Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính

LỜI NÓI ĐẦU 1. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU. Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển. Do vậy, muốn sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công tác huy động và sử dụng vốn một cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp phải luôn luôn bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan t

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng vốn trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được năng lực hoạt động của đồng vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp ngày càng vững mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp không thể không bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc bất di bất dịch trong nền kinh tế thị trường. Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc hoàn thành kế hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà nước bao cấp về mọi mặt như: vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù... nên các doanh nghiệp quốc doanh không coi việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là trách nhiệm của bản thân mình, mà là của Nhà nước. Doanh nghiệp chỉ chạy đua với thành tích, với chỉ tiêu. Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh doanh, nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với nhau. Những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và phát triển, ngược lại những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vốn kinh doanh bị mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh thu không bù đắp đủ chi phí, không thể lập lại được quá trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ vực phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều hạn chế. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được nhiều doanh nghiệp quan tâm chú ý. Xuất phát từ vai quan trọng của vốn cố định nói riêng và vốn kinh doanh nói chung, kết hợp với thời gian thực tập tại Công ty In tài chính mà mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Đề tài lấy vốn cố định làm đối tượng nghiên cứu, lấy tình hình hoạt động thực tế của Công ty In tài chính để làm cơ sở nghiên cứu phân tích. Thời điểm nghiên cứu số liệu lấy thực tế qua 5 năm 1997 - 1998 - 1999 - 2000 - 2001. 3. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ. Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và nhận xét của cơ sở thực tập, nội dung của chuyên đề được trình bày qua 3 chương: Chương 1: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường. Chương 2: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính Chương 3: Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở Công ty In tài chính CHƯƠNG 1 VỐN CỐ ĐỊNH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. VỐN CỐ ĐỊNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP 1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng song song tồn tại, cạnh tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Trong nền kinh tế quốc dân thì mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế. Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Để tiến hành sản xuất sản phẩm, mọi doanh nghiệp đều cần phải có hai yếu tố cơ bản, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất và tác dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ. Căn cứ vào tính chất và tác dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu được tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến trúc... Đặc điểm chung của các TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ. Trong thực tế, tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý ở từng thời kỳ nhất định mà người ta có những quy định thống nhất và tiêu chuẩn giới hạn của một TSCĐ. Theo chế độ tài chính mới nhất qui định những tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải có đủ hai điều kiện sau: - Có thời hạn sử dụng trên một năm. - Có giá trị từ 5 triệu đồng Việt Nam trở lên. Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ được coi là công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động và do nguồn vốn lưu động tài trợ. Tuy nhiên do yêu cầu của công tác quản lý, trong một số trường hợp có những tư liệu lao động dù giá trị và thời hạn sử dụng không đủ tiêu chuẩn quy định nhưng vấn được coi là TSCĐ của doanh nghiệp như tổ hợp các đồ dùng trong một phòng làm việc một khách sạn... Mặt khác, trong doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh về tính chất luân chuyển cũng tương tự như TSCĐ vì vậy được coi là các TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình). Ví dụ như các khoản chi đầu tư mua các bằng phát minh sáng chế, các chi phí cho việc nghiên cứu phát triển, nghiên cứu ứng dụng, phát hiện, thăm dò... Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh nghiệp như sau: Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, những TSCĐ đó không chỉ được biểu hiện dưới hình thái vật chất mà còn dưới hình thái giá trị. Để đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh nghiệp cần phải bỏ ra một số vốn nhất định. Vì vậy, số vốn ứng trước xây dựng, mua sắm TSCĐ được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi loại lại có những đặc điểm về tính chất kỹ thuật công dụng khác nhau, được sử dụng trong những lĩnh vực hoạt động khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy cần phân loại TSCĐ để có những biện pháp quản lý, sử dụng có hiệu quả hơn. Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có những cách phân loại TSCĐ chủ yếu sau: 1.1.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình) * TSCĐ hữu hình là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc... Những TSCĐ này có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh. * TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng phát minh sáng chế hay nhãn hiệu thương mại... Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và vô hình. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế và cũng là căn cứ để đưa ra các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao hợp lý. 1.1.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3 loại: * TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp. * TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng: là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp (như các công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. * Các TSCĐ bảo quản hộ, gửi hộ, cất giữ hộ Nhà nước: là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. 1.1.3. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành các loại sau: * Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, cầu cảng... * Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: máy móc thiết bị động lực, máy móc công tác, thiết bị chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ. * Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như: phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước... * Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, dụng cụ đo lường, máy hút bụi... * Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào 5 loại trên như tác phẩm nghệ thuật tranh ảnh... Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ, tính toán khấu hao TSCĐ chính xác. 1.1.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ, người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp thành các loại: * TSCĐ đang sử dụng: là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. * TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này. * TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết hoặc không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu. Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả của TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra, đánh giá tiềm lực sản xuất cần được khai thác, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng TSCĐ. 1.1.5. Phân loại TSCĐ theo quan hệ sở hữu Theo phương pháp này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ chủ sở hữu (tự có) và TSCĐ thuê ngoài. * TSCĐ chủ sở hữu (tự có) là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình thành từ nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng, biếu... Đây là những tài sản mà doanh nghiệp có quyền sử dụng lâu dài và được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. * TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất định theo hợp đồng đã ký kết gồm: TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động. Trong đó TSCĐ thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh nghiệp được phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý, sử dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có của doanh nghiệp. Còn đối với TSCĐ thuê hoạt động, doanh nghiệp chỉ được quản lý, sử dụng trong thời hạn hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng. Cách phân loại này giúp cho người quản lý biết được nguồn gốc hình thành các loại TSCĐ để có hướng sử dụng và trích khấu hao đúng, từ đó tổ chức hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, thúc đẩy việc sử dụng TSCĐ có hiệu quả cao. Trên đây là những đặc điểm và thuộc tính của TSCĐ. Những đặc điểm này sẽ chi phối đặc điểm tuần hoàn của vốn cố định. Từ đó có thể thấy được bản chất vốn cố định và những đặc điểm tuần hoàn của nó. 1.2. Khái niệm, đặc điểm chu chuyển của vốn cố định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn cố định (VCĐ) nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Trên ý nghĩa của mối liên hệ đó, có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau: - VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm có đặc điểm này là do TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế mà VCĐ - hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng. - VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. - VCĐ sau nhiều chu kỳ sản xuất mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên. Song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm dần xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì VCĐ mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Những đặc điểm luân chuyển trên đây của VCĐ đòi hỏi việc quản lý VCĐ phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp. Từ những nội dung phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về VCĐ như sau: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. TSCĐ và VCĐ có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Một cách chung nhất nó quyết định đến trình độ sản xuất của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ấy có khả năng thực hiện được các mục tiêu của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô VCĐ càng lớn, trình độ trang bị kỹ thuật TSCĐ của doanh nghiệp càng hiện đại chứng tỏ trình độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao. Chính vì vậy vấn đề đổi mới TSCĐ luôn là một yêu cầu cấp thiết đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Để đổi mới TSCĐ, quan trọng nhất là cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có sử dụng tốt VCĐ thì mới có điều kiện để đổi mới TSCĐ. 1.3. Khấu hao tài sản cố định. 1.3.1. Hao mòn tài sản cố định. Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau, TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. a. Hao mòn hữu hình. Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất và giá trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất ...; sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sử dụng và cuối cùng không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất. Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các nhân tố trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng, việc chấp hành các quy phạm pháp luật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ. Tiếp đến là các nhân tố về tự nhiên và môi trường sử dụng TSCĐ như nhiệt độ, độ ẩm, tác động của các hoá chất... Ngoài ra mức độ hao mòn hữu hình còn phụ thuộc vào chất lượng chế tạo TSCĐ, ví dụ như chất lượng nguyên vật liệu được sử dụng, công nghệ chế tạo... Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức hao mòn hữu hình TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó. b. Hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản do có những TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ, không phải do chúng được sử dụng nhiều hay ít trong sản xuất mà là do tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trong điều kiện tăng trưởng mạnh mẽ về khoa học công nghệ hiện nay, người ta có thể sản xuất ra được những loại máy móc có tính năng tác dụng như máy cũ nhưng với giá hạ hơn hoặc sản xuất ra những loại máy có cùng giá trị nhưng công suất lớn hơn, chất lượng tốt hơn. Do vậy, những máy móc được sản xuất ở thời gian trước đây sẽ bị “mất giá” so với hiện tại, sự “mất giá” đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn xuất hiện cả khi chu kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt làm cho những máy móc để chế tạo ra sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng. Để khắc phục hao mòn vô hình, các doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học. Điều đó có ý nghĩa rất quyết định trong việc tạo ra lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường. 1.3.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao TSCĐ a. Khấu hao TSCĐ. Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ gọi là khấu hao TSCĐ. Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp. Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm biêủ hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích luỹ lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp, quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Song trên thực tế, trong điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật, quỹ khấu hao có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Khả năng này có thể thực hiện bằng cách: Các doanh nghiệp sẽ sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao được tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ sung cho các mục đích đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có doanh lợi (trên nguyên tắc được hoàn quỹ). Hoặc nhờ nguồn này, đơn vị có thể đầu tư đổi mới TSCĐ ở những năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang bị máy móc hiện đại hơn. Trên ý nghĩa đó, quỹ khấu hao còn được coi là một nguồn tài chính quan trọng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. b. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ Việc tính khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp có thể được thực hiện theo nhiều phương pháp khác nhau. Thông thường có các phương pháp cơ bản sau: * Phương pháp khấu hao bình quân (hay còn gọi là phương pháp tuyến tính cố định). Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, được sử dụng khá phổ biến để tính khấu hao các loại TSCĐ. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác định theo công thức: MKH = Gđ T TKH = MKH T Trong đó: MKH: Mức khấu hao trung bình hàng năm. TKH: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm. Gđ: Nguyên giá TSCĐ. T: Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm) Nếu doanh nghiệp trích khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao hàng năm chia cho 12 tháng. Ưu điểm của phương pháp khấu hao bình quân là tính toán đơn giản, dễ hiểu. Mức khấu hao tính vào giá thành đều đặn làm cho giá thành ổn định. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng khác nhau; khả năng thu hồi vốn chậm làm TSCĐ chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình. * Phương pháp khấu hao giảm dần. Phương pháp khấu hao này gồm hai phương pháp: Khấu hao theo số dư giảm dần và khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng. - Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần Thực chất của phương pháp này là số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách: lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời hạn sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi. Như vậy mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao theo thời hạn sử dụng TSCĐ sẽ giảm dần. Công thức tính tỷ lệ khấu hao hàng năm theo thời hạn sử dụng như sau: TKH = 1 - Gđ. t GC Trong đó: TKH: Tỷ lệ khấu hao hàng năm GC: Giá trị còn lại của TSCĐ ở cuối năm tính toán Gđ: nguyên giá của TSCĐ t: Thời điểm của năm cần tính khấu hao - Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng. Theo phương pháp này, số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách nhân giá trị ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao này được xác định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng. Công thức tính như sau: TKH = t T Trong đó: TKH: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng T: Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ t: Thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao. Phương pháp khấu hao giảm dần có ưu điểm là phản ánh chính xác hơn mức hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, thu hồi vốn nhanh nên hạn chế được ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là việc tính toán mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức tạp, số tiền trích khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng cũng chưa đủ bù đắp toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ. Trên thực tế người ta có thể sử dụng kết hợp phương pháp khấu hao bình quân với phương pháp khấu hao giảm dần bằng cách: trong những năm đầu sử dụng TSCĐ thì áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những năm cuối thì thực hiện phương pháp khấu hao bình quân. Bằng cách này có thể hạn chế được hao mòn vô hình và số khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng sẽ bù đắp được giá trị ban đầu của TSCĐ. Việc nghiên cứu các phương pháp khấu hao TSCĐ là một căn cứ quan trọng giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc thu hồi, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Đồng thời cũng là căn cứ cho việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ của các doanh nghiệp. 2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP. 2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định (VCĐ). Trong các doanh nghiệp, VCĐ là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng và của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ và trình độ quản lý, sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm vận động của nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên việc quản lý VCĐ được coi là một trọng điểm của công tác tài chính doanh nghiệp. Như đã trình bày ở trên, phải trải qua một thời gian dài VCĐ mới hoàn thành được một vòng luân chuyển. Vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý doanh nghiệp ở đây là làm thế nào để VCĐ trong suốt thời gian dài tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hay nói cách khác là làm thế nào để sử dụng VCĐ một cách có hiệu quả nhằm thực hiện được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy hiệu quả sử dụng VCĐ là gì ? Trong các doanh nghiệp nó được đánh giá thông qua các chỉ tiêu nào ? Trước hết nói về hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng VCĐ nói riêng được biểu thị qua mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình sản xuất với chi phí về lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra để đạt được kết quả trên. Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải bao gồm cả hai mặt: Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hai mặt này liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện nội dung cơ bản của hiệu quả sản xuất. Trong đó hiệu quả kinh tế là cơ sở vật chất của hiệu quả xã hội, hiệu quả xã hội tạo điều kiện tốt hơn để thu được hiệu quả kinh tế cao hơn. Như vậy, ta có thể thấy rằng: Hiệu quả sử dụng VCĐ là mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình khai thác sử dụng VCĐ vào sản xuất với số VCĐ đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào khi sử dụng vốn vào sản xuất nói chung và VCĐ nói riêng đều phải quan tâm đến hiệu quả nó mang lại. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp, người ta thường dùng một hệ thống các chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích. Các chỉ tiêu tổng hợp nhằm phản ánh về mặt chất của việc sử dụng VCĐ doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu này, người quản lý có thể so sánh kết quả quản lý giữa kỳ này với kỳ trước, giữa doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp khác có quy mô tương tự để rút ra những trọng điểm cần quản lý. Thuộc loại này bao gồm các chỉ tiêu sau: - Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn cố định = Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ. Số vốn cố định bình quân trong kỳ = Số vốn cố định đầu kỳ + Số vốn cố định cuối kỳ 2 Trong đó: Số vốn cố định đầu kỳ = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ - Số khấu hao luỹ kế đầu kỳ Số vốn cố định cuối kỳ = Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ - Số khấu hao luỹ kế cuối kỳ - Hàm lượng vốn cố định: Chỉ tiêu này là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiều đồng vốn cố định. Hàm lượng vốn cố định = Số vốn cố định bình quân trong kỳ Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ - Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tỷ suất lợi nhuận vốn cố định): Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiều đồng lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế). Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận vốn cố định = Lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế) trong kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ Bên cạnh những chỉ tiêu tổng hợp nêu trên, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu phân tích để phản ánh từng mặt của việc sử dụng vốn cố định trong kỳ. Thuộc các chỉ tiêu phân tích bao gồm các chỉ tiêu sau: - Hệ số hao mòn TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu. Hệ số hao mòn TSCĐ = Số tiền khấu hao kuỹ kế Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá - Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần. Hiệu suất sử dụng TSCĐ = DT ( hoặc DT thuần ) trong kỳ Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ - Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp, từ đó có biện pháp đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu TSCĐ nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trên đây là những chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu phân tích chủ yếu nhằm phục vụ cho việc kiểm tra tài chính đối voíư việc sử dụng VCĐ của mỗi doanh nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải kết hợp các hai loại chỉ tiêu trên để rút ra được những kết luận đúng đắn. Ngoài ra, vì TSCĐ gồm nhiều loại nên phải kết hợp xem xét các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng loại cụ thể về mặt hiện vật để đánh giá được toàn diện và chính xác hiệu quả sử dụng VCĐ. Qua phương pháp xác định hiệu quả sử dụng VCĐ trên đây chúng ta thấy rằng: Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có nghĩa là khai thác một cách triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế của máy móc, thiết bị, tận dụng một cách tối đa giờ máy... để từ đó tạo ra nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho kết quả thu được trên một đồng chi phí về TSCĐ (VCĐ) ngày một tăng. Điều đó có nghĩa là khi hiệu quả sử dụng VCĐ được nâng lên thì với một đồng vốn bỏ ra sẽ cho kết quả nhiều hơn, tốt hơn cho doanh nghiệp. Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một trong những phương pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm vững ._.tình hình sử dụng VCĐ để đề ra những biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. 2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất là vấn đề cần thiết cấp bách, có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, điều đó xuất phát từ các lý do chủ yếu sau: - Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp với bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu lợi nhuận. Từ góc độ của doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để đạt được thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng. Đặc biệt trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là một điều quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Chính vì vậy, sản xuất kinh doanh như thế nào để có lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu của tất cả các doanh nghiệp. Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác tổ chức và quản lý sản xuất, trong đó có vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có như vậy mới đem lại được lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng phát triển. - Xuất phát từ vị trí, vai trò của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. VCĐ của doanh nghiệp là thành phần cơ bản của vốn sản xuất kinh doanh. Nó gắn liền với quy mô hoạt động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đồng thời thể hiện một cách chính xác nhất trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp. Do vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn sản xuất tăng lên. Đó cũng chính là mục tiêu cần đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Hiệu quả sử dụng VCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng, những biện pháp hữu hiệu về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Chất lượng sản xuất cao sẽ thu được nhiều lãi, hoàn vốn nhanh. Đây cũng là mục tiêu phấn đấu của mọi doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là đảm bảo với số vốn hiện có, bằng các biện pháp quản lý và sử dụng tổng hợp nhằm khai thác triệt để mọi khả năng để có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ phải được biểu hiện trên hai khía cạnh: Một là, với số vốn hiện có có thể sản xuất ra được một số lượng sản phẩm lớn hơn trước với chất lượng tốt hơn, giá thành hạ để tăng được lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hai là, đầu tư thêm VCĐ một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng của vốn. Trong điều kiện của cơ chế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp là phải hướng tới lợi nhuận tối đa. Việc hoàn thành kế hoạch sản xuất phải được đặt trên cơ sở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận. Vì thế trong điều kiện cơ chế thị trường, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng VCĐ của doanh nghiệp là lợi nhuận. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một vấn đề cần thiết và là điểm đầu tiên quyết định sự tồn tại, phát triển của một tổ chức kinh tế trong điều kiện nền kinh tế mới. Đối với nước ta hiện nay, đang trong chặng đường đầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo con đường chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật được xây dựng và phát triển với tốc độ cao, TSCĐ được huy động vào sản xuất ngày càng nhiều. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ được coi là một trong những nội dung cơ bản của công tác quản lý sản xuất nói chung và kế hoạch sử dụng VCĐ nói riêng. Điều đó xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Để thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, doanh nghiệp cần phải khai thác triệt để khả năng tiềm tàng của TSCĐ, phát huy hết công suất của nó, tận dụng tối đa giờ máy, tăng cường độ làm việc, lựa chọn đầu tư hợp lý... Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có tác dụng thúc đẩy năng suất lao động tăng lên, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Từ đó làm tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra trên một đơn vị TSCĐ, giảm lao động vật hoá tiêu hao trong một đơn vị sản phẩm và tiết kiệm lao động sống trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cho giá thành hạ, chất lượng sản phẩm được đảm bảo, công tác tiêu thụ được đẩy mạnh... làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn có ý nghĩa thúc đẩy vòng chu chuyển của VCĐ tăng nhanh, tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình, từ đó thúc đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp với tốc độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất mà không cần bỏ thêm vốn đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng mới TSCĐ. Do đó tiết kiệm được vốn mà vẫn tăng doanh lợi cho doanh nghiệp, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngày một phát triển. Qua đây chúng ta thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là rất cần thiết và cấp bách, nhất là đối với các doanh nghiệp Nhà nước bởi các lý do sau: * Thứ nhất: Do tác động của cơ chế mới. Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại phát triển và cạnh tranh với nhau. Khi đó các doanh nghiệp Nhà nước muốn đứng vững trên thị trường thì nhất thiết phải sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, đảm bảo không những duy trì bảo toàn được đồng vốn hiện có mà phải làm cho đồng vốn đó ngày càng tăng lên tức là kinh doanh phải có lãi. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng. Mặt khác trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý hiện nay các doanh nghiệp thực sự là một đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tự tìm hiểu thị trường, tự chủ trong việc tìm đầu vào và đầu ra của sản xuất, tự chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Do vậy vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng ngày càng trở nên thiết thực và cấp bách hơn. * Thứ hai: Trong thời gian qua, tình trạng quản lý và sử dụng VCĐ của các doanh nghiệp ở nước ta còn rất thấp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh. Như chúng ta đã biết, để tiến hành sản xuất kinh doanh thì bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Trong các doanh nghiệp, vốn được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với nguồn vốn dùng để đầu tư mua sắm TSCĐ bao gồm: - Nguồn vốn pháp định: gồm VCĐ do ngân sách cấp, do cấp trên cấp phát cho doanh nghiệp (đối với các doanh nghiệp Nhà nước). - Nguồn vốn tự bổ sung: được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu vốn ... dùng để mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị. - Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản do các đơn vị tham gia liên doanh góp vốn bằng TSCĐ và góp bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành. - Nguồn vốn vay: gồm các khoản vay Ngân hàng, vay các tổ chức kinh tế khác để đầu tư vào TSCĐ, hoặc các khoản huy động được từ phát hành cổ phiếu, trái phiếu... Thực tế trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, hiệu quả kinh tế đạt được nhìn chung còn thấp, trình độ quản lý còn non kém, quá trình sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn thì việc bổ sung VCĐ bằng các quỹ của doanh nghiệp còn rất hạn chế. Mặt khác, các doanh nghiệp làm ăn còn kém hiệu quả nên việc liên doanh liên kết và huy động vốn liên doanh của các đơn vị khác sẽ rất khó khăn. Bởi vì khi đem đồng vốn đi góp vốn liên doanh các nhà kinh tế phải phân tích hiệu quả kinh tế của đồng vốn đem đi góp, phân tích tình hình sản xuất của doanh nghiệp định liên doanh làm ăn có hiệu quả hay không? Chính vì vậy mà nguồn VCĐ huy động từ liên doanh hay các nguồn khai thác từ bên ngoài cũng chỉ đạt được ở một mức độ nhất định. Vì vậy nguồn VCĐ của doanh nghiệp chủ yếu là do nguồn vốn Ngân sách cấp. Theo quy định hiện hành thì doanh nghiệp Nhà nước được cấp không VCĐ. VCĐ có vòng luân chuyển chậm (đối với máy móc thiết bị trung bình từ 15 đến 20 năm) do đó làm cho doanh nghiệp không thấy căng thẳng về tài chính dẫn đến tình trạng ít quan tâm đến việc tính toán hiệu quả đầu tư VCĐ đưa đến tình