Marketing tại công ty cổ phần kiến trúc Miền Bắc”. - Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở phân tích chiến lược hoạt động truyền thông Marketing của công ty, từ đó tìm ra được những ưu nhược điểm, tồn tại và nguyên nhân. Từ những kết quả phân tích kết hợp với những dự báo, những kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động truyền thông góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Giới hạn nghiên cứu Hoạt động truyền thông Marketing là vấn đề có nội dung rộng, phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều yếu tố chứa đựng, trong đó hang loạt những nhiệm vụ cần nghiên cứu. Với giới hạn nghiên cứu hoạt động kinh doanh của công ty từ mấy năm gần đây với thị trường hoạt động tại Việt Nam. Tôi nghiên cứu đề tài ở những nội dung cơ bản trong mối quan hệ với các nội dung và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty trên góc độ tiếp cận của môn học Marketing. Chuyên đề tốt nghiệp được trình bày 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý thuyết của hoạt động truyền thông Marketing. Chương 2: Thực trạng hoạt động truyền thông Marketing tại công ty cổ phần kiến trúc Miền Bắc. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động truyền thông Marketing của công ty cổ phần kiến trúc Miền Bắc. Do kinh nghiệm còn hạn chế, nên bài viết này không tránh khỏi thiếu sót, mong thầy cô và bạn đọc góp ý và hoàn thiện. Qua đây tôi xin cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Phạm Thị Thanh Thuỷ để tôi hoàn thành chuyên đề này. Xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CỦA HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG MARKETING 1.1. Khái quát về truyền thông Marketing 1.1.1. Các khái niệm cơ bản các công cụ truyền thông Hoạt động marketing hiện đại rất quan tâm đến các chiến lược xúc tiến hỗn hợp. Đây là một trong 4 công cụ chủ yếu của Marketing - mix mà doanh nghiệp có thể sử dụng để tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Bản chất của các hoạt động xúc tiến chính là truyền thông về sản phẩm và doanh nghiệp tới khách hàng để thuyết phục họ mua. Vì vậy có thể gọi đây là các hoạt động truyền thông marketing. Những doanh nghiệp kinh doanh hiện đại thường tổ chức điều hành một hệ thống xúc tiến hỗn hợp phức tạp. Một số dạng chủ yếu thường được các công ty sử dụng trong các chiến lược xúc tiến là: Quảng cáo: Bao gồm mọi hình thức giới thiệu giới thiệu một cách gián tiếp và đề cao những ý tưởng, hàng hoá, dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của chủ thể quảng cáo mà chủ thể truyền thông phải thanh toán các chi phí. Xúc tiến bán: Là những biện pháp tác động tức thời ngắn hạn để khuyến khích việc mua sản phẩm và dịch vụ nhiều hơn nhờ cung cấp những lợi ích bổ sung cho khách hàng. Các biện pháp xúc tiến bán chủ yếu là giảm giá, quà tặng và trò chơi. Quan hệ công chúng: là các hoạt động nhằm xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho thương hiệu hoặc cho doanh nghiệp trong cộng đồng. Bán hàng trực tiếp: Là hoạt động giới thiệu hàng hóa và dịch vụ trực tiếp của người bán hàng cho các khách hàng tiềm năng nhằm mục đích bán hàng hóa và thu nhận được những thông tin phản hồi từ khách hàng. Các doanh nghiệp đều sử dụng một lực lượng bán hàng để thực hiện chức năng thông tin tới thị trường và bán hàng. Trong mỗi loại trên bao gồm tập hợp một công cụ chuyên biệt để thực hiện truyền thông thích hợp trong những thị trường cụ thể đối với những hàng hóa cụ thể, ví dụ quảng cáo trên mạng, chiến lược quảng cáo, triển lãm, hội chợ, catalogue, quà tặng,… Để thực hiện hoạt động truyền thông Marketing một cách hiệu quả doanh nghiệp cần nghiên cứu kĩ bản chất của truyền thông và những phương thức hoạt động truyền thông như thế nào. 1.1.2. Vai trò, sự tác động, ảnh hưởng của hoạt động truyền thông với các hoạt động khác của hệ thống Marketing - Mix. * Vai trò của hoạt động truyền thông marketing trong hoạt động marketing - mix Công cụ hỗ trợ tạo điều kiện cho khách hàng có thể tiếp cận được với các công cụ khác của hệ thống marketing - mix. Hoạt động truyền thông Marketing tạo cho khách hàng có thể tiếp cận với sản phẩm, hệ thống phân phối hay giá cả một cách dễ dàng thông qua những chương trình quảng cáo, tuyên truyền hay bán hàng trực tiếp. Giúp cho sản phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp có được một chỗ đứng trong tâm trí khách hàng. Thông qua hoạt động truyền thông Marketing, doanh nghiệp có thể làm cho khách hàng biết về sản phẩm của mình, giá cả như thế nào, tên sản phẩm là gì,… hay nói chính xác là tạo ra sự nhận biết và phân biệt và cả sự yêu thích. Thuyết phục khách hàng mua sản phẩm: Một cách gián tiếp hay trực tiếp, hoạt động truyền thông Marketing chính là sự thuyết phục khách hàng mua sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện rõ nhất ở công cụ bán hàng trực tiếp. Một điều đáng lưu ý là truyền thông marketing - mix không thể tạo hoạt động mua sản phẩm mà nó không phục vụ nhu cầu nào của người tiêu dùng, cũng không thể thuyết phục người tiêu dùng rằng một sản phẩm tốt hơn sản phẩm khác trong khi điều này người tiêu dùng nhìn nhận là không đúng. Truyền thông marketing cũng không thể tác động để khách hàng trả giá cao hơn giá mà họ cảm thấy không hợp lý. Xúc tiến khuếch trương không thể thuyết phục khách hàng có những nỗ lực mua hàng khi mà các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh đầy rẫy trong các cửa hàng tại địa phương. Do đó dù chiến lược xúc tiến khuếch trương có thông minh đến đâu đi chăng nữa, cho dù nó được thi hành một cách sáng tạo đến đâu đi chăng nữa thì cũng không thể khắc phục những yếu kém cơ bản của những công cụ còn lại của marketing - mix. 1.2. Những nội dung chủ yếu của hoạt động truyền thông marketing 1.2.1 Quá trình xây dựng chương trình truyền thông Để tổ chức quá trình truyền thông có hiệu quả, cần phải hiểu được quá trình truyền thông hoạt động như thế nào, nắm được những yếu tố cơ bản của quá trình truyền thông và mối quan hệ của chúng. Hai yếu tố cơ bản đại diện cho hoạt động truyền thông là thông điệp và phương tiện truyền thông. 4 yếu tố khác tiêu biểu cho chức năng truyền thông là mã hóa, giải mã, đáp ứng và phản hồi. Mối quan hệ trong quá trình truyền thông được diễn ra theo sơ đồ dưới đây. Sơ đồ 1: Quá trình truyền thông Thông điệp Phương tiện truyền thông Nhiễu Mã hóa Người gửi Phản hồi Giải mã Người nhận Phản ứng đáp lại Nguồn: Giáo trình Marketing căn bản 1. Người gửi: Đó là các công ty, cá nhân hay cơ quan, tổ chức nào đó có nhu cầu gửi cho công chúng nhận tin mục tiêu của mình. 2. Mã hóa: Là tiến trình chuyển ý tưởng và thông tin thành hình thức có biểu tượng. Ví dụ, biến thông tin thành lời nói, chữ viết, hình ảnh để khách hàng tiềm năng có thể nhận biết được. 3. Thông điệp: Là tập hợp biểu tượng mà chủ thể truyền đi. Tùy từng hình thức truyền thông mà nội dung thông điệp có sự khác nhau. Một thông điệp trên truyền hình có thể là sự phối hợp cả hình ảnh, âm thanh, lời nói. 4. Phương tiện truyền thông: Các kênh truyền thông qua đó thông điệp được chuyển từ người gửi tới người nhận. Phương tiện truyền tin có thể là các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, phát thanh hoặc là các phương tiện truyền tin độc lập như là thư trực tiếp. 5. Giải mã: Là tiến trình theo đó người nhận xử lý thông điệp từ các phương tiện truyền tải để nhận tin và tìm hiểu ý tưởng của chủ thể (người gửi) theo mức độ hiểu biết riêng của từng người. 