Thực trạng và giải pháp thu hút fdi của nhật bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2020

Tài liệu Thực trạng và giải pháp thu hút fdi của nhật bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2020: ... Ebook Thực trạng và giải pháp thu hút fdi của nhật bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2020

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp thu hút fdi của nhật bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TR¦êNG ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n khoa ®Çu t­ đ chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp §Ò tµi: thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p thu hót fdi cña nhËt b¶n vµo viÖt nam tõ n¨m 1988 ®Õn n¨m 2020 Gi¸o viªn h­íng dÉn : PGS.TS. Tõ Quang Ph­¬ng Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn §øc Anh Líp : §Çu t­ 47D Hµ Néi, 05/2009 Chương I THỰC TRẠNG FDI NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 1988 - 2008 I. Tổng quan tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 1988 – 2008: 1. Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam: 1.1 Về cấp phép đầu tư: Ngày 19/12/1987, nước ta đã chính thức ban hành luật đầu tư nước ngoài vàp Việt Nam. Trong những năm đầu tiên, FDI tại Việt Nam mang tính chất thăm dò, vì thế mà số dự án cấp mới cũng như số vốn đăng ký không nhiều. Tuy nhiên trong những năm sau, nguồn vốn FDI đã tăng lên cả về số dự án và vốn đăng ký. Bảng 1: Vốn FDI của cả nước từ năm 1991 - 2008 Đơn vị 1991–1995 1996–2000 2001–2005 2006- 2008 Tổng Số dự án DA 1371 1724 3935 2673 9703 Tỷ trọng số DA % 16.71 21.02 47.98 14.27 100 Vốn đăng ký Tỷ USD 18.5 25.5 20.8 64.01 128.81 Tỷ trọng VĐK % 14.36 19.79 16.15 49.69 100 Vốn thực hiện Tỷ USD 7.1 13.5 13.92 23.6 58.12 Tỷ trọng VTH % 15.4 29.09 30.82 24.78 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Giai đoạn từ năm 1991 – 1995 : Trong thời kỳ này hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng lên nhanh chóng. trong đó chỉ riêng năm 1991, năm thấp nhất của thời kì, cũng đạt 1.2 tỷ USD gần bằng cả ba năm của thời kì trước cộng lại. Lượng vốn đăng ký tăng nhanh qua các năm. Tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư bình quân hàng năm đạt 45% / năm. Thời kỳ này, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được phân bổ rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Nhiều ngành công nghiệp mới xuất hiện như: công nghiệp điện tửm công nghệ sinh học, chế tạo xe máy, ô tô... Bên cạnh đó. sự hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều sản phẩm mới có chất lượng cao, giá thành hạ đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra, các kết quả khả quan của các dự án thăm dò dầu khí đã tạo cơ sơ để phát triển ngành công nghiệp lọc dầu, hoá dầu thành ngành công nghiệp mủi nhọn ở nước ta. Giai đoạn từ năm 1996 – 2000: trong giai đoạn này hoạt động FDI diễn ra khá sôi động. Tổng vốn đăng ký cao khi đạt 25,5 tỷ USD, trong đó VTH đạt 13,5 tỷ. Nếu so sánh với thời kỳ trước đó thì chúng ta có thể thấy được tiềm năng thu hút VĐT của Việt Nam với các nhà nước ngoài trong giai đoạn này là rất hấp dẫn. Trong giai đoạn này, VĐK vào Việt Nam đạt đỉnh điểm vào năm 1996 và giảm dần trong các năm sau đó do ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Xu hướng đầu tư trong thời kỳ có thay đổi khi chuyển từ đầu tư theo chiều rộng sang đầu tư theo chiều sâu. Giai đoạn từ năm 2001 – 2005: so với giai đoạn trước đã có sự thay đổi. Mặc dù tổng VĐK giảm nhưng VTH lại tăng lên. Điều này cho thấy sự khả thi của các dự án FDI thời kỳ này tốt hơn. Sau sự kiện khủng bố tại Mỹ vào tháng 11/ 2009, Việt Nam với nền chính trị ít biến động đã trở thành một địa điểm thích hợp cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế mà số dự án FDI thời kỳ này cũng tăng mạnh đạt 3935 dự án, đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Vốn FDI vẫn tập trung vào các ngành công nghiệp và các thành phố lớn Giai đoạn từ năm 2006 đến nay: Làn sóng ĐTNN vào Việt Nam thực sự tăng mạnh và trở thành làn sóng FDI thứ 2 vào Việt Nam.Bằng chứng là tính đến cuối năm 2006, Việt Nam đã có 7,8 tỷ USD là vốn đăng ký cấp mới (tăng 200% so với năm 2005) trong đó vốn thực hiện là 4,1 tỷ USD tăng 124,24% so với cùng kỳ năm 2005.Số VĐK tiếp tục tăng mạnh trong những năm sau đó.Tuy nhiên trong thời kỳ này ta thấy VTH chưa tương xứng so với VĐK khi chỉ có 23.6 tỷ USD.Một trong những lý do mà vốn thực hiện chưa tương xứng với vốn đăng ký là do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Dẫn đến tình trạng các nhà đầu tư phải hoãn các chương trình đầu tư của họ. 1.2 Tình hình tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất: Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đú mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Quá trình tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất được chia làm các thời kỳ theo xu hướng biến động của nền kinh tế Thời kỳ 1988-1990 : việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có, Việt Nam mới bước đầu mở cửa với các nước trên thế giới, thêm nữa do số lượng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài còn ít vì thế lượng tăng vốn thời kỳ này còn rất ít. Thời kỳ từ năm 1991 – 1995 : số VĐK là 2,13 tỷ USD. Trong đó vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, đạt 40,6% vốn tăng thêm trong giai đoạn này.Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8% trong giai đoạn 1991-1995 Thời kỳ từ năm 1996 – 2000 : Trong giai đoạn này số vốn tăng thêm đã tăng gấp hai lần so trong giai đoạn 1991-1995. Cũng giống nhau giai đoạn từ năm 1991 – 1995 thì số vốn tăng thêm cũng chỉ tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 65,7% số vốn tăng thêm trong giai đoạn này. Các nhà đầu tư châu Á trong giai đoạn này có số vốn đạt 67% tổng vốn đầu tư trong 5 năm 1996-2000. Số lượt tăng vốn bình quân trong thời kỳ này là 165 lượt/ năm. Thời kỳ từ năm 2001-2005 : vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến) tăng 69,7% so với 5 năm trước. Bắt đầu từ năm 2002 lượng vốn đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD và từ năm 2004 đến 2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt 2,14 tỷ USD, trung bình tăng 37%/năm; trong đó ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 77,3% vốn tăng thêm trong thời kỳ 2001-2005. Số vốn đầu tư từ các nhà đầu tư Châu Á cũng tăng thêm trong giai đoạn này, đạt 70,3% trong thời kỳ 2001-2005. Số lượt tăng vốn bình quân cũng tăng lên so với thời kỳ khi đạt 432 lượt/năm, gấp 3 lần so với thời kỳ trước đó. Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2008 : dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh. Chỉ trong 3 năm từ năm 2006 đến năm 2008 số vốn tăng thêm đã là 8,5 tỷ USD.Vốn tăng thêm vẫn chủ yếu tập trung vào các dự án ĐTNN thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng; trong năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm; trong đó các nhà đầu tư Châu Á có tỷ lệ vốn tăng thêm trong năm 2006, 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% 80% tổng vốn tăng thêm. Năm 2008 thì số vốn tăng thêm trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đã lên tới mức 97,6% tổng vốn tăng thêm tuy nhiên các nhà đầu tư Châu Á chỉ chiếm 23,6%. Tuy nhiên số lượt tăng vốn bình quân hàng năm vẫn tương đối cao,đạt 434 lượt/năm tương đương với thời kỳ trước đó. Như vậy có thể thấy một xu hướng chung của dòng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam biến động theo tình hình kinh tế thế giới và đang có xu hướng tăng mạnh trong những năm tới. Số vốn tăng thêm trong từng năm có lúc giảm lúc tăng tuy nhiên luôn danh một tỷ lệ lớn cho các ngành công nghiệp và xây dựng. Một điều đang lưu ý là lượng vốn tăng thêm và những dự án mở rộng thường diễn ra tại những vùng kinh tế trọng điểm, những thành phố lớn có điều kiện cơ sở hạ tầng tốt hơn, với tỷ lệ dành cho khu vực miền Nam thường cao hơn cho các khu vực miền Bắc. Qua khảo sát thường niên của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam; thể hiện sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. 2. Cơ cấu FDI tại Việt Nam: 2.1.Cơ cấu vốn ĐTNN phân theo ngành nghề : Bảng 2: Cơ cấu FDI cả nước phân theo ngành nghề (tính tới thời điểm 31/12/2008) Đơn vị Công nghiệp Nông – Lâm - Ngư nghiệp Dịch vụ Tổng Số dự án DA 6303 976 2524 9803 Tỷ trọng số DA % 64.29 9.95 25.76 100 Vốn đăng ký Tỷ USD 87.79 4.79 57.18 149.76 Tỷ trọng VĐK % 58.62 3.19 38.19 100 Vốn thực hiện Tỷ USD 29.66 2.29 20.05 52.01 Tỷ trọng VTH % 57.02 4.4 38.58 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lĩnh vực công nghiệp luôn luôn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đăng ký, vốn thực hiện và số dự án FDI tại Việt Nam. Tiếp đến là ngành dịch vụ và nông – lâm – ngư nghiệp. Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, bên cạnh đó giá nhân công lại rẻ vì thế mà hầu hết các dự án FDI đều tập trung vào ngành công nghiệp và dịch vụ. Ta sẽ đi xem xét trong từng lĩnh vực: Thứ nhất, FDI trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Bảng 3: FDI cả nước trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng Đơn vị CN dầu khí CN nhẹ CN nặng CN thực phẩm Xây dựng Tổng Số DA DA 48 2740 2602 350 563 6303 Tỷ trọng số DA % 0.76 43.47 41.28 5.56 8.93 100 VĐK Tỷ USD 14.47 15.68 47.16 4.19 6.27 87.79 Tỷ trọng VĐK % 16.49 17.86 53.72 4.78 7.15 100 VTH Tỷ USD 4.65 6.88 14.13 1.87 2.12 29.66 Tỷ trọng VTH % 15.71 23.21 47.64 6.32 7.13 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trong lĩnh vực công nghiệp các nhà đầu tư FDI tập trung vào 2 lĩnh vực công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Trong những năm qua, Việt Nam khuyến khích các nhà đầu tư tập trung vào các ngành nghề như sản xuất vật liệu mới, cơ khí chế tạo, sản phẩm và linh kiện điện tử, sản phẩm công nghệ cao,... Đây cũng chính là những dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao. Thêm vào đó đây là nhưng ngành nghề thuộc Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Đặc biệt, đây là 2 ngành nghề có thể tận dụng tối đa được lợi thế so sánh của Việt Nam so với những quốc gia khác về tài nguyên và nhân công. Thứ hai, FDI trong lĩnh vực dịch vụ: Các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng KCX – KCN. Bảng 4: FDI cả nước trong lĩnh vực dịch vụ Chuyên ngành Số DA Tỷ trọng số DA (%) VĐK tỷ USD %VĐK VTH (tỷ USD) %VTH Dịch vụ 1438 56.97 3.33 5.83 1.34 6.68 GTVT-Bưu điện 235 9.31 6.25 10.93 3.47 17.32 Khách sạn-Du lịch 250 9.9 15.41 26.96 4.46 22.26 Tài chính-Ngân hàng 68 2.69 1.05 1.83 0.99 4.94 Văn hóa-Ytế-Giáo dục 294 11.65 1.75 3.06 0.64 3.19 XD Khu đô thị mới 14 0.55 8.22 14.38 2.84 14.17 XD Văn phòng-Căn hộ 189 7.488 19.36 33.87 