Thực trạng và giải pháp huy động, sử dụng vốn phục vụ cho quá trình CNH-HĐH ở nước ta

Lời mở đầu Đi đôi với việc mang đến cho xã hội loài người những vấn đề, những thách đố những áp lực mới trong phát triển kinh tế, thế kỷ 21 còn mang đến động lực phát triển kinh tế những cục diện, những mô thức và không khí mới. Nền kinh tế toàn cầu đang phát triển xen cài với nền kinh tế khu vực hoá.Trước bối cảnh hiện nay, quốc gia nào cũng phải đưa ra cách thức cải biến nền kinh tế cho phù hợp và đạt được được mục tiêu tăng trưởng ổn định và bền vững. ở Việt Nam, từ đại hội Đảng lần thứ

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp huy động, sử dụng vốn phục vụ cho quá trình CNH-HĐH ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VII (năm 1991) công cuộc đổi mới đất nước thực sự bắt đầu. Sau 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng những chiến lược phát triển quốc gia, Việt Nam đã có thể sánh ngang với các nước trong khu vực. Để nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, tại đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) Việt Nam tiếp tục kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH,HĐH) và xác định rõ CNH,HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Thực hiện thành công quá trình CNH,HĐH chúng ta phải tiến hành một công cuộc đầu tư, mà muốn đầu tư thì phải có vốn không những vậy còn làm sao sử dụng, phân bổ hợp lý, hiệu quả, bởi thế vốn có vai trò tiên quyết để thực hiện CNH,HĐH. Hiện nay, khi có nhiều yếu tố tác động làm cho việc thu hút vốn đầu tư bị hạn chế thêm vào đó là trình độ quản lý vốn yếu, phương pháp phân bổ, sử dụng thiếu chính xác, khoa học còn gây ra thất thoát, lãng phí vốn. Đây là bài toán đang cần có lời giải. Vì vậy, sau một thời gian nghiên cứu tìm hiểu, dưới sự hướng dẫn của cô Phạm Thị Thêu tôi đã chọn đề tài : “Thực trạng và giải pháp huy động, sử dụng vốn phục vụ cho quá trình CNH,HĐH ở nước ta” để đưa ra một lời giải cho bài toán trên". Trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn Chương I : Lý luận chung I. Cơ sở lý luận về CNH,HĐH 1. Quan niệm -Trước đây CNH là quá trình trang bị kỹ thuật hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ khí hoá, biến một nước phát triển thành một nước có cơ cấu CNH,HĐH, khoa học kỹ thuật tiên tiến. -Theo quan niệm của liên hợp quốc : CNH là quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra tư liệu sản xuất (TLSX) hàng tiêu dùng, có khả năng bảo đảm nhịp độ tăng trưởng cao trong toàn bộ nền kinh tế và bảo đảm sự tiến bộ kinh tế xã hội. -Kết hợp với truyền thống quan niệm hiện đại vận dụng vào điều kiện cụ thể nước ta tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991) đã đưa ra quan niệm mới về CNH,HĐH : CNH,HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao độnh thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật – công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao. 2. Cơ sở lý luận và sự tất yếu phải tiến hành CNH,HĐH ở nước ta. 2.1. Cơ sở lý luận Nền kinh tế hình thành phát triển không phải tự nó, mà vì nhu cầu của con người và xã hội. Song nền kinh tế hình thành và phát triển còn phải tuan theo qui luật của bản thân nó, do các mối quan hệ hữu cơ tác động qua lại giữa các ngành sản xuất vật chất xã hội qui định như : sản phẩm nông nghiệp là nguyên liệu của các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng cơ khí là ngành sản xuất cung cấp máy móc thiết bị cho nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng. Đối với những nước đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp thì việc phát triển thứ tự ưu tiên các ngành “nông nghiệp – công nghiệp hàng tiêu dùng – công nghiệp nặng cơ khí” như một tất yếu khó có thể đảo ngược. Vậy mà ở nước ta tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960) chúng