trạng TSCĐ được trang bị một cách chắp vá, không đồng bộ theo một cơ cấu bất hợp lý. Việc lắp đặt, sử dụng, bảo dưỡng và sửa chữa kém nên TSCĐ không phát huy hết năng lực nên hiệu quả sử dụng TSCĐ thấp, làm thất thoát VCĐ. Việc quản lý TSCĐ còn nhiều thiếu sót, việc phân loại TSCĐ, tính toán từng loại TSCĐ trong tổng số chưa hợp lý. Có những doanh nghiệp mà loại TSCĐ chưa dùng và không dùng chờ thanh lý vẫn còn có tiềm lực tận dụng phục vụ sản xuất nhưng chưa được sử dụng hợp lý. Không ít doanh nghiệp chỉ quan tâm đầu tư TSCĐ có tính chất phục vụ sản xuất, phục vụ quản lý và làm việc mà không chú ý đầu tư tăng TSCĐ trực tiếp sản xuất ra sản phẩm. Việc trang bị thiết bị máy móc thiếu đồng bộ, trình độ tổ chức quản lý của các doanh nghiệp còn thấp, công tác quản lý và sử dụng TSCĐ còn nhiều tồn tại. Cụ thể là: + Trong các doanh nghiệp Nhà nước cơ cấu TSCĐ thường không hợp lý. Tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị sản xuất trong tổng giá trị TSCĐ còn thấp. Phần lớn các TSCĐ thuộc thế hệ cũ, năng lực sản xuất hạn chế, mức huy động vào sản xuất chưa cao. Máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước còn lạc hậu, năng suất thấp, tiêu hao năng lượng nhiên liệu nhiều, mức huy động vào sản xuất mới chỉ đạt 25 - 30% công suất máy móc thiết bị. Trong công tác đầu tư doanh nghiệp chưa chú trọng quan tâm đến yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì vậy mà phần lớn máy móc thiết bị được trang bị chưa đạt được trình độ công nghệ hiện đại, công suất thấp... nên việc sử dụng TSCĐ còn kém hiệu quả. + Trong doanh nghiệp chưa thực hiện tốt việc phân loại cũng như phân cấp quản lý TSCĐ. Việc giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân chưa chặt chẽ rõ ràng, việc sử dụng TSCĐ chưa đúng quy chế, chế độ bảo dưỡng sửa chữa, mua sắm không đúng chế độ làm cho TSCĐ bị hư hỏng trước thời hạn, năng lực sản xuất bị giảm sút. Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân khác tác động dẫn đến tình trạng máy móc thiết bị phải ngừng hoạt động làm gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến nhịp điệu sản xuất chung gây lãng phí vốn bỏ ra. + Việc lập kế hoạch trích khấu hao không phù hợp với sự biến động của giá cả nên không tránh khỏi hao mòn hữu hình và vô hình. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể tái sản xuất lại được các tài sản đó. Đặc biệt trong điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, việc khấu hao TSCĐ phải có một phương thức thích hợp để tránh được hao mòn vô hình. Những năm qua việc trích khấu hao thấp hơn hao mòn rất phổ biến, việc sử dụng quỹ khấu hao trong các doanh nghiệp chưa đúng mục đích. Nhiều doanh nghiệp vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đúng mức trước hiệu quả đầu tư và sử dụng máy móc thiết bị, làm hạn chế rất lớn đến việc bảo toàn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước. + Ý thức lao động của con người còn ở mức độ thấp chưa có tính tự giác. Bên cạnh đó việc quản lý lại còn nhiều thiếu sót chưa có chế độ thưởng phạt nghiêm minh trong trách nhiệm bảo quản TSCĐ của cán bộ công nhân viên. Các cơ quản chủ quản cấp trên còn chậm trễ trong việc xây dựng, đổi mới cơ chế tài chính về quản lý vốn đầu tư vào TSCĐ, thiếu các chế độ quy định về nguyên tắc và phương pháp đánh giá TSCĐ. Chính vì vậy mà hiệu quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp còn rất thấp. Từ việc sử dụng kém hiệu quả VCĐ nêu trên đã dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra bị hạn chế về chủng loại, mẫu mã không hợp lý ít được cải thiện để phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm thấp không đủ điều kiện để cạnh tranh ngay cả ở thị trường trong nước. Do đó nếu không có sự thay đổi lớn thì triển vọng và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Nhà nước rất khó khăn, dẫn đến nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn thua lỗ có nguy cơ bị phá sản. Qua những nội dung phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chính sự cần thiết và cấp bách của vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. 3. Các nhân tố ảnh hưởng và các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. 3.1. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Để có được các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, trước hết chúng ta cần phải xem xét hiệu quả sử dụng VCĐ chịu ảnh hưởng của những nhân tố nào. Từ đó có những biện pháp tác động tích cực để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VCĐ đó là: * Công tác đầu tư, mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp. Nếu việc đầu tư mua sắm máy móc thiết bị được tổ chức tốt trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng nhu cầu của thị trường về khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng tận dụng thời gian làm việc và công suất của TSCĐ từ đó lựa chọn, mua sắm những máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu về quy mô và chất lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp. Sản phẩm có chất lượng cao với số lượng hợp lý để đáp ứng nhu cầu thị trường sẽ làm tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời doanh nghiệp có khả năng để tận dụng thời gian và công suất máy móc thiết bị. Như vậy hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ được nâng cao. Công tác đầu tư, mua sắm TSCĐ được tổ chức tốt, còn được thể hiện ở việc nghiên cứu, lựa chọn người bán, phương thức thanh toán và nguồn vốn đầu tư phù hợp để mua sắm những TSCĐ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp với chi phí đầu tư hợp lý. Ngược lại, nếu việc đầu tư, mua sắm TSCĐ không tốt các máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ mua về không phù hợp với đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, không sử dụng hoặc sử dụng không đủ đáp ứng yêu cầu về số lượng sản phẩm sẽ làm giảm doanh thu tiêu thụ. Hoặc việc mua thêm những máy móc mới có giá trị lớn nhưng doanh nghiệp lại không tận dụng hết thời gian làm việc và công suất của máy sẽ gây lãng phí hoặc làm tăng chi phí sử dụng TSCĐ. Như vậy, hiệu quả sử dụng VCĐ sẽ thấp. * Công tác tổ chức sản xuất cũng là nhân tố ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp. Nếu công tác tổ chức sản xuất hợp lý, máy móc thiết bị được huy động vào sản xuất cao, đẩy vòng luân chuyển của VCĐ tăng nhanh, giảm ứ đọng về vốn sẽ tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô hình và hữu hình. Ngược lại, tổ chức sản xuất không hợp lý, máy móc thiết bị huy động vào sản xuất thấp, máy móc thiết bị chưa cần dùng hoặc không cần dùng nhiều sẽ gây ứ đọng về vốn, đồng thời hao mòn vô hình và hữu hình tăng (do nhiều nguyên nhân khác nhau) trong khi không có doanh thu tiêu thụ những sản phẩm do những TSCĐ này tạo ra. Vì vậy, hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp sẽ thấp. * Việc tổ chức lao động một cách khoa học, bố trí sắp xếp công nhân có trình độ và tay nghề phù hợp với máy móc thiết bị sẽ phát huy được công suất của máy, tiết kiệm được chi phí, đồng thời năng suất lao động cũng tăng nhanh, số lượng sản phẩm làm ra đạt yêu cầu chất lượng sẽ nhiều hơn, tức là kết quả thu được từ việc sử dụng VCĐ sẽ cao hơn. Và ngược lại nếu tổ chức lao động không hợp lý, sắp xếp công nhân có trình độ và tay nghề không phù hợp với máy móc thiết bị sẽ gây lãng phí do không tận dụng được khả năng của máy, sản lượng sản phẩm làm ra bị hạn chế dẫn đến kết quả thấp. * Trách nhiệm và ý thức của người lao động cũng là một nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng VCĐ. Nếu người lao động có ý thức tự giác, có trách nhiệm cao đối với công việc và TSCĐ mà mình sử dụng cũng như những tài sản của doanh nghiệp mình, chú ý bảo quản TSCĐ sẽ hạn chế được hư hỏng, mất mát TSCĐ, nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. * Công tác quản lý TSCĐ là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng VCĐ. Việc quản lý TSCĐ một cách chặt chẽ rõ ràng sẽ là cơ sở cho việc thực hiện kế hoạch đầu tư, kế hoạch tổ chức sản xuất, công tác sửa chữa, bảo dưỡng, nhượng bán, thanh lý..., đồng thời sẽ hạn chế việc hư hỏng, thất thoát TSCĐ. * Nhân tố tiếp theo là công tác sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ của doanh nghiệp. Nếu công tác này được thực hiện tốt, việc bảo dưỡng sửa chữa TSCĐ được tiến hành một cách kịp thời và có hiệu quả sẽ góp phần khôi phục duy trì và nâng cao thêm năng lực sản xuất của TSCĐ, đảm bảo cho TSCĐ không bị hư hỏng trước thời hạn, như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí sử dụng TSCĐ. Ngược lại, khi công tác sửa chữa, bảo dưỡng không được thực hiện tốt và kịp thời sẽ làm cho TSCĐ nhanh bị hỏng, có thể bị hư hỏng trước thời hạn, gây lãng phí vốn. Khi đó thì VCĐ được sử dụng không có hiệu quả mà thậm chí còn không bảo toàn được VCĐ. * Việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả sử dụng VCĐ. Nếu trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý, theo đúng chế độ và phù hợp với đặc điểm riêng của từng TSCĐ hoặc từng nhóm TSCĐ sẽ đảm bảo thu hồi đủ vốn để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Bên cạnh đó, nếu quỹ khấu hao được sử dụng linh hoạt sẽ có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Doanh nghiệp có thể dùng quỹ khấu hao để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác mà được xác định là có hiệu quả sẽ làm tăng thêm thu nhập cho doanh nghiệp. Tất nhiên là việc sử dụng quỹ khấu hao đó phải hợp lý và phải đảm bảo hoàn nhập quỹ để tái sản xuất TSCĐ khi đến thời hạn sử dụng quỹ khấu hao. * Môi trường sử dụng TSCĐ cũng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng TSCĐ. Trong điều kiện môi trường không phù hợp về nhiệt độ, độ ẩm, không khí... sẽ là các yếu tố tự nhiên gây nên hao mòn hữu hình của TSCĐ, làm chúng bị hư hỏng, làm tăng chi phí sử dụng TSCĐ do phải sửa chữa hoặc thanh lý trước thời hạn. Từ đó sẽ làm cho hiệu quả sử dụng VCĐ giảm đi. * Một nhân tố nữa ảnh hưởng lớn tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ đó là cơ chế, chính sách của Nhà nước. Các quy định của Nhà nước trong việc quản lý sử dụng VCĐ ở các doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sử dụng VCĐ của các doanh nghiệp này như: các quy định về đánh giá và đánh giá lại TSCĐ, cách tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao TSCĐ hay việc quản lý quỹ khấu hao... Nếu các quy định của Nhà nước hợp lý, đúng đắn, được ban hành kịp thời sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn việc quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới công tác nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ ở các doanh nghiệp. Người quản lý doanh nghiệp nhất thiết phải nắm bắt được mức độ tác động của chúng để phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực, từ đó đề ra các biện pháp đúng đắn để nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp mình. 3.