6. Người nhận: Là đối tượng nhận tin, nhận thông điệp do chủ thể gửi tới, đó là khách hàng mục tiêu của Công ty. 7. Phản ứng đáp lại: Là tập hợp những phản ứng mà người nhận có được sau khi tiếp nhận và xử lý thông điệp. Những phản ứng tích cực mà chủ thể truyền thông mong muốn là hiểu, tin tưởng và hành động mua. 8. Phản hồi: Một phần của phản ứng đáp lại của người nhận được truyền ngược lại cho chủ thể gửi tin. Thông tin phản hồi có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Một chương trình truyền thông hiệu quả thường có những thông tin phản hồi tốt trở lại chủ thể. 9. Nhiễu: Là tình trạng biến lệch ngoài dự kiến do trong môi trường hoạt động truyền thông cho thông tin đến người nhận không đúng, không trung thực với thông điệp gửi đi. Người gửi thực hiện quá trình truyền thông trong điều kiện có rất nhiều nhiễu tạp, hàng ngày có hàng trăm thông điệp được gửi từ chủ thể khác nhau. Vì vậy, người nhận có thể nhận được thông tin của người gửi thông qua chọn lọc, chú ý của họ. Để phát triển một chương trình truyền thông toàn diện những người truyền thông phải thực hiện qua các bước: 1. Xác định công chúng nhận tin mục tiêu. 2. Xác định trạng thái người nhận tin. 3. Lựa chọn phương tiện truyền thông. 4. Lựa chọn và Thiết kế thông điệp. 5. Lựa chọn nguồn tin đáng tin cậy. 6. Thu thập thông tin phản hồi. - Xác định công chúng mục tiêu. Doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động xúc tiến khuếch trương phải xác định rõ người nhận tin của mình là ai, đó là công chúng mục tiêu của công ty. Công chúng mục tiêu có thể là người mua tiềm ẩn đối với các sản phẩm của Công ty, người sử dụng hiện tại, người thông qua quyết định hay những người có ảnh hưởng. Công chúng có thể sẽ ảnh hưởng quan trọng đến những quyết định của người truyền thông về nói gì? Nói như thế nào? Nói khi nào? Và nói cho ai? Một phần quan trọng việc phân tích công chúng mục tiêu là đánh giá hình ảnh hiện tại của công ty trong công chúng, hình ảnh của sản phẩm và của đối thủ cạnh tranh trong họ. - Xác định trạng thái người nhận tin. Người truyền thông marketing phải quyết định về phản ứng mong muốn của công chúng. Mọi hoạt động truyền thông của doanh nghiệp đều mong muốn phản ứng đáp lại cuối cùng của khách hàng là mua hàng và hài lòng. Người làm marketing có thể tìm kiếm ở công chúng mục tiêu phản ứng đáp lại về nhận thức về tình cảm hay về hành vi. Nghĩa là người làm Marketing có thể khắc sâu hình ảnh vào tâm trí người tiêu dùng một điều gì đó thay đổi ý định, thái độ của khách hàng hay thúc đẩy khách hàng đến chỗ hành động. Một số mô hình về các giai đoạn phản ứng đáp lại của người tiêu dùng. Bảng 1: Mô hình phản ứng đáp lại của người tiêu dùng Giai đoạn Mô hình A DA Thứ bậc của hiệu quả Mô hình chấp nhận đổi mới Mô hình truyền thông Giai đoạn nhận thức Chú ý Biết đến Hiểu biết Biết đến Tiếp xúc Tiếp nhận Phản ứng đáp lại về nhận thức Giai đoạn tình cảm Giai đoạn hành vi Quan tâm Mong muốn Hành động Thích Ưa thích Tin tưởng Mua Quan tâm Đánh giá Dùng thử Chấp nhận Thái độ Có ý định * Một số mô hình xác định phản ứng đáp lại của người tiêu dùng được Philip Nguồn: Theo P.Kotler, Marketing căn bản Những người truyền tin luôn biết rằng để đưa ra quyết định mua là một quá trình diễn biến tâm lý lâu dài của người tiêu dùng để dẫn đến hành vi mua của họ tùy thuộc vào thời điểm của từng tâm trạng mà tâm lý của khách hàng đang ở đó để tiến hành truyền thống sao cho có hiệu quả. Có thể khái quát 6 trạng thái của người mua là: Biết đến - hiểu biết - thích - ưa thích - tin tưởng - hành động mua. Khi công chúng mục tiêu chưa biết về công ty, về sản phẩm thì nhiệm vụ của truyền thông marketing là làm cho công chúng biết. Khi công chúng mục tiêu đã biết nhưng chưa chắc chắn đã hiểu biết nhiều thì nhiệm vụ tiếp theo của truyền thông là phải làm cho họ hiểu biết. Nếu công chúng đã hiểu biết về sản phẩm thì họ cảm nhận như thế nào về chúng? Nếu công chúng có vẻ không thích thì người truyền thông phải tìm hiểu vì sao rồi sau đó triển khai một chiến dịch nhằm truyền thông nhằm gợi nên cảm giác tốt đẹp hoặc có thể khắc phục những điểm mà công chúng chưa thích sau đó thông báo lại với họ. Công chúng mục tiêu có thể thích sản phẩm nhưng không ưa thích nó hơn sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp này người truyền thông phải cố gắng tạo ra được sự ưa thích của người tiêu dùng. Người truyền thông sẽ khuếch trương chất lượng, giá trị, công dụng và những tính chất khác của sản phẩm. Công chúng mục tiêu có thể ưa thích một sản phẩm cụ thể nhưng không tin tưởng là sẽ mua nó. Công việc của người truyền thông là xây dựng niềm tin rằng quyết định mua của khách hàng là đúng đắn. Cuối cùng, có một số công chúng mục tiêu có thể tin tưởng nhưng không hoàn toàn dứt khoát sẽ mua hàng. Họ có thể chờ đợi thêm thông tin hay ý đồ hành động muộn hơn. Người truyền thông phải dẫn dắt người tiêu dùng đó thực hiện bước cuối cùng các biện pháp chào bán sản phẩm với giá hạ, chào bán có thưởng hay để cho người tiêu dùng dùng thử sản phẩm đến một mức độ nào đó. Việc xác định những phản ứng đáp lại với mục tiêu là rất quan trọng khi xây dựng một chương trình truyền thông. Nhưng cũng cần lưu ý phản ứng này của khách hàng cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của trạng thái sẵn sàng của thị trường. - Lựa chọn phương tiện truyền thông. Để truyền thông có hiệu quả thì người làm marketing phải lựa chọn kênh sao cho hợp lý. Người phát tin căn cứ vào đối tượng nhận tin cũng như đặc điểm ngôn ngữ của phương tiện truyền thông mà lựa chọn kênh truyền thông cho phù hợp. Nhìn chung hiện nay có hai kênh thông phổ biến là kênh truyền thông trực tiếp và gián tiếp. Kênh truyền thông trực tiếp: Đòi hỏi phải có hai hay nhiều người giao tiếp trực tiếp với nhau. Đó là sự giao tiếp giữa hai người với nhau, giữa một người là công chúng với bên kia là người truyền thông. Có thể giao tiếp trực diện thông qua báo hàng, điện thoại, trò chuyện, thư từ… ưu điểm của các truyền thông này là tạo ra hiệu quả thông qua những cơ hội cá nhân hóa với việc truyền thông có được thông tin phản hồi nhanh chóng. Kênh truyền thông gián tiếp: Những kênh truyền thông gián tiếp tải thông tin đi mà không cần có sự tiếp xúc hay giao tiếp trực tiếp nghĩa là người gửi và người nhận không trực tiếp giao diện với nhau họ sẽ thông qua trung gian, đó là phương tiện truyền thông. Bên cạnh đó kênh truyền thông còn phụ thuộc vào bầu khí quyển và những sự kiện. Thông điệp của người truyền thông được truyền tải đông đảo cho công chúng nhận tin mục tiêu có thể là chung một thời gian nhất định. Các phương tiện được sử dụng để truyền thông gián tiếp có thể là: tivi, radio, báo, tạp chí, pano, apphich… - Lựa chọn và Thiết kế thông điệp. Sau khi đã xác định được mong muốn của người nhận tin, người truyền thông cần thiết kế một thông điệp có hiệu quả. Thông điệp là thông tin cần truyền đã được mã hoá dưới dạng ngôn ngữ nào đó. Ngôn ngữ của truyền thông rất phong phú: có thể là hội hoạ, điêu khắc, lời văn… Nội dung thông điệp do các chủ thể truyền thông soạn thoả hoặc chủ thể thể hiện các ý tưởng cho các tổ chức trung gian soạn thảo. Nội dung thông điệp cần đi vào một số hướng đề tài có tính thiết thực đối với đối tượng nhận tin. Đề cập tới lợi ích kinh tế của người mua. Đây là vấn đề quan trọng và đầu tiên mà nội dung điệp văn phải đề cập. Cụ thể thông qua một số một số tiêu chuẩ về chất lượng, tính tiện dụng, bảo quản… Đề cập đến yếu tố quyết định mua. Trong từng đối đơn vị khách hàng có người quyết định và người ảnh hưởng tới hành vi mua. Nội dung tin cần được truyền tới các đối tượng trên. Đề cập đến lĩnh vực tình cảm. Các trạng thái tình cảm như vui buồn, hờn giận, sợ hãi… đều được khai thác