Thực trạng và giải pháp tăng trưởng xuất khẩu Gạo của Việt Nam

MỤC LỤC Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA SẢN XUẤT LÚA GẠO 5 Vai trò của lúa gạo 5 Giá trị dinh dưỡng của lúa gạo 6 Sản phẩm từ cây lúa phục vụ nhu cầu của đời sống 7 Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGHỀ TRỒNG LÚA 8 Nghề trồng lúa trên thế giới 8 Quá trình phát triển nghề trồng lúa ở Việt Nam 9 Bản đồ diện tích trồng lúa ở Việt Nam 12 Biểu đồ sản xuất lúa ở Việt Nam giai đoạn 1975-2005 12 Bảng thống kê sản xuất hai loại cây lương thực chính ở việt Nam 1990-2005 13 Thu hoạch và xuất khẩ

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp tăng trưởng xuất khẩu Gạo của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u gạo 14 Chương 3: TRIỂN VỌNG VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGHỀ TRỒNG LÚA Ở VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC XUẤT KHẨU GẠO 15 3.1. Những thuận lợi và triển vọng 15 Thuận lợi của Việt Nam cho việc sản xuất gạo 15 3.1.2. Việt Nam có các vùng trồng lúa chuyên môn hóa trồng lúa. 16 3.2. Những trở ngại và thách thức 23 Chương 4: Thực trạng việc xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời gian qua. 24 4.1. Xuất khẩu gạo giảm mạnh tại thị trường Châu Á, tăng mạnh tại thị trường Châu Phi 24 4.2. Gạo Việt Nam xuất khẩu sang 20 thị trường chính, nhưng chủ yếu là sang Philippines, Malaysia, Cuba, Singapore. 25 4.3 Triển vọng xuất khẩu năm 2009 27 Thách thức xuất khẩu gạo năm 2010 28 Chương 5: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẦY MẠNH VIỆC XUẤT KHẨU GẠO 31 5.1. Nhóm giải pháp vĩ mô 31 5.1.1. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu 31 5.1.2.Các giải pháp về luật pháp, chính sách 33 5.1.3.Các giải pháp về đầu tư 35 5.1.4. Các giải pháp về thị trường 39 5.2. Chiến lược Marketing-mix 42 5.2.1. Chính sách sản phẩm 43 5.2.2. Chính sách giá 47 5.2.3. Chính sách phân phối 52 5.2.4. Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh 60 Lời Mở Đầu Hòa mình cùng với sự phát triển chung của toàn cầu, chúng ta biết được rằng, Việt Nam phải phấn đấu rất nhiều trong các lĩnh vực khác nhau để đưa kinh tế nước nhà phát triển lên một tầm cao mới, thoát khỏi tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Cách đây 20 năm, hầu như Việt Nam chúng ta phải chú trọng đến nhập khẩu, ngay cả những mặt hàng nông sản mà chúng ta có thế mạnh về nó. Nhưng trong nhiều năm gần đây, Việt Nam là một nước có truyền thống xuất khẩu gạo đứng đầu trên thế giới. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì việc xuất khẩu vẫn được ưu tiên hàng đầu với nhiều mặt hàng khác nhau. Đó là một trong những cách thu ngoại tệ về cho đất nước, đưa kinh tế Việt Nam phát triển nhanh hơn. Dựa vào nhiều thế mạnh Việt Nam có được do việc sản xuất gạo, nên việc đẩy mạnh phát triển xuất khẩu gạo tại Việt Nam là một vấn đề đáng quan tâm. Nhìn chung về quá trình xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều năm qua, theo đánh giá khách quan của các chuyên gia kinh tế, thì việc xuất khẩu nói chung của Việt Nam chưa được hiệu quả cao. Đồng thời, được thực tập tại một công ty kinh doanh về mặt hàng nông sản tại Hà Nội cũng đã để lại cho tôi những trăn trở. Năm qua, không chỉ nền kinh tế Việt Nam mà cả hệ thống nền kinh tế toàn cầu đang đứng trước những thử thách lớn. Chính vì lẽ đó mà các cuộc hội thảo được lớn được diễn ra, như hội thảo “Các giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu” do Viện Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội Việt Nam và Đông Nam Á thực hiện. Bên cạnh đó, đất nông nghiệp Việt Nam ngày càng thu hẹp vì nhiều lý do: lấy đất nông nghiệp để làm sân golf, làm khu công nghiệp, cho doanh nghiệp nước ngoài thuê đất dài hạn... toàn là những nơi bờ xôi ruộng mật. Với chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng xuất khẩu, trong đó có mặt hàng xuất khẩu gạo. Đứng trước vận mệnh của đất nước trong bối cảnh hiện nay, để bảo vệ được đất đai không bị mất đi. Chính các yếu tố đó, là động lực cho tôi chọn đề tài báo cáo tốt nghiệp “Giải pháp tăng trưởng xuất khẩu Gạo của Việt Nam” Xin chân thành cám ơn sự quan tâm, dẫn dắt của Thầy Nguyễn Quốc Chính, Giám đốc Vicefo, Tiến sỹ Hà Văn Tuấn, Trưởng bộ môn Quản trị Kinh doanh, Thầy Đỗ Đức Thọ, Trưởng khoa Hợp tác Quốc tế, và đặc biệt cảm ơn chị Nguyễn Thu Thủy, biên tập viên Báo Vietnamnet qua những tài liệu cho quá trình nghiên cứu đề tài. Luận văn tốt nghiệp nội dung chính có kết cấu như sau: Chương 1: Tầm quan trọng của sản xuất lúa gạo Chương 2: Quá trình phát triển nghề trồng lúa Chương 3: Thực trạng việc xuất khầu Gạo của Việt Nam trong thời gian qua Chương 4: Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh việc xuất khẩu Gạo Với đề tài thật đơn sơ, kiến thức người nghiên cứu thật khiêm tốn và thời gian ngắn ngủi cho quá trình nghiên cứu. Chắc chắn rằng, sẽ còn nhiều khiếm khuyết, xin quý Thầy Cô và Hội đồng Khoa học nhà trường giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho em, để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Hà nội 3/3/2010 Thực tập sinh thực hiện: Joseph Nguyễn Văn Thống Chương 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA SẢN XUẤT LÚA GẠO Vai trò của lúa gạo Trên thế giới, cây lúa được 250 triệu nông dân trồng, là lương thực chính của 1,3 tỉ người nghèo nhất trên thế giới, là sinh kế chủ yếu của nông dân. Là nguồn cung cấp năng lượng lớn nhất cho con người, bình quân 180 - 200 kg gạo/người năm tại các nước Châu Á, khoảng 10 kg/người/năm tại các nước châu Mỹ. Ở Việt Nam, dân số trên 86 triệu và 100% người Việt Nam sử dụng lúa gạo làm lương thực chính. Sản phẩm chính của cây lúa Sản phẩm chính của cây lúa là gạo làm lương thực. Từ gạo có thể nấu cơm, chế biến thành các loại món ăn khác như bánh đa nem, phở, bánh đa, bánh chưng, bún, rượu... ngoài ra còn bánh rán, bánh tét, bánh giò và hàng chục loại thực phẩm khác. Sản phẩm phụ của cây lúa - Tấm: sản xuất tinh bột, rượu cồn, Axêtôn, phấn mịn và thuốc chữa bệnh. - Cám: Dùng để sản xuất thức ăn tổng hợp; sản xuất vitamin B1 để chữa bệnh tê phù, chế tạo sơn cao cấp hoặc làm nguyên liệu xà phòng. - Trấu: sản xuất nấm men làm thức ăn gia súc, vật liệu đóng lót hàng, vật liệu độn cho phân chuồng, hoặc làm chất đốt. - Rơm rạ: được sử dụng cho công nghệ sản suất giày, các-tông xây dựng, đồ gia dụng (thừng, chão, mũ, giày dép), hoặc làm thức ăn cho gia súc, sản xuất nấm... Như vậy, ngoài hạt lúa là bộ phận chính làm lương thực, tất cả các bộ phận khác của cây lúa đều được con người sử dụng phục vụ cho nhu cầu cần thiết, thậm chí bộ phận rễ lúa còn nằm trong đất sau khi thu hoạch cũng được cày bừa vùi lấp làm cho đất tơi xốp, được vi sinh vật phân giải thành nguồn dinh dưỡng bổ sung cho cây trồng vụ sau. 1.1.3. Giá trị dinh dưỡng của lúa gạo tính theo % chất khô so với một số cây lấy hạt khác Hàm lượng Loại hạt TINH BỘT PROTEIN LIPIT XENLULOZA TRO NƯỚC Lúa 62,4 7,9 2,2 9,9 5,7 11,9 Lúa mì 63,8 16,8 2,0 2,0 1,8 13,6 Ngô 69,2 10,6 4,3 2,0 1,4 12,5 Cao lương 71,7 12,7 3,2 1,5 1,6 9,9 Kª 59,0 11,3 3,8 8,9 3,6 13,0 Tinh bột: Hàm lượng tinh bột 62,4%. Là nguồn chủ yếu cung cấp calo. Giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 calo. Tinh bột được cấu tạo bởi Amylose và Amylopectin. Amylose có cấu tạo mạch thẳng và có nhiều ở gạo tẻ. Amylopectin có cấu tạo mạch ngang và có nhiều ở gạo nếp. Protein: Các giống lúa Việt Nam có hàm lượng protein chủ yếu trong khoảng 7- 8%. Các giống lúa nếp có hàm lượng protein cao hơn lúa tẻ. Lipit: Chủ yếu ở lớp vỏ gạo. Nếu ở gạo xay là 2,02% thì ở gạo đã xát chỉ còn 0,52% Vitamin: Trong lúa gạo còn có một số vitamin nhất là vitamin nhóm B như B1, B2,B6, PP... lượng vitamin B1 là 0,45 mg/100 hạt (trong đó ở phôi 47%, vỏ cám 34,5%, hạt gạo 3,8%). 