Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu của cây cà phê Việt Nam

Chương I:Lời mở đầu Việt Nam là một nước nhiệt đới gió ẩm mưa nhiều. Đó cũng là điều kiện lý tưởng cho một số cây trồng phát triển, đem lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế quốc dân. Một trong loại cây trồng đó chúng ta không thế không kể đến cây cà phê, một loại cây quen thuộc với người dân Việt Nam, đặc biệt là ở các cùng Tây Nguyên, Lâm Đồng. Nó có lịch sử phát triển ở Việt Nam cũng khá lâu đời và trong những năm gần đây nó đã đem lại thu nhập không nhỏ trong nền kinh tế nước ta và giá trị xu

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu của cây cà phê Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất khẩu của nó cũng là khá lớn. Thuận lợi là như vậy, nhưng Việt Nam vẫn chưa phải là một nước sản xuất và xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới. Vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được giải quyết như : giá cà phê liên tục giảm, giá trị kim ngạch xuất khẩu liên tục giảm mạnh, có khi lên xuống thất thường, gây khó khăn nhiều cho người sản xuất và nhà xuất khẩu. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải tìm ra nguyên nhân, đề ra các phương hướng và giải pháp như thế nào để khắc phục những tồn tại đó, cũng như tìm ra phương cách cho cả phát triển của cây cà phê Việt Nam. Nhất là trong điều kiện hội nhập WTO, mở cửa thị trường quốc tế thì vấn đề đặt ra với cây cà phê Việt Nam ngày càng bức xúc hơn bao giờ hết. Từ những hiểu biết nho nhỏ, cũng như qua tìm hiểu về cây cà phê Việt Nam, em đã thực hiện đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu của cây cà phê Việt Nam”. Mong muốn giải quyết được một phần nào khó khăn đó của cây cà phê Việt Nam. Chương II. Nội dung đề tài. Thực trạng của cây và hạt cà phê của Việt Nam. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê thế giới. 1.1.Tình tình sản xuất Theo số liệu thống kê cho thấy, thế giới hiện nay có trên 80 nước trồng cà phê, trong đó có 3 nước châu Phi, 15 nước châu Mỹ, 6 nước châu Đại Dương và một số nước châu Á. Hầu hết tập trung vào vùng nhiệt đới. Sản lượng cà phê thế giới năm 1980 là 4.408 triệu tấn, năm 1992 là 5685 triệu tấn, năm 1994 là 5430 triệu tấn. Hiện nay, tổng diện tích trồng cà phê thế giới vào khoảng trên 10 triệu ha. Năng suất bình quân 7 tạ/ha. Sản lượng cà phê thế giới không ngừng tăng lênm tốc độ tăng cũng nhanh hơn khiến cho giá giảm trong suốt thời gian qua, đến nay giảm mức thấp nhất trong vòng 30 năm đối với cà phê Robusta và 7 năm với cà phê Arabica. Lượng cung tăng bình quân đạt 2,88% trong giai đoạn 1991 – 2001 xét trong giai đoạn 1995 – 2001 thì tốc độ trang bình quân là 4,01% trong khi lượng tiêu thụ tăng khoảng 1,5 lần. Sản lượng trong 2 năm 1999-2000 tăng mạnh do điều kiện thời tiết thuận lợi làm cho sản lượng xuất khẩu cũng tăng theo. Theo ICO lượng xuất khẩu nhảy vọt từ 77,3 triệu bao ở vụ 1997/1998 lên 84,3 triệu bao vào vụ 1998/1999. 1.2. Tình hình giá cả. Cà phê là sản phẩm biến động mạnh về giá cả trên thị trường nông sản thế giới. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự biến động đó. Bảng 1: Tình hình biến động giá cả cà phê trên thị trường thế giới trong những năm gần đây. Loại Rubusta Mức biến động hàng năm(%) Arabica Mức động biến động hàng năm(%) Năm Giá Giá 1990 1212 1829 1991 1098 -9,4 1607 -12,13 1992 962 -12,38 1245 -22,52 1993 1179 22,56 1468 17,91 1994 2639 123,83 3158 115,12 1995 2789 5,68 3211 1,67 1996 1820 -34,47 2635 -17,93 1997 1775 -2,47 3670 39,28 1998 1935 9,01 3425 -6,67 1999 1466 -24,23 2313 -32,46 2000 915 -37,58 2018 -12,75 2001 524 -42,73 1227 -39,2 2002 560 6,8 1350 100,02 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Từ năm 1995 đến nay, giá cà phê trên thị trường thế giới liên tục giảm xuống mức thấp. Hiện nay, được coi là thời điểm khủng hoảng thừa của cà phê thế giới. 1.3. Thị trường tiêu thụ cà phê thế giới. Những năm đầu thập kỉ 90, Singapore đã nhập khẩu 17631 tấn