ta đã mở ra con đường phát triển bằng cách tiến hành CNH,HĐH theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.Thực ra chúng ta đã không vận dụng đúng vào hoàn cảnh nước ta mà lại áp dụng máy móc mô hình của Liên Xô. Qúa trình phát triển lịch sử loài người, qua các thời kỳ và nhiều hình thái kinh tế xã hội việc phát triển thứ tự ưu tiên các ngành sản xuất vật chất xã hội đều diễn ra có độ dài thời gian giữa các bước thể hiện khác nhau. Trải qua nhiều kỳ đại hội Đảng Việt Nam đã đúc rút được kinh nghiệm đón đường đi tắt, rút ngắn tiến trình phát triển để trở thành một nước CNH vào năm 2020, chúng ta tin tưởng đây là mục tiêu hoàn toàn có thể đạt được. 2.2. Sự tất yếu phải tiến hành CNH,HĐH ở nước ta. Như đã nói khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH đều phải tiến hành xây dựng cơ sở vật chất kinh tế cho CNXH, nhưng chúng ta đã biết có hai loại quá độ lên CNXH: quá độ tuần tự và quá độ tiến thẳng. Qúa độ tuần tự hay còn gọi là những nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH, mặc dù chưa có được cơ sở vật chất kỹ thuật của XHCN nhưng ít ra cũng đã có tiền đề vất chất là nền đại công nghiệp cơ khí do CNTB để lại. Vì vậy, để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH những nước này chỉ cần đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghiệp ứng dụng những thành tựu của nó vào sản xuất tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất, phân bổ phát triển sản xuất một cách đồng đều trong cả nước. Thực chất của quá trình này là những tiền đề vật chất do CNTB để lại thành cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH ở trình độ cao hơn. Những nước quá độ tiến thẳng lên CNXH bỏ qua CNTB như nước ta, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH được thực hiện bằng con đường CNH. Có thể hiểu một cách ngắn gọn CNH,HĐH là quá trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại. Như vậy, CNH và việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH có quan hệ mật thiết với nhau nhưng lại không phải là một, CNH là con đường để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH đối với những nước kém phát triển như nước ta. Nhưng CNH chỉ mang tính giai đoạn, khi mà nền công nghiệp hiện đại chưa được xác lập, còn việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH vẫn được tiếp tục mãi mãi. Do xuất phát điểm của nước ta thấp, trải qua thời kỳ chiến tranh lâu dài cơ sở vật chất hạ tầng bị phá hoại. Sau khi chiến tranh kết thúc, do một vài nhận thức ấu trĩ chúng ta đã tự phá bỏ những cơ sở vật chất do thực dân Pháp để lại, đế quốc Mỹ xây dựng. Như vậy, chúng ta bắt buộc phải gây dựng lại từ đầu. Trước đây chúng ta xây dựng kinh tế theo kiểu tự cung, tự cấp làm theo chỉ tiêu, do đó năng suất lao động thấp, không thúc đẩy nền sản xuất phát triển. Tiếp đó, chúng ta xây dựng kinh tế CNXH theo mô hình mà Liên Xô, áp dụng nó không phù hợp với hoàn cảnh hiện trạng của nước ta bởi thế mô hình CNH có khuyết tật, làm cho nền kinh tế bị ảnh hưởng sâu sắc. Bên cạnh đó, chúng ta thấy được vai trò to lớn của CNH,HĐH đã tạo ra điều kiện vật chất cho việc tăng cường, củng cố an ninh, quốc phòng và xây dựng nền kinh tế độc lập chủ. Củng cố vai trò kinh tế nhà nước nâng cao năng lực tích luỹ, giải quyết công ăn việc làm, khuyến khích sự phát triể tự do, toàn diện của mỗi cá nhân. Nó tác động mạnh mẽ tới phân công lao động và hợp tác quốc tế. CNH,HĐH có tầm quan trọng, tác dụng đến nền kinh tế quốc dân. Nên tại các đại hội Đảng luôn xác định CNH,HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ ở nước ta. Tại đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001) xác định mục tiêu tới năm 2002 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với các nước trong khu vực và các nước trên thế giới thì sự nghiệp CNH,HĐH là tất yếu phải được diễn ra ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. 