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp. 3.2.1. Làm tốt công tác đầu tư xây dựng, mua sắm TSCĐ. Hiệu quả sử dụng VCĐ trước hết phụ thuộc vào chất lượng của công tác đầu tư mua sắm xây dựng TSCĐ. Mục đích trực tiếp của việc đầu tư, mua sắm TSCĐ là làm tăng năng lực kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác đây cũng là quá trình phức tạp đòi hỏi khối lượng vốn rất lớn. Do vậy mà trước khi đầu tư doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng, kiểm tra về điều kiện khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp mình cũng như điều kiện cung cấp vật tư, khả năng tận dụng thời gian làm việc và tận dụng công suất của TSCĐ. Dựa trên cơ sở phân tích đó đi đến quyết định đầu tư vào loại TSCĐ nào là hợp lý, sau đó tiến hành lựa chọn các đối tác đầu tư, xác định cơ cấu đầu tư đúng đắn. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ thì phải xác định được những khâu chủ yếu để đầu tư. Nếu khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường là lớn thì đầu tư phải chú ý ưu tiên cho những TSCĐ có tính chất trực tiếp sản xuất hơn là những TSCĐ có tính chất phục vụ sản xuất thì quá trình hoạt động sản xuất mới nhịp nhàng đồng bộ mang lại hiệu quả kinh doanh cao. Chỉ tiến hành đầu tư mua sắm máy móc thiết bị khi thực sự cần thiết, giảm bớt lượng thiết bị dự trữ tránh tình trạng ứ đọng vốn. Mặt khác phải lựa chọn được phương án đầu tư thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời phải chú trọng, quan tâm đến yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật: TSCĐ được đầu tư, mua sắm phải hiện đại, phải phù hợp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật nhằm hạn chế hao mòn vô hình và phải phù hợp với yêu cầu về công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Trước khi đầu tư xây dựng cơ bản mua sắm TSCĐ cần phải điều tra nghiên cứu thị trường cẩn thận, phải xem xét phân tích và nắm bắt khả năng tiêu thụ của sản phẩm trên thị trường, xu thế nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, điều kiện cung cấp vật tư, khả năng tận dụng thời gian làm việc và công suất TSCĐ. Việc đầu tư mua sắm phải theo xu hướng ngày càng tăng tỷ trọng những loại TSCĐ có ý nghĩa tích cực trong sản xuất kinh doanh, còn các loại TSCĐ không phát huy hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh ngày càng giảm. Căn cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các máy móc thiết bị, giữa các khâu của quy trình công nghệ và trong tổng số TSCĐ hiện có để lập kế hoạch đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị sẵn có, cải tạo thiết bị cũ, thải loại những thiết bị mà chi phí sửa chữa phục hồi lớn hơn giá trị còn lại, đồng thời phải có kế hoạch đầu tư mua sắm thay thế từng phần hoặc toàn bộ TSCĐ. Xác định đúng các TSCĐ không cần dùng để thanh lý và nhượng bán. Đầu tư phải theo chiều sâu, quán triệt phương châm đề ra trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII: “Trong quá trình xây dựng và quản lý kinh tế, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển sản xuất phải luôn luôn chú ý phát triển chiều sâu, tìm cách khai thác bằng mọi biện pháp thích hợp và đồng bộ hoá cải tạo mở rộng...” 3.2.2. Tổ chức sản xuất hợp lý, quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ. Như trên đã nghiên cứu, việc tổ chức sản xuất có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả sử dụng VCĐ. Cần tổ chức sản xuất một cách hợp lý sao cho số máy móc thiết bị hiện có, được huy động vào sản xuất cao, số máy chưa cần dùng ở mức cần thiết và số máy không cần dùng là tối thiểu. Để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải tăng cường công tác quản lý chặt chẽ TSCĐ từ khâu mua sắm đến khâu sử dụng. Thực hiện việc phân loại cũng như phân cấp quản lý TSCĐ tiến hành giao TSCĐ cho từng bộ phận từng cá nhân một cách rõ ràng nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó việc thực hiện chế độ khuyến khích vật chất, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cường độ sử dụng máy móc thiết bị, đưa thời gian hoạt động của máy móc thiết bị vào sản xuất là lớn nhất, khai thác một cách triệt để công suất thiết kế của TSCĐ, hạn chế bớt việc hỏng hóc, mất mát TSCĐ nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ theo cả chiều rộng và chiều sâu, tiết kiệm đến mức tối đa VCĐ, tăng nhanh vòng quay của vốn. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều rộng được thực hiện bằng việc tăng thời gian làm việc có ích của TSCĐ hoặc tăng số lượng và tỷ trọng TSCĐ đang hoạt động trong cơ cấu TSCĐ hiện có ở doanh nghiệp. Khả năng tăng thời gian làm việc có ích của TSCĐ nói chung mang tính chất dài hạn. Để làm được điều đó phải đảm bảo tính thường xuyên liên tục cân đối công suất sản xuất tăng cường việc kiểm tra giám sát, thực hiện nghiêm chỉnh quy trình công nghệ, nâng cao thời gian gia công chính, nâng cao hệ số công tác. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều sâu được tiến hành chủ yếu bằng việc hoàn chỉnh kỹ thuật sản xuất và hiện đại hoá TSCĐ. Việc nâng cao trình độ sử dụng TSCĐ theo chiều sâu có thể là tăng công suất máy móc thiết bị, nâng cao những thông số kỹ thuật cơ bản của máy móc thiết bị như tốc độ, áp suất, cơ giới hoá, tự động hoá quy trình sản xuất ... hoàn thiện quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất dây chuyền trên cơ sở tập trung tối ưu sản xuất những sản phẩm đồng loại, chọn lọc nguyên vật liệu phù hợp theo yêu cầu đòi hỏi của công nghệ và chất lượng sản phẩm, có kế hoạch sửa chữa, bảo dưỡng, nâng cấp TSCĐ... mặt khác doanh nghiệp phải xác định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, từng người lao động trong quá trình sử dụng TSCĐ, đồng thời phải có chế độ thưởng phạt hợp lý để khuyến khích người lao động giữ gìn tốt máy móc thiết bị, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. 3.2.3. Tổ chức thực hiện tốt việc trích khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao có hiệu quả. Khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ, trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp. Trích khấu hao cơ bản thực chất là hình thức thu hồi VCĐ, phục vụ cho tái sản xuất TSCĐ nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn bỏ ra, trên nguyên tắc khấu hao là mức khấu hao phải phù hợp với mức hao mòn của TSCĐ. Điều này không chỉ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình mà còn góp phần bảo toàn được VCĐ. Trong thực tiễn sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp phải xử lý một cách linh hoạt mối quan hệ giữa yêu cầu tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao ở đầu vào và giá bán sản phẩm ở đầu ra phù hợp với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp phải lập kế hoạch khấu hao trên cơ sở xác định phạm vi TSCĐ phải tính khấu hao và tổng giá trị TSCĐ phải tính khấu hao ở đầu kỳ, xác định giá trị TSCĐ tăng giảm bình quân trong kỳ để xác định nguyên giá bình quân TSCĐ phải tính khấu hao, từ đó xác định mức khấu hao hàng năm. Việc lập kế hoạch khấu hao sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể dự kiến ở mức khấu hao thu hồi trong năm là căn cứ quan trọng để doanh nghiệp xem xét, lựa chọn các quyết định đầu tư đổi mới TSCĐ trong tương lai, từ đó có biện pháp tổ chức, sử dụng có hiệu quả hơn TSCĐ của doanh nghiệp. Cần phải tính khấu hao một cách đúng đắn, chính xác trong khung thời gian nhất định mà Nhà nước đã quy định đối với từng loại hoặc từng nhóm TSCĐ. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng loại, từng nhóm TSCĐ cũng như yêu cầu về công nghệ sản xuất của doanh nghiệp để lựa chọn thời hạn trích khấu hao tối đa, tối thiểu hay trung bình trong khung quy định cho phù hợp, nhằm hạn chế được hao mòn vô hình. Vấn đề đặt ra là phải làm tốt công tác trích khấu hao hợp lý có căn cứ khoa học song phải phù hợp với chi phí giá thành, với quy định của Nhà nước nhằm kích thích phát triển sản xuất, tránh tình trạng khấu hao quá thấp gây hao mòn vô hình hay khấu hao quá cao làm đổi giá thành, giá thành cao sản phẩm không tiêu thụ được ảnh hưởng đến sản xuất. Theo quy định mới nhất của Bộ Tài Chính thì các doanh nghiệp được sử dụng hoàn toàn số khấu hao luỹ kế của TSCĐ thuộc vốn đầu tư ngân sách Nhà nước để tái sản xuất đổi mới TSCĐ. Song khi chưa có nhu cầu đầu tư tái tạo lại TSCĐ thì doanh nghiệp có thể dùng vào đầu tư tạm thời cho các hoạt động sản xuất hoặc hoạt động khác nhưng phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả. Sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao làm cho nó không ngừng lớn mạnh, đến khi cần đầu tư đổi mới TSCĐ thì thu hồi về một cách nhanh nhất để tái tạo TSCĐ phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.4. Tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn TSCĐ. Trên cơ sở của việc quản lý chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên, nắm bắt được tình trạng của từng loại TSCĐ, doanh nghiệp cần tiến hành bảo dưỡng, sửa chữa một cách kịp thời TSCĐ. Mục đích của việc bảo dưỡng, sửa chữa là nhằm duy trì năng lực hoạt động kinh doanh của TSCĐ trong cả thời kỳ hoạt động của nó, làm giảm hao mòn, làm tăng thời gian sử dụng TSCĐ, tránh việc TSCĐ bị hư hỏng, phải sa thải trước thời hạn phục vụ của nó gây lãng phí vốn, làm giảm hiệu quả sử dụng VCĐ. Đồng thời còn đảm bảo tính liên tục, nhịp nhàng, cân đối của quá trình sản xuất, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm. Dễ thấy một điều là máy móc thiết bị trong các doanh nghiệp hiện nay ở nước ta hết sức đa dạng về chủng loại và thuộc nhiều thế hệ khác nhau, vì vậy lựa chọn chế độ bảo dưỡng và sửa chữa thích hợp là hết sức quan trọng. Hiện nay thường áp dụng chế độ sửa chữa dự phòng theo kế hoạch mà thực chất của nó là tổng hợp các biện pháp tổ chức kỹ thuật phục vụ việc bảo dưỡng, kiểm tra và sửa chữa. Để đảm bảo hiệu quả của công tác sửa chữa, bảo dưỡng TSCĐ, việc sửa chữa phải được đặt trên các yêu cầu sau: + Đảm bảo duy trì năng lực hoạt động bình thường của máy móc thiết bị trong đời hoạt động của nó. + Phải cân nhắc giữa chi phí bỏ ra với việc thu hồi hết giá trị còn lại của TSCĐ để quyết định sửa chữa hay chấm dứt đời hoạt