chiếm 19,67% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu cà phê Việt Nam. Năm 1991 tăng lên 52119 tấn chiếm 56,81%. Năm 1992 là 58,322 tấn chiếm 49,34%. Trong những năm gần đây, tuy khối lượng cà phê của Việt Nam xuất sang Singapore tăng lên nhưng nó có xu hướng giảm về tỉ trọng, nguyên nhân là chúng ta đang có sự thay đổi chính sách xuất khẩu cà phê. Bảng 2: Một số nước nhập khẩu cà phê lớn của Việt Nam năm 2000. Nước Khối lượng (tấn) Tỷ phần (%) Nước Khối lượng (tấn) Tỷ phần (%) Mỹ 147.000 22,49 Ba Lan 26.700 4,09 Đức 84.300 12,9 Anh 24.500 3,75 Italia 63.800 9,76 Nhật Bản 22.700 3,48 Tây Ban Nha 51.900 7,44 Áo 21.800 3,34 Bỉ 51.500 7,88 Hàn Quốc 17.300 2,56 Pháp 31.500 4,84 Canada 12.900 1,92 Nguồn: Báo cáo của VICOFA Như vậy, vào thời điểm hiện nay, Mỹ đã vươn lên thành thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam, sau đó là Đức và Italia. Tại châu Á, một số thị trường cũng rất hấp dẫn với cà phê Việt Nam như Nhật Bản và Trung Quốc. Và cho đến nay, thị trường này đã được khai thác một các đầy đủ. Thực trạng sản xuất- xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 2.1. Tình hình sản xuất cà phê của Việt Nam. 2.1.1. Những kết quả được. Hiện nay cả nước có khoảng 420000 ha cà phê, trong đó cà phê vối chiếm 93,7% tổng sản lượng, chủ yếu xuất khẩu cà phê nhân chiếm 95%. Hiện nay cà phê là mặt hàng có kim ngạch thứ 2 sau gạo và có triển vọng trong thế kỉ 21 cà phê sẽ trở thành mặt hàng có kim ngạch cao nhất trong tất cả các mặt hàng nông sản Hiện nay, Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới và là thành viên của tổ chức cà phê thế giới từ năm 1996. Từ năm 1997 cà phê Việt Nam đã đã vượt qua Indonexia đạt 389000 tấn, đưa Việt Nam lên vị trí số 1 châu Á về khối lượng cà phê xuất khẩu và đứng thứ 2 thế giới sau Brazil. Cà phê nước ta có năng xuất cao, phẩm chất tương đối tốt, giá thành lại không cao nên có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trước kia, cà phê Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Singapore (60-65%). Hiện nay, cà phê Việt Nam đã xuất đến 57 nước trên thế giới. 2.1.2. Chất lượng cà phê xuất khẩu của nước ta hiện nay. Chất lượng nông sản nói chung và cà phê nói riêng phụ thuộc nhiều vào các yếu tố : điều kiện tự nhiên, giống, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, vận chuyển của tiêu thụ sản phẩm…. Nếu bất cứ khâu nào không hoàn thiện thì đều ảnh hưởng không tốt đến chất lượng sản phẩm. Từ đầu năm 90, xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng đột biến. Do quá trình quản lý cà phê không theo kịp nên chất lượng cà phê có phần giảm sút so với trước đây. Tình trạng hạt đen, hạt nên men, hạt khô lẫn lộn cùng với nhiều tạp chất không đảm bảo về chất lượng dẫn đến giá thấp gây thiệt hại cho việc xuất khẩu. Hiện nay, cà phê xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là cà phê loại 2 chiếm khoảng 80%, còn lại là cà phê loại 1 chiếm chưa đến 8%. Nhìn chung, chất lượng cà phê không ổn định, đáng chú ý là dạng hạt đen, nâu, xanh non, quả khô, sâu… vẫn còn nhiều do người sản xuất tranh thủ hái cà phê xanh khi đầu vụ thu hoạch, thêm vào là quá trình thu hái quả của khu vực tư nhân không đảm bảo, lẫn tạp chất nhiều, quy trình chế biến chưa đảm bảo, xay xát cà phê hiện ngay khi cà phê còn độ ẩm cao. Vậy để cà phê Việt Nam có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới cần phải chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, phải khắc phục những nhược điểm còn tồn tại ở trên, Đồng thời phát huy những ưu thế đặc trưng của cà phê Việt Nam cả về chất lượng và hương vị thơm ngon vốn có của nó để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng quốc tế. Bảng 3: Chất lượng của cà phê xuất khẩu của Việt Nam. (đơn vị :%) Chất lượng cà phê Niên vụ 94-95 95-96 96-97 97-98 Loại 1 ( R1) 2 6 7 16 Loại 2( R2A) 15 45 60 72 Loại 2B(R2B) 80 44 27 5 Tiêu thụ nội bộ 3 5 6 7 Nguồn : vinacontrol Theo báo cáo của hiệp hội cà phê-cacao Việt Nam(VICOFA) mặc dù sản