trong thông điệp truyền thông… Cấu trúc thông điệp cũng cần phải chú ý: Cấu trúc thông điệp phải logic và hợp lý nhằm tăng cường sự nhận thức và tính hấp dẫn về nội dung đối với người nhận tin. Tuy nhiên thông điệp không phải là một cấu trúc truyền thông cố định mà ngược lại đó là cấu trúc biến đổi trong một mức độ nào đó. Tuy nhiên sự biến đổi này trong phạm vi duy trì ý tưởng về thiết kế thông điệp của người phát tin. Người nhận tin tiếp nhận thông điệp đến đâu lại phụ thuộc vào trình độ nhận thức của họ. - Lựa chọn nguồn tin đáng tin cậy. Hiệu quả của truyền thông không những phụ thuộc vào việc sang tạo thông diệp, vào kênh truyền thông, vào người nhận tin mà còn phụ thuộc vào thuộc tính của nguồn phát tin nữa. Nguồn tin có độ tin cậy cao sẽ tăng cường tính thuyết phục… Có 3 yếu tố làm tăng độ tin cậy của nguồn là: tính chuyên môn, sự tín nhiệm và tính khả ái. - Thu thập thông tin phản hồi Để thu thập thông tin phản hồi cần phải tổ chức điều tra nghiên cứu chu đáo. Cần phải tạo cơ chế thu nhận thích hợp để bảo đảm cho kênh truyền thông hoàn chỉnh. Thu nhận thông tin phản hồi đầy đủ và chính xác mới có thể đánh giá đúng mức hiệu quả của hoạt động truyền thông. Từ đó có thể điều chỉnh nhằm hướng hoạt động truyền thông vào các mục tiêu đã định và tăng cường hiệu quả của chúng. 1.2.2. Quản lý hoạt động truyền thông 1.2.2.1 Xây dựng ngân sách truyền thông marketing Một trong những quyết định khó khăn nhất được đặt ra cho công ty là chỉ cần chi bao nhiêu cho hoạt động xúc tiến khuếch trương. Ai cũng biết rằng xây dựng ngân sách cho hoạt động xúc tiến khuếch trương là rất cần thiết, nhưng xác định như thế nào cho có hiệu quả và phù hợp. Xác định ngân sách phải căn cứ vào mục tiêu và nguồn lực của Công ty. Ngân sách của hoạt động xúc tiến khuếch trương sẽ được phân bổ cho từng bộ phận. Làm thế nào công ty có thể xác định ngân sách xúc tiến khuếch trương của mình để có hiệu quả? Hiện nay có một số phương pháp thường được sử dụng phổ biến cho việc xác định tổng ngân sách. Song mỗi phương pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng của nó, nên thực tế các công ty thường kết hợp nhiều cách để tận dụng ưu điểm và hạn chế nhược điểm. Họ vừa dùng phương pháp toán học, vừa căn cứ vào nhiệm vụ, mục tiêu của mình. Hiện nay công ty xác định ngân sách cho hoạt động marketing theo phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh số. - Phương pháp tỷ lệ phần trăm trên doanh số bán Ngân sách xúc tiến bằng tỷ lệ phần trăm nhất định của doanh số bán. Ưu điểm của phương pháp này là chi phí cho xúc tiến thay đổi tùy theo khả năng của công ty và thấy rõ được mối liên hệ của chi phí xúc tiến với giá bán cho một đơn vị sản phẩm. Nhược điểm là cho rằng mức tiêu thụ là nguyên nhân chứ không phải là kết quả của truyền thông marketing nên xác định ngân sách căn cứ vào ngân quỹ chứ không theo cơ hội thị trường. - Phương pháp cân bằng cạnh tranh Doanh nghiệp xác định mức ngân sách truyền thông của mình bằng mới mức ngân sách của các đối thủ cạnh tranh trong khu vực thị trường và trong chu kì doanh. Trên thực tế khó mà biết được mức chi ngân sách cụ thể ở các doanh nghiệp. Mặt khác, mục tiêu truyền thông của doanh nghiệp rất khác nhau nên không thể căn cứ vào các doanh nghiệp, rất khác nhau nên không thể căn cứ vào các doanh nghiệp khác để xác định ngân sách cho doanh nghiệp của mình được. - Phương pháp căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ phải hoàn thành Doanh nghiệp phải hình thành ngân sách truyền thông của mình trên cơ sở những mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể cần phải giải quyết Phương pháp này có cơ sở khoa học hơn, các nhà quản lý phải trình bày rõ các yêu cầu và nhiệm vụ của truyền thông phải thực hiện, các hoạt động truyền thông được đề cập và mức chi phí dành cho nó. Tuy nhiên ngân sách hoạt động truyền thông không vượt ra ngoài ngân sách Marketing của Công ty phải giữ được mức độ hợp lý giữa ngân sách Marketing chung và ngân sách hoạt động truyền thông. Khi quyết định mức ngân sách truyền thông cụ thể còn chú ý tới tính chất của loại sản phẩm và vị trí của nó trong chu kì sống của sản phẩm trên thị trường. - Phương pháp theo khả năng Doanh nghiệp có khả năng tới đâu thì quyết định mức ngân sách dành cho truyền thông ở mức đó. Phương pháp này không tính đến sự tác động của truyền thông đối với lượng hàng hóa tiêu thụ, tới doanh số bán ra. Vì thế ngân sách này không ổn định hàng năm và gây trở ngại cho việc hình thành chiến lược dài hạn về thị trường của doanh nghiệp. 1.2.2.2 Lựa chọn cơ cấu các công cụ cho hệ thống truyền thông marketing. Hoạt động truyền thông marketing có 4 công cụ. Do vậy các Công ty phải sử dụng 4 công cụ này một cách kết hợp để tận dụng ưu điểm và hạn chế nhược điểm. Chính vì vậy cần có sự lựa chọn xem công cụ nào được sử dụng nhiều và công cụ nào được sử dụng ít hơn. Đó là những gì mà việc lựa chọn cơ cấu các yếu tố hợp thành chính sách Truyền thông Marketing phải thực hiện. Hiện nay thị trường đại chúng đang có xu hướng phân chia thành những thị trường nhỏ, mà mỗi một thị trường nhỏ đòi hỏi phải có một phương thức truyền thông riêng của nó tạo ra một cơ cấu riêng. Sự xuất hiện càng nhiều các phương tiện truyền thông mới và trình độ hiểu biết của công chúng ngày càng cao đa dạng buộc công ty phải càng phối hợp các công cụ này một cách hài hòa. Vì những thay đổi đó đòi hỏi doanh nghiệp cần phải có những cân nhắc việc lựa chọn những cơ cấu công cụ sao cho thực hiện được nhiều truyền thông đặt ra. Các cơ cấu công cụ truyền thông có nghĩa là phải dành bao nhiêu phần trăm cho bán hàng trực tiếp, bao nhiêu phần trăm cho quan hệ công chúng và bao nhiêu phần trăm cho marketing trực tiếp trong tổng số ngân sách đã được duyệt. 1.2.2.3. Đánh giá và điều chỉnh quá trình hoạt động truyền thông marketing Sau khi thực hiện kế hoạch truyền thông người truyền thông phải đánh giá hoạt động truyền thông để xác định tác dụng của nó đến với công chúng mục tiêu và có thực hiện mục tiêu truyền thống không? Để có những điều chỉnh sao cho hợp lý. Trong giai đoạn này, nhà quản trị cần phải xem xét lại các mục tiêu điều kiện môi trường và nội dung chiến lược để đánh giá hiệu chỉnh nhằm đảm bảo cho quá trình tổ chức xúc tiến khuếch trương đạt kết quả. Đánh giá hiệu chỉnh hoạt động truyền thông sẽ được tiến hành đối với từng công cụ xúc tiến khuếch trương cụ thể. Quảng cáo: Việc đánh giá hiệu quả quảng cáo là rất cần thiết nhưng thực hiện không phải là dễ. Tiêu thức đầu tiên sử dụng và đánh giá hiệu quả quảng cáo là doanh số có tăng trưởng hay không, mức độ nhận biết của công chúng như thế nào? Sự ưa thích của công chúng tăng lên bao nhiêu? Phương pháp đánh giá hiệu quả của quảng cáo thông qua so sánh chi phí quảng cáo đã được thực hiện và khối lượng bán biến đổi như thế nào cũng không phải là để đo được. Nhưng mối quan hệ giữa quảng cáo và doanh số bán chưa đủ cơ sở để quảng cáo mang tính dài hạn. Xúc tiến bán: Là một nhóm các truyền thông dân dụng hỗn hợp các công cụ marketing, hiệu quả của chương trình xúc tiến bán thường được đánh giá dựa trên kết quả làm tăng doanh số. Các công ty sản xuất thường sử dụng phương pháp so sánh các chi tiêu doanh số tiêu thụ trong một thời gian trước, trong và sau thời hạn thực hiện chương trình. Quan hệ công chúng: Cũng như quảng cáo việc đánh giá hiệu quả của công cụ rất khó vì những tác động của nó không trực tiếp và không để nhận biết. Nên ta có một số những phương pháp số lần tiếp xúc: Đo số lần tiếp xúc với thông tin mà các phương tiện truyền thông bảo đảm. Nhưng không phải công chúng mục tiêu