Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn với đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, em phải kể đến sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ Trung ương Hội Doanh nghiệp trẻ Việt Nam đã tạo điều kiện cho em về nguồn tài liệu và chia sẻ những kinh nghiệm về phát triển hiệp hội. Bên cạnh đó, đề tài này được hoàn thành cũng có môộ phần đóng góp và ủng hộ to lớn của các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và kinh doa... Ebook Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

doc121 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh quốc tế. Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giáo viên hướng dẫn PGS. Ts. Nguyễn Thượng Lạng đã có những chỉ bảo tâm huyết, nhiệt tình, kiên trì cùng em khắc phục những hạn chế của bài viết để bài viết được sâu sắc và hoàn thiện hơn. Sau đó em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong hao, cùng toàn thể các anh chị cán bộ làm việc ở Hội các nhà Doanh nghiệp trẻ Việt Nam vì sự giúp đỡ và chỉ bảo trong suốt thời gian em thực tập tại đó. Hà nội, ngày 9 tháng 6 năm 2008 Sinh viên Phạm Bích Ngọc LỜI CAM KẾT Luận văn với đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là một đề tài do tác giả thực hiện độc lập thông qua việc tham khảo các sách bảo, các tạp chí liên quan cũng như sự hướng dẫn chỉ bảo của các thầy cô giáo, cùng toàn thể cán bộ ở Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam. Tác giả xin cam đoan, toàn bộ nội dung của đê tài không sao chép ở bất kỳ tài liệu nào. Nếu sai với lời cam đoan trên, tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Hà nội, ngày 9 tháng 6 năm 2008 Sinh viên Phạm Bích Ngọc MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT CHỮ VIẾT TẮT NGHĨA ĐẦY ĐỦ 1 XHCN Xã hội chủ nghĩa 2 KHCN Khoa học công nghệ 3 DN Doanh nghiệp 4 CLB Câu lặc bộ 5 TNCS HCM Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh 6 LHTN Liên hiệp thanh niên 7 CS Cộng sản 8 UBTW Uỷ ban Trung ương 9 UBLT Uỷ ban lâm thời 10 DNT Doanh nghiệp trẻ 11 VP Văn phòng 12 BCH Ban Chấp Hành 13 WTO Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ Hình 1.1 Sơ đồ tổ chức Hội Doanh nghiệp trẻ Nhật Bản 19 Hình 2.1 Tổ chức của các Hiệp hội doanh nghiệp địa phương. 29 Hình 2.2 Mức độ ứng dụng Công nghệ thông tin của các Hiệp hội địa phương 30 Hình 2.3: Các lý do gia nhập Hiệp hội doanh nghiệp 32 Hình 2.4 Những nguồn thu chính của Hiệp hội 33 Hình 2.5 Tần suất các hoạt động của các Hiệp hội 35 Hình 2.6 Sự khác biệt giữa các Hiệp hội đới với các hoạt động chính. 36 Hình 2.7 Thách thức trong tương lai đối với các Hiệp hội 50 Hình 2.8 Các thách thức trong tương lai đối với các thành viên của Hiệp hội 51 LỜI MỞ ĐẦU Tính tất yếu của đề tài Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế đất nước, số lượng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân nước ta đã có sự thay đổi và phát triển vượt bậc. Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta được quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thành phần các doanh nghiệp chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh, số lượng cũng không nhiều, tổng số lúc cao nhất cũng chỉ trên 1200 doanh nghiệp. Trong thời gian qua, Đảng và chính phủ đã có những nỗ lực đáng kể trong việc phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khuyến khích nhiều thành phần kinh tế cùng phát triển bình đẳng trong môi trường kinh doanh lành mạnh. Do đó, số lượng doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng. Sau khi luật Công ty được ban hành năm 1990, đặc biệt là sau khi luật Doanh nghiệp có hiệu lực năm 2000, đến nay cả nước có khoảng 300 000 doanh nghiệp trong đó có gần 200 000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trên 3,7 triệu hộ kinh doanh cá thể. Bên cạnh sự ra đời của ngày càng nhiều các doanh nghiệp thì xu hướng “liên doanh, liên kết - hợp tác vững mạnh” cũng nảy sinh như một nhu cầu tất yếu trong xã hội hiện đại. Sự cạnh tranh và quy luật đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đoàn kết, chung lưng góp sức trước hết là vì sự tồn tại, vì lợi ích và tương lai của chính mình. Hơn lúc nào hết, sự ra đời của một tổ chức tập hợp, liên kết, hỗ trợ và đại diện giờ đây đã trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp. Tổ chức này sẽ thay họ làm nhiệm vụ của người phát ngôn, đại diện cho quyền lợi và mong muốn chung của các doanh nghiệp, là cầu nối liên kết các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì thế, sự ra đời của Hội, Hiệp hội doanh nghiệp là cần thiết. Hội là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với các nhà doanh nghiệp, đồng thời là môi trường tập hợp, bồi dưỡng, định hướng phát triển cho các nhà doanh nghiệp. Bước sang thế kỷ 21, các nhà doanh nghiệp tiếp tục là lực lượng quan trọng trong quản lý, điều hành các đơn vị kinh tế nước nhà. Việc tập hợp, bồi dưỡng nghiệp vụ, giáo dục, định hướng tư tưởng cho đội ngũ các nhà doanh nghiệp là nhiệm vụ của tổ chức Hội, Hiệp hội và cũng là vấn đề cấp bách, quan trọng để đảm bảo năng lực cạnh tranh, sự phát triển ổn định và đúng định hướng XHCN của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp chưa thực sự cao. Theo đánh giá của Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thì: “Nhìn chung, các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam đều nỗ lực rất lớn phấn đấu thực hiện vai trò chủ chốt của mình, đại diện bảo vệ cho quyền lợi hội viên, kể cả các quan hệ trong nước cũng như các quan hệ kinh doanh quốc tế. Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, năng lực các Hiệp hội còn khác nhau, điều kiện của các hiệp hội cũng khác nhà và vai trò, đóng góp của các hiệp hội cũng chênh lêch nhau đáng kể”. Mặt khác, sau khi Việt Nam là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mới, cũng như thách thức mới trong việc phát triển kinh tế nói chung. Điều này đòi hỏi, mối liên hệ giữa doanh nghiệp và Hiệp hội càng cao. Trước thực tiễn đó, việc triển khai nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” là cần thiết và cấp bách. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu, đánh giá thực trạng tình hình giới doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, mô hình tổ chức hoạt động của một số hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài và hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, từ đó đề ra các giải pháp, biện pháp, định hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu hiện nay của đất nước. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Khái quát các vấn đề lý luận liên quan đến doanh nghiệp và hoạt động của Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam và kinh nghiệm hoạt động của một số hiệp hội trên thế giới. Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của Hội, Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam cụ thể từ đó đưa ra nhận xét chung về hoạt động của Hội, Hiệp hội doanh nghiệp nói chung. Đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động của các doanh nghiệp trong Hiệp hội và tác động của Hiệp hội đối với các doanh nghiệp tham gia. Khách thể nghiên cứu: Các doanh nghiệp, Hội doanh nghiệp Việt Nam, Hội doanh nghiệp của môt số nước trên thế giới. Phạm vi nghiên cứu: Toàn quốc, tập trung vào một số Hiệp hội có hoạt động tốt và hiệu quả. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Phương pháp hệ thống. Phương pháp phân tích, tổng hợp các tư liệu, tài liệu liên quan. Phương pháp chuyên gia: Tọa đàm, trao đổi. Kết cấu cấu đề tài Ngoài các phần: mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài chia làm 3 chương: Chương 1: Những cơ sở lý luận và nội dung chủ yếu về doanh nghiệp và hoạt động của doanh nghiệp trong Hiệp hội. Chương 2: Thực trạng quá trình hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Chương 3: Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hiệp hội doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của đề tài là rất mới mẻ, thời gian nghiên cứu có hạn nên trong một số khía cạnh trình bày của sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong những ý kiến đánh giá, phê bình quý báu của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện và có ý nghĩa thực tiễn hơn. CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU VỀ DOANH NGHIỆP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP Một số nhận thức chung về doanh nghiệp Doanh nghiệp Trong các cuốn Từ điển tiếng Việt, khái niệm "doanh nghiệp" được định nghĩa chưa rõ ràng và chưa bao quát hết các loại hình tổ chức kinh doanh. Khái niệm "doanh nghiệp" hiểu theo Luật Doanh nghiệp được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tháng 12/2005 là "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài khoản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh". Tuy nhiên, vì luật này chỉ điều chỉnh các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng nên khái niệm doanh nghiệp qui định trong Luật như trên là theo nghĩa hẹp. Trong thực tế tại Việt Nam, số lượng các doanh nghiệp như trên là khoảng 100.000, trong khi các tổ chức kinh tế qui mô nhỏ như tổ, nhóm, hộ kinh doanh cá thể là hơn 2,5 triệu đơn vị. Các cơ sở kinh tế này tuy nhỏ về qui mô, nhưng cũng thực hiện đầy đủ các công đoạn của hoạt động kinh doanh, có Giấy đăng ký kinh doanh do chính quyền cấp và cũng nộp thuế kinh doanh theo qui định của Nhà nước. Trong "Báo cáo định hướng chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2010" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì các cơ sở kinh tế nói trên được định nghĩa thuộc khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, tức cũng là các doanh nghiệp. Khái niệm doanh nghiệp được định nghĩa theo Giáo trình Kinh tế vi mô – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xuất bản năm 2007 là: “Doanh nghiệp là các đơn vị kinh tế cơ sở có chức năng sản xuất - kinh doanh hàng hoá, dịch vụ một cách hợp pháp theo nhu cầu của thị trường nhằm mục tiêu lợi nhuận hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội tối đa”. Theo định nghĩa này, về mặt lý thuyết, doanh nghiệp bao hàm tất cả các cơ sở sản xuất - kinh doanh từ các tập đoàn kinh tế lớn đến các hộ gia đình kinh doanh cá thể. Nhưng trong thực tế quản lý ở nước ta hiện nay, pháp luật mới chỉ coi là doanh nghiệp các tổ chức kinh tế đăng ký theo Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật đầu tư nước ngoài.Hộ gia đình và kinh doanh cá thể chưa được coi là doanh nghiệp. Khái niệm "doanh nghiệp" sử dụng trong chuyên đề được hiểu theo nghĩa như sau: "doanh nghiệp" là các cơ sở kinh tế có đăng ký kinh doanh và thực hiện các hoạt động kinh doanh theo qui định của pháp luật. Kinh doanh Nói chung, chúng ta có thể hiểu một cách nôm na kinh doanh là buôn bán. Tuy nhiên không thể đồng nhất kinh doanh và buôn bán là một.Có rất nhiều định nghĩa về nghề buôn bán có thể được tìm thấy trong ngôn từ mô tả các quá trình kinh doanh. Định nghĩa đầu tiên về nghề buôn bán, ra đời từ thế kỷ 18, coi đó là một thuật ngữ kinh tế mô tả quá trình chấp nhận những rủi ro của việc mua hàng ở một mức giá nào đó cố định để rồi bán lại với một mức giá khác không cố định. Về sau, các nhà bình luận đã mở rộng định nghĩa này và bao gồm trong đó cả việc tập trung các yếu tố sản xuất. Định nghĩa này đưa mọi người đến một câu hỏi khác là liệu việc buôn bán có một chức năng duy nhất hay không hay nó đơn thuần chỉ là một hình thức của việc quản lý. Đầu thế kỷ này, khái niệm đổi mới được đưa thêm vào định nghĩa về việc buôn bán. Đổi mới ở đây có thể là đổi mới quá trình, đổi mới thị trường, đổi mới