3. Đặc điểm của CNH-HĐH -Từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nhgiã xã hội, kể từ khi bước vào thời kỳ quá độ đến nay, cái thiếu của chúng ta là thiếu một lực lượng sản xuất phát triển, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, có hiệu quả, vì vậy nếu không quan tâm trước hết đến phát triển lực lượng sản xuất thì không thể nói đến quá độ lên CNXH, mà muốn phát triển lực lượng sản xuất thì tất yếu phải đi vào CNH,HĐH. - Chúng ta tiến hành sự nghiệp CNH trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại, dựa vào nguồn lực trong nước là chính tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất. Lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phát triển và đầu tư công nghệ. - CNH phải gắn liền với hiện đại hoá, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ trong những thập kỷ gần đây, khái niệm về hiện đại hoá luôn được bổ sung với những nội dung mới bao quát nhiều mặt từ sản xuất kinh doanh đến dịch vụ, quản lý …Những phát minh khoa học và công nghệ được coi là tiến bộ cách đây vài thập kỷ thì nay đã trở nên bình thường, thậm chí lạc hậu, cần được thay thế. Trong vài ba thập kỷ tới, tương ứng với thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH ở nước ta, sự phát triển của khoa học công nghệ sẽ còn mạnh mẽ hơn và do đó, yêu cầu hiện đại háo càng bức bách hơn. - CNH,HĐH của chúng ta được tiến hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Kế hoạch hoá chủ yếu mang tính định hướng, thị trường phản ánh nhu cầu xã hội có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ nguồn lực cho sản xuất, hình thành cơ cấu kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chủ yếu. Điều này hoàn toàn khác với trước đây CNHđược tiến hành theo cơ chế tập trung và bao cấp, kế hoạch tập trung với các chỉ tiêu pháp lệnh, hoạt động sản xuất kinh doanh bất chấp hiệu quả kinh tế xã hội và thực chất thời kỳ CNH trước đâychúng ta chi phí nhiều nhưng hiệu quả thu được chưa cao, chưa góp phần một cách tích cực vào việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cũng như rất hạn chế trong việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. - CNH trước đây được hiểu là công việc của nhà nước thông qua khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu. Ngày nay sự nghiệp CNH,HĐH được xác định là sự nghiệp của toàn dân, với sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo. - CNH trước đây hoàn toàn được tiến hành trong hoàn cảnh còn có sự giúp đỡ của hệ thống các nước XHCN. Ngày nay chúng ta tiến hành sự nghiệp CNH,HĐH trong bối cảnh quốc tế và kh vực có nhiều thay đổi, Đảng ta đã đề ra quan điểm xây dựng nền kinh tế mở, đa dạng hoá, đa phướng hoá các quan hệ trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, thúc đẩy các quan hệ hợp tác, liên doanh nhằm thu hút công nghệ mới, kinh doanh nhằm thu hút vốn công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Quan niệm của chúng ta về CNHcũng được điều chỉnh phù hợp với xu thế quốc tế hoá và hội nhập về kinh tế. Vấn đề cơ bản của CNH hiện nay không phải tự mình sáng tạo ra những công nghệ mới mà mình muốn, mà chỉ cần nắm bắt được những công nghệ đã phát minh ra trên thế giới phù hợp với hoàn cảnh đất nước, có khi tuy không là công nghệ tiên tiến nhất nhưng đem lại hiệu quả kinh tế cao và có điều kiện chuyển giao.Phù hợp với sự phát triển của thời đại quan điểm đổi mới về CNH của Đảng ta là gắn liền với hiện đại hoá, với việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại. Đặc trưng này sẽ mở ra cho chúng ta nhiều con đường đi tắt, cho phép thực hiện trong thời gian lịch sử rất ngắn so với quá trình CNH cổ điển lâu dài trước kia. II. Nội dung của vốn đầu tư 1. Khái niệm về