cứ tiếp xúc với thông tin thì đã hoàn toàn nhớ và có ấn tượng với thông tin đó. Mà người làm marketing cần biết được trong số công chúng mục tiêu tiếp xúc với thông tin thì người nào đã thực sự đọc, nghe hay nhớ được thông điệp đó và sau đó họ nghĩ gì. Thật sự khó có thông tin về số công chúng thực sự được tiếp cận vì các ấn phẩm có số độc giả trùng lặp nhau. Đo lường thay đổi mức độ biết đến/hiểu biết đầy đủ/thái độ. Đo lường phần đóng góp vào mục tiêu thụ và lợi nhuận. So sánh chỉ tiêu doanh số trước và sau khi chiến dịch nếu chiến dịch tác động có hiệu quả sẽ làm cho doanh số tăng lên sau khi chiến dịch. Bán hàng trực tiếp: Trong số các công cụ của xúc tiến khuếch trương thì có lẽ bán hàng trực tiếp là dễ đánh giá nhất. Người ta có thể đánh giá nó trên một số phương tiện như: có bao nhiêu khách hàng được tiếp xúc, những mối quan hệ mới và những mối quan hệ cũ được thiết lập và duy trì như thế nào? Một nhân viên bán hàng trực tiếp đã bán được bao nhiêu hàng trong thời gian nhất định… và số lượng hàng hóa được tiêu thụ qua đội ngũ nhân viên bán hàng trực tiếp là bao nhiêu? Quản trị chiến lược kết thúc là phải đánh giá và hiệu chỉnh quá trình hoạt động xúc tiến khuếch trương sao cho đạt kết quả khi chính thức thực hiện, các công việc đó là: Xác định nội dung cần hiệu chỉnh. Đề ra tiêu chuẩn để đánh giá. Định lượng các kết quả đề ra. Thông qua biện pháp chấn chỉnh. Thực hiện tổng hiệu chỉnh. Việc hiệu chỉnh lại chiến lược giúp cho công ty đánh giá tính toán hiệu quả cao chiến lược và thực hiện chiến lược, cung cấp các thông tin cho các giai đoạn tiếp theo, phân tích tình hình một cách khách quan và định hướng cho các chiến lược khác. Hiệu quả của hoạt động xúc tiến khuếch trương có thể được hiệu chỉnh một cách dễ dàng và đồng thời qua đó có thể đánh giá khả năng thích ứng của sản phẩm, sự hợp lý của chính sách giá cả, chính sách phân phối và cả nhu cầu thị trường. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG MARKETING TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KIẾN TRÚC MIỀN BẮC 2.1. Giới thiệu về công ty 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Thực hiện chủ trương của Chính phủ về đổi mới doanh nghiệp, cuối năm 2003 Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc chính thức được thành lập, tiền thân từ Công ty Tư vấn Thiết kế và Xây dựng Đô thị Hà Nội thuộc Hội kiến trúc sư Việt Nam. Từ năm 1997 đến nay tuy mới gần 08 năm xây dựng, trưởng thành và hoạt động trong công tác tư vấn, thiết kế các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp, nhưng Công ty đã hoàn thành một khối lượng công việc đáng kể, đạt chất lượng cao trong lĩnh hoạt động của mình, góp phần vào công cuộc xây dựng của Đất nước nói chung và của Ngành xây dựng nói riêng. Trong quá trình hoạt động của mình Công ty luôn đặt chỉ tiêu chất lượng công trình lên hàng đầu. Chính vì vậy, sản phẩm của Công ty luôn luôn đạt các chỉ tiêu về tiêu chuẩn chất lượng, thẩm mỹ cao. Từ năm 2001, Công ty đã xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn, nhằm theo dõi một cách có hệ thống sản phẩm trong suốt quá trình thực hiện từ lập dự án, thiết kế kỹ thuật thi công... đến nghiệm thu và bàn giao đưa công trình vào sử dụng. (xem phần Qui trình hoạt động ngoài công tác tư vấn, thiết kế các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp; Công ty đã thực hiện nhiều dự án các công trình thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, với địa bàn hoạt động rộng trên nhiều Tỉnh, Thành phố (xem thêm phần liệt kê danh mục các công trình đã thực hiện). Ngoài ra, Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc còn hoạt động trong lĩnh vực xây dựng với nhiều ngành nghề đa dạng như: xây lắp, cung ứng lắp đặt thiết bị trong công trình, buôn bán vật liệu xây dựng... 2.1.3 Cơ cấu tổ chức Sơ đồ 2: Tổ chức Bộ Máy Quản Lý GIÁM ĐỐC Phó GĐ Kỹ thuật Phó GĐ Điều hành P. Dự án Kinh doanh P. Kế hoạch Kỹ thuật P. Tài chính Kế toán P. Tổ chức quản trị P. Thiết kế 2 Đội thi công 2 Đội khảo sát địa chất Đội thi công 1 P. Kỹ thuật Xưởng nội thất P. Thiết kế 1 Nguồn: Tài liệu phòng tổ chức của công ty 2006 Với cơ cấu như thế này thì công việc điều hành của các phòng ban đối với nhân viên cũng như công việc được giám sát chặt chẽ , đảm bảo tốt công việc đề ra. Để phù hợp với chức năng và nhiệm vụ đặt ra; cơ cấu quản lý Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc được hình thành gồm các phòng, ban như sau: Bảng 2.1: Số lượng nhân viên các phòng ban STT Các phòng ban chức năng Số người A Hội đồng quản trị 1 Chủ tịch hội đồng quản trị 01 2 Phó chủ tịch hội đồng quản trị 01 3 Thành viên hội đồng quản trị 05 Tổng số: 07 B Ban lãnh đạo và các phòng ban 1 Ban lãnh đạo Công ty 03 2 Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật 06 3 Phòng Tài chính - Kế toán 05 4 Phòng Tổ chức - Hành chính 05 5 Phòng Dự án 07 6 Phòng thiết kế 1 14 7 Phòng thiết kế 2 12 8 Phòng kỹ thuật 09 Tổng số 61 C Các xưởng, đội thi công 1 Xưởng nội thất 25 2 Đội thi công 1. 30 3 Đội thi công 2. 75 4 Đội khảo sát địa chất. 15 Tổng số 145 Nguồn: Phòng tổ chức của công ty năm 2006 Các phòng ban, xưởng, đội thi công... của Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc hoạt động trực tiếp dưới sự chỉ đạo của Giám đốc công ty: 2.1.4 Năng lực nhân sự Bảng 3: Bảng thống kê nhân sự Đơn vị: người Kiến trúc sư chuyên ngành XD dân dụng và công nghiệp 22 Kiến trúc sư chuyên ngành Quy hoạch 05 Kỹ sư chuyên ngành XD dân dụng và công nghiệp 12 Kỹ sư kinh tế XD 05 Kỹ sư điện 05 Kỹ sư cấp thoát nước 04 Kỹ sư địa chất 04 Nguồn: Tài liệu phòng tổ chức của công ty 2006 Như vậy qua bảng nhân sự ta thấy công ty thành lập được 08 năm mà nhân sự như vậy là tạm được đối với một công ty tư vấn về xây dựng, nhưng cần bổ sung thêm nhân sự vào kỹ sư kinh tế xây dựng (5 người) là ít vì công ty là công ty tư vấn nên rất cần kỹ sư về kinh tế xây dựng, như vậy sẽ triển khai tốt hơn về hoạt động kinh doanh của công ty. Đặc biệt là khâu khai thác tối đa khách hàng của công ty. Về cán bộ chủ chốt: hiện nay trình độ các cán bộ chủ chốt được thống kế như sau: - Trình độ trên đại học: 05 người - Trình độ đại học, cao đẳng: 35 người - Trình độ trung cấp, hoặc tương đương: 17 người - Thợ bậc 2/7,3/7, 7/7.., lao động phổ thông: 138 người Với sự phát triển vượt bậc của ngành xây dựng ở nước ta trong mấy năm trở lại đây, với sự đào thải liên tục của các công ty còn non nớt và sự vững chắc của những công ty phát triển lâu đời vì vậy với số lượng những cán bộ chủ chốt của công ty là ít so với một số công ty khác và đặc biệt là sự phát triển về xây dựng như hiện nay là không đảm bảo về sự phát triển của công ty. Vì vậy công ty cần chú trọng nguồn nhân lực ở trình độ đại học, trên đại học hơn nữa để đảm bảo sự phát triển vững chắc của công ty. Và cần tuyển thêm các thợ bậc hơn nữa (138 người) là quá ít như thế sẽ không đảm bảo được các công trình cùng một lúc, khi tăng thêm công ty sẽ đảm bảo được sự năng động của các công trình và quá trình chăm sóc khách hàng tốt hơn. 2.1.5. Một số hoạt động công trình thực hiện gần._. đây Trong quá trình hoạt động ngoài công tác tư vấn, thiết kế các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp. Công ty đã thực hiện nhiều dự án các công trình thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề, với địa bàn hoạt động rộng trên nhiều Tỉnh, Thành phố. Ngoài ra Công ty còn hoạt động trong lĩnh vực xây dựng với nhiều ngành nghề đa dạng như: xây lắp, cung ứng, lắp đặt thiết bị trong công trình, kinhdoanh vật liệu xây dựng... Số năm kinh nghiệm trong công tác tư vấn thiết kế CTXD dân