động của TSCĐ. 3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện quyền tự chủ của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng TSCĐ. Trong các doanh nghiệp Nhà nước thì chính Nhà nước là người chủ sở hữu TSCĐ còn doanh nghiệp là người trực tiếp quản lý và sử dụng TSCĐ. Trong cơ chế cũ do không phân định rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng nên đã dẫn đến tình trạng vô chủ trong các doanh nghiệp Nhà nước, không ai quan tâm đến hiệu quả sử dụng TSCĐ. Vì vậy cần phải xác định và hoàn thiện quyền tự chủ của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng tài sản cũng như xây dựng và hoàn thiện cơ chế phân phối lợi ích cho người lao động và tập thể doanh nghiệp nếu họ quản lý và sử dụn._. hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty. Do đó nếu huy động tối đa cả số lượng và năng lực của TSCĐ hiện có trong Công ty vào sản xuất thì chắc chắn sẽ tạo ra được khối lượng sản phẩm nhiều hơn, giá thành sản phẩm hạ lợi nhuận sẽ tăng lên và tất yếu sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty . Vì vậy, để tăng cường công tác quản lý sử dụng VCĐ đòi hỏi công ty phải: Đưa toàn bộ số TSCĐ chưa dùng vào phục vụ sản xuất kịp thời để năng lực sản xuất của Công ty không ngừng tăng lên. Tổ chức thực hiện công tác thanh lý nhượng bán TSCĐ không cần dùng để thu hồi vốn. Đối với TSCĐ chưa cân dùng, công ty phải có hướng đầu tư nghiên cứu để vận dụng số tài sản này phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với số tài sản không cần dùng chờ thanh lý, Công ty cần có những biện pháp giải quyết kịp thời nhằm thu hồi vốn để đầu tư thêm vào những thiết bị máy móc mới phục vụ cho sản xuất. Công ty có thể lập báo cáo gửi lên các cơ quan chức năng có liên quan như cục quản lý vốn và tài sản các doanh nghiệp nhà nước hoặc sở công nghiệp Hà Nội đề nghị giải quyết thanh toán, nhượng bán nhanh chóng các TSCĐ không cần dùng để giải phóng vốn. Khi được các cơ quan chức năng cho phép, Công ty tiến hành tổ chức đấu giá công khai nhằm thu hồi được lượng vốn lớn nhất, bổ sung cho đầu tư TSCĐ mới, từ đó duy trì và phát triển năng lực sản xuất cho Công ty. Có như vậy mới làm cho kết cấu TSCĐ của Công ty hợp lý hơn, tăng tỷ trọng tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh và hạn chế đến mức thấp nhất TSCĐ không cần sử dụng. Thực hiện được tốt các vấn đề trên đây tức là Công ty đã vận dụng một cách triệt để các TSCĐ hiện có vào sản xuất, khai thác được tiềm năng sẵn có của mình góp phần tích cực trong công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn VCĐ. 2.2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm gắn liền với cơ chế khoán trong quản lý, sử dụng máy móc thiết bị hiện có của Công ty. Khoán sản phẩm là một hình thức tiên tiến trong công tác tổ chức quản lý trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm gắn liền với lợi ích và trách nhiệm vật chất của người lao động với kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nó vừa tạo điều kiện cho người lao động được phát huy tính chủ động sáng tạo trong sản xuất kinh doanh vừa bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế khoán đúng đắn sẽ tạo ra động lực thúc đẩy người lao động, quan tâm đến sản xuất, phấn đấu tăng năng xuất lao động. Từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm bảo quản tài sản cố định mà họ quản lý và sử dụng để đảm bảo cho máy móc hoạt động tốt, không bị ngừng nghỉ, quá trình sản xuất không bị gián đoạn do máy hỏng hóc. Nhờ vậy mà sản lượng sản xuất ra ngày càng nhiều, chất lượng tốt, góp phần tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho công nhân viên. Thực tế ở công ty In tài chính trong năm qua việc cơ chế khoán đã có tác dụng rõ rệt. Nhờ áp dụng cơ chế khoán lương theo sản phẩm,công nhân đã rất tích cực tăng năng xuất lao động, tận dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị. Nhìn chung đời sống người lao động đã đảm bảo ổn định và ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, công tác khoán lương sản phẩm của Công ty còn bộc lộ nhiều điểm chưa chặt chẽ. Biểu hiện là công tác này mới chỉ áp dụng cho cả phân xưởng, cả tổ đội sản xuất, chưa áp dụng đối với từng cá nhân, do đó chưa gắn chặt ý thức trách nhiệm của từng người lao động với máy móc trong quá trình sản xuất.Việc quản lý, sử dụng máy móc thiết bị không phải trách nhiệm của riêng ai mà thuộc trách nhiệm chung của cả một nhóm người, nếu máy móc có hỏng hóc hay mất mát thì đã có cả một nhóm cùng chịu trách nhiệm. Chính vì việc giao quyền quản lý và sử dụng máy móc chưa cụ thể cho từng người lao động nên dẫn đến tình trạng công nhân chỉ phấn đấu làm sao sử dụng hết công suất, tạo ra nhiều sản phẩm nhận nhiều lương là được, không cần biết đến tình trạng kỹ thuật máy móc dẫn đến máy móc không được bảo dưỡng kịp thời sẽ sớm hư hỏng. Vì vậy việc đảm bảo cho máy sử dụng được lâu dài đòi hỏi ý thức trách nhiệm của người công nhân rất lớn. ở phân xưởng may của Công ty, mỗi máy may công nghiệp do nhiều công nhân trực tiếp sử dụng theo từng ca nên việc máy móc hỏng hóc hay cho ra những sản phẩm tồi không chỉ do một công nhân trực tiếp đứng máy lúc đó mà do cả một quá trình đã sử dụng. Do đó trách nhiệm của người công nhân ở đây không chỉ đối với ca sản xuất của mình mà phải là một thái độ trách nhiệm mang tính liên tục trong cả quá trình sử dụng của một đời máy. Như vậy, để đạt hiệu quả sản xuất tối ưu thì công tác khoán của công ty cần phải kết hợp giữa mục đích chung và mục đích riêng. Khoán lương sản phẩm cần gắn chặt với khoán trong việc quản lý sử dụng máy móc thiết bị. Công tác khoán không chỉ áp dụng với phân xưởng và tổ đội sản xuất mà phải áp dụng đối với từng công nhân để nâng cao trách nhiệm của từng người trong việc quản lý sử dụng máy móc thiết bị. Chỉ có ràng buộc trách nhiệm cụ thể với lợi ích kinh tế thì mới khuyến khích được người lao động thật sự gắn bó với công việc họ làm hạn chế tình trạng vô trách nhiệm trong sản xuất. Từ đó công nhân mới có ý thức quản lý sử dụng máy móc một cách tự giác, vừa tăng năng suất lao động vừa đảm bảo thu nhập của công nhân không ngừng tăng lên nhưng mặt khác vẫn đảm bảo năng lực sản xuất của máy móc thiết bị. Công ty cũng cần phải thường xuyên kiểm nghiệm năng lực kỹ thuật thực tế của máy móc, trên cơ sở đó đề ra cơ chế khoán thích hợp về thời gian sử dụng máy và công suất hoạt động của máy. Ví dụ: đối với máy in còn mới thì được tận dụng hết công suất nhưng đối với máy đã khấu hao 50% thì chỉ cho máy chạy theo khả năng có thể đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm tốt mà không ảnh hưởng đến chất lượng của máy. Dựa trên năng lực thực tế của máy móc mà tiến hành định mức khoán sản phẩm sát với thực tế, như vậy vẫn đảm bảo cho công nhân phát huy được năng suất lao động vừa đảm bảo chất lượng kỹ thuật cho máy móc. Ngoài cơ chế khoán lương sản phẩm, Công ty nên đa dạng hoá các hình thức khoán như khoán cả về chi phí sửa chữa, bảo dưỡng, khoán cả về chi phí nguyên liệu... Đồng thời phải có biện pháp khen thưởng rõ ràng, khen để kích thích thêm gương làm tốt, phạt để không còn tình trạng sai trái, gây ảnh hưởng xấu đến kết quả sản xuất của công ty. Vì hình thức khoán có tính chất kích thích sản xuất rất lớn do vậy công ty cần phải áp dụng đúng thời điểm. Ví dụ khi mặt hàng in có khách hàng đặt nhiều, công ty có thể ra mức khoán cao hơn mức bình thường để khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng sáng tạo của mình, tận dụng triệt để thời gian, công suất máy móc vào sản xuất. Gắn sản xuất quản lý và sử dụng máy móc làm cho người công nhân vì quyền lợi thiết thực của chính mình sẽ có ý thức giữ gìn bảo quản máy móc, hạn chế tình trạng máy hỏng không hoạt động được làm gián đoạn sản xuất. Trong khi thực hiện cơ chế khoán, công ty phải gắn liền với vấn đề an toàn lao động, một mặt tránh được thiệt hại do sản xuất bị đột ngột ngắt quãng, mặt khác đảm bảo tính mạng và sức khỏe cho người lao động. Công ty cũng nên thường xuyên tổ chức đánh giá tổng hợp đối với từng đối tượng sử dụng TSCĐ trên các mặt: bảo quản sử dụng, hiệu quả sản xuất, an toàn lao động... nhằm khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả sản xuất cũng như đề ra phương thức mới để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất nói chung và VCĐ nói riêng. 2.3. Cần quan tâm tới hiệu quả sửa chữa TSCĐ, quản lý tốt chi phí sửa chữa, TSCĐ của Công ty. Thực tế công tác sửa chữa của Công ty trong thời gian qua đã được thực hiện một cách kịp thời trên cơ sở theo giõi, giám sát, kiểm tra tình hình hoạt động của TSCĐ khá chặt chẽ. Công ty đã lập một xưởng sửa chữa chuyên đảm nhận công việc này nên cũng đã hạn chế được thiệt haị do TSCĐ bị hỏng hóc, khôi phục được năng lực sản xuất. Tuy nhiên trong công tác sửa chữa Công ty còn chưa tính đến hiệu quả sửa chữa đối với từng tài sản được sửa chữa cũng như việc quản lý chi phí sửa chữa còn chưa thực sự chặt chẽ. Để công tác sửa chữa được tiến hành tốt, bộ phận tài chính của Công ty cần phải tính toán dự trù đảm bảo vốn cho công tác sửa chữa. Điều quan trọng nhất ở đây là phải tính toán đến hiệu quả của việc sử dụng vốn cho công tác sửa chữa lớn hơn giá trị còn lại ( đã được xác định lại, thì việc bỏ vốn sửa chữa là không hiệu quả. Khi đó cùng với một số căn cứ khác như yêu cầu về sản xuất, khả năng mua sắm máy móc thiết bị thay thế ... Công ty sẽ quyết định sửa chữa hay chấm dứt đời hoạt động của tài sản đó. Trong trường hợp này Công ty nên mạnh dạn loại bỏ tài sản đó bằng cách đem thanh lý, nhượng bán để đầu tư thay thế tài sản mới. Công ty cần đưa ra kế hoạch về chi phí sửa chữa đối với từng loại TSCĐ cụ thể cũng như toàn bộ TSCĐ cần được sửa trong năm. Cần định ra định mức chi phí sửa chữa dự kiến, khi thực tế phát sinh sẽ tiến hành so sánh chi phí chi phí dự kiến để có thể đánh giá, tìm hiểu nguyên nhân điều chỉnh kịp thời chi phí cho hợp lý, hạn chế việc lãng phí chi phí sửa chữa. Trong công tác sửa chữa TSCĐ Công ty cũng cần đặt ra định mức kỹ thuật về nguyên liệu, phụ tùng thay thế, dụng cụ sửa chữa, thời gian sửa chữa để có căn cứ kiểm tra giám sát công tác này. Đây cũng là căn cứ để Công ty có thể khen thưởng những người làm nhanh, tiết kiệm chi phí, khuyến khích họ sửa chữa tốt hơn đồng thời phạt những người làm ẩu, gây lãng phí ...một cách thích đáng để nâng cao hiệu quả của công tác sửa chữa máy móc. Công ty còn tiếp tục việc sửa chữa TSCĐ theo định kỳ để kéo dài tuổi thọ của máy móc thiết bị những cần phải tính toán để tránh kéo dài thời gian sửa chữa lớn nhằm tiết kiệm chi phí và không làm tăng chi phí sửa chữa thường xuyên giữa các chu kỳ sửa chữa lớn. Cùng với việc sửa chữa, Công ty cần đảm bảo tốt việc bảo dưỡng máy móc thiết bị theo đúng thực trạng và yêu cầu kỹ thuật của máy. Máy móc thiết bị sản xuất chủ yếu của Công ty là dây chuyền in OFFSET. Dây chuyền này được nhập từ Đức lại vận hành trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta vì vậy trong quá trình hoạt động sản xuất, hỏng hóc trục trặc và sự cố kỹ thuật xảy ra là không thể tránh khỏi. Do vậy, Công ty cần cho tiến hành bảo dưỡng thường xuyên, không chờ đến khi máy hỏng mới đem sửa chữa từ đó duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của máy móc. Về việc bảo dưỡng thường xuyên, Công ty nên giao cho chính người công nhân vận hành máy. Nếu họ được giao quyền quản lý và sử dụng thì họ sẽ nắm khá vững đặc điểm và hiện trạng của máy, vì vậy mà việc bảo dưỡng sẽ được họ chú ý hơn và làm tốt hơn. Tuy nhiên cũng cần đánh giá chính xác khả năng của người công nhân có thể làm được việc đó hay không và làm được đến đâu. Thực hiện tốt những vấn đề trên, Công ty sẽ có điều kiện duy trì và nâng cao năng lực sản xuất của máy móc thiết bị, đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, kéo dài tuổi thọ của máy móc từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. 