1.1.4 Sản phẩm từ lúa gạo phục vụ đời sống Trong cuộc sống của người dân Việt Nam và một số nước trên thế giới thì gạo đóng vai trò vô cùng quan trọng: là nguồn lương thực chủ yếu của con người. Ngoài ra, lúa gạo còn đóng một vai trò quan trọng trong việc chế tạo ra một số sản phẩm là nguồn thực phẩm phục vụ đời sống con người như làm phở, bánh đa nem, bánh chưng, rượu… Những mặt hàng được chế biến từ gạo không chỉ phục vụ cho cuộc sống con người trong nước và còn là mặt hàng xuất khẩu mang lại ngoại tệ về cho đất nước. Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGHỀ TRỒNG LÚA Sản xuất lúa trên thế giới Nhiều nhà khoa học cho rằng, cây lúa trồng có nguồn gốc ở Đông Nam châu Á, trong đó Ấn Độ, Miến Điện và Việt Nam, là những nơi xuất hiện nghề trồng lúa đầu tiên của loài người. Sản xuất lúa trên thế giới giai đoạn 2001-2005 (số liệu của FAO năm 2006): Có 114 nước trồng lúa và phân bố ở tất cả các châu lục trên thế giới. Trong đó, châu Phi có 41 nước trồng lúa, Châu Á 30 nước, Bắc Trung Mỹ 14 nước, Nam Mỹ 13 nước, Châu Âu 11 nước và Châu Đại Dương 5 nước Diện tích lúa biến động và đạt khoảng 152.000 triệu ha, năng suất lúa bình quân xấp xỉ 4,0 tấn/ha. Ấn Độ là nước có diện tích trồng lúa lớn nhất 44.790 triệu ha, ngược lại Jamaica là nước có diện tích trồng lúa thấp nhất 24 ha. Năng suất lúa cao nhất đạt 9,45 tấn/ha tại Australia và thấp nhất là 0,9 tấn/ha tại IRAQ. Bảng tổng hợp sản lượng lúa thế giới và châu lục giai đoạn 2001- 2005 Đơn vị tính: Triệu tấn Thế giới, Châu lục 2001 2002 2003 2004 2005 - Toàn Thế giới + Châu Á + Châu Âu + Châu Đại Dương + Nam Mỹ + Bắc,Trung Mỹ + Châu Phi 597.981 544.630 3.650 1.164 19.784 12.260 16.493 569.035 515.255 3.210 1.218 19.601 12.195 17.556 584.272 530.736 2.260 1.457 19.973 11.623 18.223 606.268 546.919 2.468 1.574 23.726 12.816 18.765 618.441 559.349 2.340 1.344 24.020 12.537 18.851 (Số liệu thống kê của FAO, 2006) Giai đoạn 2001-2005, sản lượng lúa thế giới đều tăng, năm 2005 đạt 618.441 triệu tấn. Trong đó, sản lượng lúa châu Á đạt 559.349 triệu tấn chiếm 90,45%; tương tự ở Nam Mỹ 24.020 triệu tấn (3,88%); ở Châu Phi 18.851 triệu tấn (3,04%); ở Bắc Trung Mỹ 12.537 triệu tấn (2,03%); ở châu Âu và châu Đại Dương 3.684 triệu tấn (0,6%). Quá trình phát triển nghề trồng lúa ở Việt Nam Nghề trồng lúa ở Việt Nam có lịch sử lâu đời nhất so với nghề trồng lúa ở các nước châu Á. Theo các tài liệu khảo cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... Cây lúa đã có mặt từ 3000 - 2000 năm trước công nguyên. Tổ tiên chúng ta đã thuần hóa cây lúa dại thành cây lúa trồng và đã phát triển nghề trồng lúa đạt được những tiến bộ như ngày nay. Trước năm 1945, diện tích trồng lúa ở 2 đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ là 1,8 triệu và 2,7 triệu ha với năng suất bình quân 13 tạ/ha và sản lượng thóc tương ứng 2,4 - 3,0 triệu tấn. Trong thời gian này chủ yếu là các giống lúa cũ, ở miền Bắc sử dụng các giống lúa cao cây, ít chịu thâm canh, dễ đổ, năng suất thấp. Nhà nông có câu: “Nhất thì, nhì thục”. Từ năm 1963- 1965, ở những vùng chuyên canh lúa do diện tích nhiều, thường có một số diện tích cấy chậm, bị muộn thời vụ. Nhờ tiến bộ kỹ thuật, ta đã đưa vào một số giống lúa xuân thấp cây, ngắn ngày đã đảm bảo được thời vụ. Đã chuyển vụ lúa chiêm thành vụ lúa xuân, chuyển từ xuân sớm thành xuân chính vụ (80-90%) diện tích và thời kỳ 1985-1990 sang xuân sớm (5-10%) và 70-80% là xuân muộn. Một số giống lúa xuân đã có năng suất cao hơn hẳn lúa chiêm, có thể cấy được cả hai vụ chiêm xuân và vụ mùa. Do thay đổi cơ cấu sản xuất lúa, kết hợp với áp dụng hàng loạt các tiến bộ kỹ thuật mới nên sản xuất lúa ở Việt Nam ngày càng phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Giống lúa mới, thấp cây giống cũ, cao cây, thời gian sinh trưởng dài Từ năm 1979 đến 1985, sản lượng lúa cả nước tăng từ 11,8 lên 15,9 triệu tấn, nguyên nhân là do ứng dụng giống mới, tăng diện tích và năng suất. Tính riêng 2 năm 1988 và 1989 sản lượng lương thực tăng thêm 2 triệu tấn/năm. Từ khi thực hiện đổi mới (năm 1986) đến nay, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất lúa, đưa nước ta từ chỗ là nước thiếu ăn triền miên đã không những đảm bảo đủ lương thực cho nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu từ 3-4 triệu tấn gạo/năm, đứng hàng thứ 2 trên thế giới về các nước xuất khẩu gạo. Bản đồ diện tích trồng lúa ở Việt Nam Biểu đồ diện tích trồng lúa ở Việt Nam từ 1975 - 2005 Bảng thống kê sản xuất hai loại cây lương thực chính ở Việt Nam 1990-2005 Năm Diện tích (triệu ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (triệu tấn) Xuất khẩu gạo Tổng số Lúa Ngô Lúa Ngô Tổng số Lúa Ngô (Tr.Tấn) 1990 6,476 6,042 0,432 3,18 1,55 19,897 19,225 0,671 1,62 1995 7,324 6,765 0,557 3,68 2,11 26,143 24,964 1,177 2,04 2000 8,399 7,666 0,730 4,24 2,74 34,539 32,530 2,005 3,50 2003 8,366 7,452 0,913 4,63 3,43 37,707 34,568 3,136 3,92 2004 8,435 7,444 0,990 4,86 3,48 39,611 36,158 3,453 4,00 2005 8,435 7,430 1,005 4,82 3,74 39,560 35,800 3,760 5,16 (Niên giám thống kê 2004, NXBTK HN 2005, báo N N số3-2328,4/1/2005) Trong các loại cây lương thực lấy hạt ở Việt Nam thì lúa và ngô là hai loại cây lương thực chính, song so với tổng sản lượng của hai loại cây này thì sản lượng ngô chỉ vào khoảng trên dưới 10%. Sản lượng hai loại cây này tăng liên tục trong những năm qua, nguyên nhân tăng năng suất và sản lượng lúa, ngô là do những thay đổi về cơ chế chính sách của Đảng và nhà nước, kết hợp đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất như giống mới, mức độ thâm canh, thuỷ lợi. Thu hoạch và xuất khẩu gạo Chưong 3: TRIỂN VỌNG VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGHỀ TRỒNG LÚA Ở VIỆT NAM ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC XUẤT KHẨU GẠO 3.1.Những thuận lợi và triển vọng Thuận lợi của Việt Nam cho việc sản xuất gạo - Cây lúa là cây lương thực chính trong mục tiêu phát triển nông nghiệp của Việt Nam để đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu. Hiện nay diện tích trồng lúa cả nước từ 7,3 dến 7,5 triệu ha, năng suất trung bình 46 ha, sản lượng dao động trong khoảng 34,5 triệu tấn/năm, xuất khẩu chưa ổn định từ 2,5 triệu đến 4 triệu tấn/năm. Trong giai đoạn tới sẽ duy trì ở mức 7,0 triệu ha, phấn đấu năng suất trung bình 50 tạ/ha, sản lượng lương thực 35 triệu tấn và xuất khẩu ở mức 3,5-4 triệu tấn gạo chất lượng cao. - Hệ thống cơ chế, chính sách của nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển sản xuất lúa. - Nhu cầu phát triển sản xuất lúa ngày càng tăng để đảm bảo cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, do dân số Việt Nam dự kiến đến năm 2020 sẽ vào khoảng 100 triệu, dân số thế giới sẽ tăng lên gấp rưỡi. - Điều kiện tự nhiên của Việt Nam hoàn toàn thích hợp cho sản xuất lúa. - Nông dân Việt Nam có kinh nghiệm trồng lúa từ lâu đời. - Đầu tư cho khoa học công nghệ nông nghiệp ngày càng tăng, kết hợp với tiếp thu ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ về lúa của các nước trong khu vực và thế giới. - Năng suất, sản lượng lúa ngày càng tăng do ngày càng có nhiều giống mới chịu thâm canh, năng suất, chất lượng cao, có khả năng thích ứng rộng và chống chịu sâu bệnh. - Xuất khẩu gạo ngày càng tăng về số lượng và chất lượng góp phần ổn định đời sống cho nông dân là lực lượng chiếm đại đa số trong tổng số 80 triệu dân Việt Nam. - Việt Nam đã gia nhập WTO, đây là cơ hội lớn tạo điều kiện thuận lợi cho lúa gạo và các loại sản phẩm nông nghiệp khác có quyền bình đẳng tham gia vào thị trường thương mại nông sản của thế giới. 3.1.2. Việt Nam có các vùng trồng lúa chuyên môn hóa trồng lúa. Việt Nam có bờ biển dài trên 3000 km, sông núi nhiều, địa hình phức tạp nên đã hình thành nhiều vùng trồng lúa khác nhau. Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, tập quán canh tác, sự hình thành mùa vụ và phương thức gieo trồng, nghề trồng lúa được hình thành và phân chia thành 3 vùng trồng lúa lớn: Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng ven biển miền Trung và Đồng bằng Nam Bộ. Vùng Đồng bằng sông Hồng Đồng bằng sông Hồng do hệ thống sông Hồng (sông Lô và sông Đà) và hệ thống sông Thái Bình (sông Cầu, sông Thương và sông Lục Nam) tạo thành. Châu thổ sông Hồng có hình dạng giống như hình tam giác cân, có đỉnh là Việt Trì, cạnh đáy là bờ biển dài 150km, từ Quảng Ninh đến Ninh Bình. Diện tích toàn châu thổ khoảng 15.000 km2. Thời tiết khí hậu chia làm 4 mùa (xuân, hạ, thu, đông), mùa đông lạnh, mùa xuân ấm, mùa thu mát mẻ, mùa hạ nóng, địa hình ít bằng phẳng, nông dân sở hữu ruộng đất manh mún, khó khăn trong việc quản lý nước nên tập quán canh tác chủ yếu là lúa nước và gieo trồng theo phương pháp gieo mạ rồi cấy là chính. Các vụ lúa chính vùng Đồng bằng sông Hồng Có 2 vụ lúa cổ truyền là lúa mùa và lúa chiêm, từ năm 1963 đã đưa vào cơ cấu các giống lúa xuân nên hình thành 2 vụ chính là vụ lúa chiêm xuân và vụ lúa mùa. - Vụ lúa chiêm xuân: Làm trong mùa khô, vì vậy phải có nước tưới chủ động. Đầu và giữa vụ thường gặp rét, cuối vụ nóng và bắt đầu có mưa, nên phải dùng giống có khả năng chịu rét. Lúa chiêm xuân ít phản ứng hoặc không có phản ứng quang chu kỳ. Lúa chiêm được gieo cấy vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11 và thu hoạch vào cuối tháng 5. - Lúa xuân (xuân sớm, chính vụ và xuân muộn) với bộ giống đa dạng, được gieo cấy vào cuối tháng 11 và thu hoạch vào đầu tháng 6 năm sau. Những năm gần đây, trà xuân muộn với các giống Q5,KD18, CR203, lúa lai 2 và 3 dòng... được mở rộng và phát triển mạnh, chiếm 80-90% diện tích lúa chiêm xuân ở phía Bắc. - Vụ lúa mùa: mùa sớm, mùa trung và mùa muộn, bắt đầu vào cuối tháng 5 và kết thúc vào trung tuần tháng 11 hàng năm. Đối với trà mùa sớm, sử dụng các giống lúa ngắn ngày, thời gian sinh trưởng từ 105 đến 120 ngày như CR203, Q5, KD18... Đối với trà trung hoặc muộn, sử dụng các giống lúa có thời gian sinh trưởng từ 125 ngày trở lên như Nếp, Dự, Mộc Tuyền, Bao Thai, Tám thơm các loại. Canh tác lúa ở vùng Đồng bằng sông Hồng Làm đất Làm mạ nền - Làm mạ dược - Cấy - Làm cỏ Phòng trừ sâu bệnh Phơi sấy, đóng gói, cất trữ bảo quản Vùng đồng bằng ven biển miền Trung kéo dài từ Thanh Hóa tới Bình Thuận, cực Nam Trung Bộ, được chia thành 2 vùng chính: Vùng đồng bằng ven biển Bắc Trung Bộ: Từ Thanh Hóa tới Nghệ An, Hà Tĩnh (Đồng bằng Thanh - Nghệ - Tĩnh) do lưu vực của sông Mã, sông Chu, sông Lam... tạo thành, có diện tích 6310 km2, tương đối bằng phẳng. Lượng phù sa bồi đắp ít hơn Đồng bằng sông Hồng, đất đai kém màu mỡ hơn. Điều kiện thời tiết khí hậu và canh tác cơ bản giống vùng đồng bằng sông Hồng. Vùng đồng bằng ven biển Trung bộ và nam Trung Bộ: Kéo dài từ Quảng Bình tới Bình Thuận, có diện tích là 8250 km2. Đồng bằng nhỏ hẹp do bị kẹp bởi dãy núi Trường Sơn phía tây và biển phía Đông. Vì vậy, các sông thường ngắn, độ dốc lớn, chế độ thuỷ văn phức tạp. Mùa khô dễ bị hạn, mùa mưa dễ bị lũ lớn. Đất có thành phần cơ giới cát nhẹ, hàm lượng dinh dưỡng thấp, vùng đất cát ven biển chịu ảnh hưởng của mặn. Điều kiện thời tiết khí hậu càng vào phía trong càng ấm dần. Từ đèo Hải Vân (Huế) trở ra còn có gió mùa Đông Bắc, từ Đà Nẵng trở vào chỉ có mùa khô và mùa mưa.  Các vụ lúa chính và tập quán canh tác ở vùng đồng bằng ven biển miền Trung Các vụ lúa chính Vùng đồng bằng ven biển Trung Bộ có 3 vụ lúa trong năm: vụ đông xuân, hè thu và vụ mùa (còn gọi là vụ ba, vụ tám và vụ mười). - Vụ đông xuân (vụ ba): bắt đầu từ cuối tháng 10 và thu hoạch vào tháng 4 (tháng 3 âm lịch). - Vụ hè thu (vụ tám): bắt đầu từ cuối tháng 4 và thu hoạch vào cuối tháng 9 (tháng 8 âm lịch). - Vụ mùa (vụ mười): bắt đầu từ cuối tháng 5 và thu hoạch vào tháng 11 (tháng 10 âm lịch). - Canh tác lúa ở vùng Đồng bằng ven biển miền Trung - Những vùng không chủ động nước thường gieo mạ, cấy giống các tỉnh phía Bắc. - Những vùng chủ động nước gieo vãi (gieo sạ), giống các tỉnh phía nam. Tóm lại, ở đồng bằng ven biển Trung Bộ do địa hình dốc và hẹp, nên yếu tố chính để quyết định thời vụ, phương thức gieo cấy là nước và đất. Cánh đồng lúa tại Hà Tĩnh Một cảnh đồng ruộng ở Quảng Bình Đồng bằng sông Cửu Long Đồng bằng Nam bộ (còn gọi là đồng bằng sông Cửu Long), là vùng mới được khai thác khoảng 500 - 600 năm trở lại đây. Diện tích toàn châu thổ là 36.000 km2, trong đó diện tích có thể trồng trọt được khoảng 2,1 triệu ha và đã trồng lúa 1,5 - 1,6 triệu ha. Đồng bằng sông Cửu Long tương đối bằng phẳng, độ dốc không đáng kể (1cm/km). Sông Cửu Long với 2 nhánh là sông Tiền và sông Hậu, dài trên 120 km. Lượng phù sa của sông Cửu Long lớn đạt 1000 triệu tấn/năm, 1m3 nước có 0,1 kg phù sa ở mùa khô (tháng 3-4), 0,3 kg phù sa ở mùa lũ cao (tháng 9,10). Đất đai chủ yếu là phù sa sông Tiền, sông Hậu khoảng 1.800.000 ha, đất phèn 1.100.000 ha, đất mặn 320.000 ha, đất than bùn và đất thấp Glây- mùn. Thành phần cơ giới của đất phù sa là sét, chất dinh dưỡng phong phú song thiếu lân. Đất phèn ảnh hưởng chủ yếu của sun-phát sắt, sun-phát nhôm, độ pH thấp (4,5-5). Vùng đất mặn (rừng U Minh) có nhiều chất hữu cơ, dày 30 cm, có nơi trên 3m và thiếu các nguyên tố phụ. Nói chung, Đồng bằng sông Cửu Long có chủng loại đất phong phú, hàm lượng dinh dưỡng cao. Tuy nhiên, đối với các loại đất chua, phèn, mặn cần có biện pháp cải tạo (bón lân, rửa mặn và phèn) để sử dụng và khai thác hiệu quả hơn. Thời tiết khí hậu: + Nhiệt độ bình quân hàng năm cao (26 độ C ở thành phố Hồ Chí Minh) và ít biến động. + Không có mùa đông giá lạnh và đầy ánh sáng. Mùa khô thường khô hơn vì không có mưa phùn ẩm ướt vào tháng 2 - 3 như ở phía Bắc. + Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 7, lượng mưa hàng năm 1500 - 2000 mm. + Độ ẩm không khí bình quân 82%. Tóm lại, đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện tự nhiên, đất đai và khí hậu rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt cho sản xuất lúa gạo. Các vụ lúa chính ở đồng bằng sông Cửu Long - Vụ mùa: Bắt đầu vào mùa mưa (tháng 5-6) và kết thúc vào cuối mùa mưa (tháng 11), gồm các giống lúa địa phương dài ngày và thích nghi với nước sâu. Vụ lúa mùa có diện tích khoảng 1,5 triệu ha. - Vụ Đông Xuân: Là vụ lúa mới, ngắn ngày, diện tích khoảng 70-80 vạn ha, bắt đầu vào cuối mùa mưa tháng 11 - 12 và thu hoạch đầu tháng 4. - Vụ hè thu: Vụ hè thu là một vụ lúa mới, ngắn ngày, bắt đầu từ tháng 4 và thu hoạch vào trung tuần tháng 8 và có diện tích khoảng 1,1 triệu ha. Trồng lúa ở vùng đồng bằng sông Cửu Long theo 2 phương thức lúa cấy và lúa sạ. Tùy theo địa hình có mức độ ngập nước khác nhau mà áp dụng cho phù hợp. Hiện nay do tiến bộ kĩ thuật của sản xuất lúa, công tác thủy lợi cũng đã được giải quyết khá mạnh mẽ nên nhiều vùng trước đây ngập nước đã được cải tạo. Do vậy, phần lớn diện tích ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là gieo sạ, cuối vụ vẫn còn một số diện tích lúa nổi. Thu hoạch lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. 