sản phẩm, đổi mới yếu tố và thậm chí đổi mới về một cơ cấu. Các định nghĩa sau này mô tả công việc kinh doanh có bao gồm cả việc thành lập các doanh nghiệp mới mà người thành lập nên chúng là những người buôn bán. Như vậy, trong quá trình kinh doanh có hoạt động mua bán và kinh doanh chính là hoạt động đầu tư để thu lợi nhuận. Theo định nghĩa về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “Kinh doanh là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi” Nhà doanh nghiệp Trong cuốn Từ điển tiếng Việt khái niệm nhà doanh nghiệp vẫn chưa được định nghĩa. Trong Giáo trình Quản lý kinh tế có đưa ra khái niệm "cán bộ quản lý sản xuất - kinh doanh": đó là những người trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp với chế độ tự chủ hạch toán kinh doanh nhằm mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Trong thực tế, nhà doanh nghiệp thường được hiểu là những người giữ vị trí lãnh đạo đang trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp luật. Một số nhận thức chung về Hội doanh nghiệp Sự ra đời của Hội doanh nghiệp Từ xa xưa, ông bà ta đã thấy lợi ích của sự liên kết và hợp tác, qua câu nói “buôn có bạn bán có phường”. Sự cạnh tranh theo kiểu ‘anh thắng có nghĩa là tôi thua’ đã không còn đúng hẳn, mà giờ đây xu hướng ‘cạnh tranh trong hợp tác’, tức cả hai cùng thắng, đã dần trở thành cung cách mới trong kinh doanh. Nhất là khi tài nguyên xã hội (vốn, kỹ thuật, quản lý, ý tưởng ...) đã ngày càng dồi dào, không ai có thể giữ được lâu lợi thế cho riêng mình. Một tính chất khác có ảnh hưởng quan trọng đến xu hướng liên kết: sự phân khúc ngày càng nhỏ của thị trường. Một ví dụ: ngày nay, trong một đô thị lớn, không thể tìm đâu ra một nhà hàng có thể bán đủ món cho mọi đối tượng khách hàng, vì sở thích của người ta đã ngày càng phân nhánh đến hết mức, tới nỗi có những nhà hàng chỉ chuyên bán món bún, hoặc món cuốn, hoặc bánh mỳ...; thế nhưng chính những nhà hàng ấy lại thành công hơn cả. Khi sự chuyên môn hoá lên đến cao độ, tất yếu dẫn đến nhu cầu liên kết cao độ. Nhà hàng sẽ cần đến nhà cung cấp rau chuyên nghiệp, rồi là quản lý, phục vụ, phụ bếp chuyên nghiệp, ... ngoài ra còn phải liên kết với những đơn vị du lịch, công ty truyền thông, báo chí, ... Sự cạnh tranh và quy luật đào thải khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có sự đoàn kết, chung lưng góp sức trước hết là vì sự tồn tại, vì lợi ích và tương lai của chính mình. Hơn lúc nào hết, sự ra đời của một tổ chức tập hợp, liên kết, hỗ trợ và đại diện giờ đây đã trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp, tạo môi trường cho các doanh nghiệp trao đổi kinh nghiệm, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong phát triển, cung cấp đầy đủ các hoạt động hỗ trợ, xúc tiến, tư vấn phát triển cho các thành viên. Và các Hiệp hội doanh nghiệp ra đời để đáp ứng các nhu cầu đó. Như vậy, Hội doanh nghiệp là tổ chức tự nguyện bao gồm những người có nhu cầu, mục đích, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên và cộng đồng góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Ví dụ: Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam, Hội doanh nghiệp vừa và nhỏ…. Sự cần thiết phải phát huy vai trò của Hội, Hiệp hội trong điều kiện hội nhập Kinh tế quốc tế Khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, các Doanh nghiệp không còn được trợ cấp mang tính trực tiếp, cơ quan quản lý Nhà nước không còn là người “vừa đá bóng, vừa thổi còi” mà chỉ còn là trọng tài nên doanh nghiệp bước vào môi trường kinh doanh mới rất minh bạch với sự cạnh tranh hết sức quyết liệt. Mặt khác, tính liên kết giữa các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự cao. Do đó, các doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc thâm nhập thị trường và nâng cao uy tín trên trường quốc tế nếu doanh nghiệp đứng đơn lẻ cho nên việc lắng nghe, nắm bắt tình hình hoạt động của các doanh nghiệp của Hiệp hội là cần thiết để tháo gỡ các khó khăn. Việc tập trung tư vấn, hướng dẫn cung cấp thông tin cho doanh nghiệp những vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, những cam kết của Việt Nam với WTO là vấn đề mà nhiều doanh nghiệp quan tâm. Cùng với các cơ hội cho doanh nghiệp phát huy hết năng lực của mình, tuy nhiên với các quy định của WTO, các cam kết song phương, đa biên và các tập quán, thông lệ, luật pháp quốc tế…đã vượt khả năng hiểu biết của các doanh nghiệp kinh doanh trong nước theo tập quán thông thường. Vì thế, vai trò của các Hội, Hiệp hội càng cần thiết với các doanh nghiệp trong việc hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong kinh doanh. Bên cạnh đó, Hiệp hội là tổ chức thích hợp nhất và không thể thay thế trong việc đánh giá chất lượng, điều phối hoạt động và giải quyết mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong nội bộ lĩnh vực đó. Bám sát doanh nghiệp và hơn nữa lại chính là đại diện cho tiếng nói của nhóm doanh nghiệp trong lĩnh vực, hiệp hội sẽ nắm bắt một cách cụ thể và rõ ràng những vận hội và thách thức của ngành, từ đó đưa ra những biện pháp mang tính chính sách để điều tiết một cách hài hoà giữa lợi ích của ngành trong mối tương quan với các lĩnh vực khác, cũng như trong quan hệ và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nội bộ ngành. Các yếu tổ ảnh hưởng tới việc thành lập Hội, Hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam Trên lý thuyết, thủ tục thành lập Hội, Hiệp hội quy định rõ trong Luật về Hội được thông qua ở kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 11 qua đó cho thấy rõ hơn các bước thành lập Hội. Trước tiên, muốn thành lập một Hội cần phải có Ban vận động thành lập hội. Ban vận động thành lập Hội có ít nhất 3 sáng lập viên. Sáng lập viên là công dân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có hiểu biết chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực Hội dự kiến hoạt động, trừ người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án tước một số quyền công dân có liên quan; trường hợp sáng lập viên là tổ chức thì tổ chức đó phải được thành lập hợp pháp. Từ đó, ban vận động của Hội sẽ điều hành, cử người đứng đầu ban vận động, lập hồ sơ đăng ký thành lập Hội gửi Bộ Nội vụ hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Sau khi được phê duyệt hồ sơ, Ban vận động phải tiến hành tổ chức Đại hội thành lập hội. Tuy nhiên, trên thực tế việc thành lập Hội , Hiệp hội thường trải qua thời gian dài, qua nhiều quá trình, và chịu chi phối bởi nhiều yếu tố: Yếu tố thứ nhất ảnh hưởng đến quá trình thành lập Hội, Hiệp hội chính là xu thế khách quan và sự đòi hỏi thành lập Hội của các thành viên. Yếu tố này là rất cần thiết để cho ra đời một Hội, Hiệp hội tuy nhiên không phải là yếu tố chủ chốt. Việc liên kết các doanh nghiệp cùng ngành nghề với nhau vào một tổ chức Hội theo xu thế và đòi hỏi khách quan của thực tiễn nền kinh tế cần phải tiến hành thông qua một Ban vận động. Do đó, nếu chỉ có những doanh nghiệp có nguyện vọng thành lập Hội mà chưa có một Ban vận động, một cơ cấu tổ chức thực sự của Hội thì Hội cũng chưa thể hình thành. Như Hiệp hội Thủy sản Việt Nam ra đời trên cơ sở sự liên kết của các doanh nghiệp Thủy sản trong quá trình kinh doanh phát triển sản phẩm và được điều hành bởi Ủy ban Trung ương Hội. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng tới việc thành lập và duy trì một Hội là yếu tố tổ chức. Trước hết đó là ban lãnh đạo, bộ máy. Bất kỳ một Hội, Hiệp hội nào đều cần một tổ chức có tư cách pháp nhân có con dấu và có người lãnh đạo có đủ tầm nhìn và bao quát được hoạt động. Bộ máy nhân sự là hết sức quan trọng, bởi nếu muốn hoạt động của Hội được tốt thì bộ máy nhân sự phải tốt đứng đầu tổ chức bộ máy là Ban lãnh đạo do Ban vận động bầu ra. Việc duy trì hoạt động của Hội là do Bộ máy Hội hoạt động có tốt hay không. Trên thực tiễn đến hơn 90% Hội hoạt động tốt do có bộ máy nhân sự và cán bộ lãnh đạo có tầm nhìn và có quan hệ tốt với cơ quan hữu quan. Yếu tố cuối cùng làm ảnh hưởng tới quá trình thành lập Hội đó chính là kinh phí. Kinh phí giúp cho Ban vận động của Hội có thể làm các thủ tục cần thiết trong việc thành lập Hội. Kinh phí còn giúp duy trì hoạt động của Hội. Nguồn kinh phí để tiến hành thành lập Hội có thể lấy từ nguồn tài trợ, từ lệ phí ban đầu do các thành viên sáng lập tự nguyện đóng góp, hoặc do cơ quan sáng lập tài trợ…Do vậy, nguồn kinh phí có thể huy động từ nhiều nguồn cung cấp cho Ban vận động để có thể tiến hành thành lập Hội. Chức năng hoạt động của Hội doanh nghiệp Các Hiệp hội doanh nghiệp thường có nhiều chức năng khác nhau tùy vào lĩnh vực và ngành mà hiệp hội đó hoạt động.Tuy nhiên, chúng ta có thể chia ra các chức năng chính của các Hiệp hôi doanh nghiệp như sau: Thứ nhất là chức năng đại diện quyền lợi.Đây là chức năng chính của đa số các Hiệp hội doanh nghiệp, nhất là những hiệp hội lớn, là đại diện và tăng cường quyền lợi hội viên trong các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên.Chức năng này bao gồm việc duy trì đối thoại với Chình phủ về luật và chính sách chi phối hoạt động của doanh nghiệp và quan hệ với các cơ quan tổ chúc trong nước và nước ngoài. Thứ hai là dịch vụ hỗ trợ cho các nhà doanh nghiệp phát triển nghề nghiệp, trong hợp tác đầu tư, phát triển kinh doanh, trong học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm và trình độ quản lý, điều hành doanh nghiệp. Thứ ba là diễn đàn cung cấp, trao đổi thông tin, ý kiến giữa các nhà doanh nghiệp trẻ với các cơ quan Đảng và nhà nước, các tổ chức xã hội và doanh nghiệp khác. Nhiệm vụ của các Hiệp hội doanh nghiệp Căn cứ vào chức năng của các Hiệp hội doanh nghiệp mà chúng ta có thể phân chia ra các nhiệm vụ cụ thể. Tuy nhiên, các nhiệm vụ chính của các Hiệp hội doanh nghiệp được tập trung vào các nội dung sau: Đoàn kết, tập hợp các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước, hỗ trợ hội viên mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh với nhau và với các doanh nghiệp khác. Tổ chức các hoạt động hỗ trợ hội viên nâng cao trình độ quản lý, điều hành doanh nghiệp, phát triển hoạt động kinh doanh, phát triển doanh nghiệp. Phản ánh nhu cầu, nguyện vọng, đề xuất, kiến nghị của các nhà doanh nghiệp với Đảng, Nhà nước và các tổ chức hữu quan về những chủ trương, chính sách và các vấn đề liên quan đến giới doanh nghiệp Việt Nam. Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên, chăm lo phát triển lực lượng doanh nghiệp cho đất nước. Tổ chức hướng dẫn cho hội viên tham gia các hoạt động xã hội. Tổ chức hoạt động giao lưu, hợp tác với các tổ chức doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài theo quy định của pháp luật, góp phần tích cực vào quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu tổ chức chung của các Hiệp hội Cơ cấu tổ chức của hội gồm có: 1. Đại hội; 2. Ban lãnh đạo, bộ máy điều hành; 3. Ban kiểm tra; 4. Các tổ chức khác do điều lệ hội quy định. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của hội là Đại hội. Nhiệm kỳ đại hội do điều lệ hội quy định, nhưng không quá 5 năm kể từ ngày kết thúc đại hội nhiệm kỳ trước. Đại hội bất thường được triệu tập khi có ít nhất trên một phần hai tổng số hội viên chính thức hoặc hai phần ba tổng số thành viên ban lãnh đạo hội đề nghị. Đại hội được tổ chức theo hình thức đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu do điều lệ hội quy định Những nội dung quyết định tại đại hội gồm có: - Thông qua điều lệ hội; - Bầu ban lãnh đạo, ban kiểm tra hội; - Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể hội, đổi tên hội; - Các vấn đề khác theo quy định của điều lệ hội. Ban lãnh đạo, ban kiểm tra 1. Ban lãnh đạo là cơ quan lãnh đạo của hội giữa hai nhiệm kỳ đại hội. 2. Ban kiểm tra là cơ quan kiểm tra, giám sát việc chấp hành điều lệ hội. 3. Nhiệm vụ, quyền hạn của ban lãnh đạo, ban kiểm tra do điều lệ hội quy định. Đứng đầu Bộ máy điều hành và thường trực của các Hiệp hội được tổ chức gồm Ban thư ký và Văn phòng thường trực của Hội. - Ban thư ký: do Hội nghị Ban chấp hành bầu ra, là cơ quan điều hành hoạt động của Hội giữa 2 kỳ họp của Ban chấp hành. Cơ cấu tổ chức đầy đủ của Ban thư ký gồm: + Tổng thư ký + Các Phó tổng thư ký + Các uỷ viên. Với một Hội lớn, có nhiều hoạt động thì Tổng thư ký cần là một chức danh chuyên trách mới đáp ứng được yêu cầu điều hành công việc. - Văn phòng thường trực: Là cơ quan giúp việc cho Ban thư ký và Ban chấp hành trong xử lý công việc hàng ngày của Hội. Văn phòng thường trực cùng với Tổng thư ký hợp thành một bộ máy chuyên trách điều hành, xử lý công việc hàng ngày của Hội. Bộ máy chuyên trách này có vai trò rất lớn trong hoạt động của Hội. Như vậy bộ máy chuyên trách là không thể thiếu đối với tổ chức Hiệp hội kinh phí duy trì bộ máy này lấy từ kinh phí của Hiệp hội. Về mặt nhân sự, những chức danh chuyên trách này do Hiệp hội và cơ quan chủ quản cùng thống nhất chọn lựa, cũng có thể tổ chức thi tuyển những người phù hợp từ bên ngoài, Hội ký hợp đồng tuyển dụng rồi bồi dưỡng, đào tạo thêm về nghiệp vụ công tác Hội. Để thực hiện vai trò nòng cốt trong Hội doanh nghiệp Việt Nam cần chọn lựa cán bộ có kinh nghiệm, năng lực, trình độ phù hợp cử sang giữ vị trí chuyên trách trong Ban thư ký để giúp Hội trong công tác điều hành. Quan điểm của Đảng và nhà nước về phát triển doanh nghiệp và Hiệp hội doanh nghiệp. Quan điểm của Đảng và nhà nước về phát triển doanh nghiệp Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X họp tháng 12-2005 về việc "tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hoá - hiện đại hoá, phấn đấu hoàn thành mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm 2020", đã đưa ra những chủ trương chính sách lớn đối với các doanh nghiệp như sau: 1- Khuyến khích phát triển các Hiệp hội, CLB các nhà kinh doanh, hàng năm có hình thức lựa chọn, biểu dương, khen thưởng các nhà kinh doanh giỏi, nhằm động viên, cổ vũ các nhà doanh nghiệp có đóng góp lớn cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. 2- Ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến, gắn với nguồn nguyên liệu nông sản, thuỷ sản, sản xuất hàng xuất khẩu và các mặt hàng tiêu dùng... nhất là điện tử, kể cả dịch vụ phần mềm tin học. Chú ý phát triển các ngành công nghiệp tốn ít vốn, thu hút nhiều lao động... Coi trọng phát triển ngành cơ khí (kể cả chế tạo, lắp ráp và sửa chữa) theo hướng đầu tư chiều sâu để cải tạo các cơ sở hiện có và phát triển một số cơ sở mới có điều kiện. 3- Nhà nước đảm nhận việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật bên ngoài doanh nghiệp, phát triển thị trường vốn, đào tạo nguồn nhân lực, giúp đỡ về nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, tiếp thị, thông tin, thị trường, giành ưu tiên về đất, vốn, thuế, lao động được đào tạo cho việc đầu tư, sản xuất hàng xuất khẩu và đổi mới thiết bị, công nghệ của các doanh nghiệp. 4- Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý Trung ương và địa phương đối với các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu, đàm phán và ký kết các thoả thuận song phương và đa phương. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan ngoại giao trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Ban hành quy chế cho các doanh nghiệp và Hội doanh nghiệp lập cơ quan đại diện, chi nhánh ở nước ngoài. Nghiên cứu sử dụng các tổ chức dịch vụ và tổ chức môi giới quốc tế, khuyến khích các doanh nhân và tổ chức có khả năng và điều kiện ở trong nước, cũng như người Việt Nam ở nước ngoài tham gia tích cực vào việc tìm hiểu, tiếp cận và thâm nhập thị trường thế giới. 5- Phát triển mạnh các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn... Tổ chức các cơ sở công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản theo hướng gắn kết với các đơn vị cung cấp nguyên liệu, sản xuất, chế biến và tiêu thụ. 6- Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau được phát triển chủ yếu để trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những nơi có nhiều ruộng đất.Khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích phát triển cây dài ngày. 7- Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất và sử dụng sản phẩm cơ khí phục vụ nông nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ có sức cạnh tranh với nước ngoài. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực bao gồm cả bồi dưỡng kỹ năng lao động, đào tạo kỹ thuật viên và hình thành đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi ở nông thôn. 8- Thực hiện cơ chế lưu thông thật sự thông thoáng trên thị trường trong nước, phát triển các loại hình kinh doanh kết hợp công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu theo phương thức ký kết hợp đồng dài hạn với nông dân. Những quan điểm,chủ trương, chính sách lớn trên đây chứng tỏ Đảng và Nhà nước ta luôn luôn khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển. Đồng thời còn chỉ rõ đối tượng, địa bàn, loại hình doanh nghiệp cần đầu tư phát triển và hàng năm còn có hình thức lựa chọn, suy tôn, thông qua các Hiệp hội để khen thưởng các nhà doanh nghiệp kinh doanh giỏi. Từ những chủ trương trên đã mở ra những hướng mới tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp phát triển tài năng, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Quan điểm của Đảng về phát triển các Hiệp hội doanh nghiệp Hiện nay, chưa có văn bản trực tiếp nào của Đảng về phát triển Hiệp hội doanh nghiệp. Tuy nhiên trong dự thảo Quy định về phát triển Hiệp hội doanh nghiệp Đảng và nhà nước ta đã có những quan tâm đáng kể để hiệp hội các doanh nghiệp phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia sinh hoạt, trao đổi thông tin bắt kịp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Trong buổi thảo luận Dự thảo Luật về Hội, cũng cho thấy, Đảng và nhà nước ta luôn khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào các tổ chức Hội. Cụ thể: Thứ nhất, Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền lập Hội doanh nghiệp của doanh nghiệp và tạo điều kiện cho Hội hoạt động và phát triển. Thứ hai, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế có quyền lập Hội, gia nhập hội, ra khỏi hội theo quy định của luật về Hội và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Thứ ba, Hiệp hội các doanh nghiệp có nhiệm vụ cung cấp các thông tin, các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp, và cung cấp các dịch vụ cho các hội viên. Thứ tư, Hiệp hội các doanh nghiệp phối hợp cùng các doanh nghiệp thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tìm kiến thị trường, hỗ trợ kinh doanh, giúp đỡ các tài năng trẻ trong sản xuất, kinh doanh. Thứ năm, Hiệp hội các doanh nghiệp cùng với các bộ ngành liên quan có nhiệm vụ mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia các hiệp hội quốc tế liên quan đẻ tranh thủ và tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp tìm kiếm đối tác, thị trường, khách hàng. Bài học kinh nghiệm về nâng cao khả năng hoạt động của các Hội doanh nghiệp của các nước trên thế giới. Kinh nghiệm xây dựng và phát triển của một số Hội doanh nghiệp trên thế giới Hiện nay trên thế giới có rất nhiều tổ chức Hội doanh nghiệp. Những tổ chức này rất khác nhau về ngôn ngữ, tên gọi, tiêu chí hội viên, tiêu chí hoạt động, cách thức tổ chức và điều hành, nhưng đều có chung một mục tiêu liên kết những nhà lãnh đạo doanh nghiệp với nhau để tạo môi trường tốt hơn cho hội viên trao đổi ý._. tưởng, học hỏi và cùng phát triển. Nhiều Hội doanh nghiệp cũng xác định mục tiêu cung cấp cơ hội cho lớp trẻ phát triển năng lực lãnh đạo, trách nhiệm đối với xã hội, năng lực kinh doanh và tinh thần đoàn kết, bằng cách đó đóng góp vào sự tiến bộ của cộng đồng. Hầu như quốc gia nào cũng có tổ chức Hội doanh nghiệp tuy qui mô và hoạt động rất khác nhau. Nghiên cứu tình hoạt động của một số Hội doanh nghiệp của thế giới, đặc biệt qua nghiên cứu sâu tổ chức và hoạt động của Hội doanh nghiệp trẻ Hoa Kỳ, Hội doanh nghiệp trẻ Nhật Bản, Hội doanh nghiệp trẻ Anh, Hội doanh nghiệp trẻ quốc tế và Tổ chức các Chủ tịch doanh nghiệp trẻ quốc tế, có thể rút ra những nét khái quát sau: Về tổ chức: Hầu hết các tổ chức DNT này đều là các tổ chức phi chính phủ, tập hợp hội viên theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự túc. Các Hội đều được tổ chức chặt chẽ, dân chủ. Đại hội Hội thường được tổ chức mỗi năm một lần, bầu ra Chủ tịch và Ban chấp hành mới. Chức danh Chủ tịch không tái cử (Hội doanh nghiệp trẻ Hoa Kỳ có lịch sử 85 năm thì Chủ tịch hiện nay cũng là Chủ tịch thứ 85). Bộ máy điều hành được tổ chức chuyên trách và mang tính chuyên nghiệp rất cao. Các chức danh cao cấp (Chủ tịch, Phó Chủ tịch) là những ngọn cờ thường đưa ra các tư tưởng, định hướng lớn khi tranh cử, sau đó chỉ đạo và kiểm tra bộ máy chuyên trách triển khai tư tưởng của mình. Tổng thư ký là người thường trực Hội và phụ trách điều hành hoạt động của bộ máy chuyên trách, tuy nhiên trong bộ máy này thường có các tiểu ban, các tổ thư ký được phân công giúp việc cho từng chức danh cao cấp của Hội. Hội doanh nghiệp trẻ Nhật Bản có hệ thống tổ chức tới cấp quận, huyện với trên 750 cơ sở thu hút hơn 60 nghìn hội viên. Bộ máy tổ chức của Hội có qui mô như bộ máy điều hành một công ty lớn với rất nhiều phòng, ban. Các chức danh chủ chốt của Hội gồm: - 01 Chủ tịch là ngọn cờ đại diện và lãnh đạo Hội - 05 Phó Chủ tịch điều hành (phụ trách 5 lĩnh vực hoạt động Hội, có bộ máy chuyên trách giúp việc riêng). - 01 Giám đốc điều hành cao cấp (chức năng như Tổng thư ký). - 01 Tổng thư ký (chức năng như Chánh văn phòng TW Hội) Kiểm toán Cựu chủ tịch Ban tư vấn Bộ phận k/t Các c/nhánh Hội đồng Họp h.đồng Ban g/đốc Chủ tịch Ban quảng bá phát triển cộng đồng địa phương và các cá nhân Ban qaủng bá ngân hàng dữ liệu phát triển cộng đồng Ban liên lạc đào tạo 10 quận Ban chính sách môi trường Ban liên lạc JCI-ASPAC Ban quản lý tài chính Phó chủ tịch điều hành Phó chủ tịch điều hành Phó chủ tịch điều hành Phó chủ tịch điều hành GĐ đ/hành cấp cao Phó chủ tịch điều hành Phòng p/triển c/đồng UB đặc biệt quản lý "Hội thảo mùa hè" Ban truyền thống c/đồng Ban mạng lưới pt c/đồng Ban t/truyền pt c/đồng Ban tư vấn hỗ trợ c/đồng Phòng môi trường Ban t/truyền chiến dịch ........ Phòng hợp tác qtế Các ban chuyên trách Phòng v/đề qtế Ban dự án ... Tổng thư ký Phòng h/chính t/hợp Các uỷ ban khác Hội đồng quận Hokkaido Hội đồng quận Tohoku Hội đồng các quận Ban môi trường Các ban khác ... Ban môi trường Các ban khác ... Ban châu Á Các ban khác ... Ban thư ký quốc gia Các ban khác Hội đồng khu Dohoku Hội đồng khu Tohoku Hội đồng khu Doo Hội đồng khu khác Hội đồng khu Chiba Hội đồng các khu khác Uỷ ban về công ước quốc gia Uỷ ban tổ chức các nhóm ngành công nghiệp Uỷ ban quản lý cung cấp ấn phẩm và kết nạp thành viên Hình 1.1: Sơ đồ tổ chức Hội doanh nghiệp trẻ Nhật Bản (Nguồn: JJC Organization Chart, 1995, Japan) Về hội viên: Hội viên của các tổ chức này phần lớn là các chủ doanh nghiệp trẻ, các Giám đốc, Chủ tịch hoặc các chức danh quản lý điều hành doanh nghiệp có độ tuổi từ 18 đến 45. Họ đều là những người có ảnh hưởng trong xã hội, thành công trong lĩnh vực kinh doanh, tài chính và có ý thức về trách nhiệm với cộng đồng. Mỗi tổ chức đều có tiêu chí riêng trong việc lựa chọn kết nạp hội viên. Hội các Chủ tịch doanh nghiệp trẻ (YPO) yêu cầu các cá nhân phải nắm giữ các chức danh như Chủ tịch, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc và đáp ứng được các tiêu chuẩn nhất định về quy mô doanh nghiệp để được kết nạp vào Hội. Ví dụ với nhóm thuộc lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, YPO yêu cầu hội viên phải có doanh số tối thiểu là 8 triệu USD/ năm, còn nếu là nhóm tài chính - ngân hàng thì doanh số tối thiểu là 160 triệu USD/ năm. Tuỳ theo ngành nghề YPO phân loại hội viên thành 5 nhóm: Nhóm 1: Công ty thương mại, dịch vụ và sản xuất Nhóm 2: Tổ chức tài chính Nhóm 3: Các hãng trung gian môi giới Nhóm 4: Các công ty tư nhân mới hoạt động có tính chất cá nhân Nhóm 5: Các công ty mới hoạt động có tính chất công khai Thành viên của Hội DNT Nhật Bản (JJC) lại là các lãnh đạo DNT có độ tuổi trung bình là 35, mức thu nhập bình quân hằng năm 5 triệu Yên (xấp xỉ 50.000 USD) và có tối thiểu 10 nhân công. Quyền lợi của hội viên: Các doanh nghiệp trẻ gia nhập các tổ chức Hội, trước hết là để giao lưu, mở rộng quan hệ, sau đó mới tính đến lợi ích cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ hội được đào tạo. Khi được hỏi: "Bạn có lợi ích gì khi tham gia Hội doanh nghiệp trẻ?". Kết quả các câu trả lời của thành viên tổ chức doanh nghiệp trẻ Nhật Bản (JJC) như sau: Hài lòng vì cống hiến cho một tổ chức toàn cầu 23,4% Được đào tạo nghiệp vụ, quản lý 30,3% Có thêm nhiều bạn bè 82,1% Tham gia các hoạt động tập thể 18,2% Có ích cho hoạt động kinh doanh 12,1% Không có lợi ích đặc biệt nào 5,4% Không trả lời 5,0% (Nguồn: What's JC Updates 1994) Đối với các thành viên Hội các nhà chủ tịch DNT (YPO) thì quyền lợi đặc biệt của họ là được đào tạo, được đối thoại với lãnh đạo DN toàn thế giới, được bảo vệ lợi ích hợp pháp trong một liên minh vững mạnh. Về nội dung hoạt động: Mỗi tổ chức DNT đều có những nét hoạt động rất riêng. Hội DNT Quốc tế (JCI) phát triển và hoạt động theo 5 lĩnh vực lớn: Kinh doanh: cung cấp cho hội viên cơ hội và các mối quan hệ cần thiết để phát triển kinh doanh thông qua hàng loạt diễn đàn doanh nghiệp toàn cầu. Quản trị: tổ chức các khoá huấn luyện quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm quản lý hành chính bằng việc giúp các hội viên tham gia nhiều dự án nhỏ, vừa và lớn có tới hàng nghìn nhân viên với quy mô lớn, ngân sách hàng triệu USD. Nhân lực: JCI luôn cố gắng giúp hội viên tăng cường năng lực cá nhân, phát huy hết khả năng quản lý và kinh doanh của họ. Cung cấp các cơ hội trở thành người vận hành hoặc đứng đầu dự án tại địa phương và cộng đồng. Phát triển cộng đồng: hằng năm JCI tiến hành hàng nghìn dự án hiện có hơn 9.000 cộng đồng trên thế giới đang thụ hưởng các dự án của JCI. Các hội viên hỗ trợ phát triển cộng đồng của JCI thống nhất thực thi các chương trình xã hội như "Những ảnh hưởng lớn của JCI" (1997 - 2001) với hàng loạt các chiến dịch " JCI chiếc cầu nối tới thiên niên kỷ mới", "Thanh niên và Trẻ em", "Hoà bình" và "Không ngừng phát triển". Bài học về công tác của các Hội doanh nghiệp đối với Việt Nam Thông qua mô hình tổ chức và hoạt động của một số Hội doanh nghiêp thể giới cho thấy, hoạt động của Hội, câu lạc bộ doanh nghiệp chỉ mạnh và ổn định khi được tổ chức tốt, đặc biệt là có bộ máy lãnh đạo và bộ máy điều hành đủ năng lực. Về cơ cấu tổ chức phải gọn và tinh - Việc lựa chọn cán bộ phải có chuyên môn, những người lãnh đạo của Hiệp hội phải do quá trình Hiệp thương bầu ra. Các chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên thường trực đều do Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng Giám đốc của các doanh nghiệp lớn ngành đó đảm nhiệm với nhiệm kỳ là 2 năm. Việc chọn lựa ngọn cờ (Chủ tịch Hội, Chủ nhiệm CLB) ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tập hợp và phát triển của Hội, CLB DN. Người giữ vai trò ngọn cờ là các nhà DN có tầm cỡ, có uy tín, có hiểu biết rộng và đặc biệt là tâm huyết với phong trào, bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của Hội, CLB DN, ngay cả khi phong trào gặp khó khăn. Về tổ chức thực hiện Cần áp dụng chế độ Đại hội toàn thể hội viên. Trong Đại hội toàn thể Hội viên, các Hội viên của Hiệp hội có quyền nêu ra các yêu cầu trong mọi lĩnh vực công tác của Hiệp hội đồng thời được biểu quyết đối với kế hoạch của Hiệp hội. Cần thực hiện chế độ tự chủ về kinh phí nhất là nguồn kinh phí thu từ hội viên. Các đơn vị tham gia và các hoạt động của Hiệp hội nhưng không phải là hội viên chính thức thì phải đóng hội phí cao hơn các hội viên chính thức. Các hội viên chính thức có quyền xem xét và dự toán kinh phí của Hiệp hội. Về phát huy vai trò của Hiệp hội - Các DN có nhu cầu và thích giao lưu, gặp gỡ, Hội DN cần tổ chức buổi sinh hoạt có hình thức mềm mại, tạo điều kiện về thời gian và không gian cho việc gặp gỡ, giao lưu của hội viên. - Trong 1 năm Hội DN cần tổ chức 2 - 3 hoạt động lớn có nội dung thiết thực vừa đáp ứng nhu cầu hội viên vừa để qui tụ và phát triển hội viên mới. - Vai trò bảo trợ và nòng cốt của tổ chức Hội là rất quan trọng. Nơi nào lãnh đạo Hội quan tâm, nơi đó Hội DN phát triển tốt và ổn định. - Hội cần quan tâm bồi dưỡng, chuẩn bị lực lượng cán bộ đủ năng lực để triển khai công tác đoàn kết, tập hợp giới doanh nghiệp. Thực tiễn vừa qua cho thấy đang rất thiếu những cán bộ Hội vừa giỏi về công tác doanh vận, vừa có kiến thức về kinh tế và doanh nghiệp để tiếp cận giới doanh nghiệp và triển khai công tác doanh nghiệp có hiệu quả. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP TRONG THỜI GIAN QUA 2.1 Trước khi gia nhập WTO 2.1.1 Tình hình chung Từ sau khi đất nước giải phóng, Đảng và nhà nước ta đã quan tâm, ban hành Luật về hoạt động Hội năm 1975. Luật về hoạt động Hội ra đời tạo một điều kiện pháp lý cho các Hiệp hội ra đời và sự tham gia của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế thời gian đó còn rất khó khăn cho nên giải quyết tình hình kinh tế, đưa đất nước phát triển nói chung và phát triển các doanh nghiệp nói riêng sao cho nâng cao đời sống của người dân là một nhiệm vụ hàng đầu. Mặt khác, số lượng doanh nghiệp lúc này còn rất ít chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Trong thời gian này, các Hiệp hội doanh nghiệp chưa được ra đời nhưng vẫn tồn tại các câu lạc bộ, trung tâm tư vấn cho các thành viên của doanh nghiệp hoạt động nhưng các câu lạc bộ này chiếm số lượng rất ít đa số tồn tại dưới hình thức sinh hoạt Đoàn, Đảng, Công đoàn. Trong thời kỳ trước đổi mới, khi cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung được áp dụng ở nước ta, số lượng doanh nghiệp rất ít, chủ yếu là doanh nghiệp quốc doanh, mà số lượng lúc cao nhất là thời điểm tháng 1/1990 cũng chỉ đạt trên 12.000 doanh nghiệp. Kể từ năm 1986, khi Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới tại nước ta, những điều kiện cần thiết cho sự ra đời của giới doanh nghiệp mới từng bước hình thành. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, tháng 12/1990 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua và ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty, tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và theo đó các hội doanh nghiệp cũng bắt đầu hình thành. Do Chính phủ có chủ trương tạm dừng việc thành lập các Hội mới từ tháng 10/1990 (Thông báo số 5030/CCHC ngày 7/10/1996 của Văn phòng Chính phủ) mà hàng loạt các Hiệp hội doanh nghiệp đã rất khó khăn trong giai đoạn này. Đây là nguyên nhân chính khiến công tác đoàn kết, tập hợp doanh nghiệp và hội viên của doanh nghiệp bị suy giảm, phong trào của các doanh nghiệp trong công tác Hội lúng túng vì không có lối ra về tổ chức, các hội viên doanh nghiệp hoang mang về tư tưởng, có người giảm sút lòng tin. Theo điều tra, thì tốc độ phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam từ tháng 10/1992 đến tháng 8/1993 đã tăng từ 2027 doanh nghiệp lên 9389 doanh nghiệp (tăng 4,63 lần). Số liệu thống kê doanh nghiệp theo Chỉ thị 667/TTg của Thủ tướng Chính phủ cho thấy tại thời điểm ngày 1/4/1997 cả nước có: - Gần 6000 doanh nghiệp quốc doanh. - 25.517 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - 1.227.007 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể. Sau khi Luật Doanh nghiệp mới có hiệu lực thi hành năm 2000, số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có sự phát triển mạnh mẽ. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tại thời điểm tháng 8/2003 tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã lên tới 80.000 (tăng 40 lần so với năm 1992), trong đó có tới 29% tham gia vào các Hiệp hội doanh nghiệp. Số lượng các Hợp tác xã sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đạt trên 20.000, số hộ kinh doanh cá thể đạt trên 2,5 triệu đơn vị. Do việc sắp xếp lại các các doanh nghiệp quốc doanh, số lượng doanh nghiệp thuộc khối này đã giảm xuống còn trên 5000 doanh nghiệp, nhưng số lượng các hiệp hội doanh nghiệp tăng lên có khoảng 150 hiệp hội. Sự hình thành của các Hiệp hội doanh nghiệp nước ta là một kết quả tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế, với những thay đổi cơ bản về cơ chế quản lý và cơ cấu nền kinh tế. Năm 2006, Quốc hội thông qua Luật về Hội tạo điều kiện cho Hiệp hội doanh nghiệp ngày càng phát triển nhất là về số hội viên. Về cơ bản, các Hiệp hội doanh nghiệp có thể chia ra thành ba nhóm. Nhóm hội doanh nghiệp lớn, nhu cầu quan trọng nhất là cung cấp thông tin về phương pháp quản lý. Với các hội doanh nghiệp trung bình, việc gặp mặt đối thoại với cơ quan quản lý nhà nuớc mới được coi là cấp thiết nhất. Trong khi đó, các hội doanh nghiệp nhỏ cho rằng họ rất cần sự hỗ trợ để phát triển các dịch vụ mới cho hội viên. Thời gian qua, một số Hiệp hội doanh nghiệp đã thể hiện rất rõ vai trò của mình đối với các doanh nghiệp như Hiệp hội Thủy sản, Hiệp hội Dệt may, Hiệp hội da giầy Việt Nam… Các hiệp hội này đã có nhiều tác động tích cực khi các doanh nghiệp vấp phải các rào cản thương mại (chống trợ cấp, chống bán phá giá…)nhất là hiệp hội Thủy sản. Cho đến nay vẫn chưa có một số liệu thống kê chính xác về số lượng các hiệp hội doanh nghiệp từ các cơ quan quản lý nhà nước. Con số thường được nhắc đến trong báo cáo của Bộ Nội vụ là khoảng 320 hội các loại có phạm vi hoạt động trong toàn quốc (trong đó, có 70 hội của các tổ chức kinh tế) và khoảng 2.150 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Riêng trong phạm vi tỉnh, thành phố, theo một khảo sát chưa đầy đủ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đến năm 2005 cả nước có 283 hiệp hội doanh nghiệp hoạt động. Trong đó, tập trung chủ yếu tại các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội có 78 hiệp hội (chiếm gần 28%), Tp.HCM: 42 (15%), Bà Rịa-Vũng Tàu: 13 (gần 5%), Đà Nẵng: 12 (4,2%)... Số lượng hiệp hội tăng nhanh, đặc biệt là từ năm 2003, sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 88 về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Trước thời điểm này, theo ước tính cả nước chỉ có khoảng 50 hiệp hội doanh nghiệp. Không chỉ số lượng hiệp hội tăng mà số hội viên của các hiệp hội cũng tăng rất mạnh. Theo điều tra, đối với 64 hiệp hội doanh nghiệp, trung bình vào thời điểm thành lập những hiệp hội này có 212 hội viên nhưng đến năm 2006 con số này đã tăng lên 892 (tăng 425%). Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam khi thành lập có 271 hội viên, đến nay đã có 7.301 hội viên (tăng 2.694%). Hội Nghề cá vào thời điểm thành lập có 7.000 hội viên, sáu năm sau, tức đến năm 2006 đã có 27.000 hội viên. Năm 1989, Hiệp hội Doanh nghiệp Tp.HCM chỉ có 300 hội viên, đến nay đã có 3.000 hội viên... Sự tăng nhanh của các hiệp hội doanh nghiệp và số lượng hội viên dù xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, nhưng cơ bản vẫn không nằm ngoài nhu cầu “buôn có bạn, bán có phường” trong cuộc cạnh tranh kinh tế ngày càng tăng Để chung sức đưa thị trường nhà đất thoát khỏi tình trạng đóng băng, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này đã lập ra Hiệp hội Bất động sản Tp.HCM. Chỉ chưa đầy hai năm sau, đã có 300 doanh nghiệp xin tham gia hiệp hội. Vai trò của Hiệp hội Dệt may Việt Nam cũng “nóng” lên qua những đợt cấp quota dệt may xuất khẩu (“đấu” với Bộ Thương mại để tìm phương án cấp khả thi). Khi giá cà phê thế giới tăng, giảm, chao đảo người ta lại hướng về những động thái của Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam. Nhưng bước ngoặt lớn nhất trong nhận thức về vai trò của hội nghề nghiệp có lẽ phải đến năm 2003 với việc Vasep trở thành “bà đỡ” cho các doanh nghiệp bị đơn trong vụ Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá ba sa. Một Vasep năng nổ, cáng đáng những công việc mà từng doanh nghiệp khó có thể kham nổi cũng như Nhà nước không có quyền bao biện được như thuê luật sư, quyên góp tài chính, tổ chức “lobby”, hội thảo, tranh thủ các nguồn lực khác... đã tạo nên một hình ảnh lạ, một tư duy mới về hiệp hội. Các doanh nghiệp bắt đầu thấm thía: làm ăn thời hội nhập, càng không thể thiếu “bạn”, thiếu “phường”! Tiến xa hơn một bước nữa, đến nay đã có bốn hiệp hội trực tiếp tham gia với tư cách đại diện ủy quyền của các doanh nghiệp bị đơn trong các vụ kiện chống phá giá như Hội Nghề cá Việt Nam, Hiệp hội Xe đạp - xe máy Việt Nam, Hiệp hội Nhựa Tp.HCM, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Cà Mau. Riêng Hiệp hội Xe đạp - xe máy Việt Nam tham gia tới hai vụ tranh chấp. 2.1.2 Tình hình hoạt động cụ thể Nhìn chung, số lượng các Hiệp hội doanh nghiệp đã tăng lên nhiều, chất lượng hoạt động cũng có nhiều thay đổi đáng kể. Các Hiệp hội doanh nghiệp đã dần dần chứng tỏ vai trò của mình đối với các doanh nghiệpVới nỗ lực nâng cao năng lực tổ chức hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp, tình hình phát triển mạng lưới của các Hiệp hội đã có bước tiến nhảy vọt. 2.1.2.1 Về cơ cấu tổ chức Cơ cấu tổ chức chung của các Hiệp hội doanh nghiệp về cơ bản có một Hiệp hội doanh nghiệp trung ương quản lý các Hiệp hội địa phương. Hoạt động của các Hiệp hội địa phương đều thống nhất và có liên quan chặt chẽ với Trung ương. Các Hội trung ương điều hành và phát triển các hoạt động tổng thế nhưng việc liên hệ với các hội viên doanh nghiệp được thực hiện thông qua hội doanh nghiệp tỉnh. Tuy nhiên, hầu hết các Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh đều mới được thành lập và vẫn trong giai đoạn phát triển đầu tiên. Điều này thể hiện thông qua số nhân viên chuyên trách của văn phòng các Hiệp hội doanh nghiệp nhất là các văn phòng của các Hiệp hội địa phương. Theo điều tra của MCG thì chỉ có 12% Hiệp hội doanh nghiệp ở địa phương cho rằng họ có nhiều hơn 3 nhân viên chuyên trách trong khi 55% chỉ có một hoặc hai nhân viên chuyên trách. Một phần ba các Hiệp hội doanh nghiệp địa phương nói rằng họ không có bất kỳ nhân viên chuyên trách nào. Điều này cho thấy, tình hình cơ cấu tổ chức về nhân sự của đa số các Hiệp hội còn yếu kém. Số nhân viên chuyên trách không nhiều vì thế mà hoạt động của Hội doanh nghiệp nhất là các Hội doanh nghiệp địa phương chưa thực sự là cầu nối liên kết doanh nghiệp với các cơ quan hữu quan trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, đa số các chức danh lãnh đạo của các Hiệp hội doanh nghiệp đều do các nhà doanh nghiệp đảm nhận. Điều này, có lợi cho Hiệp hội trong chức năng bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp tuy nhiên do chủ tịch các Hiệp hội kiêm quản lý doanh nghiệp cũng có những khó khăn riêng như: về thời gian, về phương thức quản lý… Hình 2.1 Tổ chức của các Hiệp hội doanh nghiệp địa phương. (Nguồn: Báo cáo đánh giá nhu cầu Hội viên của MCG) Theo hình trên, tất cả các Hội doanh nghiệp đều có cơ cấu tổ chức bao gồm một chủ tịch và một ban chấp hành. Có 52% các Hiệp hội doanh nghiệp cho rằng họ đã thành lập ít nhất một tiểu ban, theo ngành hoặc theo chức năng. Có đến 97% chủ tịch Hội là doanh các doanh nhân đảm nhận nhưng có tớ 36% các Hiệp hội có vị tổng thư ký và 36% có vị trí Chánh văn phòng. Ngoài ra, các Văn phòng Hội doanh nghiệp thường có mức độ ứng dụng công nghệ thông tin thấp. Thông tin trao đổi với các hội viên thường qua hình thức EMS, điện thoại đã hạn chế rất nhiều mức độ truyền thông của thông tin. Hình 2.2 Mức độ ứng dụng Công nghệ thông tin của các Hiệp hội địa phương. (Nguồn: Báo cáo đánh giá nhu cầu Hội viên của MCG) Nhận xét: Đa số các Hiệp hội doanh nghiệp đều có tổ chức tương đối chặt chẽ, tuy nhiên mô hình còn đơn điệu, mối liên hệ của Hiệp hội với các doanh nghiệp là hội viên chưa thực sự thể hiện vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp trong cầu nối giữa doanh nghiệp với các tổ chức trong và ngoài nước. Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin còn thấp, liên lạc chủ yếu giữa các Hiệp hội với hội viên chủ yếu thông qua các Hiệp hội địa phương. Các Hiệp hội lớn ở cấp Trung ương thường có mức ứng dụng công nghệ thông tin tương đối cao. 2.1.2.2 Về hội viên của các Hiệp hội doanh nghiệp Những hội viên năng động, tận tâm và đầy nhiệt huyết là nền tảng tạo nên thành công cho Hiệp hội. Hiệp hội doanh nghiệp muốn phát triển được, hoạt động có hiệu quả và quan trọng nhất muốn đạt được những thành tựu giúp ích cho xã hội thì cốt lõi chi phối thành công chính là sự ủng hội tự nguyện từ phía các thành viên của tổ chức. Trong thực tế, Hiệp hội chính là một nền dân chủ thu nhỏ, hoạt động vì lợi ích của các thành viên. Các hội viên bầu ra người lãnh đạo, những người này lại thiết kế các chương trình và dịch vụ có lợi cho hội viên. Ở Việt Nam các Hiệp hội doanh nghiệp thường tương đối khác nhau về quy môi hội viên. Tuy nhiên số hội viên đã tăng lên rất nhanh nhất là trong giai đoạn 2000 – 2005. Các Hiệp hội lớn như Hiệp hội doanh nghiệp trẻ, Hội doanh nghiệp vừa và nhỏ… thường có khoảng trên 60 các Hiệp hội thành viên. Sự gia tăng số hội viên của các Hiệp hội chủ yếu nhằm mục đích thiết lập mối quan hệ. Lý do này chiếm 94% lý do gia nhập Hiệp hội. Ngoài ra, các Hôi viên gia nhập Hiệp hội còn nhằm mục đích trao đổi kinh nghiệm, tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Những hoạt động hỗ trợ như tiếp cận thông tin, đào tạo, dịch vụ pháp lý và tài chính không được các hội viên đánh giá như là yếu tố hấp dẫn gia nhập hiệp hội. Nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, các dịch vụ đi kèm của Hiệp hội là rất quan trọng nhất là tiếp cận dịch vụ pháp lý. Trong thực tế hiện nay, các doanh nghiệp thường bị thua kiện do không đuợc hỗ trợ dịch vụ pháp lý đúng lúc, các thông tin về pháp lý còn thiếu thốn. Điều này đặt ra cho các Hiệp hôi doanh nghiệp một thách thức hoạt động để nâng cao dịch vụ pháp lý. Các vụ kiện bán phá giá như vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa, vụ kiện bán phá giá xe đạp, bật lửa ga….cho thấy sự tham gia của hiệp hội là rất mờ nhạt. Duy chỉ có Hiệp hội Thủy sản Việt Nam được đánh giá là tương đối thành công trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý, trong các vụ kiện của nước ngoài đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản thì Hiệp hội này có vai trò rất tích cực trong việc bảo vệ quyền lợi cho ngành hải sản Việt Nam. Đồng thời, Hiệp hội này cũng rất tích cực giúp các doanh nghiệp hội viên tăng sức cạnh tranh bằng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo những tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm, lobby, thuê luật sư nước ngoài…Hình sau sẽ mô tả rõ hơn lý do gia nhập của các Hội viên của các Hiệp hội doanh nghiệp. Hình 2.3: Các lý do gia nhập Hiệp hội doanh nghiệp (Nguồn: Báo cáo đánh giá nhu cầu Hội viên của MCG) Hầu hết các lý do chính khiến các hội viên rời bỏ Hiệp hội gắn nhiều với thay đổi tự nhiên. Hầu hết thay đổi đều mang tính pháp lý như sát nhập, thôn tính hoặc phá sản. Bên cạnh đó, phí hội viên là một gánh nặng đáng kể đối với hội viên, khiến họ cân nhắc việc rút khỏi hội ngoài các lý do trên. Bên cạnh các quyền lợi mà hội viên được hưởng khi gia nhập Hiệp hội, thì nguồn doanh thu chủ yếu của Hiệp hội là phí hội viên. Hầu hết các Hiệp hội đều áp dụng phí cố định với hội viên, còn một số Hiệp hội có thể tính phí dựa vào quy mô. Các Hiệp hội thường áp dụng mức phí rất khác nhau. Phần lớn 88% Hiệp hội áp dụng mức phí dưới 1,2 triệu đồng/năm hoặc ít hơn 100 000 đồng/tháng. Chỉ có 12% số Hiệp hội có mức phí trung bình trên 2 triệu đồng/năm. Những nguồn thu nhập chính của Hiệp hội là: phí hội viên, tài trợ của hội viên, đóng góp cho các sự kiện lớn. Hình 2.4 Những nguồn thu chính của Hiệp hội (Nguồn: Báo cáo đánh giá nhu cầu Hội viên của MCG) Nhận xét: Nhu cầu gia nhập Hiệp hội là rất đa dạng tuy nhiên đa số các Hội viên đều tìm đến các Hiệp hội chủ yếu để tìm kiếm mối quan hệ. Mối quan hệ này ngoài việc giao lưu với các hội viên còn là việc tiếp cận, đối thoại với cơ quan Nhà nước, hội thảo về chính sách… Hiện nay, các hội viên chưa thực sự tìm được niềm tin của mình với Hiệp hội trong việc tiếp cận dịch vụ pháp lý. Đây là một yếu điểm tương đối lớn trong hoạt động của một số Hiệp hội doanh nghiệp. Mặt khác, việc tạo niềm tin cho hội viên và duy trì số hội viên ổn định và gia tăng là một vấn đề cần quan tâm đối với các Hiệp hội. 2.1.2.3 Về công tác xây dựng phát triển tổ chức Hội Công tác xây dựng phát triển tổ chức Hội thường được các Hiệp hội rất quan tâm, chú trọng để gia tăng số hội viên cũng như duy trì tổ chức bộ máy, Thông qua công tác thông tin, tuyên truyền về hoạt động của Hiệp hội để kết nạp hội viên và nhằm gia tăng uy tín Hội, chất lượng của hội viên. Hiện nay, các Hội lớn đã khẳng định được vị thế của Hội trong xã hội, được chính quyền quan tâm và tạo điều kiện. Đa số các Hội đã xây dựng được bộ máy văn phòng thường trực Hội, có trụ sở riêng, có trang thiết bị làm việc, tuyển dụng được đội ngũ cán bộ chuyên trách có chuyên môn, tận tâm trong công việc. Tuy nhiên một số Hội còn chưa đầu tư thỏa đáng cho Văn phòng thường trực hội hoạt động hiệu quả, thiếu trang thiết bị và phương tiện làm việc, chưa có cán bộ chuyên trách, cán bọ văn phòng Hội vừa yếu về chuyên môn và năng lực tổ chức hoạt động. 2.1.2.4 Về hoạt động của các Hiệp hội doanh nghiệp Dựa vào chức năng của các Hiệp hội doanh nghiệp có thể chia ra các hoạt động của Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam thành 3 nhóm chính: đại diện quyền lợi, dịch vụ hỗ trợ kinh doanh và các hoạt động xã hội khác. Tuy nhiên, hoạt động cộng đồng, xây dựng mạng lưới quan hệ và đào tạo là ba hoạt động chính mà các Hiệp hội thường tổ chức nhiều nhất. Đối với hoạt động xã hội cộng đồng, tới 66% Hiệp hội cho rằng họ tổ chức nhiều hơn ba sự kiện trong một năm, 38% tổ chức các sự kiện về xây dựng mạng lưới quan hệ và đào tạo là 30%. Những hoạt động ít được tổ chức hoặc chỉ có một lần trong năm là những hoạt động mà hội viên ít có nhu cầu khoặc kà khá phức tạp đối với các Hiệp hội trong quá trình tổ chức. Những hoạt động liên quan nổi trội là những dịch vụ hỗ trợ kinh doanh với 67% Hiệp hội cho rằng họ không hoặc chỉ tổ chức một sự kiện trong năm, với sự kiện liên quan đến giao tiếp là 43%. Sau đây, là biểu đồ đánh giá tần suất các hoạt động của các Hiệp hội. Nhìn vào biểu đồ ta có thể thấy, các hoạt động như: xúc tiến thương