vốn, nguồn vốn đầu tư 1.1. Khái niệm Vốn đầu tư là nguồn lực tích luỹ được của xã hội các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, tiết kiệm của dân và huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới dạng tiền tệ các loại hàng hoá hữu hình, vô hình, hàng hoá đặc biệt khác nhau. Khái niệm nguồn vốn đầu tư bao gồm cả khái niệm vốn đầu tư. 1.2. Phân loại Có hai nguồn vốn cơ bản là: vốn đầu tư của đất nước và vốn đầu tư từ các cơ sở. * Vốn đầu tư của đất nước bao gồm vốn huy động trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. - Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn vốn sau đây: + Vốn tiết kiệm từ ngân sách nhà nước: là toàn bộ các khoản thu được từ thuế(gồm cả thuế trực thu và gián thu), thu từ các loại phí như: phí cầu phà, đường…, các khoản thu khác: thuế đất đai, viện trợ không hoàn lại… + Vốn tích luỹ từ các doanh nghiệp nhà nước: được hình thành từ các nguồn vốn sở hữu và tiết kiệm của doanh nghiệp nhà nước, vốn đi vay, phát hành cổ phiếu mới, vốn tài trợ của chính phủ. + Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (nguồn cho vay của chính phủ): đây là hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách nhà nước sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi trực tiếp. Nguônd này làm giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển. + Vốn tiết kiệm của của dân cư: gồm các khoản tiết của dân cư, tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh và hợp tác xã, nguồn này được đầu tư trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh, thương mại dịch vụ, đầu tư gián tiếp vào nền kinh tế thông qua thị trường vốn. - Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. + Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. + Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, phi chính phủ các tổ chức quốc tế, được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp của các tổ chức tài chính quốc tế, vốn vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại nước ngoài, vốn do phát hành cổ phiếu trái phiểua nước ngoài, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA). * Nguồn vốn đầu tư của các cơ sở. - Đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở hoạt động xã hội phúc lợi công cộng vốn đầu tư do ngân sách cấp (tích luỹ từ ngân sách và viện trợ qua ngân sách) vốn viện trợ không hoàn lại trực tiếp cho cơ sở và vốn tự có của cơ sở (bản chất cũng tích luỹ từ phần tiền thừa do dân đóng góp không dùng đến). - Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, vốn đầu tư được hình thành từ nhiều nguồn hơn bao gồm vốn ngân sách (lấy từ phần tích luỹ của ngân sách) vốn khấu hao cơ bản, vốn viện trợ qua ngân sách, vốn tự có của doanh nghiệp, vốn vay, phát hành trái phiếu, vốn góp liên kết với các cá nhân và tổ chức rong và ngoài nước và các hình thức huy động vốn khác qui định theo luật doanh nghiệp. - Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nguồn vốn đầu tư bao gồm vốn tự có, vốn vay, vốn cổ phần, vốn liên doanh liên kết với các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước. Đối với các công ty cổ phần, vốn đầu tư nước ngoài các nguồn vốn trên đây còn bao gồm tiền thu được do phát hành trái phiếu (nếu có đủ điều kiện theo qui định của luật doanh nghiệp). 2. Vai trò của vốn đầu tư đối với CNH,HĐH đất nước. Vốn được hiểu theo nghĩa hẹp là tiềm lực về tài chính của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc qia. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, vốn bao gồm nguồn lực, nguồn tài chính, chất xám, tiền bạc và cả quan hệ đã tích luỹ của một cá nhân, một doanh nghiệp tạo ra các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy bất cứ một quá trình sản xuất nào, dù bất cứ ở cấp độ nào, gia đình, doanh nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã được khai thác, của cải của các thế hệ trước, sở hữu về trí tuệ, bản quyền phát minh…Bài học kinh nghiệm rút ra từ những quốc gia phát triển nhanh trên thế giới đã khẳng định tích tụ và tập trung vốn là điều kiện tiên quyết cho quá trình CNH,HĐH. Phát triển kinh tế và tập trung vốn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự tăng trưởng kinh tế vừa là nguyên nhân, lại vừa là kết quả của tích tụ và tập trung vốn, Mặt khác, mức tiết kiệm cao của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp chỉ có thể đạt được trên cơ sở cải cách mạng mẽ trong quản lý điều hành kinh tế, cải cáchkinh tế xã hội, tăng mạnh tỷ lệ tích luỹ trên cơ sở thu nhập tăng nhanh. Nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế chỉ có thể được tạo ra bằng tiết kiệm trong nước và vốn từ nước ngoài. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế đã chỉ ra rằng, các nguồn vốn từ nước ngoài là rất quan trọng, nhất là ở giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng, đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển, với nguồn vốn tích luỹ trong nước còn thấp, bắt buộc phải tranh thủ các nguồn vốn nước ngoài. Nó được coi là “cái kích” đột phá vào cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, tạo điều kiện cho nền kinh tế cất cánh. Vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Vốn đầu tư gián tiếp thường có qui mô lớn lên tác động nhanh và mạnh đối với việc giải quyết các nhu cầu phát triển của nhà nước. Vốn đầu tư trực tiếp thương có qui mô nhỏ hơn nhưng nó mang theo toàn bộ năng lực kinh doanh nên có thể thúc đẩy các ngành nghề mới và kinh nghiệm quản lý, kinh doanh phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế thị trường. Mặc dù, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng song nguồn vốn trong nước vẫn đóng vai trò quyết định, bởi lẽ nguồn vốn nước ngoài dù có lớn đến đâu đi nữa nếu không có các nguồn vốn đầu tư do sự tích luỹ nội tại nền kinh tế thì nguồn vốn từ nước ngoài cũng không thể sử dụng hiệu quả. Sử dụng vốn trong nước vừa đảm bảo tăng trưởng bền vững, ổn định, lại vừa tránh được sự phụ thuộc vào nước ngoài được coi là tăng trưởng “dựa vào sức mình”. III. Kinh nghiệm của một số nước. 1. Kinh nghiệm huy động vốn. Việc huy động vốn của một số nước châu á đạt được những thành quả đáng kể, nhất là việc huy động vốn phục vụ cho thời kỳ CNH,HĐH. Trường hợp của các nước công nghiệp mới, các nước này có chiến lược phát triển cho CNH,HĐH đó là chiến lược hướng về xuất khẩu bởi thế vốn huy động chủ yếu để phục vụ ngành công nghiệp. Nên chính sách huy động vốn của các nước này là huy động vốn đầu tư mạnh từ các công ty xuyên quốc thành lập các doanh nghiệp liên doanh, đây là hình thức tốt nhất để họ thực hiện những hợp đồng chuyển giao công nghệ. Sau một thời gian thu hút đầu tư chuyển giao công nghệ trình độ công nghệ của các nước công nghiệp tiến bộ vượt bậc có thể so sánh với trình độ công nghệ của các nước châu âu. Chính sách huy động vốn của các nước công nghiệp luôn mở cửa đón các nguồn vốn từ các công ty xuyên quốc gia tạo ra môi trường đầu tư hết sức thông thoáng và tạo ra ổn địnhvề các chính sách về thuế và ưu đãi. Còn ở Trung Quốc chính sách th hút vốn của họ hết sức độc đáo: trong giai đoạn đầu tiến hành CNH,HĐH môi trường đầu tư của Trung Quốc chưa tạo ra lòng tin cho các nhà đầu tư nên muốn huy động được vốn họ buộc phải đi vay trên thị trường quốc tế và biện pháp thương lượng trong khi đi vay vốn luôn tạo ra lợi thế cho Trung Quốc. Họ luôn tự đa dạng hoá các hình thức đi vay nên dòng vốn luôn luôn lưu chuyển không xảy ra khê đọng vốn. Khi tạo được lòng tin trên thương trường họ mở rộng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo ra môi trường thuận lợi để các nhà đầu tư đầu tư thực hiện đầu tư vào các