2.4. Tiếp tục đổi mới, đầu tư mua sắm TSCĐ hiện đại hơn nữa: Giải pháp này dựa trên cơ sở trình độ tay nghề công nhân sản xuất trong công ty là tương đối cao, (chủ yếu là thợ bậc 6/7 chiếm 60%, số có trình độ tay nghề thấp, bậc 3/7 chiếm 12%), điều này đảm bảo cho các kế hoạch đầu tư , mua sắm mới TSCĐ dùng vào quá trình sản xuất - kinh doanh của công ty. Việc đổi mới TSCĐ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tăng năng suất lao động và đảm bảo an toàn lao động. Xét trên góc độ tài chính, sự nhanh nhạy trong việc đầu tư đổi mới TSCĐ là một nhân tố để hạ thấp chi phí về năng lượng, nhiên liệu, nguyên liệu, chi phí sửa chữa, nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó sản phẩm tiêu thụ nhanh hơn, khấu hao máy móc nhanh sớm thu hồi vốn, hạn chế hao mòn vô hình trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển. Trong kinh doanh, việc tăng cường đổi mới trong thiết bị máy móc được coi là một là một lợi thế để chiếm lĩnh thị trường hàng hoá. Trong điều kiện kinh tế thị trường vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải luôn chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng, số lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động dẫn đến giá thành hạ thì mới có thể cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt đối với ngành sản xuất hiện nay, việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách hơn. Do đó công ty rất cần có kế hoạch đầu tư trang bị thêm vào dây truyền sản xuất hiện có để từng bước nâng cao công nghệ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Còn nếu như sớm tự thoả mãn với những gì đã đạt được mà không đầu tư mới TSCĐ thì công ty sẽ rất khó khăn trong việc mở mang hoạt động sản xuất. Do vậy việc đầu tư mua sắm thiết bị sản xuất, cải tiến quy trình công nghệ, là vấn đề rất quan trọng trong chiến lược phát triển sản xuất lâu dài của công ty. Do đó nếu công ty có kế hoạch đầu tư thêm vào loại tài sản này thì sẽ làm tăng tỷ trọng của TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh, từ đó làm cơ cấu TSCĐ hợp lý hơn và góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ cho công ty. Việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cũng cần phải dựa trên khả năng thực tế về trình độ lao động của công ty. Các máy móc thiết bị càng hiện đại càng đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ tay nghề cao. Vì vậy tiến hành công tác đầu tư mua sắm máy móc thiết bị dựa trên năng lực của đội ngũ công nhân viên của công ty sẽ tránh được hiện tượng máy móc thiết bị mua về đạt các yêu cầu đề ra (như yêu cầu về tiến bộ khoa học kỹ thuật, về công suất...) nhưng lại không sử dụng được do không có người vận hành hoặc được sử dụng với hiệu quả và năng suất thấp, không đúng quy trình làm giảm hiệu quả sử dụng máy. Việc đầu tư máy móc thiết bị phải tiến hành trên cơ sở nghiên cứu, nắm bắt và dự đoán được nhu cầu thị trường, thị hiếu khách hàng để từ đó lựa chọn máy móc thiết bị phù hợp với yêu cầu sản xuất của công ty, tránh hiện tượng máy móc đưa về sử dụng chưa được bao lâu thì phải ngừng hoạt động vì sản phẩm mất thị trường. Như vậy việc đầu tư TSCĐ đúng hướng sẽ kích thích sản xuất phát triển còn nếu như đầu tư ồ ạt không đúng hướng thì sẽ lãng phí vốn mà vẫn không mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác đầu tư đổi mới TSCĐ của công ty cũng cần được tiến hành một cách đồng bộ hơn. Ví dụ như trong năm vừa qua có những tài sản đã được công ty chú ý đầu tư (như dụng cụ quản lý, máy móc thiết bị) nhưng cũng có những tài sản đã quá cũ mà vẫn không có kế hoạch nâng cấp đổi mới (như phương tiện vận tải đã khấu hao hết 80% mà vẫn chưa được thay thế) làm ảnh hưởng đến hiệu quả chung trong sử dụng VCĐ và TSCĐ của công ty. Tuy nhiên việc đầu tư mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ thường đòi hỏi vốn lớn và làm cho chi phí về TSCĐ sẽ tăng lên. Vì vậy việc đầu tư phải tiến hành có trọng điểm, có chiều sâu để đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ cho công ty. Như trên đã nêu, việc đầu tư mua sắm, đổi mới thiết bị, dây chuyền công nghệ, đòi hỏi vốn rất lớn. Thực tế hiện nay công ty đang rất thiếu vốn đầu tư để tiến hành đổi mới TSCĐ. Vay vốn ngân hàng thì do thời gian hoàn vốn quá nhanh làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư hơn nữa vấn đề chi phí để trả lãi vốn vay cũng gây khó khăn về tài chính cho công ty: + Nguồn vốn đầu tiên đó là số lợi nhuận trích lập vào các quỹ: quỹ dự trữ, quỹ phát triển kinh doanh. Đây là nguồn vốn quan trọng để công ty đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, đổi mới TSCĐ, mở rộng quy mô sản xuất. Do vậy những năm tới, công ty cần có những phương hướng, biện pháp tích cực để đẩy mạnh kết quả sản xuất kinh doanh làm tăng lợi nhuận như hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hiện tốt công tác tiêu thụ, đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh để mở rộng thị trường... từ đó nâng cao mức lợi nhuận hàng năm để có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bi, mở rộng quy mô sản xuất. + Nguồn vốn thứ hai là số trích khấu hao TSCĐ của công ty được Nhà nước cho phép để lại đầu tư mua sắm TSCĐ. Với số vốn trích khấu hao, công ty đã huy động vào đầu tư mua sắm TSCĐ với mục đích tăng năng suất của máy móc thiết bị hiện có. + Nguồn vốn thứ ba là khai thác từ vốn tồn đọng do số TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý. Khi các nguồn vốn trên chưa đủ cho việc đầu tư thì công ty có thể huy động vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên. Với số cán bộ công nhân viên là 300 người, nếu công ty có thể huy động được mỗi người từ 5 - 10 triệu đồng thì công ty sẽ có số vốn là 1,5 tỷ đồng đến 2,5 tỷ đồng, tạo điều kiện bước đầu để công ty đầu tư cho thiết bị mới. Công ty nên có biện pháp khuyến khích cán bộ công nhân viên cho công ty vay vốn như đề ra mức lãi suất thích hợp (thấp hơn đi vay vốn ngân hàng và cao hơn lãi tiền gửi ngân hàng), cán bộ công nhân viên cho vay được rút tiền theo thoả thuận... để đảm bảo làm sao tiền vay được rải đều và số dư ổn định. Tuy nhiên việc huy động các nguồn vốn trên đây vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn. Trong xu hướng hiện nay, có sự ra đời của thị trường chứng khoán tại Việt Nam cũng như chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, công ty có thể tiến hành huy động vốn nhàn rỗi trong nội bộ công ty bằng cách phát hành trái phiếu và cổ phiếu. Mỗi cán bộ công nhân viên khi trở thành một cổ đông hoặc một người chủ cho vay sẽ gắn quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc sử dụng vốn. Để hưởng lợi tức cao thì đòi hỏi cán bộ công nhân viên phải luôn phấn đấu, không ngừng nâng cao trách nhiệm trong việc sử dụng đồng vốn nói chung và VCĐ nói riêng, do đó TSCĐ cũng phải được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Bởi vì có trên cơ sở như vậy mới đảm bảo đưa lại doanh thu lớn, lợi nhuận cao để bù đắp chi phí, trả lãi cho người mua trái phiếu và để lại chia cổ phần. Đó là ích sát thực nhất đối với mỗi người mua cổ phiếu hay trái phiếu.Còn khi sản xuất không đem lại hiệu quả cao, lợi nhuận để lại chia cổ phần ít thì lợi tức của mỗi cổ đông cũng giảm đi (đối với những cổ phiếu thông thường). Vì vậy muốn thu được lợi tức cao thì cán bộ công nhân viên phải luôn nỗ lực phấn đấu và cố gắng trong vấn đề sử dụng có hiệu quả kinh doanh trong đó có VCĐ. Đồng thời việc huy động vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu sẽ làm tăng vốn chủ sở hữu dài hạn của công ty (nếu là cổ phiếu) hoặc vốn vay có thời hạn nhất định (nếu là trái phiếu) đảm bảo lâu dài cho việc đầu tư TSCĐ của công ty. Việc huy động và sử dụng tốt các nguồn vốn trên đây sẽ tạo thuận lợi cho công tác đầu tư đối với TSCĐ, từ đó nâng cao hơn nữa năng lực sản xuất, hiệu quả sử dụng VCĐ và TSCĐ của công ty. 2.5. Không ngừng nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn cho đội ngũ công nhân viên. Yếu tố con người là yếu tố quyết định cho tiến trình phát triển của một quốc gia hay bất kỳ một tổ chức xã hội nào. Con người suy cho cùng là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vì vậy mà đối với các doanh nghiệp hiện nay, để đứng vững thì hơn bao giờ hết trình độ chuyên môn và tay nghề của đội ngũ lao động có tính quyết định để phát triển và chiến thắng trong sự cạnh tranh gay gắt trong nền kinh tế thị trường. Tuy trình độ tay nghề của công nhân sản xuất trong công ty là tương đối cao, nhưng theo quy luật khách quan của sự phát triển, kiến thức KH - CN luôn luôn phát triển, đòi hỏi người công nhân phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề của mình, đáp ứng được sự phát triển liên tục của KH - CN. Nâng cao trình độ tay nghề của công nhân sẽ làm cho việc sử dụng TSCĐ tốt hơn mức độ hao mòn của TSCĐ sẽ giảm đi tránh được hư hỏng và tai nạn bất ngờ, đồng thời làm sản phẩm sản xuất trên một giờ máy chạy tăng lên làm tăng hiệu quả sử dụng thiểu số TSCĐ. Bên cạnh đó bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ quản lý kỹ thuật để họ nâng cao trình độ và có điều kiện để tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật hiện nay thì việc nâng cao trình độ tay nghề và trình độ chuyên môn cho người lao động là một trong những điều kiện để có thể đầu tư vào máy móc thiết bị hiện đại. Bởi vì các máy móc càng hiện đại càng đòi hỏi người sử dụng phải có trình độ và tay nghề cao, nếu không sẽ không phát huy được hết khả năng của máy móc, xấu hơn là sẽ sử dụng không đúng quy trình gây hỏng máy trước thời hạn. Nếu công ty chú trọng nâng cao tay nghề và trình độ người lao động, họ sẽ có khả năng tận dụng tốt hơn công suất máy móc thiết bị, quản lý chặt hơn các TSCĐ hiện có, sử dụng có hiệu quả hơn các TSCĐ. Đồng thời do phản ánh, phát hiện của họ là căn cứ để tiến hành công tác sửa chữa, bảo dưỡng, thanh lý TSCĐ một cách kịp thời. Để không ngừng nâng cao trình độ và tay nghề cho đội ngũ lao động, Công ty có thể áp dụng một số biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng sử dụng TSCĐ. Đối với cán bộ quản lý kỹ thuật: - Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn ngắn hạn và dài hạn, tạo điều kiện cho những cán bộ có khả năng được tham gia các khoá học bồi dưỡng nâng cao. - Tổ chức các buổi hội thảo rút kinh nghiệm, báo cáo kinh nghiệm trong công ty, từ đó đánh giá, tổng kết những vấn đề nào đã được thực hiện một cách tích cực, và còn phải khắc phục những hạn chế gì trong công tác quản lý, sử dụng TSCĐ. Đứng về phía tài chính công ty cần sử dụng tốt các đòn bầy tiền lương, tiền thưởng, cải tiến điều kiện lao động, duy trì và thực hiện tốt hình thức khoán lương theo sản phẩm theo bậc thợ để công nhân có nỗ lực phấn đấu nâng cao tay nghề. Bên cạnh đó khuyến khích động viên cán bộ công nhân viên phát huy sáng kiến cải tiến sản xuất. Đồng thời công ty nên quy định những hình thức khen thưởng thích đáng với những công nhân có tay nghề tốt, chịu khó học hỏi. Ngược lại, cắt thưởng phạt lương đối với những công nhân tay nghề yếu kém không có ý thức bảo quản TSCĐ của Công ty. 2.6. Chú trọng tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Thị trường tiêu thụ sản phẩm có mối quan hệ mật thiết đến hàng loạt các kế hoạch của doanh nghiệp từ đầu tư, sản xuất... đến uy tính của sản phẩm. Thực hiện được việc tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới hoàn thành các quá trình kinh tế của sản xuất và mới đảm bảo cho quá trình sản xuất được thường xuyên liên tục. Có tiêu thụ được sản phẩm thì mới tạo điều kiện để thúc đẩy sản xuất mạnh mẽ hơn và như vậy máy móc, thiết bị mới có thể phát huy hết công suất, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ - TSCĐ. Hiện nay, ngoài nhiệm vụ kinh doanh hàng hoá của mình, công ty nhận in cho các đơn vị khác trong nghành. Chỉ có chủ động trong cả quá trình sản xuất từ khâu mua nguyên liệu đến khâu tiêu thụ sản phẩm thì Công ty mới thực sự thu được hiệu quả kinh tế cao và đó mới là mục tiêu căn bản của quá trình sản xuất. Để có thể mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm, trên cơ sở đó phát triển có chiều sâu mặt hàng này, Công ty có thể thực hiện các giải pháp sau: - Công ty cần chủ động tìm kiếm những khách hàng có nhu cầu lớn về mặt hàng in và sử dụng sản phẩm có tính chất thường xuyên, lâu dài để ký kết các hợp đồng sản xuất và tiêu thụ, bước đầu tạo cho Công ty có một thị trường tiêu thụ lâu dài và ổn định. - Tăng cường công tác tiếp thị, nghiên cứu thị trường nắm bắt thị hiếu khách hàng về chất lượng, mẫu mã sản phẩm từ đó cải tiến tổ chức sản xuất phù hợp với yêu cầu sản xuất mới. - Tích cực đầu tư cả chiều sâu và chiều rộng cho phân xưởng in, nâng cao hơn nữa chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, dựa trên việc nắm bắt nhu cầu thị trường để đi vào sản xuất những sản phẩm đòi hỏi kỹ thuật cao, mẫu mã đẹp hợp thị hiếu khách hàng. Tóm lại, có tìm được thị trường lâu dài, ổn định cho sản phẩm in thì mới đẩy mạnh được việc tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo phát huy tối đa công suất máy móc thiết bị hiện có, phát triển năng lực sản xuất, đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng VCĐ - TSCĐ của Công ty. Từ đó tạo điều kiện cho Công ty mở rộng và phát triển hơn nữa quy mô sản xuất kinh doanh của mình. KẾT LUẬN Toàn bộ những nội dung được trình bày trên đây là những lý luận cơ bản trong việc quản lý, sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp nói chung và thực tế trong công tác sử dụng vốn cố định ở công ty In Tài Chính. Vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định được công ty đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết để tồn tại, đứng vững và phát triển trong nên kinh tế thị trường. Trong những năm qua, bên cạnh những thành tích đáng khích lệ đã đạt được, công tác quản lý, sử dụng vốn cố định của công ty vẫn còn không ít những khó khăn và tồn đọng. Điều đó đòi hỏi công ty phải cố gắng nhiều hơn trong quá trình hoạt động của mình, tìm ra những biện pháp tối ưu nhằm hoàn thiện công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong những năm tới. Vấn đề quản lý, sử dụng, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định là một vấn đề khó khăn cả về lý luận và thực tiễn, song em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài này và đưa ra một số ý kiến, biện pháp về vấn đề quản lý, sử dụng vốn cố định ở công ty In Tài Chính. Hy vọng rằng những ý kiến đề xuất của em sẽ góp phần nhỏ bé vào quá trình quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty. Từ đó giúp cho công ty không ngừng nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh và đứng vững trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Do trình độ nhận thức của bản thân em còn nhiều hạn chế và trong thời gian thực tập có hạn nên bản luận văn này em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sai sót. Em rất mong được sự chỉ bảo góp ý của công ty và các thầy cô giáo để bản luận văn đạt chất lượng cao hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS - Cao Thuý Xiêm, các thầy cô giáo trong trung tâm Quản trị Kinh Doanh Tổng Hợp và cô chú trong phòng Tài vụ công ty In Tài Chính đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. Biểu 3: Tình trạng kỹ thuật của tài sản cố định tại Công ty in tài chính năm 2001 Đơn vị: đồng Phân loại TSCĐ Nguyên giá TSCĐ Số tiền khấu hao luỹ kế Hệ số hao mòn TSCĐ 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2000 31/12/2001 Tăng (+) Giảm (-) I. TSCĐ đang dùng 1. Máy móc, thiết bị 33.111.727.356 50.781.956.714 15.387.295.406 27.339.562.107 0,4647083 0,5383716 0,07366 2. Phơng tiện vận tải 210.698.500 681.674.500 199.608.500 194.130.069 0,9473655 0,2847841 -0,6626 3. Thiết bị, dụng cụ quản lý 2.095.703.750 2.210.945.688 967.796.826 1.665.666.552 0,4618004 0,7533729 0,29157 4. Nhà cửa, vật kiến trúc 1.459.916.711 12.949.096.711 344.402.260 1.549.912.704 0,2359054 0,1196927 -0,1162 II. TSCĐ cha cần dùng - - - - - - - III. TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý - - - - - - - Cộng 36.878.046.317 66.623.673.613 16.899.102.992 30.749.271.432 0,4582429 0,4615367 0,00329 NGUỒN: PHÒNG TÀI VỤ CÔNG TY IN TÀI CHÍNH Biểu 2: Tình hình trang bị TSCĐ của Công ty in tài chính năm 2001 Đơn vị: đồng Phân loại TSCĐ Đầu năm 2001 Tăng, giảm trong năm 2001 Cuối năm 2001 Nguyên giá GT còn lại Tăng trong năm Giảm trong năm Nguyên giá GT còn lại Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Máy móc thiết bị 33.111.727.356 89,79 17.724.431.950 88,72 17.670.229.358 750.979.857 50.030.976.857 76,06 22.691.414.750 64,78 Phơng tiện vận tải 210.698.500 0,57 11.090.000 0,06 470.976.000 84.478.500 597.196.000 0,91 403.065.931 1,15 Thiết bị, dụng cụ quản lý 2.095.703.750 5,68 1.127.906.924 5,65 115.241.938 8.739.345 2.202.206.343 3,35 536.539.791 1,53 Nhà cửa, vật kiến trúc 1.459.916.711 3,96 1.115.514.451 5,58 11.489.180.000 - 12.949.096.711 19,69 11.399.184.007 32,54 Cộng 36.878.046.317 100 19.978.943.325 100 29.745.627.296 844.197.702 65.779.475.911 100 35.030.204.479 100 NGUỒN: PHÒNG TÀI VỤ CÔNG TY IN TÀI CHÍNH Biểu 4: Tình hình chủ yếu về sản xuất kinh doanh của công ty In Tài chính qua các năm 1997 - 2001 Đơn vị: 1000 đồng Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 So sánh năm 1998 với năm 1997 So sánh năm 1999 với năm 1998 So sánh năm 2000 với năm 1999 So sánh năm 2001 với năm 2000 Số tiền tăng (+), giảm (-) % (+;-) Số tiền tăng (+), giảm (-) % (+;-) Số tiền tăng (+), giảm (-) % (+;-) Số tiền tăng (+), giảm (-) % (+;-) 1. Tổng doanh thu 21.419 25.284 32.819.597 58.710.022 85.260.471 3.864.587 15,28 7.535.163 29,80 25.890.425 78,89 26.550.449 45,22 DT từ hoạt động SXKD 21.127 25.037 32.491.396 56.529.191 74.854.817 3.909.812 15,62 7.453.963 29,77 24.037.795 73,98 18.325.626 32,42 DT từ hoạt động khác 292 247 328.201 2.180.831 10.405.654 -45.225 -18,31 81.200 32,87 1.852.630 564,48 8.224.823 377,14 2. Tổng lợi nhuận 1.239 1.440 1.677.656 2.875.500 5.302.205 201.377 13,98 237.024 16,45 1.197.844 71,40 2.426.705 84,39 LN từ hoạt động SXKD 1.067 1.226 1.548.468 2.656.358 4.764.376 158.629 12,94 322.449 26,30 1.107.890 71,55 2.108.018 79,36 LN từ hoạt động khác 171 214 129.188 219.142 537.829 42.748 19,92 -85.425 -39,80 89.954 69,63 318.687 145,42 3. Nộp ngân sách 1.070 1.434.278 1.926.570 3.354.197 3.621.938 364.278 25,40 492.292 34,32 1.427.627 74,10 267.741 7,98 Thuế doanh thu (VAT) 627 812.353 1.270.819 2.261.167 2.294.191 185.353 22,82 458.466 56,44 990.348 77,93 33.024 1,46 Thuế lợi tức (thu nhập) 357 504.223 536.850 903.161 1.063.761 147.223 29,20 32.627 6,47 366.311 68,23 160.600 17,78 Thuế sử dụng vốn 86 117.702 118.901 189.869 263.986 31.702 26,93 1.199 1,02 70.968 59,69 74.117 39,04 4. Vốn kinh doanh bình quân 9.854 14.407.748 20.276.575 32.378.986 50.076.377 4.552.911 31,60 5.868.827 40,73 12.102.411 59,69 17.697.391 54,66 Vốn lu động bình quân 7.270 11.841.284 13.063.438 23.903.646 37.425.833 4.570.546 38,60 1.222.154 10,32 10.840.208 82,98 13.522.187 56,57 Vốn cố định bình quân 2.584 2.566.464 7.213.137 8.475.340 12.650.544 -17.635 -0,69 4.646.673 181,05 1.262.203 17,50 4.175.204 49,26 5. Giá thành toàn bộ 19.326 22.889.945 30.837.251 50.578.219 63.963.508 3.563.548 15,57 7.947.306 34,72 19.740.968 64,02 13.385.289 26,46 6. Tỷ suất LN/giá thành toàn bộ 11,23% 10,96% 10,90% 8,50% 7,60% -0,27% -0,06% -3,30% -0,90% 7. Tỷ suất LN/giá thành tiêu thụ 6,20% 5,83% 5,70% 5,40% 5,02% -0,37% -0,13% -0,68% -0,38% 8. Tỷ suất LN/DT 5,70% 5,56% 5,10% 4,90% 4,80% -0,14% -0,46% -0,30% -0,10% Nguồn: Phòng tài vụ Công ty in tài chính ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29119.doc