5.73 28.6 XD hạ tầng KCX-KCN 36 1.426 1.78 3.14 0.56 2.79 Tổng 2524 100 57.15 100 20.03 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu tập trung vào kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng KCX – KCN. Trong năm 2008 tuy vốn đăng ký vẫn tiếp tục tập trung đăng ký vào lĩnh vực công nghiệp nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 38.17% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng so với cùng kỳ năm 2007 chỉ đạt mức 34,43%. Vốn đầu tư có sự chuyển hướng từ công nghiệp sang ngành dịch vụ trong những năm gần đây, đặc biết là đầu tư vào lĩnh vực khách sạn – du lịch và xây dưng văn phòng – căn hộ là do Việt Nam trong những năm qua luôn là điểm đến thu hút khách du lịch đông đảo. Sự ổn định chính trị giúp cho Việt Nam có được môi trường hòa bình, là nơi an toàn cho các khách du lịch; vì thế việc các nhà đầu tư FDI đầu tư vào khách sạn – du lịch là điều tất nhiên. Mặt khác trong 10 năm qua Việt Nam, đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội , TP Hồ Chí Minh luôn là những thành phố có giá thuê văn phòng vào bậc cao trên thế giới, chỉ xếp sau Thượng Hải, Trung Quốc. Mà đây là những thành phố thu hút lượng vốn FDI nhiều nhất ở Việt Nam. Mặt khác tại các thành phố lớn luôn có lượng dân cư đông, các dịch vụ nhà ở luôn ở tình trạng cung không đủ cầu. Vì thế các nhà đầu tư FDI đầu tư vào lĩnh vực xây dựng văn phòng và căn hộ nhằm để đáp ứng các nhu cầu trên. Thứ ba, FDI trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp: Luật ĐTNN dành nhiều ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông-Lâm-ngư, nhưng do nhiều nguyên nhân, kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực nông-Lâm-ngư cũng thấp so với nhu cầu. Lượng vốn đăng ký chỉ đạt 4,79 tỷ USD với 976 dự án, quá thấp so với 2 lĩnh vực kể trên. Có thể kể ra hai lý do chính dẫn đến tình trạng trên: Một là, lợi nhuận là điều quan tâm chính của các nhà đầu tư FDI nhưng khi đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thì lợi nhuận thu được của họ không cao so với 2 ngành dịch vụ và công nghiệp – xây dựng. Hai là, đầu tư vào lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thành công hay không phụ thuộc vào rất nhiều vào thời tiết, điều nay đem lại một rủi ro cao cho các nhà đầu tư. 2.2 Cơ cấu ĐTNN phân theo vùng lãnh thổ: Bảng 5: Cơ cấu FDI cả nước phân theo vùng kinh tế (tính đến thời điểm 31/12/2008) Địa phương Số dự án Vốn đăng ký (tỷ USD) Vốn thực hiện (tỷ USD) TP Hồ Chí Minh 2834 26.26 9.36 Bà Rịa-Vũng Tàu 161 15.55 5.24 Hà Nội 1308 17.54 7.02 Đồng Nai 960 13.52 6.4 Ninh Thuận 19 9.96 0.84 Bình Dương 1720 9.62 3.94 Hà Tĩnh 11 7.92 2.71 Thanh Hóa 35 6.96 0.45 Phú Yên 40 6.32 1.43 Quảng Ngãi 16 3.59 0.57 Tổng 7104 117.24 37.96 Tỷ lệ so với cả nước ( % ) 72.46 78.28 72.98 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Qua 20 năm hoạt động tại Việt Nam, các nhà ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước. Tính đến thời điểm 19/12/2008, ĐTNN đã có mặt trên 64 tỉnh thành, thành phổ cả nước với 9803 dự án. Trong đó dẫn đầu vẫn là các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội. Đây là những thành phố lớn của cả nước với cơ sở hạ tầng hiện đại, dân trí cao và nguồn lao động dồi dào. Chính vì thế, đây là nhữn đại bàn trọng điểm, có lợi thế, đã góp phần là động lực, lôi kéo phát triển nền kinh tế xã hội của cả nước nói chung và các vùng lân cận nói riêng. Một điều nữa cần được biết, đó là cơ cấu địa bàn tiếp nhận đầu tư cũng đã có những thay đổi rõ rệt trong phạm vi cả nước. Nếu như trước đây các nhà ĐTNN chủ yếu tập trung tại vùng kinh tế phía bắc và phía nam thì nay đã lan rộng ra khắp các tỉnh thành. Có thể dẫn chứng qua việc xuất hiện của một số tỉnh thuộc khu vực miền Trung như Hà Tĩnh, Quảng Ngãi đã nằm trong số 10 địa phương có số vốn đăng ký cao nhất cả nước.Việc này một mặt thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa tại các địa phương, cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Mặt khác sẽ nâng cao trình độ phát triển của nhiều địa phương, rút ngắn khoảng cách với các trung tâm lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. 2.3. Cơ cấu ĐTNN phân theo hình thức đầu tư: Tính đến hết tháng 12/2008, hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 77.26% về số dự án; hình thức liên doanh chiếm 18.59% về số dự án ; tiếp theo là hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với 2.32% số dự án,còn lại là công ty cổ phần, hợp đồng BOT,BT,BTO và công ty mẹ con. Đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài có xu hướng gia tăng nhanh chóng về số dự án, tuy nhiên, do dự án quy mô nhỏ và vừa chiếm đa số nên mặc dự chiếm đa số về số dự án nhưng về quy mô vốn đăng ký của các dự án đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài không cao hơn nhiều so với hình thức liên doanh. Sự thay đổi này có thể thấy rõ từ năm 1998 cho đến năm 2008 Bảng 6: So sánh hình thức FDI cả nước giữa năm 1998 và 2008 (tính đến thời điểm 31/12/2008) Đơn vị: % Hình thức đầu tư Số dự án Vốn đầu tư 1998 2008 1998 2008 100% vốn nước ngoài 71.62 77.26 45.60 58.49 Liên doanh 24.72 18.59 42.53 34.44 Hợp đồng hợp tác KD 3.53 2.32 8.79 3.08 Công ty cổ phần - 1.73 - 2.76 Hợp đồng BOT,BT,BTO 0.12 0.09 3.07 1.17 Công ty Mẹ - Con - 0.01 - 0.07 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư- Tổng hợp