đặc khu kinh tế. 2. Kinh nghiệm phân bổ và sử dụng vốn đầu tư phục vụ CNH,HĐH Phân bổ và sử dụng vốn tiết kiệm là một phương thức để kêu gọi tiếp các nhà đầu tư, tạo ra hiệu quả cho các dự án đang hoạt động là động lực lôi kéo các nhà đầu tư mới. Các nước Singapo và Thái Lan là một điển hình, các nước này khi thực hiện phân bổ vốn đầu tư cho các vùng các ngành họ đều xem xét rất kỹ lưỡng tác dụng của nguồn vốn, liệu nguồn vốn phân bổ đó có gây ra tác động dây chuyền cùng thúc đẩy các ngành khác các vùng khác cùng phát triển. Khi đưa vào sử dụng một nguồn vốn nào họ luôn kiểm tra theo dõi tránh thất thoát lãng phí, khi đã phát hiện ra những gian lận trong sử dụng vốn là có biện pháp sử phạt nghiêm khắc: các vụ thâm hụt tài chính của các dự án đều được phanh phui trước pháp luật và cách chức nếu lỗi gây ra là quan chức cán bộ cấp cao, bắt bồi thường gấp nhiều lần mức tham ô đã công bố... Chương II: Thực trạng và một số giải pháp nhằm huy động và sử dụng vốn cho quá trình CNH,HĐH ở nước ta. Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước, vấn đề huy động vốn đầu tư đã có những thành công nhất định, góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới kinh tế, mang lại chuyển biến tích cực cho nền kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao năm 1996 là 9,34%, năm 1998 là 5,76% năm 2000 là 67,5%. Đây là một con số đáng kích lệ. Từ những thành công đó nền kinh tế không những đủ bù đắp quỹ tiêu dùng mà còn phần dành ra hình thành quỹ tích luỹ để tái sản xuất mở rộng. Quỹ tiêu dùng cuối cùng so với tổng sản phẩm trong nước (GĐP) năm1996 là 80,94%, năm 1998 là 77,79% và năm 2000 đạt 78,82%. Đó là những thành công của Việt Nam đẫ đạt được, có được thành công này không thể nói tới vai trò của việc huy động vốn đầu tư trong thời gian qua.Vậy quá trình huy động vốn diễn ra như thế nào chúng ta cùng đi sâu tìm hiểu huy động vốn đầu tư của nước ta. I. Thực trạng huy động vốn phục vụ CNH,HĐH 1. Huy động vốn trong nước. Đây là nguồn vốn có vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Vì vậy việc huy động vốn là điều quan trọng cần thiết, không thể thiếu trong CNH,HĐH đất nước. Được thực hiện chủ yếu thông qua hai kênh của chính phủ viết tiết kiệm của khu vực tư nhân. 1.1. Tiết kiệm của chính phủ Tỷ lệ động viên GDP vào ngân sách nhà nước tăng trung bình 13,1%GDP trong thời kỳ 1986-1990 tăng lên 20,5% GDP thời kỳ 1991-1995 và hiện nay là khoảng 22% GDP (ước tính giá trị GDP nước ta khoảng 26 tỷ $).Thu ngân sách nhà nước có sự chuyển biến tích cực, nguồn thu trong nước tăng nhanh và chiếm phần chính trong tổng thu ngân sách nhà nước. Cụ thể năm 1991 thu trong nước chiếm 76,7% thu ngân sách nhà nước đến năm 1998 chiếm 97,2%. Như vậy, năm 1991 thu ngân sách nhà nước bằng 13,5% GDP thì năm 1998 bằng 20% GDP và năm 2000 bằng 22,5%GDP, trong năm việc chi ngân sách giảm xuống còn 22,5% GDP. Do đó việc điều hành ngân sách của nhà nước ta chủ động hơn không những đủ đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên, mà còn để dành một tỷ lệ đáng kể cho chi đầu tư phát triển tăng lên từ mức 6,1% GDP năm 1996 lên mức 8,7% năm 2000(nếu kể cả khấu hao cơ bản là 5,1% GDP). Trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư xây dựng cơ bản còn bị hạn chế (do hiệu quả sử dụng đầu tư cho xây dựng cơ bản chưa cao) và tập trung đầu tư cho các công trình trọng điểm phục vụ CNH,HĐH đất nước, song đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ngày càng tăng. 1.2. Tiết kiệm của các doanh nghiệp nhà nước. Tiết kiệm của doanh nghiệp nhà nước biểu hiện ở phần lãi ròng để bổ sung vốn kinh doanh. Hiện nay, ở nước ta có khoảng hơn 35000 doanh nghiệp hoạt động, trong số đó có khoảng 5740 doanh nghiệp, xét về mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17% nhưng hàng năm đóng