3.2. Những trở ngại và thách thức - Quá trình đô thị hoá tăng, diện tích đất trồng lúa ngày càng bị thu hẹp - Cho các doanh nghiệp nước ngoài thuê đất dài hạn - Nhiều vùng sản xuất lúa được nông dân sở hữu rất manh mún, khó cơ giới hóa. - Quá trình áp dụng giống mới chịu thâm canh, phát triển thành những vùng sản xuất hàng hóa là điều kiện thuận lợi để các loại dịch hại mới nguy hiểm, khó phòng trừ. - Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có xu hướng tăng, ảnh hưởng đến chất lượng nông sản. - Tham gia vào thị trường thương mại thế giới có sự đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng nông sản. Do vậy phải có sự đầu tư một cách đồng bộ từ sản xuất đến đánh giá kiểm định chất lượng, bảo quản và vận chuyển tiêu thụ. Chương 4: THỰC TRẠNG VIỆC XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA Trong bối cảnh suy thoái nền kinh tế toàn cầu, việc nhìn nhận một cách chi tiết cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam là một vấn đề cần lưu tâm. Trong đó, chúng ta đánh giá một cách khách quan về việc xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua, qua việc xuất khẩu gạo qua các thị trường trên thế giới. Đặc biệt qua một số nước mà Việt Nam chú trọng xuất khẩu. Theo báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2008 và triển vọng 2009 của Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO), xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2008 giảm mạnh tại thị trường Châu Á và tăng mạnh tại thị trường Châu Phi. Năm 2008, cũng là năm thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam được mở rộng. Nếu như trong năm 2007, gạo Việt Nam được xuất khẩu đến 63 quốc gia/vùng/lãnh thổ thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên gấp đôi (128 quốc gia/vùng/lãnh thổ). Xuất khẩu gạo giảm mạnh tại thị trường Châu Á, tăng mạnh tại thị trường Châu Phi Năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm mạnh so với năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm 2008). Trong số các thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường Châu Phi là tăng mạnh nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm 2007 lên 22% năm 2008). Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm 2007-2008(%) Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo năm 2008 của Việt Nam có sự thay đổi đặc biệt trong việc xuất khẩu gạo sang thị trường Indonesia. Thực tế, trong các năm trước đây, cũng như năm 2007, Indonesia luôn là thị trường xuất khẩu gạo lớn của Việt Nam (chiếm 24% tổng lượng xuất khẩu), thì năm 2008, nước này đã giảm mạnh lượng nhập khẩu gạo (chỉ chiếm hơn 1% tổng lượng gạo xuất khẩu) do có thể tự đáp ứng được nhu cầu gạo tại thị trường trong nước, do lượng dự trữ trong nước cao và mở rộng sản xuất. Thậm chí, sang năm 2009, sau khi thu hoạch lúa vụ chính, nước này sẽ xem xét đến khả năng xuất khẩu gạo. Năm 2008, Indonesia chỉ nhập 76,4 nghìn tấn gạo từ thị trường Việt Nam, giảm mạnh so với mức hơn 1 triệu tấn gạo của năm 2007. Gạo Việt Nam xuất khẩu sang 20 thị trường chính, nhưng chủ yếu là sang Philippines, Malaysia, Cuba, Singapore Trong 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008 thì, Philippines vẫn là thị trường đứng tại vị trí số một, chiếm gần 40% tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, tăng 9,3% thị phần so với năm 2007. Trong 10 thị trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất này thì có 3 thị trường bao gồm Philippines, Malaysia, Cuba là thị trường truyền thống, chiếm 63,8% về giá trị và 54,8% về lượng. 7 thị trường còn lại là các thị trường thương mại (chiếm 18,4% về giá trị và 23,3% về lượng), trong đó thị trường châu Phi chiếm tới 11,7% về giá trị và 14,5% về lượng. Tuy nhiên, tại 3 thị trường truyền thống, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 thay đổi không đáng kể so với năm 2007 (tăng 1,5% tại Philippines, 13,4% tại Cuba và 21,4% tại Malaysia) nhưng do giá tăng mạnh nên kim ngạch xuất khẩu lại tăng hơn 100% (tăng 133,5% tại Philippines, 145,5% tại Cuba, 126,6% tại Malaysia). Tại các thị trường thương mại còn lại, Senegal có sự tăng trưởng về lượng và kim ngạch lớn nhất (tăng 4.848,9% về lượng và 6.411,3% về giá trị) so với năm 2007. Ghana có sự sụt giảm cả về lượng và giá trị so với năm 2007. Điều đáng chú ý là năm 2008, Iraq bắt đầu nhập khẩu gạo Việt Nam trở lại khi tạm ngừng nhập khẩu vào năm 2007. Trước đây, Iraq cũng được coi là một thị trường truyền thống trong xuất khẩu gạo của Việt Nam. Hình 2: Top 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam, 2008 Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan Ả rập Syria mặc dù có kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam không lớn nhưng lại có tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 2007/08 lớn nhất. Tốc độ tăng trưởng của thị trường này đạt 29.338%. Ba Lan là thị trường có tốc độ tăng trưởng nhập khẩu gạo từ Việt Nam lớn thứ hai, đạt 6.790%. Tiếp theo là các thị trường Senegal (đạt 6.411%), Fiji (tăng 4.638%), Pháp (tăng 2.272%), Kenya (tăng 2.140%), Ảrập Xêút (tăng 2.093%), Đông Timo (tăng 1.646%). Bờ biển Ngà (1.214%)... Các thị trường có tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu lớn nhất năm 2008 này chủ yếu là các thị trường thương mại (các thị trường mới) tập trung tại khu vực Châu Phi. 4.3. Triển vọng xuất khẩu năm 2009 Tổng lượng gạo dự trữ toàn thế giới đặc biệt tăng mạnh, là yếu tố bổ trợ cho nguồn cung một cách đáng kể. Cung gạo thế giới năm 2009 sẽ tăng khoảng 1,8-1,9% so với năm 2008. Về mặt cầu, do biến động của thị trường gạo trong năm 2008 nên tại các nước nhập khẩu chính trên thế giới như Indonesia, Sri Lanka, Ảrập Xêút, Các tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất... lượng gạo dự trữ cuối năm 2008 cũng ở mức tương đối lớn. Do đó, nhu cầu nhập khẩu gạo trên thế giới trong năm 2009 sẽ giảm nhẹ so với tổng nhu cầu nhập khẩu thế giới năm 2009. Dựa theo cách tính và các tiêu chí về tốc độ tăng trưởng dân số năm 2009; tốc độ tăng trưởng nhập khẩu năm 2008/07; tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 và tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 của một số nước nhập khẩu gạo, Báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam 2008 và triển vọng 2009 (Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn, AGROINFO) đã đưa ra xu hướng và nhận định các thị trường truyền thống như Phillippines, Cuba, Malaysia vẫn là những thị trường tiềm năng. Tuy nhiên, các thị trường thật sự đáng được chú ý là thị trường Châu Phi. Tình hình phát triển kinh tế tại một số nước thuộc khu vực Châu Phi tương đối thuận lợi. Trước tác động của khủng hoảng tài chính thế giới, hầu hết nền kinh tế trên thế giới được dự báo là giảm tăng trưởng trong năm 2009 so với năm 2008 nhưng tại khu vực Châu Phi, tốc độ tăng trưởng GDP 2009 của một số nước tăng so với năm 2008 như: Senegal được có tốc độ tăng trưởng GDP 2009 đạt 5,8%, cao hơn mức 4,3% của năm 2008; tốc độ tăng trưởng GDP của Kenya năm 2009 đạt 6,4%, cao hơn mức 3,3% của năm 2008… Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu năm 2008 tại một số nước trong khu vực Châu Phi cũng đạt cao như: Senegal (6406%); Syria (29338%); Kenya (2140%); Bờ Biển Ngà (65,9%)… Ngoài ra, theo các chuyên gia nhận định, khu vực Châu Phi năm 2009 sẽ không có đột biến lớn trong chính sách thương mại. Hơn nữa, thị trường không đòi hỏi quá khắt khe về chất lượng sản phẩm. Vì vậy, thị trường Châu Phi là thị trường được đánh giá là tiềm năng lớn trong hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam, điển hình là một số quốc gia như Angola, Bờ biển Ngà, Senegal, Nam Phi và Kenya. 4.4. Thách thức xuất khẩu gạo năm 2010 Theo đánh giá của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), khối lượng gạo xuất khẩu của nước ta năm nay vẫn là 6 triệu tấn như mức kỷ lục của năm 2009, nhưng kim ngạch sẽ tăng mạnh để đạt kỷ lục 3-3,2 tỉ USD. Điều này có nghĩa giá gạo xuất khẩu sẽ dao động khoảng 500-533 USD/tấn, tăng 94,58-127,58 USD/tấn (23,33-31,47% so với năm 2009 là 405,42 USD. Xuất khẩu gạo đầu năm: lượng lớn, giá cao: Thắng lợi liên tiếp của Vinafood II trong bốn cuộc đấu thầu nhập khẩu gạo sớm hơn thông lệ của Philippines, giá trúng thầu không hề kém các đối thủ cạnh tranh. Vinafood II trúng thầu gần 1,286 triệu tấn, chiếm tới 70,6% trong tổng khối lượng trúng thầu (gần 1,821 triệu tấn). Giá trúng thầu bình quân của Vinafood II là 633,51 USD/tấn, cao hơn 16,14 USD/tấn và 2,61% so với giá trúng thầu bình quân của tất cả đối thủ cạnh tranh còn lại (617,38 USD/tấn). Trong ngày đầu năm mới, Cơ quan Lương thực Quốc gia Philippines (NPA) đã quyết định mua thêm hơn 355.000 tấn gạo từ bốn cuộc đấu thầu với giá bình quân 634,7 USD/tấn. Trong đó, Vinafood II trúng thầu thêm hơn 118.000 tấn. Bên cạnh đó, Vinafood II cũng đã có những hợp đồng riêng lẻ xuất khẩu vào thị trường này 146.639 tấn gạo nữa. Do vậy, có căn cứ để cho rằng tổng khối lượng gạo trên 1,55 triệu tấn xuất khẩu cho Philippines với giá cao ngất ngưởng (1,404 triệu tấn, quy giá FOB khoảng 575 USD/t._.