mại, hoạt động xã hội, đào tạo, gặp mặt giao lưu là những hoạt động được tổ chức nhiều lần trong năm. Điều này, cũng nói lên tầm quan trọng của các hoạt động đó. Trong khi đó, hoạt động đối thoại với nhà nước, hội thảo không được các hội viên quan tâm nhiều. Hình 2.5 Tần suất các hoạt động của các Hiệp hội (Nguồn: Báo cáo đánh giá nhu cầu Hội viên của MCG) Tuy nhiên, mỗi mô hình Hiệp hội lại có mức đọ quan tâm và tổ chức các hoạt động khác nhau. Có thể thấy việc gặp mặt đối thoại với các nhà hoạch định chính sách/ cơ quan nhà nước, việc giúp Hội phát triển thêm dịch vụ cho hội viên của mình cũng như cung cấp thông tin về các phương pháp quản lý mới đang trở thành cấp thiết đối với các Hiệp hội nhưng các hoạt động này chưa được quan tâm đúng mức. Theo đánh giá của các Hiệp hội về ba hoạt động cơ bản là không đồng nhất. Với mỗi quy mô khác nhau, các hội sẽ có nhu cầu riêng. Với những hiệp hội nhỏ, phát triển dịch vụ hỗ trợ kinh doanh là cần thiết trong khi đó nhóm hiệp hội trung bình lại coi đối thoại với các nhà hoạch định chính sach/ cơ quan Nhà nước mới là quan trọng nhất. Cuối cùng đối với nhóm hiệp hội lớn, việc cung cấp thông tin, đại điện pháp lý mới là điều mà họ quan tâm. Hình 2.6 Sự khác biệt giữa các Hiệp hội đới với các hoạt động chính. (Nguồn: Báo cáo đánh giá nhu cầu Hội viên của MCG) Nhận xét: Hoạt động của Hiệp hội bao gồm nhiều hoạt động lớn, trải ra nhiều vấn đề khác nhau. Đối với các Hiệp hội quy mô lớn, các hoạt động của Hiệp hội tương đối đa dạng. Một số Hiệp hội đã có thành công trong các hoạt động nhất định như: Hiệp hôi Thủy sản Việt Nam với hoạt động bảo vệ quyền lợi của hội viên, cung cấp thông tin, Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam với hoạt động hỗ trợ kinh doanh … Hoạt động đại diện quyền lợi, gặp gỡ đối thoại với lãnh đạo Đảng và Nhà nước Sự tham gia xây dựng chính sách, pháp luật kinh tế của các Hiệp hội là tất yếu xuất phát bản chất kinh tế - chính trị của xã hội ta hiện nay, thể hiện ở sự phân công chức năng giữa các thiết chế xã hội trong nền kinh tế thị trường là nhà nước - thị trường - tổ chức xã hội dân sự. Trong lịch sử nền sản xuất hàng hoá và quan hệ thương mại quốc tế, hiệp hội của những người sản xuất và lưu thông đã được hình thành một cách tự nhiên xuất phát từ nhu cầu không thể thiếu của các thương nhân là phải tập hợp, đoàn kết tương trợ, giúp nhau trong hoạt động nghề nghiệp kinh doanh và để bảo vệ các lợi ích của mình một cách có hiệu quả hơn trước những nguy cơ và hiểm họa có thể xảy ra. Tập quán liên minh, cố kết của các thương gia đã được tiền nhân đúc kết: “buôn có bạn, bán có phường”. Nhưng cũng từ đây, đã dần dần hình thành nên các tập quán, các thông lệ thương mại như là “luật chơi” của các chủ thể tham gia quan hệ kinh tế, thương mại. “Luật” này được hình thành với sự tham gia của các “phường hội” những người kinh doanh và được các chủ thể tự nguyện chấp hành dựa trên sự bảo đảm của “chữ tín” - sự bảo đảm hoàn toàn mang tính xã hội, chứ không dựa trên sức mạnh của quyền lực công như đối với luật của nhà nước. Tuy nhiên, chính nhà nước đã phải thừa nhận các tập quán, thông lệ đó ở chừng mực nhất định (phù hợp với lợi ích của nhà nước) và đứng ra bảo đảm cho các quy định của “luật chơi” được thực hiện trên thực tế. Đây là một trong những phương thức có tính lịch sử trong việc hình thành hệ thống luật thương mại quốc tế và đến xã hội hiện đại ngày nay, nhiều tập quán thương mại ở các nước và các khu vực cũng như toàn cầu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của nó. Đồng thời, vai trò của các hội nghề nghiệp kinh doanh, thương mại đối với việc xây dựng và thực thi hệ thống chính sách, pháp luật về lĩnh vực này ngày càng được thể hiện một cách tích cực hơn, nhất là trong điều kiện các quan hệ kinh tế, thương mại đang được quốc tế hoá một cách toàn diện và sâu sắc. Thứ nhất, về hoạt động đại diện quyền lợi. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp hội viên là một trong những mục tiêu hoạ._.c ứng dụng thương mại điện tử phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoặc nghiên cứu hay cung cấp các dịch vụ về thương mại điện tử. Hiệp hội hoạt động trên cơ sở tự nguyện, phi lợi nhuận, nhằm mục đích tập hợp, đoàn kết, hợp tác, hỗ trợ, bảo vệ các hội viên để phát triển lĩnh vực thương mại điện tử ở Việt Nam. Điều 3: Phạm vi hoạt động Hiệp hội hoạt động trong phạm vi cả nước, theo pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo quy định của Nhà nước về hoạt động của Hiệp hội và theo Điều lệ này. Điều 4: Địa vị pháp lý Trụ sở chính của Hiệp hội đặt tại Hà Nội và sẽ xin phép mở văn phòng đại diện ở địa phương theo quy định của pháp luật khi có nhu cầu. Hiệp hội có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài sản, độc lập về tài chính, có tài khoản tại ngân hàng, có các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, nhà xuất bản trực thuộc Hiệp hội. Việc thành lập các tổ chức, đơn vị, nhà xuất bản thực hiện theo quy định của pháp luật. CHƯƠNG II: NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN Điều 5: Nhiệm vụ và quyền hạn 1. Đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của hội viên. 2. Đại diện, tập hợp, nghiên cứu ý kiến của các hội viên để phản ánh, kiến nghị, đề đạt với Chính phủ các vấn đề liên quan tới lĩnh vực thương mại điện tử. Làm cầu nối giữa hội viên để tham gia với Chính phủ, các ngành, địa phương, các tổ chức về các vấn đề chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển, cung cấp thông tin, chương trình hỗ trợ liên quan tới lĩnh vực thương mại điện tử. 3. Tư vấn, phản biện các vấn đề liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân. 4. Tham gia xây dựng và thực hiện các chiến lược, kế hoạch phát triển thương mại điện tử phù hợp với các quy định của pháp luật. 5. Tư vấn, hỗ trợ, hợp tác, liên kết giữa các hội viên, trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong lĩnh vực ứng dụng và phát triển thương mại điện tử và các vấn đề liên quan đến lĩnh vực này. 6. Tổ chức các diễn đàn, đối thoại, các cuộc tiếp xúc giữa hội viên và các đối tượng khác trong và ngoài nước để trao đổi thông tin, xúc tiến thương mại điện tử. 7. Tổ chức cung cấp thông tin, phổ biến chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, vận động nhằm xã hội hoá thương mại điện tử. 8. Giúp các hội viên giải quyết bất đồng, tranh chấp thông qua thương lượng, hoà giải khi có tranh chấp xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. 9. Tham gia với các cơ quan chức năng của nhà nước để tổ chức đào tạo chuyên môn về thương mại điện tử cho các hội viên và các đối tượng khác. 10. Tổ chức khảo sát, học tập kinh nghiệm triển khai thương mại điện tử trong và ngoài nước. 11. Xuất bản, in ấn, phát hành báo, tạp chí và các ấn phẩm chuyên ngành theo quy định của pháp luật. 12. Tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại điện tử. Tham gia các hiệp hội thương mại điện tử trong khu vực và quốc tế theo quy định của pháp luật. 13. Thực hiện các công việc khác khi Chính phủ giao hoặc các tổ chức khác ủy quyền. 14. Tổ chức các trung tâm đào tạo, tư vấn trực thuộc Hiệp hội khi có nhu cầu, theo quy định của pháp luật. 15. Quản lý và sử dụng tài sản, tài chính của Hiệp hội theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ của Hiệp hội. CHƯƠNG III: HỘI VIÊN Điều 6: Loại hội viên 1. Hội viên chính thức: các cá nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân của Việt Nam trực tiếp kinh doanh bằng thương mại điện tử; hoặc ứng dụng thương mại điện tử phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh; hoặc nghiên cứu hay cung cấp các dịch vụ về thương mại điện tử, có tâm huyết với Hiêp hội, tự nguyện đăng ký tham gia, cam kết chấp hành Điều lệ này đều có thể trở thành hội viên chính thức của Hiệp hội. 2. Hội viên liên kết: các doanh nghiệp nước ngoài hoặc văn phòng đại diện (bao gồm cả các doanh nghiệp, tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài), có đóng góp cho sự phát triển của Hiệp hội, tự nguyện xin gia nhập, cam kết chấp hành Điều lệ này đều có thể trở thành hội viên liên kết của Hiệp hội. 3. Hội viên danh dự: cá nhân hoặc doanh nghiệp được Ban Chấp hành Hiệp hội nhất trí mời làm hội viên danh dự của Hiệp hội. Điều 7: Thủ tục gia nhập 1. Các đối tượng có đủ điều kiện ghi ở khoản 1 và 2 của Điều 6 muốn gia nhập Hiệp hội cần làm đơn (theo mẫu quy định). Việc kết nạp hội viên mới do Ban Thường trực Hiệp hội quyết định. 2. Người đại diện trong trường hợp hội viên là doanh nghiệp hoặc tổ chức tham gia Hiệp hội phải là người có thẩm quyền quyết định. Trong trường hợp uỷ nhiệm, người được uỷ nhiệm làm người đại diện phải có đủ thẩm quyền quyết định và người được uỷ nhiệm phải chịu trách nhiệm về sự uỷ nhiệm đó. 3. Các đối tượng chính thức trở thành Hội viên sau khi đóng các khoản lệ phí theo quy định của Hiệp hội. Điều 8: Quyền lợi 1. Được hưởng những lợi ích từ các hoạt động của Hiệp hội như đã nêu ở Điều 5. 2. Hội viên chính thức được dự đại hội, được ứng cử, đề cử, biểu quyết, bầu cử các chức vụ lãnh đạo của Hiệp hội cũng như của chi hội cơ sở; thảo luận, biểu quyết các nghị quyết của Hiệp hội; được phê bình, chất vấn Ban Chấp hành Hiệp hội về mọi chủ trương và hoạt động của Hiệp hội. 3. Được ra khỏi Hiệp hội khi không muốn tiếp tục là Hội viên. Trong trường hợp này, hội viên cần thông báo chính thức bằng văn bản trước 30 ngày cho Ban Thương trực Hiệp hội và sẽ nhận được sự đồng ý trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản của Hội viên. Hội viên xin ra khỏi Hiệp hội phải đóng đủ hội phí năm cuối cùng. 4. Hội viên danh dự và hội viên liên kết được hưởng các quyền như hội viên chính thức, trừ quyền ứng cử, biểu quyết, bầu cử các chức vụ lãnh đạo của Hiệp hội và biểu quyết các vấn đề của Hiệp hội. Điều 9: Nghĩa vụ 1. Tuân thủ Điều lệ và chấp hành các quyết định của Ban Chấp hành, Ban Thương trực Hiệp hội. 2. Đảm nhận những nhiệm vụ, công việc do Ban Chấp hành, Ban Thương trực Hiệp hội phân công. 3. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ báo cáo, cung cấp thông tin theo yêu cầu của Hiệp hội và không trái với quy định của pháp luật. 4. Đóng lệ phí gia nhập (lần đầu tiên) và lệ phí hàng năm đầy đủ và đúng kỳ hạn theo quy định của Ban Chấp hành Hiệp hội. Hội viên danh dự không phải đóng lệ phí và hội phí. 5. Đoàn kết, hỗ trợ, hợp tác, giúp đỡ các hội viên khác, giữ gìn uy tín chung của Hiệp hội. Điều 10: Chấm dứt tư cách hội viên Tư cách hội viên Hiệp hội sẽ bị chấm dứt khi xảy ra một trong những trường hợp sau: 1. Doanh nghiệp tự ngừng hoạt động, bị đình chỉ hoạt động, bị giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản. 2. Theo quyết định của Ban Chấp hành Hiệp hội với sự nhất trí của 1/2 ủy viên Ban Chấp hành khi hội viên vi phạm một trong các điều sau: a. Hoạt động trái với quy định của pháp luật Việt Nam b. Hoạt động trái với mục đích của Hiệp hội, gây tổn hại đến uy tín của Hiệp hội c. Không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của Hội viên, không thực hiện đúng hoặc vi phạm nghiêm trọng những quy định hoặc nghị quyết của Hiệp hội. CHƯƠNG IV: TỔ CHỨC CỦA HIỆP HỘI Điều 11: Hệ thống tổ chức của Hiệp hội Hệ thống tổ chức của Hiệp hội bao gồm: 1. Đại hội toàn thể 2. Ban Chấp hành Hiệp hội 3. Ban Thường trực Hiệp hội 4. Văn phòng Hiệp hội 5. Ban Kiểm tra 6. Ban Hội viên 7. Các Ban chuyên môn 8. Các phân hội và chi hội cơ sở 9. Các tổ chức trực thuộc Hiệp hội Điều 12: Đại hội toàn thể 1. Đại hội toàn thể là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hiệp hội, do Ban Chấp hành triệu tập 4 năm một lần, có nhiệm vụ: a. Thông qua báo cáo hoạt động của Hiệp hội trong nhiệm kỳ qua b. Quyết định phương hướng chương trình hoạt động của Hiệp hội trong nhiệm kỳ tới c. Xem xét và thông qua báo cáo tài chính của Hiệp hội d. Quyết định sửa đổi hoặc bổ sung Điều lệ của Hiệp hội (nếu có) e. Thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của Hiệp hội vượt quá thẩm quyền giải quyết của Ban Chấp hành f. Quyết định số lượng uỷ viên Ban Chấp hành và Ban Kiểm tra. Bầu ủy viên Ban Chấp hành và Ban Kiểm tra Hiệp hội. 2. Khi triệu tập Đại hội, Ban Chấp hành Hiệp hội phải công bố chương trình nghị sự của Đại hội và phải gửi thư mời hội viên ít nhất 20 ngày trước ngày dự định họp. 3. Trong trường hợp đặc biệt, khi có trên 1/2 tổng số hội viên hoặc 2/3 tổng số uỷ viên Ban Chấp hành yêu cầu thì Ban Chấp hành Hiệp hội sẽ triệu tập Đại hội bất thường. Nội dung của Đại hội bất thường do Ban Chấp hành quyết định. Điều 13: Nguyên tắc biểu quyết tại Đại hội 1. Đại hội biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Việc quy định hình thức biểu quyết do Đại hội quyết định. 2. Việc biểu quyết thông qua các quyết định của Đại hội phải được hơn 1/2 số hội viên chính thức tham dự Đại hội tán thành. 