góp từ 40- 48% GDP. Các doanh nghiệp nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng, 90% lao động được đào tạo có hệ thống và được nhận hầu hết các ưu đãi của nhà nước so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Song hiệu quả kinh doanh đạt thấp, nên mức tiết kiệm của các doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế. Thể hiện: các chỉ số hiệu quả của khu vực doanh nghiệp có chiều hướng ngày càng suy giảm. Tỷ suất lợi nhuận/ vốn giảm từ 14,5% năm 1996 xuống 11,8% năm 2000. Đặc biệt năm 1998, khu vực công nghiệp nhà nước chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động và sản xuất ra 48% tổng giá trị sản phẩm toàn ngành, nhưng chỉ đóng góp 40,7%, sang năm 2000 thì mức đóng góp này có khả quan hơn 52,6% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp. 1.3. Tiết kiệm của khu vực tư nhân. Đây là một bộ phân quan trọng góp phần vào tổng tiết kiệm trong nước. Bao gồm: tiết kiệm của dân cư và tiết kiệm của các doanh nghiệp tư nhân. Đặc biệt là sự đóng góp của các hộ gia đình. a>Tiết kiệm của dân cư: nguồn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Vì vậy cần căn cứ vào cơ cấu lứa tuổi của dân cư và tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập để có chính sách ưu tiên thích hợp. Việc gia tăng tỷ lệ lực lượng lao động(có việc làm)/ tổng số dân cư có thể thúc đẩy gia tăng tiết kiệm. Theo điều tra và ước tính của bộ kế hoạch - đầu tư và tổng cục thông kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 7-9 tỷ $. Trong đó:44% để dành của dân là để mua vàng, ngoại tệ; 20% để dành của dân là mua nhà đất, cải thiện đời sống sinh hoạt; 17% để dành của dân là gửi tiết kiệm chủ yếu là loại ngắn hạn; 19% để dành của dân là dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, chủ yếu là ngắn hạn. Như vậy chỉ khoảng 36% vốn hiện có trong dân được huy động cho đầu tư phát triển. Nếu tính theo hàng năm, mức huy động vốn trong dân, năm sau luôn cao hơn năm trước cụ thể như : Bảng 1 Năm Mức huy động (tỷ đồng) Mức tăng so với năm trước % 1991 6430 181,4 1992 10.864 170 1993 13.000 120 1994 17.000 130 1995 20.000 117,7 1996 24.000 120,6 1997 28.000 116,7 1998 32.000 114,3 1999 35.540 111.06 2000 40.000 112,5 Nguồn tạp chí Nghiên cứu kinh tế năm 2000 Thực tế trên cho chúng ta thấy rõ được sự đóng góp của dân cư trong thời gian qua. Nhưng để huy động được vốn của dân cư có kết quả tốt thì nhà nước cần có chủ trương, chính sách, cơ chế đúng đắn, tổ chức thực hiện nghiêm túc, củng cố lòng tin tưởng bỏ vốn đầu tư kinh doanh có hiệu quả. b>Tiết kiệm của các doanhnghiệp tư nhân, các hợp tác xã và các công ty. Trong những năm gần đây các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần trong cả nước có bước phát triển khá. Nhờ có qui mô lớn, sản xuất ổn định nên vẫn đạt tốc đọ tăng trưởng từ 9- 10% năm. Do đó đã có đóng góp không nhỏ trong việc huy động các khoản tiết kiệm từ hoạt động sản xuất kinh doanh cho phát triển kinh tế. Thực trạng trên cho chúng ta thấy được sự nỗ lực của các khu vực tư nhân. Nhưng để huy động được nguồn tiết kiệm của khu vực tư nhân có hiệu quả thì ngoài hệ thông ngân hàng chính qui, cần tổ chức huy động tiết kiệm phi chính thức: như hiệp hội tín dụng, tiết kiệm quay vòng,...ở các vùng, đặc biệt là ở nông thôn bằng hệ thống các quỹ. 2. Huy động vốn đầu tư từ bên ngoài. Nhu cầu về vốn cho quá trình CNH,HĐH là rất lớn do đó chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chưa đủ, nên ngoài huy động vốn trong nước cũng cần huy động nguồn vốn từ bên ngoài để thúc đẩy sự nghiệp CNH,HĐH ở Việt Nam. Huy động vốn từ bên ngoàigồm: vốn và vốn đầu tư gián tiếp thể hiện chủ yếu thông qua nguồn ODA. 2.1. Đối với nguồn ODA. ODA là nguồn vốn có tác động tích cực tới sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự nghiệp CNH,HĐH nói riêng. Tới nay, Việt Nam đã nhận được nguồn ODA từ 25 nhà tài trợ song phương, 19 đối tác đa phương và hơn 350 tổ chức phi chính phủ. Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã được cộng đồng tài trợ cam kết hỗ trợ nguồn ODA với giá trị là 20,006 tỷ$. Cũng từ năm 1993 đến tháng 10 năm 2001, chính phủ Việt Nam kí cam kết với các nhà tài trợ các điều ước quốc tế cụ thể về ODA trị giá 14,3 tỷ$, đạt 81,5%tổng ODA đã cam kết. Trong đó: ODA vay là 12 tỷ$ (83,9%), ODA viện trợ không hoàn lại khoảng 2,3 tỷ$ (16,1%). ODA tập trung hỗ trợ các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội ưu tiên của chính phủ phục vụ CNH,HĐH ở các ngành như năng lượng, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng cơ bản… Nguồn ODA vào Việt Nam được cung cấp từ các ngân hàng WB (ngân hàng thế giới), ADB (ngân hàng phát triển châu á), IMF (quỹ tiền tệ quốc tế), và từ các chính phủ Nhật Bản, Thuỵ Điển,… 2.2. Đối với nguồn FDI. FDI có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Tính chung trong 5 năm 1996 – 2000, FDI chiếm tới 28% tổng vốn đầu tư. Riêng năm 2000 có 461dự án đầu tư 3116 tỷ$ chỉ chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn FDI tuy có giảm bớt do tác động của thị trường quốc tế nhưng vẫn được coi là cao so với tình hình chung của tế giới. Các dự án đầu tư chủ yếu vào ngành công nghiệp và xây dựng có 211 dự án so với vốn đăng ký 398,1 triệu$, các dự án này tập trung ở các tỉnh phía Nam với 209 dự án chiếm 362,2 triệu$. Trong số vốn đầu tư của các dự án, hình thức 100% vốn nước ngoài đang tăng lên nhanh chóng. Điều đáng ghi nhận là hiện nay tài sản cố định do kết quả đầu tư của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nươc ngoài chiếm tới gần 50% tài sản cố định của nền kinh tế. Điều này không phản ánh sát thực quá trình đầu tư và do những sai sót có tính hệ thống của việc hạch toán vốn đầu tư và tài sản cố định trong nền kinh tế. Lý do chủ yếu là việc hoạch toán vốn FDI còn dựa vào sự khai báo của các doanh nghiệp này, mà trong quá trình kiểm tra có thể thấy có sai sót ít nhiều. Nếu tính thêm cả nguồn ODA thì đầu tư nước ngoài thì theo đánh giá trong 5 năm 1996 –2000, trong điều kiện kinh tế thế giới có khó khăn, vốn FDI bị suy giảm, chúng ta đã tăng cường nội lực và vốn bên ngoài đã huy động khoảng 40% tổng vốn đầu tư, trong đó năm 2000 khoảng 32%. Nhờ các công trình có vốn FDI đã góp phần đẩy mạnh sản xuất nói chung, nhất là sản xuất công nghiệp, đóng góp trên 35% tổng sản lượng ngành này và tạo ra hơn 13% GDP của nền kinh tế. Tính đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại Việt Nambình quân 1.111,75 triệu$/năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân thời kỳ 1991- 2000 là 16391 tỷ đồng/ năm. Đối với một nền kinh tế có qui mô như nước ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về qui mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như “chất xúc tác - điều kiện” để việc đầu tư phục vụ cho CNH,HĐH đạt hiệu quả nhất định. Nếu so với tổrng vốn đầu tư xây dựng cơ bản thời kỳ 1991- 2000 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 27,51% và lượng vốn này ngày một tăng lên được thể hiện thông qua bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Việt Nam thời kỳ 1991- 2000 Năm Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng) Vốn trong nước (tỷ đồng) Vốn FDI Số lượng (tỷ đồng) So với tổng số (%) 1991 11.526,0 9.606,0 1.920 16.7 1992 19.755,0 15.255,0 4.500 22.8 1993 34.176,0 25.376,0 8.800 35.7 1994 43.100,0 29.900,0 13.200 30,6 1995 68.047,8 46.047,8 33.000 32,3 1996 79.367,4 56.667,4 22.700 28,6 1997 96.870,4 66.570,4 30.300 31,3 1998 96.400,0 72.100,0 24.300 25,2 1999 102.900,0 85.000,0 18.900 18,2 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35360.doc
Tài liệu liên quan