lượng cà phê tăng 45,43% song kim ngạnh lại giảm 4,73%. So với các nước xuất khẩu cà phê thì giá cà phê nước ta giảm là do nguyên nhân như chất lượng cà phê nước ta thấp. Ước tính hàng năm thiệt hại do chất lượng cà phê thấp khoảng trên dưới 50 triệu USD. Đây là một tổn thất lớn với ngành cà phê nước ta. Hiện nay, Đắc Lắc co tổng diện tích hơn 200 ngàn ha cà phê. Với tổng sản lượng 260 ngàn tấn/năm. Khoảng 70% diện tích này nằm trong tay nhân dân. Số còn lại thuộc vào DNNN quản lý nhưng thực tế cũng đều do các hộ nông dân nhận khoán vườn cây trực tiếp sản xuất và giao nộp sản phẩm. Vì vậy, phần nhiều cà phê tham gia vào thị trường xuất khẩu đều do chính bàn tay nông dân đảm nhận. Do tập quán canh tác và nhận thức hiện nay còn mang tính lạc hậu nên rất nhiều người sản xuất chỉ quan tâm đến sự giao động của giá cả thị trường. Chất lượng cà phê do người nông dân sản xuất ra thấp nhiều so với tiêu chẩn xuất khẩu. Những bất ổn trong chất lượng cà phê khiến cho nhiều nhà nhập khẩu lo ngại và giảm mua cà phê Việt Nam, mặc dù vẫn công nhận hương vị cà phê Việt Nam thuộc hàng đầu thế giới. Vì vậy, dù các đơn vị nhập khẩu có gia công chế biến phân loại kỹ chăng nữa thì chỉ là biện pháp nhất thời để có hàng xuất khẩu, chứ thực tế phẩm chất thật của cà phê được quy định ngay từ công đoạn thu hoạch, chế biến bảo quản ở mỗi gia đình. Vì vậy, đã đến lúc người nông dân phải thực sự thấy dõ việc nâng cao chất lượng cà phê là một yếu tố cấp bách hiện nay, không nên phó mặc cho người kinh doanh hoặc công ty mua bán sản phẩm. 2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu cà phê. 2.2.1. Hoạt động chế biến thương phẩm cà phê, hoạt động kinh doanh, xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Gần 10 năm trước đây, vào những năm 1994, 1995, đến 1998 thị trường cà phê của Việt Nam được giá cả kính thích trở lên hết sức sôi động. Giá cà phê xuất khẩu đạt được ở mức bình quân trên dưới 2000$/tấn. Giá bán trong nước đạt từ 20-30 Triệu đồng/tấn. Diện tích cà phê tăng lên nhanh chóng đến mức không kiểm soát được. Lượng xuất khẩu cũng tăng nhanh vào các vụ 1998/1999, 1000/2000, 2000/2001. Sự tăng trưởng về diện tích, sản lượng cà phê ở Việt Nam mang tính tự phát nhiều hơn và có sự mất cân đối giữa sản xuất và chế biến. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến không theo kịp sự phát triển sản xuất nông nghiệp. Với sản phẩm có chất lượng chưa cao, chúng ta đã bán cà phê ra thị trường với giá thấp. Điều này không chỉ ảnh hưởng xấu tới thu nhập của ngành cà phê. Mà còn gây ra phản ứng không có lợi cho ta ở một số nước sản xuất cà phê.Thực ra giá cà phê xuống thấp dẫn tới những thua thiệt cho bà con nông dân. Từ giá cà phê chào bán vói giá 20,25-30 triệu đồng/tấn, đến cuối 2001 chỉ còn 4500 đồng/1kg ó 20%. Điều này, làm cho người nông dân gặp nhiều khó khăn. Vườn cây không còn được chăm sóc như xưa. Nhiều nơi bị bỏ hoang, dẫn đến sản lượng bị giảm sút nhanh tróng, làm các nhà xuất khẩu cũng bị thiệt hại lớn vì giá xuống thấp liên tục. Thêm vào đó, những mặt yếu kém của bản thân ngành cà phê Việt Nam cũng tăng thêm khó khăn cho ngành. Nhiều cơ sở có năng lực kinh doanh, đội ngũ thu mua, cung ứng nguồn hàng cho công ty xuất khẩu thiếu tin cậy. Trước những khó khăn to lớn của ngành cà phê, Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp cứu ngành cà phê như giãn nợ, cho vay vốn…. Để cải thiện tình hình trên cần có những giải pháp đúng đắnm toàn diện để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê trên thị trường quốc tế. Trong tình trạng khủng khoảng thừa, cung vượt quá cầu quá lớn thì chúng ta chỉ có thể tồn tại, đảm bảo hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nếu sản phẩm cà phê Việt Nam, nếu ngành cà phê Việt Nam có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế đủ để boả hộ quyền lợi của ngành trước một thị trường quốc trê phức tạp và đa dạng này. 2.2.2. Những tồn tại và năng lực của Việt Nam với cây cà phê xuất khẩu. * Cà phê của Việt Nam