dụng: 08 năm Số công trình đã thực hiện: 128 công trình Số năm kinh nghiệm trong công tác tư vấn thiết kế CTXD công nghiệp: 05 năm Số công trình đã thực hiện: 23 công trình Số năm kinh nghiệm trong công tác TVTK CT điện nước, nội ngoại thất: 05 năm Số công trình đã thực hiện: 15 công trình Như vậy ta thấy công ty đã thực hiện được rất nhiều công trình, các công trình công ty thực hiện là các công trình thuộc các tỉnh miền bắc. Với số công trình mà công ty thực hiện như thế là tương đối với một công ty tư vấn xây dựng. Nhưng đặc biệt công ty có một ưu điểm vượt trội đó là chất lượng công trình luôn được đảm bảo tuyệt đối cho khách hàng, vì thế các chủ đầu tư luôn liên hệ với công ty để thực hiện các công trình. Công ty luôn lấy uy tín về chất lượng lên hàng đầu trước khi triển khai công trình vì thế khách hàng rất tin tưởng sản phẩm của công ty. Nhưng công ty vẫn còn hạn chế về vấn đề khách hàng. Khách hàng của công ty biết đến công ty thông qua giới thiệu của khách hàng khác nên vì thế rất hạn chế về sản phẩm của mình. 2.1.6. Tình hình tài chính của công ty trong 3 năm gần đây Bảng 4: Tình hình tài chính của công ty các năm 2004 - 2006 (Đơn vị: VNĐ) Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Doanh thu thuần 863259432 1048243596 1233227760 Giá vốn hàng bán 431629716 492674490 554952492 Chi phí quản lý doanh nghiệp. 371201556 440262310 493291104 Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 60428160 115306796 184984164 Chi phí tài chính 0 0 0 Doanh thu tài chính 0 0 0 Lợi nhuận tính thuế 60428160 115306796 184984164 Thuế thu nhập DN (28%) 16919885 32285903 51795566 Lợi nhuận sau thuế 43508275 83020893 133188598 Nguồn: Tài liệu phòng kế toán của công ty 2006 BIỂU ĐỒ Như vậy: qua bảng tài chính và biểu đồ ta thấy chi phí của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt thể hiện nhu cầu về sản phẩm của người tiêu dùng tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó với chi phí tăng lên thì doanh thu của công ty tăng lên đáng kể (863,259,432 lên 1,233,227,760) trong 3 năm như vậy công ty phát triển lên một cách rõ rệt, chứng tỏ ở từng khâu của công ty đã làm hiệu quả công việc của mình. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng lên một cách rõ rệt, như vậy phòng kinh doanh đã có một chiến lược tốt của mình đảm bảo cho công ty tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng đồng thời tạo được nhiều khách hàng trung thành và biết đến công ty mua nhiều sản phẩm hơn. Và khách hàng rất tin tưởng về chất lượng sản phẩm của công ty. Lợi nhuận sau thuế cũng tăng lên ổn định ở các năm. Dự định hết năm 2007 lợi nhuận sau thuế của công ty tăng lên 246054369 (VND). Vì thế yêu cầu của công ty đối với các phòng ban là phải hết sức nổ lực đặc biệt là phòng kinh doanh. 2.2. Các môi trường Marketing ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp 2.2.1. Môi trường marketing vi mô. Như chúng ta đã biết để hoạt động marketing thành công, bộ phận marketing của doanh nghiệp phải phối hợp hoạt động với các bộ phận khác của doanh nghiệp và cân nhắc sự ảnh hưởng của những người cấp, đối thủ cạnh tranh, các trung gian marketing và khách hàng. Sơ đồ 3: Các yếu tố thuộc môi trường Marketing vi mô Những người cung ứng Doanh nghiệp Đối thủ cạnh tranh Các trung gian marketing Khách hàng Công chúng trực tiếp (Giáo trình marketing căn bản) 2.2.1.1. Người cung ứng Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tư vấn thiết kế xây dựng. Không phải là công ty trực tiếp sản xuất ra sản phẩm vật chất vì vậy công ty chỉ mua nguyên vật liệu khi được khách hàng của mình đặt hàng. Lúc đó công ty sẽ nhập các nguyên liệu của các công ty sản xuất vật liệu xây dựng. Đó là các công ty sản xuất xi măng (Bỉm Sơn, Hoàng Thạch), Sắt thép (Vinasteel, Việt Úc), Sơn (Dulux, Nipon), tùy theo đặc điểm của từng công trình mà công ty có thể nhập các sản phẩm cho phù hợp với công trình đó. 2.2.1.2. Đối thủ cạnh tranh. Khi một công ty xuất hiện trên thị trường đều phải có đối thủ cạnh tranh, công ty tư vấn kiến trúc miền bắc không ngoại lệ. Trong khi đó một số công ty cạch tranh: Vinaconex, Delta, Công ty xây dựng Hà Nội, Công ty tư vấn thiết kế xây dựng Hacinco,... đa số các công ty này đều là do vốn của nhà nước nên tài chính của họ rất mạnh, kinh nghiệm lâu năm trên thị trường. Trong các công ty này, có lẽ đối thủ cạnh tranh chính là Hacinco. Họ là một công ty đã có kinh nghiệm trên thị trường với một đội ngũ nhân viên có trình độ và chuyên nghiệp. Tuy nhiên, điểm yếu của họ là ở lĩnh vực hoạt động kinh doanh. Do công ty kinh doanh ở nhiều lĩnh vực, không tập trung vào bất cứ lĩnh vực cụ thể nào. Và đó là điểm yếu mà công ty có thể tập trung khai thác. Trong khi đó công ty kiến trúc miền bắc là do các cổ đông góp vốn nên kinh phí cũng còn rất hạn hẹp vì vậy với tình hình như thế thì công ty phải lấy chất lượng sản phẩm để phát triển thị trường của minh. Sản phẩm của công ty rất có chất lượng và được sự tin tưởng của khách hàng. Sản phẩm của công ty chủ yếu là phục vụ nhu cầu về thiết kế và tư vấn của mọi khách hàng. Chất lượng sản phẩm luôn được đảm bảo là điểm mạnh của công ty, sự tin tưởng của khách hàng thể hiện điều đó. Vì vậy công ty luôn tập trung và phát triển sức mạnh của mình qua từng công trình, sản phẩm của mình. 2.2.1.3. Trung gian marketing. Với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của thế kỷ 21 thì trung gian Marketing là rất quan trọng và ảnh hưởng to lớn tới tất cả các công ty muốn tồn tại và phát triển trên thị trường. Nắm được tình hình đó công ty cũng đã thực hiện triệt để vấn đề này, đó là tạo mối quan hệ với các công ty trung gian ở các tĩnh thành khác như vậy các công ty đã tạo mối khách hàng lớn đối với công ty, biết đến công ty càng nhiều hơn, và công ty cũng đã tạo quan hệ một số công ty lớn hơn liên kết với họ để thực hiện một số công trình phức tạp của công ty. Như vậy các công ty trung gian đã giúp công ty tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của mình. 2.2.1.4 Khách hàng. Khách hàng của công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc bao gồm nhiều thành phần. Đó có thể là những cá nhân, các công ty. Những khách hàng này thuê công ty trong việc thiết kế, tư vấn. Khách hàng là những cá nhân có thể là người dân, thuê công ty thiết kế cho ngôi nhà của mình. Tuy nhiên, những khách hàng này mang lại cho Công ty ít doanh thu cũng như lợi nhuận. Và mục tiêu trong tương lai của công ty là thiết kế những ngôi nhà cao tầng, có giá trị tài sản lớn chứ không phải là những ngôi nhà nhỏ. Vì thế số lượng khách hàng này là tương đối ít. Khách hàng là những tổ chức, đó chính là các công ty, doanh nghiệp đang có nhu cầu về xây dựng. Khách hàng là những tổ chức được công ty thiết kế nhà là Công ty TNHH Hồng Dương (Bạch Mai), Nhà hàng Bạch Dương (Hoàn Kiếm), Hay trụ sở của Công ty Quảng Cáo PRO (Hàng Cói), Chi nhánh Ngân hàng Agribank (Phố Huế). Nhìn chung, đây là những công ty còn tương đối nhỏ, giá trị hợp đồng cũng không nhiều nhưng đây là những khách hàng chủ yếu của công ty. Vì khách hàng của công ty chủ yếu là những cá nhân hay tổ chức nhỏ nên nhìn chung yêu cầu của họ về kiểu dáng, phong cách thiết kế là không được chú trọng. Điều mà họ quan tâm đến chính là chi phí thiết kế và chi phí xây dựng. Mà điều này thì Công ty đã thực hiện tương đối tốt. 2.2.1.5. Công chúng Công ty luôn xác định được rằng các quyết định Marketing cần phải được chuẩn bị chu đáo để không chỉ nhằm hướng vào khách hàng mục tiêu của công ty mà còn phải hướng vào công chúng nói chung, vì hoạt động mang tính chất cộng đồng sẽ gây ra những