của sinh viên Trong 2 năm 1998 và 2008 ta thấy loại hình 100% vốn nước ngoài có tăng mạnh. Số dự án và vốn đầu tư đều tăng mạnh. từ 71.62% lên tới 77,26% số dự án; từ 45.6% lên tới 58.49% tổng vốn đầu tư FDI cả nước. Việc gia tăng hình thức 100% vốn nước ngoài này một mặt thể hiện sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài về môi trường đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên sự gia tăng hình thức này sẽ là bất lợi với Việt Nam chúng ta do không có điều kiện học hỏi được những kinh nghiệm trong quá trình quản lý và làm việc từ các công ty nước ngoài. Trong khi đó hình thức liên doanh đã giảm đi do 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất là do các nhà đầu tư FDI sau nhiều năm hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã có kinh nghiệm vì thế họ thấy họ đủ tự tin để có thể tự mình quản lý và tiến hành đầu tư tại Việt Nam. Lý do thứ hai là ở một số nước phát triển thì họ cũng nêu ra nhược điểm ở các doanh nghiệp Việt Nam là chưa đủ khả năng và trình độ để tiến hành liên doanh khi bên Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu của họ, vì thể hình thức này đang có xu hướng giảm đi. Ngoài ra trong khoảng 10 năm từ năm 1998 – 2008 thì đã xuất hiện một số hình thức đầu tư mới như công ty cổ phần, công ty mẹ con. Đây là các hình thức khá mới mẻ từ Việt Nam và các nước có số dự án FDI theo hình thức công ty cổ phần chủ yếu là các nước Châu Á như Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản,... 2.4. Cơ cấu ĐTNN phân theo đối tác đầu tư: Trong 20 năm qua đã có 81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký trên 83 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, các nước Châu Á chiếm 69%, trong đó khối ASEAN chiếm 19% tổng vốn đăng ký. Các nước châu Âu chiếm 24%, trong đó EU chiếm 10%. Các nước Châu Mỹ chiếm 5%, riêng Hoa Kỳ chiếm 3,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả số vốn đầu tư từ các chi nhánh tại nước thứ 3 của các nhà đầu tư Ho a Kỳ thì vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ đạt con số trên 5.5 tỷ USD, đứng vị trí thứ 9 trong tổng số 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam, ví dụ Tập đoàn Intel không đầu tư trực tiếp từ Mỹ vào Việt Nam mà thông qua chi nhánh tại Hồng Kông. Trong các vị trí đứng đầu về đối tác đầu tư tại Việt Nam chủ yếu là các nước trong khu vực Châu Á. Đây là những nước không dồi dào về mặt tài nguyên, mặt khác do giá nhân công ở những nước này cao vì thế đầu tư tại Việt Nam trong các ngành công nghiệp và dịch vụ để tận dụng nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú và chi phí nhân công rẻ ở nước ta. II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 1988 – 2008 : 1.Vài nét về quan hệ kinh tế Việt Nam và Nhật Bản : Ngày 21/9 năm 1973 Việt Nam và Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao đánh dấu sự tiếp nối các quan hệ giao lưu vốn có từ lâu đời giữa 2 nước. Từ những thế kỷ trước, nhiều thương gia Nhật Bản đã đến buôn bán và kinh doanh ở Việt Nam. Phố Hiến ở miền Bắc và Hội An ở miền trung là những địa danh ghi đậm dấu ấm các mối quan hệ giao lưu đó. Sau khi Việt Nam hoàn toàn thống nhất, mối quan hệ giữa hai nước có cơ hội phát triển toàn diện cả về ngoại giao, chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác. Mối quan hệ về kinh tế giữa 2 nước Việt Nam và Nhật Bản chủ yếu là trao đổi thương mại và viện trợ, đầu tư. 1.1.Về lĩnh vực trao đổi thương mại : Năm 1976 Nhật Bản là bạn hàng lớn thứ 2 của Việt Nam sau Liên Xô, Việt Nam đã xuất sang Nhật khối lượng hàng hóa trị giá 44,5 triệu USD, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực 2. Thời kỳ từ năm 1979 – 1982 do vấn đề Campuchia và bầu không khí chiến tranh không thuận lợi ở Đông Nam Á, thương mại giữa hai nước giảm từ 267,5 triệu USD năm 1978 xuống còn 128 triệu USD năm 1982. Trong thời kỳ này Việt Nam nhập khẩu tư Nhật Bản lớn hơn xuất khẩu trở lại. Các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản lớn hơn xuất khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu lương thực, nhiên liệu, vải, khoáng sản, sản phẩm công nghiệp nhe, sản phẩm hóa học và kim loại. Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản lương thực, thực phẩm, nguyên liệu (gỗ,cao su), nhiên liệu khoáng sản, hàng hóa đã chế biến. Từ năm 1983 đến năm 1986 thương mại giữa 2 nước Việt Nam và Nhật Bản đã phát triển trở lại. Năm 1986 thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản tăng lên 272,1 triệu USD. Đặc biệt là khi Liên Xô tan rã, Nhật Bản trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay tổng kim ngạch buôn bán hai chiều có giá trị tăng lên liên tục giữa các năm. Năm 1990 tổng kim ngạch buôn bán hai chiều trị giá 809 triệu USD, năm 1991 là 871 triệu USD. Đến năm 1995 đạt 2,6 tỷ. Trong thời gian này, hàng hóa Việt Nam chủ yếu xuất nguyên liệu thô, lương thực, thực phẩm, khoáng sản và dầu thô là mặt hàng Nhật Bản mua chủ yếu. Phía Nhật xuất sang Việt Nam chủ yếu là ô tô, xe máy, máy dệt và máy xây dựng. Sau khi Việt Nam trở thành một thành viên chính thức của tổ chức WTO thì quan hệ Việt Nam và Nhật Bản đã được cải thiện về mọi mặt, đặc biệt là về mặt kinh tế.Các công ty, tập đoàn của Nhật Bản, những nguồn vốn đầu tư từ Nhật Bản vào Việt Nam đã tăng lên rất nhiều. Ngày càng có những hợp động hợp tác kinh doanh, liên doanh giữa