hiện nay. Tin từ bộ NN&PTNN, tháng 8/2006, tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm cả nước đạt 640 triệu $, đưa giá trị xuất khẩu tháng 8 lên 4,8 tỉ, tăng 24,3% so với cùng kì năm 2005. Trong đó mặt hàng nông lâm sản đạt kim ngạch 3,4 tỉ $( tăng 25%). Nhiều mặt hàng đang trên đà tăng trưởng mạnh về lượng xuất khẩu và giá trị như cà phê tăng tương ứng 7% và 56% đạt 727 triệu $. Chất lượng là yếu tố cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh, nhất là Việt Nam đã gia nhập WTO. Việt Nam là nước có sản lượng cà phê đứng thứ 2 thế giới nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ đứng thứ 5. Đó là do đâu ? Câu hỏi đạt ra cần phải trả lời một cách thẳng thắn. Chất lượng là yếu tố cực kì quan trọng trong cạnh tranh. Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, cả nước hiện nay có khoảng 500000 ha cà phê, trong đó riêng vùng Tây Nguyên đã có hơn 434000 ha. Năm 2005 nước ta xuất khẩu đặ được 803647 tấn cà phê nhân, ước giá 789,2$/tấn, đạt kim ngạch trên 643,2 triệu $. Sáu tháng cuối năm 2006, xuất khẩu đạt được 425073 tấn cà phê nhân, giảm 6% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 479,9 triệu $, tăng 4% so với cùng kỳ. Đó là tín hiệu đáng mừng, nó cho thấy được những cải tiến của ngành cà phê nói riêng và ngành kinh tế nói chung. Nó đã đem lại thu nhập không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, vẫn có khả năng xảy ra tình trạng khan hiếm hàng và giá cà phê tiếp tục tăng cao trước khi thu hoạch vào tháng 10/2006. Theo các chuyên gia ngành cà phê, năm 2006 sản lượng cà phê của Việt Nam đã giảm 14% so với năm trước, chỉ đạt 21,5 triệu bao. Lượng cà phê dự trữ trong nước còn rất ít, ước tính còn khoảng dưới 40000 tấn. Trong khi đó nhu cầu đặt mua cà phê Việt Nam đang lên cao, làm tăng khả năng xay ra tình trạng khan hiếm cà phê. Dự kiến trong vụ thu hoạch năm 2007 Việt Nam sẽ đạt sản lượng khoảng 780000 -> 950000 tấn cà phê. Mùa thu hoạch cà phê của Việt Nam kéo dài khoảng 4 tháng, nếu thời tiết tốt sẽ mất khoảng 1 tuần lễ để đưa hàng vào xuất khẩu, nhưng nếu mùa mưa kéo dài và thời tiết không thuận lợi thì việc thu hoạch, phơi sấy gặp khó khăn và thời gian giao hàng sẽ kéo dài. Điều đó cho thấy chúng ta cần phải có kế hoạch hợp lý trong thu hoạch, chế biến dự trữ, tránh gây bất ổn, mất cân bằng về sản lượng và giá trong xuất khẩu, tạo tính ổn định lâu dài cho cà phê Việt Nam. Giá cà phê đạt mức cao nhất trong 7 năm qua: Theo hiệp hội cà phê thế giới( ICO ), do dự trữ cà phê trên thế giới đạt ở mức thấp trong lịch sử nên có thể tiếp tục phát triển cây cà phê trở thành thế mạnh của Việt Nam. Tại NewYork, giá cà phê Arabica giao ngay đạt 2448$/tấn tăng 6,8% so vơi 2 tần trước đó, đạt cao nhất trong hơn 7 năm qua. Tại London, giá cà phê Robusta loại I giao ngay cũng tăng 2,6% với giá chào bán lên tới 1525 4/tấn. Trong khi đó giá cà phê Robusta loại II cũng ở mức xấp xỉ 1925 $/tấn. Trong báo cáo về thị trường cà phê mới nhất. Giám đốc ICO nhận định, khối lượng dự trữ cà phê ở các nước xuất khẩu tiếp tục giảm là một trong những nguyên nhân đan đỡ giá cà phê trong thời gian qua. Trong khi đó, nguồn cung của một số nước xuất khẩu chính như Brazil và Việt Nam trong niên vụ 2006/2007 dự kiến đạt 122 triệu bao. Trong đó, sản lượng cà phê của Brazil, nước xuất khẩu cà phê Arbica, đạt khoảng 41,57 triệu bao. Việt Nam, nước sản xuất cà phê Rubusta lớn nhất thế giới, dự kiến đạt khoảng 14,5 triệu bao. Qua đó, chúng ta cần biết tận dụng tối đa lợi thế của mình và chớp lấy cơ hội để tăng sản lượng xuất khẩu trong thời gian tới nhằm đem lại lợi nhuận lớn nhất, đưa ngành cà phê phát triển mạnh hơn. Năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam. Chi phí sản xuất. Việt Nam là một nước có lợi thế về chi phí nhân công => chi phí sản xuất thấp. Cà phê xuất khẩu, loại hình sản phẩm. Nước ta hàng năm xuất khẩu trên dưới 10 triệu bao cà phê, chủ yếu là cà phê Robusta, được xuất dưới dạng nhân sống. Ngoài ra cũng có một lượng