3. Đối với những vấn đề quan trọng sau đây thì phải được 2/3 số hội viên chính thức có mặt tán thành: a. Sửa đổi hoặc bổ sung Điều lệ. b. Giải thể và thanh lý tài sản. Điều 14: Ban Chấp hành Hiệp hội 1. Ban Chấp hành là cơ quan lãnh đạo cao nhất điều hành mọi hoạt động của Hiệp hội trong thời gian giữa hai kỳ Đại hội. 2. Số lượng thành viên của Ban Chấp hành do Đại hội quy định. Ban Chấp hành do Đại hội toàn thể hội viên bầu trực tiếp. 3. Việc bổ sung, thay thế số uỷ viên Ban Chấp hành Hiệp hội giữa hai kỳ Đại hội được thực hiện trên cơ sở đề xuất của Chủ tịch Hiệp hội và phải được sự tán thành của ít nhất 1/2 uỷ viên Ban Chấp hành. Điều 15: Nhiệm vụ của Ban Chấp hành 1. Điều hành mọi hoạt động của Hiệp hội. 2. Cụ thể hóa các nghị quyết của Đại hội và đề ra những biện pháp để thực hiện nghị quyết của Đại hội. 3. Quyết định cơ cấu tổ chức và bộ máy của Hiệp hội, bầu các chức danh lãnh đạo của Hiệp hội. 4. Xây dựng, ban hành các quy chế, nội quy làm việc của Ban Chấp hành và các tổ chức trực thuộc Hiệp hội (nếu có). 5. Chuẩn bị nội dung và triệu tập Đại hội toàn thể và bất thường. 6. Xét khen thưởng, kỷ luật hội viên. 7. Quyết định khai trừ hội viên do vi phạm những quy định tại điểu 10 của Điều lệ này. Điều 16: Nguyên tắc hoạt động của Ban Chấp hành 1. Ban Chấp hành họp thường kỳ 6 tháng một lần để sơ kết tình hình hoạt động của Hiệp hội. Ban Chấp hành có thể họp đột xuất khi có nhu cầu. 2. Các quyết định của Ban Chấp hành được lấy biểu quyết theo đa số thành viên có mặt. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định thuộc về ý kiến của Chủ tịch Hiệp hội. Điều 17: Ban Thường trực Hiệp hội 1. Ban Thường trực bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, Phó tổng thư ký, Chánh Văn phòng, có trách nhiệm thay mặt Ban Chấp hành Hiệp hội tổ chức thực hiện các hoạt động chuyên môn của Hiệp hội cũng như nghị quyết của Đại hội và của Ban Chấp hành. Ban Thường trực họp thường kỳ hai tháng một lần hoặc họp đột xuất theo đề nghị của Chủ tịch Hiệp hội. Nhiệm vụ của Ban Thường trực Hiệp hội: a. Ban Thường trực có trách nhiệm điều hành hoạt động của Hiệp hội giữa hai kỳ họp của Ban Chấp hành. b. Giám sát hoạt động của Văn phòng Hiệp hội, các Ban chuyên môn và các tổ chức trực thuộc Hiệp hội (nếu có). c. Xem xét những kiến nghị của hội viên để xử lý theo thẩm quyền, báo cáo Ban Chấp hành Hiệp hội giải quyết hoặc trình các cơ quan Nhà nước và các tổ chức khác có thẩm quyền để xử lý. d. Chuẩn bị báo cáo trình Ban Chấp hành Hiệp hội và trước Đại hội toàn thể. e. Xét duyệt việc gia nhập hội viên. Điều 18: Chủ tịch và Phó Chủ tịch 1. Chủ tịch Hiệp hội có quyền hạn và trách nhiệm: a. Đại diện chính thức cho Hiệp hội trước pháp luật và mọi tổ chức trong và ngoài nước b. Tổ chức triển khai thực hiện Điều lệ Hiệp hội, các Nghị quyết của Đại hội và các Nghị quyết, Quyết định, Quy chế của Ban Chấp hành Hiệp hội c. Chủ trì các cuộc họp của Ban Chấp hành, Ban Thương trực Hiệp hội. d. Ký quyết định thành lập hoặc giải thể các tổ chức trực thuộc Hiệp hội. Bổ nhiệm và bãi miễn các chức danh lãnh đạo của các tổ chức trực thuộc. 2. Các Phó Chủ tịch Hiệp hội giúp việc cho Chủ tịch, được Chủ tịch phân công giải quyết từng vấn đề cụ thể và được ủy quyền điều hành công việc của Ban Chấp hành Hiệp hội khi Chủ tịch vắng mặt. Điều 19: Tổng thư ký Hiệp hội Tổng thư ký là người chịu trách nhiệm trước Chủ tịch và Ban Chấp hành Hiệp hội trong việc quản lý điều hành hoạt động hàng ngày của Hiệp hội. Tổng thư ký điều hành trực tiếp hoạt động của các đơn vị trực thuộc, Văn phòng Hiệp hội và có nhiệm vụ cụ thể sau: 1. Xây dựng các quy chế hoạt động và quản lý của Văn phòng. 2. Quản lý tài chính, tài sản của Hiệp hội. 3. Định kỳ báo cáo cho Ban Chấp hành về các hoạt động của Hiệp hội. 4. Lập báo cáo hàng năm, báo cáo nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Hiệp hội. 5. Chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành và trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng Hiệp hội. 6. Các Phó Tổng thư ký Hiệp hội giúp việc cho Tổng thư ký, được Tổng thư ký phân công giải quyết từng vấn đề cụ thể và được ủy quyền điều hành công việc của Văn phòng Hiệp hội khi Tổng thư ký vắng mặt. Điều 20: Văn phòng Hiệp hội 1. Văn phòng Hiệp hội được tổ chức và hoạt động theo quy chế do Tổng thư ký trình Ban Chấp hành Hiệp hội phê duyệt. Văn phòng Hiệp hội là bộ phận thường trực giúp việc điều hành các hoạt động của Hiệp hội. Chánh Văn phòng giúp việc cho Tổng Thư ký trong điều hành và quản lý hoạt động hàng ngày của Văn phòng Hiệp hội. 2. Văn phòng Hiệp hội có thể được đặt tại các tỉnh, thành phố để thuận lợi cho việc triển khai công tác của Hiệp hội. 3. Các nhân viên của Văn phòng Hiệp hội được tuyển dụng và làm việc theo chế độ hợp đồng thời hạn. Điều 21: Ban Kiểm tra 1. Ban Kiểm tra gồm các thành viên do Đại hội bầu trong số các hội viên của Hiệp hội. Ban Kiểm tra bầu ra Trưởng ban để điều hành công việc của Ban. 2. Ban Kiểm tra hoạt động độc lập, có nhiệm vụ kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đại hội và việc thi hành Điều lệ của Hiệp hội. Trưởng ban Kiểm tra là ủy viên Ban Chấp hành. 3. Ban Kiểm tra có nhiệm vụ báo cáo trước Ban Chấp hành và trước Đại hội về hoạt động kiểm tra, giám sát và tình hình tài chính của Hiệp hội trong nhiệm kỳ qua. 4. Khi thấy cần thiết Ban Kiểm tra có thể thông báo tình hình và yêu cầu Ban Chấp hành giải quyết các vấn đề mà Ban Kiểm tra đã phát hiện theo nhiệm vụ được giao. 5. Giải quyết đơn thư khiếu nại của hội viên (nếu có). Điều 22: Ban Hội viên 1. Ban Hội viên gồm Tổng thư ký và các thành viên trong Ban Chấp hành do Chủ tịch chỉ định. 2. Ban Hội viên có nhiệm vụ và quyền hạn: a. Phát triển thành viên cho Hiệp hội b. Quy định các tiêu chuẩn để trở thành hội viên của Hiệp hội c. Xem xét các đơn xin gia nhập Hiệp hội. d. Trình Chủ tịch Hiệp hội quyết định chấp nhận đơn xin gia nhập Hiệp hội mà Ban Hội viên thấy đủ tiêu chuẩn. e. Làm thủ tục xóa tên trong danh sách các Hội viên không còn đủ tư cách Hội viên. Điều 23: Các Ban chuyên môn 1. Tùy theo nhu cầu phát triển trong hoạt động của Hiệp hội, Ban Chấp hành sẽ quyết định lập ra các Ban chuyên môn của Hiệp hội. 2. Các Trưởng ban do Chủ tịch bổ nhiệm, miễn nhiệm. 3. Chức năng hoạt động, quyền hạn và nghĩa vụ của các Ban chuyên môn do Ban Chấp hành Hiệp hội quy định. Điều 24: Phân hội và Chi hội Việc thành lập Phân hội và Chi hội phải được sự đồng ý của Ban Chấp hành Hiệp hội và cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Phân hội và Chi hội hoạt động theo quy chế được Ban Chấp hành Hiệp hội thông qua. CHƯƠNG V: TÀI CHÍNH CỦA HIỆP HỘI Điều 25: Nguồn thu của Hiệp hội 1. Lệ phí gia nhập và hội phí hàng năm của hội viên. 2. Các khoản thu hợp pháp từ các hoạt động có thu của Hiệp hội và các tổ chức trực thuộc của Hiệp hội (nếu có). 3. Các khoản tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. 4. Các khoản hỗ trợ của Nhà nước (nếu có). Điều 26: Các khoản chi của Hiệp hội 1. Chi cho các hoạt động thường xuyên và chuyên môn. 2. Mua sắm tài sản. 3. Duy trì hoạt động Văn phòng Hiệp bao gồm tài sản và lương cho cán bộ hợp đồng. 4. Các khoản chi cần thiết khác. Điều 27: Nguyên tắc tài chính Tài chính của Hiệp hội được quản lý theo các quy định hiện hành của Nhà nước. Hiệp hội hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối tài chính, tự chủ, lấy thu bù chi. CHƯƠNG VI: GIẢI THỂ HIỆP HỘI Điều 28: Điều kiện giải thể 1. Đại hội toàn thể ra nghị quyết. 2. Cơ quan cấp giấy phép thành lập Hiệp hội ban hành quyết định giải thể Hiệp hội. Mọi thủ tục giải thể sẽ phải tiến hành theo đúng quy định của Nhà nước. CHƯƠNG VII: KHEN THƯỞNG - KỶ LUẬT Điều 29: Khen thưởng - Kỷ luật 1. Hội viên, các tổ chức thuộc Hiệp hội có thành tích xuất sắc đóng góp xây dựng Hiệp hội được Ban Chấp hành quyết định khen thưởng hoặc đề nghị các cơ quan Nhà nước, các tổ chức khen thưởng theo quy định của pháp luật. 2. Hội viên, các tổ chức trực thuộc Hiệp hội nếu làm trái Điều lệ, Nghị quyết, Quyết định, Quy chế của Hiệp hội, làm tổn hại đến hình ảnh uy tín của Hiệp hội, tùy theo mức độ vi phạm sẽ phải bồi thường thiệt hại về tài chính và bị kỷ luật với các hình thức như: khiển trách, cảnh cáo, khai trừ ra khỏi Hiệp hội. 3. Ban Chấp hành Hiệp hội có trách nhiệm ban hành Quy chế về khen thưởng và kỷ luật hội viên. CHƯƠNG VIII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH Điều 30: Hiệu lực thi hành Bản Điều lệ của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam gồm 8 chương, 30 điều đã được Đại hội toàn thể lần thứ nhất thông qua ngày 24 tháng 7 năm 2007 tại Thành phố Hà Nội. Điều lệ của Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam chỉ có hiệu lực theo quyết định phê duyệt của Bộ Nội vụ và chỉ có Đại hội toàn thể của Hiệp hội mới có quyền được sửa đổi, bổ sung Điều lệ. Ban Chấp hành Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam có nhiệm vụ hướng dẫn thi hành bản Điều lệ này./. ĐIỀU LỆ HIỆP HỘI DOANH NGHIỆP PHẦN MỀM VIỆT NAM Chương I Tên gọi, tôn chỉ, mục đích Điều 1: - Tên Hội: Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam. - Tên tiếng Anh: Vietnam Software Association, - Tên gọi tắt: VINASA. Điều 2: Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam (sau đây gọi tắt là Hiệp hội) là tổ chức phi Chính phủ, đại diện cho ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, phi lợi nhuận nhằm mục đích hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các Hội viên để thúc đẩy sự phát triển công nghiệp phần mềm và bảo vệ quyền lợi của Hội viên trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam. Điều 3: Hiệp hội hoạt động theo pháp luật của Nhà nước Việt Nam, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản nội tệ, ngoại tệ tại Ngân hàng, có tài sản và tài chính riêng. Trụ sở của Hiệp hội đóng tại Hà Nội, khi cần thiết có thể xin phép thành lập văn phòng đại diện Hiệp hội ở địa phương theo quy định pháp luật hiện hành. Chương II Nhiệm vụ, quyền hạn Điều 4: Hiệp hội có nhiệm vụ, quyền hạn: 1. Đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Hội viên. 2. Hoạt động tích cực để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam theo định hướng chiến lược do Nhà nước đề ra, đặc biệt tập trung vào nhiệm vụ tạo điều kiện và thúc đẩy các hoạt động ứng dụng phần mềm, tin học hoá quốc gia và xuất khẩu phần mềm Việt Nam. 3. Hỗ trợ, hợp tác, liên kết giữa các Hội viên: Trao đổi thông tin, kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp đào tạo, liên kết trong sản xuất, ứng dụng và xuất khẩu phần mềm . 