các công ty, tập đoàn bên Nhật Bản với các doanh nghiệp ở Việt Nam. 1.2. Về viện trợ: Trước 1975 mối quan hệ viện trợ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã tồn tại. Nhật Bản đã chính thức viện trợ cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau khi Việt Nam thống nhất, tổng số tiền viện trợ của Nhật Bản trong hai 2 năm 1975 – 1976 là 15 triệu USD. Để tăng cường thúc đẩy buôn bán với lãi suất thấp thoogn qua các cơ quan hợp tác quốc tế của Nhật Bản, Nhật Bản đã hứa cung cấp cho Việt Nam một khoản viện trợ không hoàn lại là 16 tỷ yên trong vòng 4 năm và các khoản cho vay khoảng 20 tỷ yên. Việc Nhật Bản quyết định trì hoãn kế hoạch tài trợ 14 tỷ yên ( trong đó có 4 tỷ yên viện trợ không hoàn lại và cho vay 10 tỷ yên) vào cuối năm 1978 báo hiệu một thời ký xấu đi trong quan hệ giữa 2 nước Thời kỳ từ năm 1979 đến năm 1992 là thời kỳ Nhật Bản thực hiện chủ trương “đông cứng” tài trợ kinh tế nhưng không đình chỉ các cuộc tiếp xúc ngoại giao và viện trợ nhân đạo được thể hiện Nhật Bản tiếp tục viện trợ cho Việt Nam một khoản trị giá 130000 USD dưới hình thức viện trợ nhân đạo, sử dụng mua hàng của Nhật Bản như mua xe tải, ô tô điện, máy ủi và các loại hàng hóa khác cần thiết cho việc xây dựng lại nền kinh tế Việt Nam và cho phép một cách không chính thức các công ty của Nhật Bản buôn bán với Việt Nam. Tới đầu những nă m1990 cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, nền kinh tế Việt Nam từng bước thoát khỏi khủng hoảng và quan hệ ngoại giao của Việt Nam với nhiều quốc gia phương Tây và các tổ chức quốc tế được bình thường hóa. Vào năm 1992 chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam với tổng số 281,2 triệu USD, đưa nước này lên đến vị trí số 1 trong số của quốc gia tài trợ cho Việt Nam. Từ năm 1992 đến nay nguồn vốn Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam đã tăng lên.Năm 1993 là 598,9 triệu USD. Sau năm 1995, nguồn FDi của Nhật Bản đổ vào Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng với sự có mặt của các nhà sản xuất Nhật Bản lớn. Đồng Yên lên giá thúc đẩy các công ty này chuyển dịch việc sản xuất của mình ra nước ngoài và cải thiện cơ sở hạ tầng với mở rộng nguồn chảy ODA và FDI vào Việt Nam. Đây được xem như là làn song đầu tư thứ nhất của Nhật Bản vào Việt Nam. Năm 1996,việc mất giá của đồng Yên và sự đình trệ của nền kinh tế Nhật Bản đã làm các dự án quy mô lớn tụt lùi, thay vào đó là việc triển khai các dự án đầu tư quy mô nhỏ.Khoản vốn viện trợ tăng lên giữa các năm cho đến năm 1999 đạt tới 1120 triệu USD.Nhưng đến năm 2000 đã giảm xuống còn 864 triệu USD. Tuy nhiên ngay sau đấy đã tăng lên liên tục cho các năm tiếp sau. Đến nay Nhật Bản trở thành nhà tài trợ số một cho Việt Nam. Như vậy, thương mại và viện trợ là hai lĩnh vực đi tiên phong trong mối quan hệ kinh tế và là tiền đề để phát triển đầu tư trực tiếp của Nhật bản vào Việt Nam 2. Thực trạng FDI của Nhật Bản tại Việt Nam Tính đến thời điểm 19/12/2008 Nhật Bản đã có 1048 dự án FDI tại Việt Nam với số VĐK đạt 17,184 tỷ USD, trong đó số VTH là 5,22 tỷ USD đưa Nhật Bản trở thành quốc gia đứng thứ ba về số VĐK và đứng thứ nhất về số VTH. 2.1 Quy mô vốn và dự án FDI Nhật Bản thời kỳ 1988 – 2008 : Bảng 7: FDI của Nhật Bản từ năm 1991 - 2008 (tính đến thời điểm 31/12/2008) đơn vị : triệu USD Giai đoạn 1988-1990 1991-1995 1996-2000 2001-2005 2006-2008 VĐK của Nhật 10.8 1367.1 1313.4 2624 11869.54 VTH của Nhật 8.98 1191.71 923.12 1963 531.4 Tổng VTH cả nước 512.3 7113.4 13446 13992 23634 VTH của Nhật/ Tổng VTH cả nước (%) 1.75 16.75 6.96 14.03 2.25 VTH/VĐK của Nhật (%) 83.15 87.17 70.28 74.81 4.5 Số DA 7 111 192 352 443 Quy mô VTH bình quân 1 DA FDI Nhật 1.28 10.74 4.81 5.58 1.2 Quy mô VTH bình quân 1 DA FDI cả nước 2.4 5.2 7.8 3.56 20.18 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên 2.1.1.Quy mô vốn FDI Nhật Bản : được chia làm 5 giai đoạn như sau Giai đoạn đầu từ năm 1988 – 1990 : đây là giai đoạn thăm dò thị trường của các nhà đầu tư Nhật Bản. Số dự án cũng như VĐK thời kỳ này là khá thấp. Việt Nam ban hành luật Đầu tư nước ngoài vào tháng 12/1987 vì thế vào thời điểm này bộ luật còn nhiều hạn chế và sơ hở. Chính vì thế môi trường đầu tư ở Việt Nam ở giai đoạn này là không được tốt và còn nhiều rủi ro. Bên cạnh đó, những khó khăn về mặt chính trị đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút vốn FDI vào Việt Nam: vấn đề Campuchia, vấn đề Mỹ thực hiện lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Do đó lượng vốn FDI nói chung và Nhật Bản nói riêng vào Việt Nam thời kỳ này thấp là điều dễ hiểu. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào Việt Nam chủ yếu quan tâm tới các dự án dễ thu hồi vốn như khai thác tài nguyên thiên nhiện, dịch vụ. Giai đoạn thứ hai từ năm 1991 – 1995. Đây là giai đoạn tăng khối lượng vốn đầu tư, được coi là làn sóng FDI đầu tiên vào Việt Nam. Đây là thời kỳ đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Nhật Bản, đồng thời đánh dấu sự kiện lần đầu tiên Việt Nam trở thành một trong mười nước nhận ODA song phương lớn nhất của Nhật Bản. Lượng vốn đăng ký của Nhật Bản trong thời kỳ này tăng mạnh đạt 1367,1 triệu USD, trong khi đó lượng vốn thực hiện đạt 16,75% tổng vốn thực hiện cả nước. Như vậy so với thời kỳ trước thì đây là một sự bùng nổ về vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. Đợt bùng nổ này có được do 2 nguyên nhân chính sau: Một là, Việt Nam đã đạt được nhiều thành công trong vấn đề quan hệ đối ngoại với các nước khác. Đặc biệt đáng chú ý là việc Mỹ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam (tháng 2 năm 1994) và việc Việt Nam gia nhập ASEAN vào tháng 7 năm 1995. Hai sự kiện này đã đưa Việt Nam bước vào quá trình quốc tế hóa nền kinh tế, hội nhập với thế giới và khu vực. Hai là, Việt Nam đã cải thiện được môi trường đầu tư nói chung ở Việt Nam. Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, với hai kế hoạch 5 năm từ năm 1986-1995, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt trong giai đoạn 1991-1995, cấp độ tăng GDP bình quân qua các năm là 8,2%, trong năm 1995 đạt tới 9,5%. Nông nghiệp hàng năm tăng 4.5%, công nghiệp 13,5%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20%. Sản lượng lương thực tăng nhanh từ 21,5 triệu tấn (năm 1990) lớn 27,5 triệu tấn (năm 1995). Ba là, Nhật Bản thay đổi chính sách kinh tế đối ngoại của mình, hướng vào các nước Châu Á và Đông nam Á. Chính sách của Nhật Bản thay đổi là do xu hướng của nền kinh tế thế giới và bối cảnh của thế giới chi phối. Giai đoạn này là giai đoạn quốc tế hóa đời sông kinh tế,buộc các nước phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới, mở rộng thị trường trong nước và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài Giai đoạn thứ ba từ năm 1996 – 2000 : Trong giai đoạn này Châu Á gặp một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Lượng vốn FDI của Nhật trong thời gian này cũng bắt đầu có xu hướng giảm tuy nhiên Nhật Bản vẫn là một trong những quốc gia có lượng vốn đăng ký lớn tại Việt Nam với 923.12 triệu USD. Mặt khác tuy VĐK có giảm so với thời kỳ trước tuy nhiên tỷ lệ VTH/VĐK của FDI Nhật Bản vẫn ở mức chấp nhận được với 70,28%. Tuy nhiên cần nhìn nhận một điều, sự suy giảm mạnh mẽ của các nhà đầu tư Nhật Bản cho thấy họ rất nhạy cảm với môi trường đầu tư và chưa thực sự tin tưởng vào thị trường Việt Nam. Mặc dù Thái Lan và Indonexia là hai nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nhưng sự suy giảm vốn FDI Nhật Bản ở hai thị trường này vẫn nhỏ hơn so với ở Việt Nam. Sang năm 2000, FDI Nhật Bản vào Việt Nam có vẻ khả quan hơn với VĐK là 110,43 triệu USD, ngăn chặn đà thụt lùi về VĐK. Mức độ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đã dần tăng lên, mở ra một bược khởi đầu trở lại của tiến trình đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Giai đoạn thứ tư từ năm 2001 – 2005 : đây là giai đoạn phục hồi dòng FDI Nhật Bản. Trong thời kỳ này,tỷ lệ VTH/VĐK của FDI Nhật cũng như tỷ lệ VTH của FDI Nhật so với VTH của cả nước đều đã tăng lên. Tuy nhiên tỷ trọng VTH của Nhật/VĐK lại không đều ở các năm. Năm 2001 đạt cao nhất là 86,03% trong khi các năm khác chỉ dao đọng từ 70,81% đến 75,23%. Vào năm 2003 và 2004, với Sáng kiến chung Việt – Nhật và Hiệp định về Bảo hộ đầu tư Việt – Nhật có hiệu lực, đầu tư của Nhật đã có dấu hiệu phục hồi với VTH năm 2004 đạt 669,72 triệu USD, gấp đôi năm 2003. Đây cũng là kết quả của những cố gắng quản cáo hình ảnh Việt Nam và các hoạt động XTĐT đem lại. Giai đoạn từ năm 2006 – 2008 : là giai đoạn bùng nổ dòng vốn FDI Nhật Bản, được coi là làn sóng FDI thứ hai của Nhật Bản vào Việt Nam. Đây là thời kỳ có số VĐK tăng cao kỷ lục với hơn 11 tỷ USD. Việc bùng nổ này là kết quả tất yếu của Việt Nam trong quá trình gia nhập nền kinh tế quốc tế với thành quả là trở thành một thành viên của tổ chức WTO. Tuy nhiên tỷ lệ VTH/VĐK của Nhật Bản cũng như VTH của Nhật /VTH FDI cả nước lại giảm mạnh. Đây có thể coi là kết quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm qua, nó đã làm cho các nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc giải ngân dòng vốn của họ, buộc phải hoãn lại các dự án đầu tư để tránh bị thua lỗ. 2.1.2. Quy mô dự án FDI Nhật Bản: Các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu đầu tư tại Việt Nam vào các dự án có có quy mô vừa và nhỏ. Bên cạnh đó. quy mô VTH bình quân 1 dự án FDI Nhật Bản thường nhỏ hơn so với mức trung bình. Giai đoạn đầu là giai đoạn thăm dò thị trường vì thế trong giai đoạn đầu tiên quy mô dự án FDI Nhật Bản chỉ đạt 1,28 triệu USD. Tuy nhiên bước vào giai đoạn bùng nổ vốn đầu tư từ năm 1991 – 1995 thì quy mô VTH bình quân dự án FDI Nhật cao hơn so với mức trung bình, điều này cũng xảy ra với thời kỳ từ năm 2001 – 2005. Tuy nhiên vào 2 thời kỳ còn lại quy mô dự án FDI Nhật tại Việt Nam đều nhỏ hơn so với quy mô VTH dự án của FDI cả nước. Đặc biệt là vào thời kỳ từ năm 2006 – 2008 , quy mô VTH dự án FDI Nhật nhỏ hơn rất nhiều so với cả nước. Các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu đầu tư tại Việt Nam với các dự án quy mô vừa và nhỏ là do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, các dự án quy mô vừa và nhỏ sẽ có độ an toà._.n cao, ít rủi ro và phù hợp với tính cách thận trọng của các nhà đầu tư Nhật Bản. Thứ hai, cơ sở hạ tâng của Việt Nam còn lạc hậu, trình độ quản lý, tay nghề công nhân còn thấp do đó Việt Nam chưa đủ điều kiện để tiếp nhận các dự án đầu tư có qui mô lớn của Nhật Bản, thường là các dự án có công nghệ cao hiện đại. 2.2 Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản tại Việt Nam: 2.2.1 Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản phân theo ngành tại Việt Nam: Bảng 8: Cơ cấu FDI