tác động tích cực từ phía công chúng và nó thu hút được sự chú ý... vì thế công ty đã thực hiện rất vững chắc về vấn đề này. Thành lập được 08 năm thôi nhưng uy tín của công ty rất cao, điều đó thể hiện qua người tiêu dùng, các giới tài chính, tổ chức phương tiện thông tin đại chúng, quần chúng đông đảo.. Công ty luôn đưa chất lượng sản phẩm lên hàng đầu, thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng, tạo sự tin tưởng tuyệt đối của khách hàng đến công ty, điều đó càng khảng định hơn nhiều năm qua hệ thống ngân hàng, các công ty tài chính như Ngân hàng Agribank, Incombank, Vietcombank,... luôn tạo nguồn vốn cho công ty, để công ty triển khai các công trình tầm cỡ lớn. Tuy nhiên số vốn đầu tư vẫn còn hạn chế vì thế công ty rất muốn được quan tâm hơn nữa về mặt tài chính. Hệ thống báo chí, đài phát thanh như Báo Lao động, Báo Tiền Phong, Tạp chí Nhà,... cũng tin tưởng về công ty thể hiện ở các bài viết về công ty cụ thể: báo xây dựng, báo người tiêu dùng... Sự phát triển vững chắc của công ty, chất lượng sản phẩm luôn đảm bảo được đông đảo người tiêu dùng, các tổ chức đánh giá rất công, vì vậy khách hàng của công ty trở nên đông đảo hơn. Với sự hăng say, nhiệt tình làm việc của các nhân viên công ty đã tạo dựng nên một công ty vững chắc, nhưng bên cạnh đó công ty vẫn còn hạn chế nhất định về hoạt động của công ty, công ty nên hoạt động thêm vào các vùng miền trong. Như thế thì khách hàng mục tiêu của công ty sẽ tăng lên đáng kể, họ sẽ tiêu thụ lớn sản phẩm của công ty. 2.2.2. Môi trường marketing vĩ mô. Ngày nay chúng ta đang sống trong thế kỷ 21, thế kỷ của khoa học kỷ thuật phát triển, thế kỷ của những công trình xây dựng, trình độ văn hoá trong dân cư được tăng lên, nhiều ngành nghề mới ra đời và càng ngày trở lên phổ biến đặc biệt là những công trình không thể thiếu được trong sự phát triển đó, nhu cầu của con người là rất cần thiết trong thực tại và tương lai. Vì vậy điều đó đòi hỏi các nhà hoạt động thị trường phải đưa ra và áp dụng các chính sách Marketing phù hợp hơn. Khái niệm về một thị trường chung, mơ hồ giờ đây đòi hỏi phải được cụ thể hoá thành các đoạn thị trường cụ thể để sử dụng các giải pháp Marketing phân biệt theo nhiều tiêu thức về nhân khẩu học mà các khuynh hướng thay đổi của nó đang nhanh chóng trở nên hiện thực. 2.2.2.1. Môi trường nhân khẩu học. Môi trường nhân khẩu học là môi trường ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường khách hàng của công ty. Vì thế công ty chú trọng vào hai vấn đề thay đổi chính của môi trường nhân khẩu học: Thứ nhất, sự thay đổi về cơ cấu, quy mô hộ gia đình. Dân số nước ta đang tăng một cách rất nhanh chóng vì thế yêu cầu về vấn đề nhà ở luôn đặt lên hàng đầu vì thế công ty đẩy cao vấn đề phát triển sản phẩm để phù hợp với sự phát triển của dân số nước ta hiện nay, sự thay đổi cơ cấu về dân số cũng làm thay đổi cơ cấu về marketing của công ty. Vì vậy công ty luôn luôn tìm hiểu nhu cầu mong muốn của khách hàng để thoả mãn nhu cầu đó một cách triệu để như thế sản phẩm của công ty được đã được tiêu thụ nhanh chóng. Thứ hai, Đó là một vấn đề liên quan đến sự biến đổi thị trường và do đó đến hoạt động marketing, đó là quá trình đô thị hoá và phân bố lại dân cư. Hiện nay dân cư tăng nhanh ở các thành phố lớn vì thế rất nhiều trung cư được xây dựng lên nhằm đáp ứng nhu cầu của các hộ gia đình, đó là vấn đề then chốt mà công ty nhìn thấy, để đưa ra những sản phẩm hợp lý đáp ứng cho khách hàng. Với sự phát triển mạnh về kinh tế như hiện nay có rất nhiều các xí nghiệp, các khu liên hiệp, các công ty... được nhanh chóng xây dựng vì vậy sản phẩm công ty phải đáp ứng nhu cầu của các tổ chức này, công ty luôn đưa chật lượng sản phẩm lên hàng đầu, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sản phẩm của công ty được tiêu thụ một cách đáng kể, thể hiện qua các công trình, bản vẻ được các tổ chức chấp nhận. 2.2.2.2. Môi trường kinh tế. Nước ta là nước đang phát triển sự phân hoá giàu nghèo phân biệt. Một số cụm dân cư giàu thường tập trung ở các thành phố, còn lại ở các vùng nông thôn vì thế nhu cầu về sản phẩm dịch vụ hoàn toàn khác nhau. Sự phân hoá thu nhập sẽ chỉ cho các nhà hoạt động marketing của công ty những đoạn thị trường khác nhau rất rõ rệt bởi mức độ chi tiêu và phân bổ chi tiêu là khác nhau. Nắm được điều đó công ty luôn tạo ra các sản phẩm phù hợp với người tiêu dùng, đảm bảo cho mọi tầng lớp. Phần lớn những dân cư có thu nhập cao ở các thành phố lớn họ luôn luôn mông muốn có những sản phẩm tốt, hợp thời trang và nội thất sang trọng, muốn ngôi nhà của mình phải thật mode để thể hiện cá tính của họ, công ty luôn hiểu điều đó vì thế đã thiết kế bao công trình tầm cỡ, phù hợp sở thích và thu nhập của khách hàng. Còn một số có thu nhập thấp hơn thậm chí là thấp thì họ không có khả năng chi trả cao vì thế họ sống đơn giản hơn nhưng chất lượng sản phẩm thì họ cũng đặt lên hàng đầu, khi đó công ty cũng đáp ứng được điều mong muốn của họ. Sự phát triển ở nước ta ngày càng tăng nhanh chóng, thu nhập được cải thiện rất nhiều vì thế sản phẩm của công ty luôn thể hiện mong muốn của khách hàng một cách tối đa. Như vậy thu nhập có vai trò quan trọng đến các quyết định marketing, đến việc tiêu thụ sản phẩm vì vậy các nhà quản trị phải nắm bắt được thị trường và phân đoạn thị trường để có thị trường mục tiêu cụ thể, thì lúc đó quá trình phân phối trở nên đơn giản hơn. 2.2.2.3. Môi trường chính trị Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường vì thế kinh doanh một cách đại trà rất phổ biến, thị trường mở cửa làm các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư mạnh, các tập đoàn lớn tập trung ở Việt nam vì thế vài trò luật pháp của nước ta phải quản lý các doanh nghiệp một cách chặt chẽ, các công ty chịu sự quản lý rất chặt chẽ của nhà nước. Kinh doanh trong ngành xây dựng cũng vậy, cũng chịu sự quản lý của luật pháp thông qua các Hiến pháp, Luật doanh nghiệp, Luật dân sự, đặc biệt là luật áp dụng bảo vệ cho người tiêu dùng. Trong ngành xây dựng nói riêng thì luật pháp lại rất chặt chẽ vì vấn đề xây dựng liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân, đến an toàn tính mạng của dân vì thế các công ty xây dựng phải nắm được các Luật áp dụng cho ngành xây dựng. Công ty đã nắm bắt các văn bản Luật thuộc ngành xây dựng để biết được mình sản xuất sản phẩm gì? Có bị kiểm soát hay không? Sản phẩm của công ty luôn đảm bảo được chất lượng cho người tiêu dùng, luôn đảm bảo đời sống cho người tiêu dùng, luôn đạt đúng mục tiêu chất lượng nhà nước đặt ra... Công ty đã làm tốt các sản phẩm của mình vì thế chất lượng sản phẩm của công ty luôn đạt được tiêu chuẩn của nhà nước. 2.2.2.4. Môi trường công nghệ kỹ thuật Chúng ta đang sống trong môi trường của khoa học công nghệ phát triển, thế giới của công nghệ thông tin, của những ứng dụng khoa hoc kỹ thuật cao, sự thay đổi liên tục của khoa học kỹ thuật cũng ảnh hưởng ít nhiều đến quá trình phát triển và thiết kế sản phẩm của công ty sao cho phù hợp với thời đại hay nói đúng hơn là khoa học kỹ thuật. Chi phí cho sản phẩm khi đó sẽ tăng lên dẫn đến sản phẩm của đầu ra cũng phải tăng khi đó các marketing của công ty phải thực hiện chiến lược của mình, trong quá trình thiết kế sản phẩm của mình công ty luôn tạo ra các sản phẩm mới nhất, hợp thời đại nhất,... để khách hàng thoả mãn nhu cầu của mình. Lúc đó công ty phải nắm được sự phát triển của toàn xã hội để thay đổi kiểu dáng, kiến trúc của các công trình, mọi thứ trong công trình đều phải hiện đại hoá hơn. Ví dụ: những năm 90 của thế kỷ 21 thì đa số các công trình đều còn đơn giản hạn chế