nhỏ cà phê Arbica và các loại cà phê chế biến như cà phê xay, hoà tan. Tính ra mỗi tấn cà phê hoà tan xuất khẩu được 3461$/tấn. Bình quân giá cà phê vụ đó là 436,6$/tấn, giá cà phê hoà tan gần bằng 8 lần giá cà phê nhân sống. Theo ICO tỷ lệ quy đổi 1 tấn cà phê hoà tan tương đương vói 2,6 tấn cà phê nhân sống. Giá trị 1 tấn cà phê nhân chế biến thành cà phê hoà tan là 1221,2$ so với giá cà phê nhân xuất khẩu qua chế biến thì giá trị đã tăng lên trên 3 lần (341%) chủng loại cà phê còn khá đơn điệu, không phong phú hấp dẫn. Trước hết là tỉ lệ cà phê Arabica và Robusta chưa hợp lý. Trong khi nước ta có nhiều vùng khí hậu sản xuất được cà phê Arabica có giá trị cao hơn nhưng sản phẩm của ta hầu hết là cà phê Robusta giá trị thấp hơn. Chất lượng cà phê chưa cao, còn nhiều chỗ yếu. Việc chế biến chưa được coi trọng hợp lý, làm giảm nhiều chất lượng cà phê. Khách hàng châu Âu thường khiếu lại những nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam. Về những đặc điểm: + Độ ẩm quá cao. + Tạp chất quá nhiều. + Không đồng đều giữa những lô hàng. Như vậy, với những chỉ tiêu chất lượng rất đơn giản theo hợp đồng chỉ với 3 chỉ tiêu chủ yếu là độ ẩm, tỉ lệ hạt đen, và tỉ lệ tạp chất cà phê Việt Nam thấy khó có sức mạnh trên thị trường quốc tế. Ngoài phải cộng thêm thiếu sót trong quá trình giao dịch, kí kết và thực hiện hợp đồng do trình độ nghiệp vụ còn non yếu thường hay bị hớ hênh thu thiệt và dẫn tới không ít nhà xuất khẩu cà phê của Việt Nam làm mất lòng tin người mua như không chịu giao hàng như hợp đồng đã ký về khối lượng, chất lượng, kỳ hạn, thậm chí không giao hàng. Như thế trong tình hình khủng hoảng cung cấp dư thừa như hiện nay thì cà phê Việt Nam khó có thế cạnh tranh với những nước co cà phê chất lượng cao hơn và có nhiều kinh nghiệm buôn bán ở một ngành cà phê lâu đời. Cà phê Việt Nam chưa có thương hiệu, nhãn mác, do đó hàng năm ta xuất khẩu hàng năm ngót 1 triệu tấn cà phê mà trên thế giới còn nhiều người chư biết đến cà phê Việt Nam. Nó đã được các hãng buôn lớn mua về bán với nhãn mác khác. Hàng năm cà phê nước ta đã xuất khẩu sản phẩm của mình sang 50 quốc gia và vùng lãnh thổ nhưng thực ra chỉ bán trực tiếp cho một chục hãng buôn có đại diện tại Việt Nam. Có thể nói ngành cà phê Việt Nam đã xuất khẩu cà phê ngay trên sân nhà của mình. Rõ ràng như thế chúng ta nhượng lợi ích xuất khẩu cho người khác hứng. Kết và thách thức với xuất khẩu cà phê Việt Nam. Kết quả : Xuất khẩu cà phê đạt mức kỷ lục Theo bộ thương mại, xuất khẩu cà phê năm nay có cả nước có thể đạt tới 900000 tấn với kim ngạnh xuất khẩu 590 triệu $. Đây là mức xuất khẩu cao với kỷ lục trong vòng 30 năm trở lại đây ( tình từ 1975-> nay). Tính đế tháng 12, cả nước đã xuất khẩu được khoảng 800000 tấn cà phê, đạt kim ngạch 550 triệu $, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước, giá xuất khẩu giảm trong khi đó giá thành sản xuất tăng do giá phân bón, giá điện tăng cao làm nhiều người trồng cà phê thua lỗ và nhiều doanh nghiệp cũng tạm ngừng mua hàng và xuất khẩu tiếp sẽ thua lỗ. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu cà phê 950 triệu $. Trung tâm thông tin thương mại cho biết, sau khi giảm nhẹ vào tháng 10, từ đầu tháng 11 đến nay, giá xuất khẩu đã tăng, loại 2 được giao dịch ở mức 1425-1430 $/tấn. Như vây, giá xuất khẩu cà phê của nước ta đã bám rất sát thế giới. So với mức chênh lệch có lúc lên đến trên 1400$/tấn hồi tháng 8, trên thị trường nội địa, giá mua cà phê nhìn chung vẫn ổn định. Theo dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2006 sẽ đạt mức kim ngạch 950 triệu$, tăng trên 50% so với năm 2005. Đây là năm giá cà phê trở lại thời kì hoàng kim. Với mức tăng giá bình quân cao thứ 2 sau cao su, tăng tới 46,8%( tương ứng khoảng 370$/tấn) so với cùng kỳ năm trước Thách thức với xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Trong vòng 20 năm trở lại đây, ngành cà phê đã có bước phát triển nhanh tróng. Đưa lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Nguyên