ấn) trong nửa đầu năm nay có lẽ là “bước chạy đà” tốt chưa từng có của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nước ta trong 21 năm qua. Thế nhưng liệu giá của gần 4,5 triệu tấn gạo xuất khẩu còn lại của nước ta có còn giữ được ở ngưỡng 500 USD/tấn hay không mới là yếu tố có ý nghĩa quyết định để đạt mục tiêu 3-3,2 tỉ USD cả năm. Căn cứ quan trọng nhất để suy đoán như vậy chính là quan hệ cung - cầu trên thị trường gạo thế giới năm nay sẽ không quá căng thẳng như những dự báo gần đây, đặc biệt là tình hình thị trường lúa gạo của “người khổng lồ” Ấn Độ đã và đang có những dấu hiệu tốt lên trông thấy. Cụ thể, theo dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ vừa công bố, tuy tổng sản lượng gạo thế giới năm nay chỉ tăng thêm chưa đến 1 triệu tấn so với những dự báo trước đó, nhưng trong đó sản lượng gạo của Ấn Độ tăng thêm 1,5 triệu tấn và đây cũng chính là yếu tố có ý nghĩa quyết định để cơ quan này đưa ra dự báo về dự trữ gạo cuối kỳ của thế giới sẽ tăng thêm 1,2 triệu tấn, còn của Ấn Độ sẽ tăng thêm 1,5 triệu tấn. Không những vậy, những thông tin của Chính phủ Ấn Độ gần đây cho thấy sản lượng gạo vụ mùa quan trọng nhất trong năm (Kharif) hiện đang trong giai đoạn thu hoạch rộ sẽ tăng 2,2 triệu tấn, chứ không phải 1,5 triệu tấn như nói trên. Bên cạnh đó, diện tích lúa mì vụ hè của nước này tăng 2,29 triệu ha, đạt kỷ lục 27,85 triệu ha, đưa sản lượng lúa mì lên kỷ lục 80,85 triệu tấn. Chính vì những lý do nêu trên, mặc dù Chính phủ Ấn Độ đã có động thái để nhập khẩu ước khoảng 500.000 tấn gạo từ Indonesia và phía Indonesia đã tỏ ra sẵn sàng, nhưng cho tới thời điểm hiện tại các doanh nghiệp Ấn Độ vẫn dửng dưng. Tất cả những điều nói trên có nghĩa là khi những đồn đoán về việc Ấn Độ sẽ nhập khẩu khoảng 2-3 triệu tấn, thậm chí 5 triệu tấn gạo trong năm nay đang ngày càng “nguội dần”, triển vọng giá gạo thế giới tiếp tục duy trì ở mức cao ngất ngưởng như Vinafood II đã thắng thầu tại Philippines là điều ít có khả năng xảy ra. Trong bối cảnh như vậy, việc cường quốc xuất khẩu gạo số 1 thế giới Thái Lan trong năm nay vừa phải kiềm chế khối lượng xuất khẩu để giữ không cho giá gạo thế giới tụt dốc quá mạnh, vừa đặt mục tiêu giá xuất khẩu thấp hơn năm 2009 có lẽ là phù hợp. Cụ thể, các thông tin mới đây của Thái Lan cho biết dù tồn kho gạo của nước này sẽ tăng vọt vào cuối năm nay, nhưng quốc gia này sẽ chỉ xuất khẩu 9 triệu tấn và hướng tới mục tiêu kim ngạch 5-5,2 tỉ USD trong năm nay. Như vậy, nếu so với 8,57 triệu tấn trong năm 2009, khối lượng gạo xuất khẩu của Thái Lan trong năm nay chỉ tăng 430.000 tấn (5,02%), còn kim ngạch hoặc sẽ giữ nguyên như năm 2009 (5 tỉ USD), hoặc chỉ tăng 4,7%. Như vậy, thay vì mức giá 583,4 USD/tấn đạt được trong năm 2009, mục tiêu hướng tới của Thái Lan trong năm nay là xuất khẩu với giá khoảng 556-578 USD/tấn, nghĩa là giảm 1-4,7%. Nói tóm lại, sau bốn cuộc đấu thầu nhập khẩu gạo dồn dập của Philippines với giá tăng đột biến, một phần bắt nguồn từ lý do thiên tai, phần khác do quốc gia này sắp bước vào bầu cử quốc hội. Còn sau đó, đột biến tiếp theo mà người ta đồn đoán chính là việc Ấn Độ sẽ nhập khẩu gạo ồ ạt, nhưng càng ngày khả năng này càng ít nên xu thế giá gạo thế giới giảm là điều khó tránh. Dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho thấy nếu Ấn Độ có nhập khẩu gạo để làm dịu cơn sốt giá gạo trong nước thì cũng sẽ nhập khẩu nhỏ giọt và quy mô gần như chắc chắn sẽ không lớn. Nếu đúng như vậy, việc nâng mục tiêu tăng vọt giá gạo xuất khẩu của nước ta trong năm nay lên ngang ngửa với giá của Thái Lan (90-92%), trong khi năm 2009 chỉ bằng 69,45%, thật khó thông đồng bén giọt. Chương 5: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU Nhóm giải pháp vĩ mô Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu Những năm gần đây, gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước và Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Tuy nhiên, sản xuất lúa gạo xuất khẩu còn thiếu quy hoạch, chưa đa dạng hoá chủng loại hàng, hệ thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn nhiều yếu kém, lại phân bổ không hợp lý. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng còn ít, tập trung chủ yếu tại TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đầu mối xuất khẩu bó hẹp trong khu vực TP Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và các chi phí trung gian. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa xác định được chiến lược về thị trường và chiến lược sản phẩm rõ ràng, chưa thiết lập được hệ thống thị trường, bạn hàng lớn ổn định và vẫn còn tình trạng bán qua trung gian, tranh mua, tranh bán ở thị trường nước ngoài. Khâu điều hành xuất khẩu tầm vĩ mô còn nhiều lúng túng, không kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu về nguồn hàng và ký kết hợp đồng. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới thì vấn đề đặt ra hiện nay chính là hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo. Năm 2001, với cơ chế bãi bỏ hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy được ưu thế của mình, giải quyết được những vướng mắc trong vấn đề quản lý, tránh tình trạng độc quyền nhưng cũng gây nhiều khó khăn mới cho các cơ quan chức năng về kiểm soát lượng gạo xuất khẩu, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Vì vậy, cùng với quyết định này cần đưa ra các giải pháp đồng bộ để ngăn chặn những vướng mắc mới phát sinh. Cụ thể là: * Thứ nhất: Khi bãi bỏ đầu mối hạn ngạch các cơ quan có trách nhiệm cần đánh giá sản lượng thóc để định hướng và công bố ngay tổng mức dự định sẽ xuất khẩu ở năm sau từ cuối năm trước để doanh nghiệp dựa vào đó xác định thời gian và tiến độ, chủ động điều tiết các hoạt động của mình cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Chính phủ chỉ đạo giao cho uỷ ban nhân dân các tỉnh và các ngành có liên quan theo dõi, tạo điều kiện hỗ trợ về vốn, tổ chức tốt hơn nữa việc mua lúa cho nông dân vào đúng thời điểm thu hoạch nhằm có những biện pháp bảo quản hàng hoá tốt và ngăn chặn không cho giá xuống. * Thứ hai: Vì không còn hạn ngạch và đầu mối, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sẽ tăng. Nhà nước cần có biện pháp sắp xếp một cách hợp lý, khuyến khích những doanh nghiệp có đủ khả năng, hạn chế sự ồ ạt quá mức của các doanh nghiệp còn non kém về kinh nghiệm, yếu về tài chính. Nhà nước có thể quy định một số quy định đối với doanh nghiệp được kinh doanh xuất khẩu gạo như phải có giấy phép kinh doanh, phải có số vốn tối thiểu quy định, có kho hàng đủ điều kiện và thuận tiện cho xuất khẩu và việc cho kiểm tra của các cơ quan thuế, cơ quan thương mại, đồng thời có một lượng tồn kho nhất định thường xuyên. * Thứ ba: Đối với một số hợp đồng, nhất là hợp đồng mua bán gạo cấp Chính phủ nên duy trì trong cơ chế quy định khuyến khích doanh nghiệp tham gia đấu thầu và chỉ định tham gia đấu thầu khi cần thiết. Đối với các trường hợp doanh nghiệp phải dừng hoặc hủy hợp đồng để đảm bảo lợi ích của quốc gia thì nên có các hỗ trợ về tài chính khi có thiệt hại. * Thứ tư: Chính phủ cần quản lý chặt chẽ các gian lận trong xuất khẩu gạo bằng cách phối hợp các ngành có liên quan. Hiện nay, gian lận thương mại được giấu dưới các hình thức tinh vi có sự phối hợp giữa các bên đối tác nhằm mục đích kiếm lời. Việc hạn chế này sẽ đảm bảo chênh lệch giá gạo xuất khẩu của Việt Nam và thế giới. * Thứ năm: Tích cực xúc tiến hình thành các trung tâm giao dịch và xuất khẩu gạo để hỗ trợ cho việc điều hành xuất khẩu không theo đầu mối tạo điều kiện nâng cao trình độ xuất khẩu gạo, là cơ sở để Nhà nước điều tiết các hoạt động này. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức trên mới chỉ bao quát được tình hình quản lý xuất khẩu của Chính phủ ta trong giai đoạn mới. Thực hiện các giải pháp trên đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của các ngành các cấp đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ nhằm đạt được hiệu quả tối ưu nhất. 5.1.2. Các giải pháp về luật pháp, chính sách Để hướng tới một ngành gạo xuất khẩu đồng bộ, ổn định trong tương lai gần, chúng ta cần có một hệ thống luật pháp với các quy định được ban hành cụ thể rõ ràng tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh với khả năng cạnh tranh cao của mặt hàng. Cụ thể là: * Thứ nhất: Thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như xin giấy phép xuất khẩu, các thủ tục hải quan, thuế... cần được cải cách triệt để, tránh phiền hà sách nhiễu, tạo sự thông thoáng trong hoạt động và các bước đi của các doanh nghiệp, giảm thiểu thời gian, chi phí không cần thiết và các hiện tượng tiêu cực khác. Cần quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cán bộ quản lý các cấp từ trung ương tới địa phương, nâng cao chất lượng làm việc trong các cơ quan nhà nước, xoá bỏ tệ hách dịch, cửa quyền trong xuất nhập khẩu, đồng thời đẩy mạnh công tác trau dồi trình độ chuyên môn và ngoại ngữ cho cán bộ công chức hành chính Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như đạo đức và trách nhiệm trong công việc. * Thứ hai: Hướng dẫn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới tham gia xuất khẩu gạo tham gia ký kết các hợp đồng kinh doanh gạo, tránh tình trạng bị giá quy định quá cao hoặc quá thấp. * Thứ ba: Tích cực có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu gạo mà hỗ trợ tín dụng xuất khẩu là biện pháp hữu ích nhất. Hiện nay, Nhà nước đã có quy định về quy chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu qua quyết định số 133/TTG của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động cho vay vốn lưu động, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng... của Quỹ về mặt nghiệp vụ giống như các ngân hàng thương mại nhưng với lãi suất cho vay là lãi suất ưu đãi (lãi cho vay vốn lưu động bằng 80% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển) trong thời gian 720 ngày. Gạo xuất khẩu là mặt hàng khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt trong trường hợp xuất sang thị trường mới hoặc để duy trì thị trường truyền thống theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Quỹ cho vay vốn dưới hai hình thức là cho vay trước khi giao hàng và cho vay sau khi giao hàng. Đối với cho vay trước khi giao hàng, các doanh nghiệp được vay vốn ngắn hạn mua gạo để thực hiện hợp đồng xuất khẩu với mức vay không quá 80% giá trị L/C hoặc không quá 70% giá trị hợp đồng xuất khẩu. Việc cho vay sau khi giao hàng được thực hiện sau khi đơn vị đã có hối phiếu hợp lệ với mức cho vay tối đa bằng 90% trị giá. Để cho vay trước khi giao hàng, các doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố, thế chấp trị giá tối thiểu 30% số vốn vay. Đối với cho vay hối phiếu hợp lệ, đơn vị phải xuất trình hối phiếu kèm theo bộ chứng từ hàng xuất. Năm 2000 vừa qua, nghiệp vụ cho vay trước khi giao hàng đã phải chịu rủi ro khi Chính phủ giao cho các ngân hàng cho vay dự trữ 1 triệu tấn lương thực, khi kiểm tra mới thu mua có 66%, doanh nghiệp đóng ở Hà Nội, nhưng thu mua ở khắp mọi nơi, tận đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy, trong hoạt động năm tới cần phải quản lý đảm bảo chặt chẽ, hạn chế rủi ro ở mức độ tối đa. Trên tổng thể, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ để đảm bảo cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước. * Thứ tư: Nhà nước cần hoàn thành luật thuế về kinh doanh lương thực đảm bảo bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường phải tuân thủ, tránh trốn thuế và đầu cơ gây các cơn sốt lương thực trên thị trường. Khi trong nước ta đã đảm bảo được an ninh lương thực thì có thể cho rằng xuất khẩu càng nhiều gạo càng tốt. Chúng ta chấp nhận giá gạo trong nước tăng lên một chút để khuyến khích sản xuất lúa gạo, giảm bớt được phần nào chênh lệch giữa thu nhập của nông dân và thành thị vì chi tiêu về lương thực chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi tiêu đời sống hàng ngày của dân thành thị. Trong tương lai không xa, chúng ta có thể bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo vì cho dù thuế có làm tăng thu ngân sách nhưng vẫn cản trở thương mại tự do. * Thứ năm: Nhà nước tích cực áp dụng các quy chế thưởng xuất khẩu cho các doanh nghiệp làm tốt công tác này nhằm mục đích động viên khuyến khích những thành tích xuất sắc và hiệu quả cao. Căn cứ theo tiêu chuẩn của Quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo có thể được khen thưởng theo hai tiêu chuẩn: mở rộng thị trường xuất khẩu đã có hoặc mở thêm thị trường mới có hiệu quả với mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm sau so với năm trước là 20% và mức tăng trưởng tuyệt đối từ 500.000 USD trở lên (tiêu chuẩn 5.2); mặt hàng gạo xuất khẩu đạt chất lượng quốc tế (tiêu chuẩn 5.3). Đây là những tiêu chuẩn khá cao, để đạt được cần sự nỗ lực của doanh nghiệp. Trước năm 2001, khi còn quy định về đầu mối, hạn ngạch thì gạo xuất khẩu không được xét thưởng, nay bỏ cơ chế này thì gạo được coi như các mặt hàng khác và có thể được xét thưởng nếu đạt những thành tích cao trong xuất khẩu. Việc tổ chức khen thưởng hàng năm được thực hiện một cách công khai, công bằng và đúng với những quy định tại các quyết định, quy chế đã ban hành. Việc lấy ý kiến của công luận trên các phương tiện thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan hải quan của hội đồng xét thưởng khi kiểm tra hồ sơ phải đảm bảo không để xảy ra sai sót đáng tiếc. Có những doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn chưa hiểu đúng, thậm chí chưa biết những nội dung cơ bản trong Quy chế do việc hướng dẫn thông tin còn chưa thật đầy đủ. Chính vì vậy, Quy chế thưởng xuất khẩu thời gian tới vẫn cần có sự bổ sung, hoàn thiện để phát huy mạnh mẽ hơn nữa, tác dụng động viên khuyến khích doanh nghiệp, phù hợp với cơ chế mới về xuất nhập khẩu gạo đã có sự thay đổi. Nhìn chung, Nhà nước nên nhất quán chính sách, có biện pháp khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo, tăng cường khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới của doanh nghiệp Việt Nam. 5.1.3. Các giải pháp về đầu tư Cũng như tất cả các ngành nghề khác trong nền kinh tế, ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Việt Nam muốn phát triển cần có chính sách đầu tư thoả mãn, hợp lý. Hơn nữa, gạo là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, vì vậy cần được đầu tư xứng đáng với vị trí chiến lược của nó trong nền kinh tế hiện nay của đất nước ta. Để tăng cường đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm tới, Nhà nước cần tập trung đầu tư trong các lĩnh vực sau: * Thứ nhất, đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất. Đây là điều kiện tiên quyết để sản xuất có thể hiệu quả. Hệ thống này cần phải được trang bị hiện đại, đồng bộ, phù hợp với môi trường môi sinh, đảm bảo cho sức cạnh tranh của lúa gạo. Cơ sở hạ tầng cần được chú trọng nhất ở các khâu sản xuất, chế biến bằng việc lắp đặt, sử dụng các máy móc mới, công suất cao, cải tiến hệ thống điện nước, hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý chất lượng gạo. * Thứ hai, đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lúa gạo. Các nhà khoa học, kỹ sư nông nghiệp và nông dân trực tiếp sản xuất chính là những người quyết định sự phát triển ngành lúa gạo của nước ta nên cần có chính sách đầu tư một cách hợp lý, đội ngũ này về cả chất lượng và số lượng. Nhà nước cũng cần hỗ trợ giáo dục đào tạo trong ngành nông nghiệp để có được những cán bộ có trình độ, tâm huyết với nghề, đem kiến thức của mình vận dụng trong nghiên cứu khoa học, cung cấp thường xuyên cho họ những sách báo, tạp chí khoa học, những thông tin cập nhật về các thành tựu khoa học mới ở trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho họ nâng cao kiến thức, tiếp cận với nền sản xuất lúa gạo của các nước có kỹ thuật tiên tiến. Với người nông dân, cần chuyển giao đến từng hộ những thông tin về kỹ thuật, kinh tế, tạo điều kiện cho họ học hỏi, nâng cao dân trí. Các cấp huyện, xã cần tổ chức giới thiệu giống lúa mới, cách gieo cấy, chăm sóc có hiệu quả, tránh tình trạng chỉ áp dụng kinh nghiệm lâu năm trong nghề trồng lúa mà coi nhẹ những ứng dụng khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân vì để sản xuất lúa gạo xuất khẩu có chất lượng cao cần tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn kém. Hỗ trợ vốn dưới hình thức tín dụng sẽ bắt người nông dân phải hoàn lại vốn dưới hình thức lãi suất ưu đãi nên buộc họ phải năng động sáng tạo, tìm cách để kinh doanh có hiệu quả cao để hoàn trả lại số vốn đi vay, xoá bỏ thói quen ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước như khi hỗ trợ cho họ dưới hình thức trợ cấp. * Thứ ba, đầu tư vào nghiên cứu các ứng dụng khoa học công nghệ. Cũng như tất cả các ngành khác, trong sản xuất lúa gạo, khoa học công nghệ là lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư để trở thành động lực mới cho sự phát triển, trong đó cần đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu về công nghệ sinh học gắn với nghiên cứu chuyển giao để giúp nông dân tiếp cận và sử dụng được những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại về giống, phân bón, thuốc trừ sâu... nhằm có được những sản phẩm có chất lượng cao, sức cạnh tranh với các loại gạo của Thái Lan, Mỹ... trên thị trường thế giới. Chúng ta cần khắc phục những khó khăn về vấn đề kinh phí cho nghiên cứu khoa học để phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so với các nước khác. Nhà nước cần phát huy vai trò chỉ đạo của các cơ sở nghiên cứu chính là các viện, các trường đại học, đồng thời huy động mọi lực lượng khác tham gia nghiên cứu trong đó có các doanh nghiệp, nông trường... Mặt khác, Nhà nước cần khuyến khích đầu tư xây dựng các hệ thống trang trại nghiên cứu - thực nghiệm triển khai về giống, thuỷ nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất ở các khu vực sản xuất. * Thứ tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng và các dịch vụ phục vụ xuất khẩu gạo. Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng cho xuất khẩu. Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp nguồn gạo chủ yếu cho xuất khẩu của nước ta hiện nay. Gạo được thu mua và xuất sang nước ngoài qua các cảng khẩu. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu ở vùng này nói riêng và cả nước nói chung có rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, chi phí vận chuyển gạo của nước ta bị đẩy lên cao. Dù chi phí này thường do khách hàng trả vì giá gạo tính theo giá FOB nhưng lại bị trừ trong giá sản phẩm nên người chịu thiệt thòi cuối cùng vẫn là các doanh nghiệp xuất khẩu. Gạo xuất khẩu thường tập trung về Sài Gòn, nơi diễn ra hoạt động xuất, nhập của rất nhiều loại hàng nên dễ dẫn đến sự ùn tắc. Vấn đề đặt ra cần tạo sự thông suốt về vận tải, khâu cuối cùng của xuất khẩu gạo. Cảng Sài Gòn là cảng quan trọng nhất nên cần được đầu tư, nâng cấp, cải tiến lại hệ thống kho bãi, phương tiện bốc dỡ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xuất khẩu gạo đúng thời gian và tiến độ. Một giải pháp nữa cho sự tắc nghẽn là Chính phủ nên tập trung đầu tư, xây dựng, cải tạo lại một số cảng ở đồng bằng sông Cửu Long theo phương pháp dàn trải, tránh tập trung vào một cảng như hiện nay. Cần có những sửa chữa, nâng cấp để biến một số cảng như Long An, Mỹ Tho, Cần Thơ... thành những cảng có chất lượng tốt, có thể là cảng chuyên dùng cho xuất khẩu. Đặc biệt là cảng Cần Thơ, một cảng khẩu có vị trí chiến lược, nếu được đầu tư xây dựng sẽ tác động tích cực đến sản xuất lúa gạo đồng bằng sông Cửu Long, đẩy nhanh tiến độ CNH - HĐH khu vực này, tạo sự lưu thông lúa gạo thuận tiện cho vùng sản xuất lúa và cho xuất khẩu, đồng thời chi phí vận chuyển từ đồng bằng lên cảng Sài Gòn sẽ giảm đáng kể. Ngoài ra, cần nâng cấp các cảng khẩu ở khu vực miền Bắc nhằm phục vụ cho gạo xuất khẩu ở đồng bằng sông Hồng, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào khu vực phía Nam. Song song với các cầu cảng, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần ký kết hợp đồng với các cơ quan của Bộ Giao thông Vận tải, bảo đảm đúng tiến độ vận chuyển từ nơi sản xuất, dự trữ và xuất khẩu. Phát triển dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải phục vụ xuất khẩu gạo. Hiện tại, giá gạo bán của ta cho các nhà nhập khẩu là giá FOB, tạo cho chúng ta tâm lý an toàn khi xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra trên đường vận chuyển. Tuy nhiên chúng ta không phát triển được đội hàng hải và bảo hiểm, giá lại cao so với CIF. Vì vậy cần đưa ra giải pháp đẩy mạnh dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải bằng cách liên doanh với các hãng bảo hiểm danh tiếng quốc tế tạo tâm lý yên tâm, tín nhiệm với khách hàng, phát triển khả năng vận tải hàng hải. Mục tiêu của Chính phủ đến năm 2010 là xây dựng một đội tàu quốc gia đủ sức chở 99% khối lượng hàng nội địa, 40% khối lượng hàng nhập khẩu và tham gia chở thuê cho nước ngoài. Với những thế mạnh trên, nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể chào hàng theo giá CIF và thu được lợi nhuận từ những dịch vụ bảo hiểm, hàng hải đồng thời tạo điều kiện phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm cho nhân công trong ngành trên. 5.1.4. Các giải pháp về thị trường Thứ nhất: nghiên cứu và xây dựng thị trường. Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Nghiên cứu thị trường là nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Công tác nghiên cứu thị trường cần được tổ chức tập trung, khách quan và khoa học. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu biết về các đặc tính, thói quen tiêu dùng, thị hiếu của các khu vực thị trường cũng như nắm bắt thông tin về các biến động trên thị trường, đồng thời cho phép đánh giá tiềm năng và quy mô thị trường. Từ đó thực hiện xâm nhập và thích ứng với thị trường, tạo thế cạnh tranh để mở rộng thị phần của mình. Để nghiên cứu thị trường gạo - mặt hàng có thị hiếu tiêu dùng đa dạng - Nhà nước cần hình thành các trung tâm chuyên trách cho ngành gạo để khai thác, cung cấp thông tin về giá cả thị trường, tình hình hoạt động của các thành viên trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời các chính sách mới của Nhà nước cho các nhà xuất khẩu. Hệ thống thông tin phải thật chính xác, cập nhật để có những phản ứng linh hoạt trước những biến động của thị trường. Xây dựng thị trường xuất khẩu gạo là một đòi hỏi mang tính cấp thiết và chiến lược. Nhà nước cần tạo lập và đặt mối quan hệ thương mại với các nước có nhu cầu lớn về xuất khẩu gạo, tranh thủ khai thác các mối quan hệ để ký các hiệp định xuất khẩu gạo hoặc các bản thoả thuận phối hợp, hợp tác với các nước để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động đồng thời có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường bên ngoài. Trong quá trình xuất khẩu gạo, cần tranh thủ gây dựng uy tín thương mại quốc tế đối với các bạn hàng, từng bước tạo thói quen ưa chuộng, tiêu dùng gạo Việt Nam, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường. Thứ hai: các thị trường mục tiêu. Việc lựa chọn các thị trường mục tiêu cho xuất khẩu gạo trong những năm tới là vấn đề khá nan giải. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay là sắp xếp các phân đoạn thị trường xuất khẩu gạo theo thứ tự ưu tiên và hiệu quả kinh tế, đầu tư vốn cho sản xuất, chế biến, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, tạo tiền đề cho xuất khẩu gạo trong tương lai. Những năm sắp tới, chúng ta tập trung xuất khẩu gạo vào những thị trường tiêu biểu sau: * Một, thị trường gạo phẩm cấp thấp. Đây là thị trường tập trung những nước nghèo tiêu thụ gạo chất lượng thấp (tấm 25-35%) như Ấn Độ, Philippines, các quốc gia châu Phi... + Thị trường ổn định gạo bao gồm các nước ASEAN như Philippines, Malaysia... Đây là một thị trường quan trọng cần hướng tới. Về cơ bản giữa nước ta và các nước ASEAN, cơ cấu hàng xuất khẩu tương tự như nhau. Tuy nhiên ta cần khai thác những ưu thế và giá nhân công rẻ so với nhiều nước trong khu vực địa lý, và trong tương lai nằm trên hệ thống đường bộ và đường sắt xuyên Á và chế độ ưu đãi thuế quan trọng nội bộ các nước ASEAN để tăng mức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ vào thị trường này đặc biệt là các mặt hàng nông sản như gạo. Mặc dù chúng ta gặp sự cạnh tranh gay gắt với Thái Lan về gạo nhưng chúng ta có chỗ đứng tại các nước Indonesia, Singapore, Philippines... Chúng ta đã có hướng đi đúng khi liên doanh với các nước trồng lúa cao sản để cung cấp ổn định cho thị trường thế giới với hiệu quả cao. Chúng ta nhận định rằng trong thời kỳ đến năm 2010 thì ASEAN vẫn là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu của Việt Nam. + Thị trường không ổn định là những thị trường nhập gạo của Việt Nam với số lượng không đồng đều như Trung Quốc và các nước Châu Phi. Với số dân 1,3 tỉ người và vị thế địa lý thuận lợi, Trung Quốc hứa hẹn là nước nhập khẩu gạo lớn của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu gạo sang nước này gặp nhiều khó khăn do sự đồng nhất về mùa vụ. Những năm nhu cầu nhập khẩu gạo của Trung Quốc lớn do mất mùa thì chúng ta không đáp ứng đủ với nguyên nhân các tỉnh miền Bắc gặp thiên tai. Năm 1995, khi Trung Quốc cần nhập nhiều lương thực nhất, nhưng chính phủ ta có lệnh cấm xuất khẩu bằng đường tiểu ngạch qua biên giới vì khó khăn về lúa gạo ở miền Bắc. Ngược lại, năm 1997, khi chúng ta thừa gạo cần cho tiêu thụ, Chính phủ ta đã cho phép địa phương được giao dịch để bán cho Trung Quốc nhưng không thực hiện được. Điều đó chứng tỏ tính chất bấp bênh trong quan hệ thương mại với Trung Quốc là thị trường lớn nhưng không ổn định. Chính vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần có những điều chỉnh thích hợp để điều hoà thị trường đầy tiềm năng này. Tương tự như Trung Quốc, thị trường các quốc gia châu Phi rất có triển vọng đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn. Khu vực này luôn có những bất ổn định về chính trị, khó có khả năng thanh toán nên lượng gạo nhập từ Việt Nam dù nhiều nhưng không ổn định. Tuy nhiên khu vực vẫn là bạn hàng rất lớn của Việt Nam và chúng ta phải tập trung khai thác trong những năm tới. * Hai, thị trường gạo phẩm chất cao bao gồm các nước nhập khẩu gạo chất lượng cao của Việt Nam bao gồm: - Thị trường EU: hiện nay kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam vào thị trường này chưa lớn do có sự cạnh tranh gay gắt của gạo Thái Lan. Tuy nhiên trong tương lai, khi chúng ta nâng cao được chất lượng gạo thì đây là một thị trường rất có tiềm năng. Các chuẩn mực kinh doanh của EU đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải thật sự năng động, đảm bảo chất lượng gạo và giữ chữ tín trong giao dịch, buôn bán, từng bước xuất khẩu trực tiếp gạo Việt Nam vào khu vực này. - Thị trường Mỹ: là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nhưng Mỹ cũng có nhu cầu nhập khẩu. Năm 2001, Hiệp định Thương mại song phương Việt - Mỹ được ký kết, các doanh nghiệp Việt Nam có thể hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ nên gạo của ta có thể tiếp cận và xâm nhập vào thị trường này dễ dàng hơn. Trong tương lai, chúng ta cần mở rộng quan hệ để có mức xuất khẩu gạo ổn định vào thị trường Mỹ nói riêng cũng như các nước châu Mỹ nói chung. - Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là nước tiêu thụ gạo đòi hỏi chất lượng cao. Do vậy, các doanh nghiệp của ta cần nắm bắt xu thế này để đầu tư trang thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm mới có thể có chỗ đứng trên thị trường, nhất là khi Nhật Bản giảm mức bảo hộ đối với mặt hàng gạo theo quy định của WTO. - Thị trường Trung Đông: đây là khu vực gồm những nước giàu có trên thế giới, có nhu cầu cũng như khả năng thanh toán, giao dịch thương mại quốc tế... Do chưa hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trường ở khu vực này nên kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước này không đáng kể. Bước đầu gạo Việt Nam đã có chỗ đứng và được ưa dùng tại Iran, Iraq... Trong tương lai, khu vực này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nhìn chung, gạo chất lượng thấp của Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao với thị trường châu Á và châu Phi rộng lớn nên cần khai thác mức độ tối đa. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách thúc đẩy đầu tư vào sản xuất nâng cao chất lượng gạo, kết hợp với các chính sách marketing thị trường của Chính phủ để đưa mặt hàng cao cấp xâm nhập thị trường các nước tiêu thụ loại hàng này với giá cao. Do vậy, chúng ta phải biết kết hợp giữa việc giữ vững các thị phần đã xuất khẩu, chuyển dần sang sản xuất và xuất khẩu gạo cao cấp và đặc sản để đi vào thị trường cao cấp, thu được giá trị xuất khẩu cao hơn. Như vậy, thị trường xuất khẩu gạo còn rộng mở, khả năng tham gia vào thị trường gạo của Việt Nam ngày càng tăng. Trong những năm tới, chúng ta cần thực hiện hoạt động xuất khẩu gạo sao cho có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong nền kinh tế quốc dân. Chiến lược Marketing-mix Vai trò của xuất khẩu trong đó có xuất khẩu gạo đã được Nhà nước khẳng định. Đó là mục tiêu quan trọng, tạo điều kiện cho đất nước ta thực hiện CNH-HĐH và nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để nâng cao vị thế của gạo Việt Nam, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế, chúng ta cần có một chiến lược cụ thể nhằm đẩy mạnh, xúc tiến xuất khẩu gạo, tăng kim ngạch là tiền đề quan trọng đáp ứng nhu cầu về vốn trong hoạt động đối ngoại. Đề ra các giải pháp theo quan điểm Marketing-mix hình thành hệ thống các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo là cần thiết để chiếm lĩnh thị trường thế giới bao gồm chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Mục đích của các chính sách này là tạo điều kiện cho xuất khẩu có thể cạnh tranh và có vị trí cao trên thị trường nước ngoài với chi phí thấp nhất. Các đề xuất nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo mang tính chiến lược dưới đây sẽ liên quan đến hầu hết các vấn đề sản xuất, chế biến, dự trữ lưu thông lúa gạo trong những năm sắp tới. 5.2.1. Chính sách sản phẩm Sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Đối với sản phẩm xuất khẩu, khách hàng nước ngoài có những đặc tính về văn hoá khác biệt nên yêu cầu càng khắt khe hơn. Chính sách sản phẩm của gạo xuất khẩu được trình bày bao gồm các giải pháp trong khâu sản xuất, chất lượng và chủng loại... Tình hình sản xuất gạo của nước ta đã và đang được phát triển theo xu hướng tốt cần được khai thác toàn diện về chiều rộng và chiều sâu. * Thứ nhất, về giống lúa, từ ngàn xưa kinh nghiệm của ông cha để lại thì giống lúa chỉ là yếu tố đứng thứ tư (sau ba nhân tố khác là nước, phân bón, nhân công) nên không coi trọng vai trò của giống lúa đối với sản xuất. Ngày nay, giải pháp về giống lúa cần đi trước một bước, kể cả nghiên cứu, triển khai và việc áp dụng vào thực tiễn nhằm tạo ra những tiền đề cơ bản cho các giải pháp kỹ thuật khác phát huy có hiệu quả. Khi nghiên cứu cải tiến giống lúa hay nhập các loại giống mới phục vụ cho xuất khẩu cần chú ý các yêu cầu như năng suất cao, có khả năng thích nghi với các vùng địa lý, khí hậu của Việt Nam, đạt hiệu quả cao trong quá trình chế biến và có khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng thế giới. Thời gian từ khâu thử nghiệm đến khâu sản xuất đại trà cần được rút ngắn nhưng đồng thời phải giữ được độ an toàn khi đưa các giống lúa này ra áp dụng. Cần đầu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25857.doc