rất nhiều, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì các công trình cao hơn, hiện đại hơn... để thoả mãn mong muốn của khách hàng. Như vậy sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã đưa công ty phải phát triển sản phẩm liên tục để phù hợp với sự thay đổi và phát triển đó. 2.2.2.5. Môi trường văn hoá Kinh doanh trong bất kỳ một ngành nghề nào cũng vậy, yếu tố văn hoá ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề sản phẩm, người tiều dùng sản phẩm lựa chọn sản phẩm của các doanh nghiệp thì họ luôn luôn xem xét là sản phẩm đó có phù hợp với văn hoá, phong tục tập quán nước mình, khu vực mình sinh sống hay không. Trong xây dụng cũng vậy tất cả các vật liệu hay các ngôi nhà hay công trình được xây lên đều phải hợp văn hoá với một quốc gia, hợp với bản sắc của một dân tộc. Công ty luôn tạo ra các sản phẩm phù hợp với bản sắc, tính văn hoá của dân tộc. Chúng ta là người phương đông phong tục sống khác hẳn với người phương Tây, cuộc sống của chúng ta cần sự kín đáo, tôn tư trật tự... vì thế công ty luôn tìm hiểu thói quen, tập tục của từng khu vực để tạo ra những sản phẩm hợp với phong tục của khách hàng yêu cầu. Với sự phát triển kinh tế thị trường hội nhập như hiện nay thì giao lưu văn hoá càng được mở rộng qua đây chung ta có thể trao đổi văn hoá cho nhau, trao đổi những kinh nghiệm, những kiến thức... để cùng nhau phát triển. Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc cũng luôn hợp tác với các công ty xây dựng nước ngoài, đặc biệt một số sản phẩm nhập từ nước ngoài, với sự tư vấn của các công ty đó, công ty cũng tiến bộ trong lĩch vực này cũng phần nào hiểu được phần nào về cái gọi là văn hoá, bản sắc dân tộc của khách hàng qua đó tạo ra những sản phẩm đáp ứng được mong muốn của khách hàng. 2.2.2.6. Môi trường tự nhiên Sự phát triển kinh tế toàn cầu ảnh hưởng lớn đến ngưồn lực tự nhiên, sự thay đổi liên tục các sản phẩm làm cho nguyên vật liệu khan hiếm, và sự đa dạng hoá sản phẩm, thay đổi sản phẩm của các công ty làm nghiêm trọng đến vấn đề nguồn lực đầu vào, làm cạn kiệt nguyên vật liệu... vì thế tương lai không xa chúng ta sẽ không còn sản phẩm được tạo ra nữa với đà như hiện nay. Vì vậy không chỉ riêng công ty và tất cả các công ty đều mông muốn tạo ra sản phẩm tốt có thời gian sử dụng lâu năm, hợp với thời đại để hạn chế nguồn nguyên vật liệu đang khan hiếm. Do đó về mọi mặt thì công ty luôn đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu tạo điều kiện để phát triển sản phẩm cho giai đoạn sau này. 2..3. Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Công ty kiến trúc miền bắc là một công ty cổ phần với các ngành nghề cụ thể là: - Tư vấn xây dựng và đầu tư xây dựng. - Tư vấn nghệ thuật điêu khắc, tranh, tượng, tượng đài. - Thiết kế: qui hoạch tổng mặt bằng, kiến trúc, nội ngoại thất, kết cấu, cung ứng hệ thống điện, cấp thoát nước, nước cứu hoả đối với công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp - Thẩm định thiết kế thi công các công trình dân dụng và công nghiệp. - Giám sát thi công và thi công các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi. - Khảo sát địa chất công trình, khảo sát đo vẽ tổng mặt bằng. - Trang trí nội ngoại thất. - Buôn bán vật liệu xây dựng, các thiết bị điện, thiết bị nước và các thiết bị khác phục vụ trong các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp. - Cung ứng lắp đặt hệ thống đà giáo, hệ thống thang máy, thang nâng, hệ thống thông gió, cấp nhiệt, điều hoà không khí cho các công trình xây dựng dân dụng và công nghiệp - Vật liệu thô: bê tông, sắt thép, xi măng, phụ gia, cát đá, gạch ngói - Thiết bị: hệ thống thông tin liên lac, hệ thống an ninh, thiết bị chiếu sáng - Vật liệu hoàn thiện: cửa, vật liệu ốp lát, đồ gỗ - Dịch vụ thương mại: máy và thiết bị xây dựng, khảo sát địa hình địa chất Sản phẩm trực tiếp của công ty đó là những ý tưởng, những bản thiết kế, những điều tư vấn, còn nguyên vật liệu thì công ty không trực tiếp sản xuất ra mà công ty chỉ là trung gian cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng của các công ty có tiếng trong nước và nước ngoài. vì vậy tất cả các sản phẩm mà công ty cung cấp cho người tiêu dùng là những sản phẩm được lựa chọn rất tốt về chất lượng. 2.4. Hoạt động Marketing Hoạt động marketing của công ty được thực hiện cụ thể thông qua: Phân đoạn thị trường: Thực tế, công ty hiện nay chưa thực hiện việc phân đoạn thị trường. Công ty thực hiện kinh doanh một cách thụ động, Chỉ cần khách hàng đến đặt hàng là công ty sẽ thực hiện mà không ít khi xem xét các yếu tố như giá trị hợp đồng, khả năng thực hiện,... Lựa chọn thị trường mục tiêu: Khi đã không thực hiện phân đoạn thị trường thì cũng có nghĩa là chưa thực hiện việc lựa chọn thị trường mục tiêu. Hiện tại công ty chưa chú trọng đến vấn đề này. Đây cũng là điều dễ hiểu khi công ty chưa thực sự chú trọng đến các vấn đề về Marketing, không hiểu được Marketing có vai trò rất quan trọng trong quá trình tiêu thụ sản phẩm cũng như tạo ra sự khác biệt giữa sản phẩm này, thương hiệu này với sản phẩm, thương hiệu của đối thủ cạnh tranh. Định vị thị trường: Trong thời kì cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các sản phẩm luôn đại diện cho một mong muốn, một phong cách thì vấn đề định vị là điều hết sức quan trọng. Bất kể công ty đó là công ty sản xuất sản phẩm hay dịch vụ. Thực tế tại Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc lại không cho thấy điều đó. Phân đoạn, lựa chọn hay định vị thị trường nằm trong cùng một chiến lược, một kế hoạch vì thế khi hai quá trình đầu đã không được thực hiện thì cũng có nghĩa vấn đề định vị thị trường là không có. Tức là, dịch vụ mà công ty cung cấp không đại diện hay đại diện quá nhiều điều mà không có điều thực sự rõ nét. Đó là điểm yếu của Công ty. 2.4.1. Sản phẩm Xem xét các lĩnh vực kinh doanh của Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc có thể thấy công ty thực hiện quá nhiều. Thực tế thị trường cho thấy, công ty nào thực hiện quá nhiều loại hình kinh doanh sẽ rất khó chiếm được thị phần lớn trong một đoạn thị trường nhất định. Tuy vậy, đây là một điểm yếu mà có rất nhiều công ty của Việt nam gặp phải. Đó chính là sự thiếu tập trung trong một đoạn thị trường nhất định. Chúng ta có thể thấy, số lượng nhân viên của công ty không lớn nhưng số lĩnh vực mà công ty kinh doanh lại rất nhiều (13 lĩnh vực). Đối với những công ty lớn như Vinaconex, Delta hay Công ty xây dựng Hà Nội thì việc thực hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh như vậy là chuyện bình thường vì những loại hình này có thể cùng nằm trong một công trình, vì vậy họ có thể thực hiện trọn gói cả công trình. Còn đối với Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc thì điều này là không nên. Theo tác giả nổi tiếng Al Ries thì “quy mô tỉ lệ nghịch với sức mạnh”, tức là công ty nào thực hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh thì công ty đó sẽ càng trở nên yếu hơn. Đó là một thực tế. 2.4.2. Giá cả Vì công ty là trung gian về sản phẩm dịch vụ nên hầu hết các sản phẩm của công ty đều là giá của thị trường, sự chênh lệch về giá của công ty là phần hoa hồng của trung gian mang đến người tiêu dùng, còn một số sản phẩm về ý tưởng thì giá cả đều do công ty định giá nhưng đều phù hợp với mọi khách hàng. Vì thế khách hàng rất ưa thích về sản phẩm. Thường thì khi khách hàng chấp nhận ý tưởng thì họ luôn đồng ý với sản phẩm dịch vụ đi kèm vì thế công ty thường làm toàn bộ tất cả nhu cầu của khách hàng. Nhưng công ty luôn thực hiện một chiến lược giá cụ thể, một khi các nhân tố ảnh hưởng đến giá thay đổi