nhân chính dẫn đến thành tựu đó trước hết là nhờ những chính sách đổi mới của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân là làm giàu trên mảnh đất của mình. Nguyên nhân khách quan: Đó là giá cà phê trên thị trường thế giới những năm gần đây diễn biến theo chiều hướng có lợi cho người sản xuất. Mặt trái của tác dụng đó là dẫn đến sự phát triển vượt quá các mục tiêu kế hoạch, ngoài tầm kiểm soát của ngành cà phê. Cả nước đã lên đến 520000 ha với sản lượng 850000 tấn. Đây là con số gây bất ngờ. Nó góp phần đáng kế vào cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường, đẩy giá cà phê xuống thấp. Trong đó, ngành cà phê Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi vì sản lượng càng lớn càng thua lỗ nhiều. Vậy thách thức với ngành cà phê đó là làm sao cân đối giữa lượng cung và lượng cầu, bình ổn giá cả, phát triển cây cà phê trở thành thế mạnh của Việt Nam, tạo niềm tin cho người trồng cà phê Việt Nam. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất- xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Các điều kiện tự nhiên. Khí hậu. Nước ta có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lượng mưa nhiều, độ ẩm không khí cao… thuộc vùng rất thích hợp với việc trồng cà phê. Vì vậy, phải biết cách tận dụng triệt để lới thế này. Môi trường sinh thái của Việt Nam khá phù hợp với việc phát triển của cây cà phê. Điều kiện tự nhiên của các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ cho phép phát triển cây cà phê một cách tập trung, chuyên môn hoá, tạo ra một vùng cà phê đảm bảo số lượng và chất lượng phục vụ tốt sản xuât và xuất khẩu. Đất đai. Đất nông nghiệp nước ta tuy hạn chế về diện tích ( khoảng 7,3 triệu ha đất nông nghiệp đang sử dụng), nhưng lại tương đối với về chất lượng, phong phú về chủng loại, thích hợp cho cây công nghiệp dài ngày nói chung và cà phê nói riêng. Điều kiện về kinh tế xã hội. Ngoài các điều kiện tự nhiên thuận lợi ra, chúng ta còn có những tiềm năng thế mạnh về kinh tế xã hội khá thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu cà phê. Mặc dù so với lịch sử phát triển ngành cà phê của thế giới thì ngành cà phê thuộc dạng trẻ xong do chú trong phát triển lên ngành cà phê Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định. Việt Nam là nước với trên 70 % lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Đây là lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực tạo ra thuận lợi và khó khăn Nhận thức được điều này, Chính phủ Việt Nam không ngừng cố gắng để gia nhập các tổ chức quốc tế nhằm tạo ra thuận lợi cho các mặt hàng xuất khẩu. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều đó tạo ra thuận lợi khi tham gia vào thị trường quốc tế, tạo điều kiện cho xuất khẩu cà phê được thuận lợi từ đó có thể phát triển ngành cà phê đem lại thu nhập lớn cho nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh thuận lợi đó thì thách thức và khó khăn của ngành cà phê Việt Nam cũng không nhỏ đó là những mặt hàng còn yếu khi tham gia vào thị trường thế giới như : chất lượng chưa cao, chưa có thương hiệu, marketing, quảng cáo còn kém. Đó gây ra thiệt hại không nhỏ cho ngành cà phê. Vấn đề đạt ra là chúng ta phải phát huy những thế mạnh của mình, từng bước khắc phục những hạn chế, nếu làm được điều đó chúng ta có thể tin tưởng rằng cà phê Việt Nam sẽ là một ngành phát triển mạnh với thương hiệu lớn trong thị trường quốc tế. IV. Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất,xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Phương hướng. Phát triển sản xuất phù hợp với điều kiện vùng và chất lượng ổn định. Trong điều kiện hiện nay, phương thức sản xuất và các sản xuất, chế biến với ngành cà phê là hết sức quan trọng và đây là vấn đền bức thiết hiện nay, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và sản lượng cà phê, giá trị xuất khẩu. Vì vậy, phương thức sản xuất phù hợp là rất quan trọng với ngành sản xuất nói chung và cà phê nói riêng. Chất lượng cũng vậy, nó có vai trò vô cùng to lớn trong tiêu thụ, xuất khẩu. nâng cao giá trị sản phẩm. Chất lượng được coi là yếu tố hàng đầu của cạnh tranh và là chìa khoá của thành công. Vì vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam có nghĩa là chúng ta phải nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó tạo lòng tin, thương hiệu ở khách hàng từ đó chúng ta có thể đưa cà phê Việt Nam ta thị trường quốc tế với uy tín và chất lượng cao. 2. Nâng cao khả năng cạnh tranh. Mặc dù chi phí lao động của ngành cà phê Việt Nam tương đối thấp so với nhiều nơi khác vì GDP bình quân trên đầu người cũng thấp và năng suất cà phê Việt Nam cũng thuộc loại cao trên thế giới nhưng giá thành cà phê Việt Nam cũng chưa phải là thấp để tạo ra ưu thế cạnh tranh. Nguyên nhân chủ yếu là do người nông dân Việt Nam với mong muốn năng suất cao nhất đã đầu tư thêm phân bón, nước tưới lêm mức cao làm giảm hiệu quả của đầu tư và nâng cao giá thành sản xuất. Việc cần làm là tìm sự hiệu quả cao nhất trong đầu tư. Đổi mới công nghệ chế biến cà phê nâng cao chất lượng phừ hợp hơn với đòi hỏi của thị trường. Đồng thời chúng ta cũng phải chuyển sang áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam về yêu cầu kĩ thuật đối với cà phê nhân xuất khẩu mà nội dung của nó là áp dụng bảng tính lỗi cho cà phê xuất khẩu. Đa dạng hoá sản phẩm cà phê khắc phục tình trạng đơn điệu chỉ có một loại cà phê vơi nhân sống mà chúng ta có thế đưa ra thị trường nhiều chủng loại cà phê. Mở rộng chủng loại cà phê không chỉ là nhân sống. 2.3. Đa dạng hoá thị trường tiêu thụ. Hiện nay cà phê Việt Nam được xuất sang trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy còn chưa nhiều. Ngành cà phê Việt Nam còn chưa tham gia các thị trường kỳ hạn. Đó là các mặt còn non yếu của ngành cà phê Việt Nam. Vì vậy, đã đến lúc các nhà sản xuất cà phê Việt Nam cần có những biện pháp tuyên truyền, quảng bá cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế, để chúng ta có thể ký hợp đồng trực tiếp. 2.4. Coi trọng trường trong nước. Nước ta là một nước có truyền thống uống trà lâu đời, song ngày càng có nhiều người uống cà phê hơn vào những năm gần đây. Điều đó cho thấy, thị trường trong nước là một thị trường tiềm năng to lớn, cần được khai thác. Cùng với sự phát triển của xã hội thị nhu cầu giao lưu, du lịch ngày càng nhiều. Hàng năm có hàng triệu lượt du khách du lịch vào nước ta. Đây là cơ hội lớn cho chúng ta quảng bá sản phẩm của mình. Đây cũng là cơ hội để chúng ta tăng lượng tiêu thụ trong nước. Chính vì lẽ đó mà trong giai đoạn hiện nay, ngành cà phê cần phối hợp vơi các ngành có liên quan nhằm nâng cao uy tín, tạo cơ hội để ngành cà phê có thể tiếp cận với khách hàng quốc tế một cách dễ dàng hơn. 2.6. Xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) để phù hợp với xuất khẩu, xu thế hội nhập, nâng cao năng lực cạnh trạnh. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đã là một thành viên của nhiều tổ chức lớn như : APEC, WTO, ASEAN…, Đó cũng là cơ hội và cũng là thách thức với nhiều ngành hàng Việt Nam khi tham gia vào thị trường và ngành cà phê cũng không nằm ngoài số đó. Đối với việc gia nhập thị trường đó thì chất lượng được coi là yếu tố hàng đầu trong năng lực cạnh tranh. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng tới chất lượng, như xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, quảng bá sản phẩm để cà phê Việt Nam có đủ sức đứng vững trong thị trường đầy tiềm năng. 3. Giải pháp thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu cà phê Việt Nam. 3.1. Áp dụng những biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong sản xuất. + Củng cố và cải tạo giống cà phê hiện có. Chất lượng cà phê trước hết phụ thuộc vào giống cây cà phê, vì vậy muốn nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu thì công tác giống là biện pháp quan trọng hàng đầu. Trong thời gian do quá chú trọng vào việc nâng cao năng xuất và sản lượng người sản xuất đã không chọn lọc kĩ giống trước khi