4. Làm đầu mối liên lạc với Chính phủ, các ngành, các địa phương, các tổ chức Nhà nước về các vấn đề chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển, cung cấp thông tin, chương trình hỗ trợ liên quan tới ngành phần mềm, tập hợp và trình các kiến nghị của các Hội viên với Chính phủ về các chính sách ưu tiên, ưu đãi khuyến khích phát triển công nghiệp phần mềm. 5. Làm đầu mối quan hệ, trao đổi với các Hiệp hội và các tổ chức Việt Nam và nước ngoài liên quan nhằm phục vụ cho sản xuất, ứng dụng và xuất khẩu phần mềm của các Hội viên; đại diện cho các hội viên tham gia vào các tổ chức quốc tế có liên quan đến lĩnh vực ngành hoạt động. 6. Tư vấn, phản biện các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công nghiệp phần mềm và công nghệ thông tin theo yêu cầu của các tổ chức, cá nhân. Triển khai các hoạt động nghiên cứu, khảo sát, đào tạo, lập và triển khai các chương trình, dự án trong lĩnh vực CNTT theo yêu cầu của các doanh nghiệp hội viên, các tổ chức, cá nhân. 7. Hỗ trợ trong việc thúc đẩy các hoạt động đầu tư, hợp tác đào tạo, chuyển giao công nghệ phần mềm với Việt kiều, các Chính phủ, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân ở nước ngoài. Chương III Hội viên Điều 5: - Các đơn vị pháp nhân Việt Nam (doanh nghiệp, tổ chức) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phần mềm và lĩnh vực dịch vụ công nghệ thông tin tự nguyện xin gia nhập Hiệp hội và cam kết chấp hành Điều lệ này đều có thể trở thành Hội viên chính thức của Hiệp hội. - Các đơn vị nước ngoài (doanh nghiệp, văn phòng đại diện) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh phần mềm và lĩnh vực dịch vụ công nghệ thông tin tự nguyện xin gia nhập Hiệp hội và cam kết chấp hành Điều lệ này đều có thể trở thành Hội viên liên kết của Hiệp hội. Hội viên liên kết có quyền lợi, trách nhiệm như hội viên chính thức, ngoại trừ quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào Ban chấp hành Hiệp hội. Điều 6: Các đơn vị muốn trở thành Hội viên Hiệp hội phải có đơn và phải được Ban Hội viên của Hiệp Hội chấp nhận. Ban Hội viên có nhiệm vụ và quyền hạn: ·       Vận động các tổ chức, doanh nghiệp phần mềm gia nhập Hiệp hội; ·       Quy định các tiêu chuẩn để trở thành hội viên của Hiệp hội; ·       Xem xét các đơn xin gia nhập Hiệp hội; ·       Quyết định chấp nhận những đơn xin gia nhập Hiệp hội mà Ban Hội viên thấy đủ tiêu chuẩn; ·       Xem xét các trường hợp xin rút khỏi Hiệp hội hoặc các Hội viên vi phạm kỷ luật, hoặc không còn đủ tư cách Hội viên để đề xuất và làm thủ tục xoá tên trong danh sách Hội viên. Thành phần của Ban Hội viên gồm: Chủ tịch, Tổng thư ký và 3 thành viên trong Ban Chấp hành do Chủ tịch chỉ định. Quyết định chấp nhận đơn xin gia nhập Hiệp hội phải được làm thành văn bản và được cả 5 thành viên của Ban hội viên ký vào. Thành viên của Ban hội viên có thể uỷ nhiệm cho bất kỳ thành viên nào khác trong Ban hội viên ký thay trong Quyết định chấp nhận đơn xin gia nhập Hiệp hội. Điều 7: Người đại diện của Hội viên Hiệp hội phải là người có thẩm quyền quyết định. Trong trường hợp ủy nhiệm, người được ủy nhiệm làm người đại diện phải có đủ thẩm quyền quyết định và người được ủy nhiệm phải chịu trách nhiệm về sự ủy nhiệm đó. Điều 8: Nghĩa vụ của Hội viên 1. Tuân theo Điều lệ của Hiệp hội và thi hành các quyết định đã được đại hội và Ban chấp hành Hiệp hội thông qua. 2. Đảm nhận những công việc được Ban Chấp hành Hiệp hội phân công. 3.       Đáp ứng những yêu cầu của Ban Chấp hành Hiệp hội về cung cấp thông tin, báo cáo. 4.       Đóng hội phí theo quy định của Ban Chấp hành Hiệp hội. Điều 9: Quyền lợi của Hội viên 1. Được hưởng những lợi ích có được từ những hoạt động của Hiệp hội như đã ghi ở Điều 4. 2. Được tham gia biểu quyết, ứng cử, bầu cử vào các chức vụ lãnh đạo của Hiệp hội. Quyền lợi này không được áp dụng cho các hội viên liên kết. 3. Có quyền rút khỏi Hiệp hội nhưng phải có đơn trước 3 tháng gửi Ban chấp hành Hiệp hội và phải đóng đủ hội phí của năm cuối cùng. Chương IV Tổ chức bộ máy Điều 10: Hệ thống tổ chức của Hiệp hội gồm: - Ban chấp hành Hiệp hội. - Văn phòng Hiệp hội -       Ban Kiểm tra -       Ban Hội viên -       Các Ban chuyên môn Hiệp hội có tạp chí riêng và có các đơn vị trực thuộc có pháp nhân, được thành lập theo qui định của pháp luật. Điều 11: Đại hội toàn thể và Đại hội bất thường: Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hiệp hội là Đại hội toàn thể, 5 năm họp một lần. Trong trường hợp đặc biệt, khi có ít nhất 2/3 tổng số uỷ viên Ban chấp hành hoặc 1/2 tổng số số hội viên chính thức yêu cầu, Ban chấp hành Hiệp hội sẽ triệu tập Đại hội bất thường. Điều 12: Đại hội toàn thể có nhiệm vụ: 1. Thông quan các báo cáo nhiệm kỳ về hoạt động của Hiệp hội và Ban chấp hành, Ban kiểm tra. 2. Quyết định phương hướng, chương trình hoạt động của Hiệp hội nhiệm kỳ tới. 3. Xem xét và thông qua báo cáo tài chính của Hiệp hội 4. Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ của Hiệp hội. 5. Quyết định số lượng uỷ viên Ban chấp hành và Ban Kiểm tra. Bầu Ban chấp hành và Ban kiểm tra và giải quyết các việc cấp bách khác của Hiệp hội. Điều 13: Nguyên tắc biểu quyết của Đại hội: Đại hội biểu quyết bằng hình thức giơ tay hoặc bỏ phiếu kín. Việc qui định hình thức biểu quyết do Đại hội quyết định Việc biểu quyết thông qua các quyết định của Đại hội phải được quá 1/2 đại biểu chính thức có mặt tán thành. Điều 14: Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Hiệp hội là Ban chấp hành. Ban chấp hành Hiệp hội được bầu cử từ những người đại diện có thẩm quyền chính thức do các tổ chức thành viên cử ra và trong vòng nhiệm kỳ, nếu cần thiết tổ chức thành viên có thể cử người khác của mình thay thế và người đó phải được 1/2 số uỷ viên Ban chấp hành chấp thuận. Giữa hai kỳ đại hội, nếu cần thiết phải bổ sung, thay thế số uỷ viên Ban chấp hành cũng cần 1/2 số phiếu tán thành của Ban Chấp hành. Điều 15: Ban chấp hành Hiệp hội 6 tháng họp một lần. Khi có ít nhất 1/2 số uỷ viên yêu cầu, Ban chấp hành có thể nhóm họp bất thường. Nhiệm vụ của Ban chấp hành Hiệp hội là : 1. Bầu các chức danh lãnh đạo của Hiệp hội: Chủ tịch, phó Chủ tịch, Tổng thư ký. 2. Điều hành mọi hoạt động của Hiệp hội theo nghị quyết của Đại hội. 3. Xét kết nạp và bãi miễn tư cách Hội viên (Ban hội viên thuộc Ban CH) 4. Xây dựng, ban hành các quy chế, nội quy làm việc của Ban chấp hành và các tổ chức trực thuộc Hiệp hội (nếu có). 5. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chương trình hoạt động và kế hoạch ngân sách của Hiệp hội, quy định mức hội phí tham gia và hội phí thường niên. 6. Quyết định triệu tập đại hội và hội nghị toàn thể (theo Điều 11), chuẩn bị các vấn đề liên quan cho các hội nghị trên. Điều 16: Giữa hai kỳ họp của Ban chấp hành, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Tổng Thư ký có trách nhiệm thay mặt Hiệp hội và Ban chấp hành quan hệ đối nội, đối ngoại, tổ chức thực hiện các nghị quyết của đại hội và của Ban chấp hành, chỉ đạo và kiểm tra hoạt động của các tổ chức trực thuộc Hiệp hội (nếu có). Điều 17: Chủ tịch Hiệp hội có trách nhiệm và quyền hạn: 1. Đại diện chính thức cho Hiệp hội trước pháp luật, các cơ quan Nhà nước và mọi tổ chức trong và ngoài nước. 2. Tổ chức triển khai các Nghị quyết của Đại hội. 3. Chỉ đạo, chuẩn bị nội dung, triệu tập, chủ trì các cuộc họp của Ban chấp hành; 4. Lãnh đạo các tổ chức trực thuộc Hiệp hội (nếu có) thực hiện các chức năng mà Hiệp hội giao cho. 5. Ký quyết định thành lập hoặc giải thể các tổ chức Hiệp hội theo Điều lệ, bổ nhiệm và bãi miễn các chức danh lãnh đạo của các tổ chức trực thuộc. Điều 18: Phó Chủ tịch giúp Chủ tịch lãnh đạo từng mặt công tác của Hiệp hội, có trách nhiệm và quyền hạn trong phạm vi được phân công. Khi Chủ tịch vắng mặt, theo uỷ nhiệm Phó Chủ tịch thay mặt, thực hiện những nhiệm vụ của Chủ tịch. Điều 19: Tổng thư ký là người chịu trách nhiệm trước Chủ tịch và Ban chấp hành Hiệp hội quản lý điều hành hoạt động hàng ngày của Hiệp hội, Văn phòng Hiệp hội và quản lý các đơn vị trực thuộc Hiệp hội, chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Hiệp hội, quản lý tài sản và tài chính của Hiệp hội. Điều 20: Tùy theo yêu cầu phát triển trong hoạt động của Hiệp hội, Ban chấp hành sẽ quyết định lập ra các Ban chuyên môn của Hiệp hội. Các Trưởng ban do Chủ tịch bổ nhiệm, miễn nhiệm. Chức năng, tổ chức, chương trình kế hoạch, điều kiện, phương tiện và chế độ hoạt động của các Ban chuyên môn do Ban chấp hành Hiệp hội quy định. Chương V Tài chính hiệp hội Điều 21: Năm tài chính của Hiệp hội bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 hàng năm. Điều 22: Hiệp hội hoạt động theo nguyên tắc tự cân đối tài chính, lấy thu bù chi. Tài chính của Hiệp hội được quản lý theo các quy định quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước. Ban chấp hành Hiệp hội ấn định mức thu hội phí và thông qua báo cáo quyết toán tài chính hàng năm. Điều 23: Các nguồn thu của Hiệp hội 1. Tiền hội phí gồm hội phí tham gia và hội phí thường niên 2. Tiền tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước theo quy định của pháp luật. 3. Tiền thu từ các hoạt động có thu của Hiệp hội và các đơn vị trực thuộc (nếu có). 4. Tiền hỗ trợ của Nhà nước theo các chương trình, dự án, hoạt động cụ thể (nếu có). Trong quá trình tổ chức hoạt động nếu cần thiết Hiệp hội sẽ hình thành nguồn kinh phí để hỗ trợ cho : + Công tác nghiên cứu thị trường. + ứng dụng và sáng tạo các sản phẩm phần mềm đạt chất lượng cao. + Tổ chức các giải thưởng của Hiệp hội. Điều 24: Các khoản chi 1. Chi hoạt động thường xuyên của Hiệp hội (hoạt động văn phòng, hội nghị, hội thảo, ngoại giao, chi lương cho bộ máy thường trực Hiệp hội). 2. Chi mua sắm tài sản thiết bị. 3. Chi cho các đề tài nghiên cứu (nếu có và được duyệt). 4. Chi cho các hoạt động ngành nghề của Hiệp hội. Chương VI Khen thưởng và kỷ luật Điều 25: Những Hội viên có thành tích xuất sắc trong công tác sản xuất và xuất khẩu phần mềm hay trong công tác Hiệp hội sẽ được Hiệp hội khen thưởng và có thể được Hiệp hội đề nghị các cấp khen thưởng hoặc Hiệp hội đề nghị lên Hội đồng khen thưởng Nhà nước xác nhận và khen thưởng. Điều 26: Hội viên nào có hành động trái với nghị quyết và Điều lệ của Hiệp hội, làm tổn thương đến danh dự, uy tín của Hiệp hội thì tùy theo lỗi nặng, nhẹ để giáo dục, phê bình, khiển trách hoặc khai trừ ra khỏi Hiệp hội theo quyết định của Ban Chấp Hành Hiệp hội. Chương VII Sửa đổi điều lệ và giải thể hiệp hội Điều 27: Chỉ có Đại hội toàn thể của Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam mới có quyền sửa đổi Điều lệ của Hiệp hội. Việc sửa đổi Điều lệ phải được 1/2 số đại biểu tán thành mới có hiệu lực thi hành. Điều 28: Hiệp hội chỉ ngừng hoạt động hoặc giải thể khi có: - Quyết định ngừng hoạt động hay giải thể của Đại hội toàn thể Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam. - Quyết định chấm dứt hoạt động của Hiệp hội do cơ quan cấp giấy phép thành lập Hiệp hội ban hành. Mọi thủ tục giải thể sẽ phải tiến hành theo đúng quy định của Nhà nước. Điều 29: Bản Điều lệ của Hiệp hội doanh nghiệp phần mềm Việt Nam gồm VII chương, 29 điều, đã được Đại hội đại biểu toàn thể lần thứ 2 của Hiệp hội họp tại Hà Nội thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2005 và có hiệu lực khi được Ban tổ chức Cán bộ Chính phủ phê duyệt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10405.doc