thì cũng làm cho giá công ty thay đổi: chi phí sản xuất, thị trường cung cầu, đối thủ cạnh tranh... các nhân tố nay thường thường ổn định, nhưng đôi khi thay đổi thì công ty luôn đưa ra một chiến lược giá phù hợp với người tiêu dùng. 2.4.3. Phân phối Thực tế cho thấy, Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc thực hiện kênh phân phối trực tiếp tới khách hàng. Ít thực hiện qua trung gian. Nguyên nhân của tình trạng này chính là quy mô của công ty còn nhỏ, số lượng khách hàng còn ít lại nằm trong một khu vực dân cư nên việc lập ra nhiều kênh phần phối là không cần thiết. Trong tương lai, có thể công ty sẽ lập thêm nhiều kênh phân phối nữa nhưng điều này có lẽ sẽ chỉ được thực hiện trong tương lai xa khi mà công ty thực sự muốn xây dựng và phát triển thành một công ty có tiếng tăm. Doanh nghiệp phải tổ chức và quản lý được hệ thống kênh phân phối để đưa sản phẩm tới người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường. Công ty là trung gian về sản phẩm nên phần lớn sản phẩm của công ty được lấy từ những công ty hay doanh nghiệp có chất lượng trên thị trường, công ty cũng trực tiếp cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm chính của công ty như các thiết kế, sản phẩm công trình... và trực tiếp đến lắp đặt các sản phẩm nội thất, các sản phẩm bảo vệ an ninh hay bảo mật cho các công trình lớn mang tính chất quốc gia... Nhưng công ty đôi khi cũng đưa các bản thiết kế qua các triển lãm, qua các công ty trung gian để đưa đến người tiêu dùng có thể lựa chọn sản phẩm đúng theo yêu cầu của mình. 2.4.4. Xúc tiến hỗn hợp Đây là hết sức quan trọng của Marketing-mix. Lúc này sản phẩm, giá cả, phân phối đã được công ty thực hiện tốt thì khâu này chỉ làm tăng khả năng bán hàng của công ty, thông qua các chương trình: quảng cáo, xúc tiến bán, khuyến mãi, bán hàng trực tiếp... tất cả những việc làm này chỉ đẩy mạnh quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty. Việc này thì công ty cũng đã thực hiện một số công cụ để đẩy nhanh tiến độ bán sản phẩm của mình. Thực tế cho thấy, hoạt động xúc tiến hỗn hợp của Công ty Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc là chưa được chú trọng nhiều và còn nhiều điểm hạn chế, có thể nêu ra ở đây một số điểm như sau - Ngân sách dành cho hoạt động xúc tiến hỗn hợp còn ít Có thể thấy điều này khi đánh giá ngân sách dành cho Quảng cáo của công ty. Hiện tại ngân sách dành cho quảng cáo là khoảng 15-20 triệu VND. Con số này là không nhiều khi biết rằng, chỉ cần quảng cáo đầy một trang báo đã hết số tiền kia rồi. Trong khi Quan hệ công chúng, hay Xúc tiến bán lại chưa được chú trọng nhiều. Đó là một điểm hạn chế mà công ty cần phải có biện pháp khắc phục. - Chưa có một chiến lược đồng bộ, kết hợp các công cụ của xúc tiến hỗn hợp lại thành một bộ phận thống nhất Trong khi các công ty khác luôn có một chiến lược truyền thông liên tục và quy mô thì hoạt động của Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc lại diễn ra rất chậm chạp và thiếu liên kết. Công ty chưa chú trọng đến hoạt động xúc tiến hỗn hợp. Thực tế cho thấy, công ty đã thực hiện một số chương trình quảng cáo trên Báo Lao động, Hay Tạp chí Nhà nhưng đó là những chương trình quảng cáo cho có. Nó được thực hiện một vài lần và sau đó kết thúc mà không để lại được ấn tượng gì cho đối tượng nhận tin mục tiêu. Trong lúc thực hiện chương trình quảng cáo trong một thời gian ngắn như vậy thì các công cụ khác của hoạt động xúc tiến lại “ngồi không”. Lẽ ra công ty phải thực hiện thêm một vài chương trình tài trợ trên báo với giá trị ít cũng được (tài trợ cho một chuyên mục nhỏ). Làm như vậy sẽ tăng cường được sự nhận biết thương hiệu và ít ra cũng tạo được một chỗ đứng trong tâm trí công chúng nhận tin mục tiêu. - Thiếu sự định hướng rõ ràng trong hoạt động xúc tiến hỗn hợp Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc tuy đã thực hiện được một số hoạt động xúc tiến hỗn hợp nhưng thực tế những hoạt động này đều không có sự định hướng nhất định, hay không có mục tiêu cụ thể nào. Rõ ràng đó là điều hết sức tai hại. Bất cứ một hoạt động nào mà không có mục tiêu rõ ràng sẽ không mang lại hiệu quả. Trong các mẫu quảng cáo của mình, tác giả nhận thấy không có mục tiêu cụ thể trong đó. Các mẫu quảng cáo trên báo này thường rườm rà, nhiều chi tiết mà lại không có sự khác biệt cao. 2.5. Hoạt động truyền thông 2.5.1. Vị thế hoạt động truyền thông marketing tại công ty Hoạt động Marketing của công ty có rất nhiều hạn chế, trong hệ thống các công cụ Marketing-mix thì hoạt động xúc tiến khuếch trương được công ty chú trọng thứ hai (sau chính sách chất lượng sản phẩm). Công ty rất chú trọng đến quảng cáo trên phương tiện báo chí (báo người tiêu dùng, cẩm nang mua sắm, kiến trúc...) đặc biệt là trên catalog. Và xúc tiến bán cùng với công cụ bán hàng trực tiếp và marketing trực tiếp công ty đã làm nhưng không thường xuyên. Hiện nay công ty chưa có phòng Marketing riêng biệt, các hoạt động liên quan đến xúc tiến khuếch trương đều do ban giám đốc quyết định hoặc thuê ngoài, bên cạnh đó ngân sách cho hoạt động Marketing-mix của doanh nghiệp còn hạn chế. Hoạt động truyền thông marketing có vai trò quan trọng trong chiến lược Marketing - Xây dựng ngân sách cho từng công cụ của hoạt động truyền thông marketing. Công ty Cổ phần Kiến trúc Miền Bắc đã và đang thực hiện hoạt động truyền thông Marketing, các hoạt động này đã được đánh giá rất cao và cũng tác dụng tốt. Chi phí cho hoạt động marketing của công ty được dự tính hàng năm từ 2% đến 5% (ước khoảng 35,500,000 vnđ) con số này là còn ít đối với một công ty xây dựng. Tuy nhiên để phân bổ cho từng hoạt động Marketing-mix chưa cụ thể, khi nào công ty thấy cần thực hiện hoạt động nào và sử dụng công cụ nào thì công ty sẽ làm và lấy trong tổng ngân sách đó và sau các chương trình công ty cũng không đánh giá được hiệu quả. Do đặc điểm của sản phẩm, khả năng tài chính mà ngân sách chủ yếu dành cho 3 công cụ chủ yếu là: Quảng cáo + Mục tiêu của quảng cáo của công ty cung cấp thông tin cho khách hàng về sản phẩm, nhắc nhở khách hàng mua một cách đúng đắn và tin tưởng vào sản phẩm của công ty, khắc hoạ trong tâm chí khách hàng về chất lượng sản phẩm của công ty. + Ngân sách quảng cáo: Hiện nay ngân sách công ty danh cho hoạt động quảng cáo báo chí khoảng 15.000.000 đến 20.000.000 vnđ. Thực tế, đây là một con số không lớn vì chỉ cần quảng cáo đầy một trang tạp chí đã quá số tiền này rồi. Có lẽ điều này bắt nguồn từ ngân sách chung dành cho Marketing của công ty. Thế nhưng, muốn khách hàng biết nhiều hơn về công ty mình, tin tưởng về những sản phẩm của công ty thì phải thực hiện nhiều hơn hoạt động truyền thông Marketing trong đó có Quảng cáo. + Thông điệp quảng cáo “Mang đến hạnh phúc cho ngôi nhà của bạn”. Đây là một thông điệp khá hay. Một công ty chuyên về thiết kế, tư vấn xây dựng lại mang hạnh phúc đến cho ngôi nhà thì quả là điều tuyệt vời. Đối với bất cứ một con người nào thì có được một ngôi nhà hạnh phúc là điều rất tuyệt vời. Càng tuyệt vời hơn khi điều đó được thể hiện thông qua phong cách hay kiểu dáng ngôi nhà. Điều này tạo ra một ấn tượng rất lớn đối với người nhận tin. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là cách truyền tải thông điệp đó tới khách hàng như thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao nhất. + Thực hiện quảng cáo trên các phương tiện: Công ty quảng cáo trên một só báo như: Báo người tiêu dùng, Cẩm nang mua sắm, Kiến trúc, tạp chí Nhà,... Khi mà ngân sách quảng cáo không có nhiều t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5295.doc
Tài liệu liên quan