đem trồng. Kết quả cho thấy hiện nay chúng đang có những vườn cà phê có năng suất cao, song chất lượng lại thấp không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Để làm tốt công tác giống nhằm nâng cao chất lượng cà phê chúng ta cần có những biện pháp và hướng đi sau: Trước hết ngành cà phê cần tiến hành quy hoạch và ra soát kỹ các giống cà phê hiện có, phân loại cà phê phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện chăm sóc của từng vùng, đưa thêm những giống mới có chất lượng tốt dù năng suất không cao hơn giống hiện có. Tiếp tục đầu tư và nâng cấp Viện nghiên cứu cây nhiệt đới, các trạm nghiên cứu thực nghiệm ở những vùng trồng cà phê. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật, phổ cập rộng rãi các hình thức khuyến nông tới người nông dân. Hiện nay miền Bắc đang tiến hành trồng cà phê ở giai đoạn đầu, ngay từ bây giờ ngành cà phê cần tiến hành kiểm tra chất lượng giống trước khi đưa vào trồng, để tránh cho sau nay cho sản phẩm vừa kém chất lượng và chống chịu sâu bệnh kém. Đầu tư công tác tìm kiếm, lai tạo và nhập nội những giống có chất lượng cao. Cũng như các loại cây công nghiệp lâu năm khác, việc chọn giống cà phê đòi hỏi phải có thời gian dài, có khi đến chục năm. Do đó nến không có biện pháp ngay từ đầu thì sẽ tốn rất nhiều công sức và tiền của đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng cà phê xuất khẩu. Việc đầu tư và chọn giống cà phê mở ra một triển vọng lớn trong việc trồng cà phê góp phẩn nâng cao năng suất và chất lượng cà phê. Trong những năm gần đây có một số công trình lai tạo và chọn giống mới của một số nước cho kết quả khả quan tạo điều kiện tiền đề cho việc đổi mới giống cà phê ở một số quốc gia. Hiện nay, viện nghiên cứu cà phê Eakmat đã tuyển chọn và nâng cao chất lượng của một số loại cây Catimor có khả năng kháng hầu hết các chứng sinh lý và bệnh rỉ sắt ở cà phê Việt Nam. Với kỹ thuật trồng dầy, chu kỳ kinh doanh ngắn, giống cà phê có thể hạn chế được sâu đục thân phá hoại. Như vậy, chọn và lai tạo giống là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng cà phê. Có thể coi đây là khâu quan trọng đầu tiên trong nâng cao tổng sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu. Hiện nay có tới 29 loại cà phê kháng bệnh cao đã và đang được theo dõi và lựa chọn đưa vào sản xuất. Việc tuyển chọn và lai tạo giống không những đòi hỏi khắt khe về năng xuất và sản lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi giống phải mang những đặc tính di truyền tốt. Vì vậy cần phải tăng cường đầu tư và phối hợp với viện nghiên cứu Eakmat, với các trung tâm nghiên cứu tốt trong điều kiện khí hậu nước ta góp phần tăng sản lượng cà phê trong thời gian tới. + Đẩy mạnh thâm canh với diện tích cà phê hiện có. Trong thập kỉ 80 và đầu thập niên 90 việc mở rộng diện tích cây cà phê diễn ra ồ ạt. Cũng có lúc chúng ta phải mở rộng diện tích gieo trồng lại lo lắng đầu tư thâm canh trong điều kiện hạn chế về vốn. Vì vậy trình độ thâm canh còn thấp. Năng suất cà phê không đồng đều và chưa cao so với khả năng thực tế. Chính vì vậy, phải đánh giá lại chất lượng vườn cây hiện có, thanh lý những diện tích vườn cây kém hiệu quả, tập trung đầu tư vào vườn cây có hiệu quả cao để nâng cao năng suât và chất lượng sản phẩm. Về hướng đầu tư thâm canh trong thời gian tới cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: + Tập trung giải quyết vấn đề phân bón cho thâm canh, phải kết hợp trồng trọt với chăn nuôi để bổ xung thêm nguồn phân xanh, tăng cường sản xuất và nhập khầu phân vô cơ, chú ý mở rộng hệ thống dịnh vụ kịp thời đáp ứng yêu cầu phân bón cho thâm canh cà phê, sử dụng kỹ thuật tiên tiến bảo đảm cho cây cà phê phát triển tốt, tiết kiệm và sử dụng phân bón hóa học thuốc trừ sâu. + Tập trung giải quyết vấn đề nước tưới cho cây cà phê. Đảm bảo biện pháp tưới nước vừa tiết kiệm nguồn nước sạch, bảo vệ môi trường vừa tiết kiệm được chi phí ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4810.doc
Tài liệu liên quan