Nhật Bản phân theo ngành tại Việt Nam (tính đến thời điểm 31/12//2008) Đơn vị Công nghiệp Nông – Lâm - Ngư nghiệp Dịch vụ Tổng Số dự án DA 686 67 295 1048 Tỷ trọng số DA % 65.46 6.39 28.15 100 Vốn đăng ký Tỷ USD 14.71 0.19 2.27 17.17 Tỷ trọng VĐK % 85.61 1.13 13.26 100 Vốn thực hiện Tỷ USD 4.4 0.11 0.71 5.22 Tỷ trọng VTH % 84.01 2.02 13.97 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Nhật Bản là một nước công nghiệp phát triển hàng đầu trên thế giới, Tuy nhiên Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, trong khi đó có lợi thế về vốn và công nghệ hiện đại. Vì thế lĩnh vực mà các nhà đầu tư Nhật Bản thường ưa thích là các lĩnh vực về công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng. Nhìn vào bảng, ta thấy Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tiếp đến là ngành dịch vụ.Nhật Bản là một nước công nghiệp phát triển hàng đầu trên thế giới, Tuy nhiên Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, trong khi đó có lợi thế về vốn và công nghệ hiện đại. Mặt khác Việt Nam là nơi có nguồn tài nguyên dồi dào, thêm vào đó chi phí nhân công lại rẻ mạt. Nhật Bản vì lý do này nên sẽ chủ yếu đầu tư vào những ngành tận dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam. Ngành công nghiệp do đó đương nhiên sẽ là nơi tập trung chủ yếu của FDI Nhật Bản. Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản tại Việt Nam thực tế có sự thay đổi về lĩnh vực theo thời gian. Giai đoạn đầu Nhật Bản tập trung nhiều đến các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên dịch vụ, chiếm đến hơn 60% tổng FDI của Nhật vào Việt Nam. Nhật Bản chủ trọng vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tại những nước kém phát triển để phục vụ cho hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Giai đoạn từ năm 1991 – 2000 cơ cấu FDI Nhật Bản theo ngành có nhiều sự thay đổi. Ngành công nghiệp luôn dẫn đầu về số dự án, VĐK cũng như VTH. Việc Việt Nam ban hành các chính sách ưu đãi theo hướng phát triển sản xuất vào xuất khảu, cùng với việc cơ sở hạ tầng được cải thiện, trình độ lao động nâng cao nên các nhà đầu tư Nhật Bản đã đưa ngành công nghiệp làm mũi nhọn hàng đầu của họ. Giai đoạn thứ ba từ năm 2001 – 2005 Nhật Bản vẫn chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 259 dự án và 1,8 tỷ USD VTH. Trong quá trình này Nhật Bản có nhu cầu chuyển giao các cơ sở sản xuất và kỹ thuật hiện đại cơ khí hóa. Mặt khác đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp tại Việt Nam nói riêng và các nước Asean nói chung đã đem lại những hiệu quả tích cực trong việc giải quyết vấn đề thiếu lao động ở Nhật Bản từ sau giai đoạn ".hát triển thần kỳ". Sau lĩnh vực công nghiệp, Nhật Bản dành sự quan tâm cho lĩnh vực dịch vụ và nông – lâm – ngư nghiệp. Giai đoạn cuối cùng từ năm 2006 – 2008 tuy ngành công nghiệp vẫn đứng đầu và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đăng ký cũng như vốn thực hiện nhưng số dự án FDI Nhật Bản đang có xu hướng chuyển sang lĩnh vực dịch vụ. 2.2.1.1. FDI Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp: Bảng 9: Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp Chuyên ngành Số DA VĐK (tỷ USD) Tỷ trọng VĐK (%) VTH (tỷ USD) Tỷ trọng VTH (%) VTH/ VĐK CN dầu khí 5 6.29 42.82 1.28 29.16 20.35 CN nặng 440 6.24 42.48 2.23 50.8 35.74 CN nhẹ 187 0.96 6.53 0.21 4.78 21.88 CN thực phẩm 25 0.23 1.56 0.11 2.5 47.83 Xây dựng 29 0.97 6.61 0.56 12.76 57.73 Tổng 686 14.69 100 4.39 100 - Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Trong lĩnh vực công nghiệp, ngành công nghiệp nặng dẫn đầu về số dự án và vốn thực hiện. Tuy nhiên nếu xét về số vốn đăng ký thì ngành CN dầu khí dẫn đầu với số VĐK đạt 6,29 tỷ USD. Trong đó phải kể đến dự án công ty lọc hóa dầu Nghi Sơn có tổng VĐK gần 6,2 tỷ USD trong năm 2008. Như vậy có thể thấy phần lớn các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung chủ yếu vào lĩnh vực CN nặng. Đây là lĩnh vực yêu cầu nguồn lực lớn, các thiết bị và kỹ năng quản lý tiên tiến, hiện đại. Nhật Bản là một nước có trình độ công nghệ hiện đại, cái họ thiếu ở đây là nguồn lực lao động. Bên cạnh đó Việt Nam chúng ta lại có nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động thấp. Vì thế khi sang Việt Nam đầu tư, các doanh nghiệp FDI Nhật Bản chú trọng vào lĩnh vực CN nặng để tận dụng lợi thế so sánh về nguồn lực của Việt Nam Mặc dù lĩnh vực công nghiệp thực phẩm và xây dựng chiếm số VĐK cũng như VTH khá thấp chỉ ở mức từ 1,56% đến 12,76% nhưng tỷ lệ VTH/VĐK lại đạt cao, đứng đầu trong ngành công nghiệp. Trong khi đó thấp nhất lại là ngành CN dầu khí, cao hơn là CN nhẹ và CN nặng. Trong năm 2008, mặc dù dự án của công ty lọc hóa dầu Nghi Sơn có VĐK lên tới 6,2 tỷ USD tuy nhiên VTH chỉ đạt 200 triệu USD, điều này là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á đã làm cho tiến độ thực hiện dự án chậm lại. 2.2.1.2. FDI Nhật Bản trong lĩnh vực dịch vụ: Bảng 10: Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực dịch vụ (tính đến thời điểm 31/12/2008) Chuyên ngành Số DA VĐK (triệu USD) Tỷ trọng VĐK (%) VTH (triệu USD) Tỷ trọng VTH (%) VTH/ VĐK Dịch vụ khác 203 264.4 11.45 27.96 3.92 10.57 GTVT-Bưu điện 29 501.8 22.03 179.56 25.17 35.78 Khách sạn-Du lịch 13 126.08 5.73 83.71 11.73 66.4 Tài chính-Ngân hàng 5 138 6.2 71.4 10.02 51.74 Văn hóa-Y tế-Giáo dục 28 129.62 5.73 48.89 6.85 37.4 XD hạ tầng KCN-KCX 2 141.34 6.17 27.64 3.87 19.55 XD khu đô thị mới 1 100 4.4 0.45 0.06 0.45 XD văn phòng-căn hộ 14 876.87 38.3 273.81 38.38 31.23 Tổng 295 2278.15 100 713.44 100 - Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã có sự thay đổi so với những năm trước. Nếu như trước đây các dự án FDI Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực GTVT – Bưu điện và dịch vụ khác thì đến thời điểm này lĩnh vực mà các nhà đầu tư Nhật Bản ưa thích lại là lĩnh vực xây dựng văn phòng căn hộ. Ngành GTVT – Bưu điện chỉ đứng thứ 2 về tổng VĐK. Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng Việt Nam có giá thuê 1 m2 văn phòng quá cao. Vì thế, nắm bắt được nhu cầu vì thuê văn phòng, nhà ở ngày càng cao các nhà đầu tư Nhật Bản đã có sự chuyện hướng sang lĩnh vực này. Bên cạnh đó, lĩnh vực khách sạn du lịch là lĩnh vực có tỷ lệ VTH/VĐK cao nhất. Đây là lĩnh vực đang khá hấp dẫn các nhà đầu tư trong thời gian gần đây do Việt Nam giờ đây đang trở thành một nơi du lịch hấp dẫn với du khách nước ngoài do chi phí sinh hoạt thấp,cảnh quan đẹp và an ninh tốt. Có thể nhận thấy là trong lĩnh vực dịch vụ, về VTH cũng như tỷ lệ VTH/VĐK thì đứng đầu là các lĩnh vực bất động sản. 2.2.1.3 FDI Nhật Bản trong lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp: Bảng 11: Cơ cấu FDI Nhật Bản trong lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp Chuyên ngành Số DA VĐK (triệu USD) Tỷ trọng VĐK (%) VTH (triệu USD) Tỷ trọng VTH (%) VTH/ VĐK Nông – Lâm 55 154.54 79.58 73.08 69.82 47.3 Thủy sản 12 39.66 20.42 31.59 30.18 79.65 Tổng 67 194.2 100 104.67 100 - Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp thì ngành chiếm ưu thế là ngành nông – lâm nghiệp. Đây là ngành có số dự án,VĐK,VTH cao hơn so với ngành thủy sản. Tuy nhiên về tỷ lệ VTH/VĐK thì ngành thủy sản lại cao hơn với tỷ lệ 79,65%. Ngành thủy sản mặc dù có nhiều lợi thế và tiềm năng phát triển tại Việt Nam, nhưng số DA,VĐK và VTH thâp hơn và đang có xu hướng giảm là do đây là một lĩnh vực nhạy cảm của hai nước, đựac biệt là sau sự vụ kiến bán phá giá tôm của Việt Nam làm cho các nhà đầu tư Nhật Bản đắn đo khi đầu tư vào lĩnh vực này. Tuy nhiên nếu xét một cách tổng thể thì ngành nông lâm ngư nghiệp có số dự án, VĐK và VTH thấp hơn rất nhiều so với 2 ngành trên. Mặt khác trong lĩnh vực này thì tỷ lệ VTH/VĐK lại cao khi đạt tới 79,65%, ngành nông lâm thấp hơn đạt 47,3% nhưng nếu so với 2 ngành kể trên thì đây là những tỷ lệ khá cao. Như vậy, cơ cấu đầu tư FDI Nhật Bản tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp ( đặc biệt là CN nặng). tiêp đến là lĩnh vực dịch vụ và cuối cùng là nông – lâm – ngư nghiệp. Giải thích vẫn đề này có thể là do bởi các nguyên nhân sau: Thứ nhất, Nhật Bản là một nước có nguồn tài nguyên khan hiếm do vậy mà việc đi tìm các nguồn tài nguyên để phục vụ cho việc sản xuất là một nhu cầu tất yếu. Việt Nam là một nước có nguồn tài nguyên phong phú, tuy nhiên bản thân Việt Nam ta lại không có đủ điều kiện để khai thác một cách hiệu quả các nguồn tài nguyên. Mặt khác chi phí nhân công của Việt Nam lại rẻ mạt nếu so với các nước trong khu vực. Vì thế để tận dụng các nhà đầu tư Nhật Bản chủ yếu tập trung vào những ngành công nghiệp, dịch vụ. Thứ hai, rủi ro gặp phải khi đầu tư trong lĩnh vực Nông – Lâm – Ngư nghiệp là khá lớn khi phải phụ thuộc vào thiên nhiên, mặt khác lợi nhuận thu được từ lĩnh vực này không cao. Vì thế các doanh nghiệp FDI Nhật Bản không ưa thích lĩnh vực này. Vì thế FDI của Nhật Bản vào lĩnh vực này đã thấp nay lại đang có xu hướng giảm đi và chưa có dấu hiệu hồi phục. Bên cạnh đó, trong cơ cấu theo ngành của FDI Nhật Bản có sự bất hợp lý. Bảng 12: So sánh cơ cấu FDI của cả nước, FDI của Nhật Bản và FDI của khu vực Asean Đơn vị : % FDI của cả nước FDI của Nhật Bản FDI của khu vực Asean Công nghiệp 58,62 85,61 38,45 Nông – Lâm – Ngư nghiệp 3,2 1,13 7,71 Dịch vụ 38,18 13,26 53,85 Tổng 100 100 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Ta thấy, FDI cả nước cũng có sự tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp trong đó FDI của khu vực Asean lại ưa thích lĩnh vực dịch vụ hơn. Tuy nhiên ở hai nguồn FDI này sự chênh lệch giữa ngành công nghiệp, dịch vụ và nông lâm ngư nghiệp không lớn như FDI của Nhật Bản. Đây được coi là một cơ cấu đầu tư bất hợp lý và không cân đối trong FDI Nhật Bản.Khi xét tỷ lệ giữa 3 ngành Công nghiệp, Nông – lâm – ngư nghiệp và Dịch vụ thì với FDI của cả nước có tỷ lệ tương ứng lần lượt là 18 : 1 : 11, FDI của khu vực Asean là 5 : 1 :7. Trong khi đó với FDI Nhật Bản thì tỷ lệ này lại mất cân đối là 76 : 1 : 12. Như vậy trong 3 nguồn FDI thì Nhật Bản có sự mất cân đối nhất trong 3 lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và nông – lâm – ngu nghiệp.. Tóm lại, cơ cấu FDI Nhật Bản tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, và so với tình trạng FDI nói chung thì FDI Nhật Bản trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp còn thấp. Trong những năm qua, theo báo cáo của Bộ NN và PTNN thì FDI Nhật Bản đang ngày càng có xu hướng giảm sút vào lĩnh vực nông nghiệp. 2.2.2. Cơ cấu FDI Nhật Bản theo vùng lãnh thổ: Tính đến thời điểm 19/12/2008 thì FDI Nhật Bản đã xuất hiện khắp 3 miền Bắc Trung Nam của cả nước. Bảng 13: Cơ cấu FDI Nhật Bản phân theo vùng kinh tế Vùng Số DA VĐK (triệu USD) Tỷ trọng VĐK (%) VTH (triệu USD) Tỷ trọng VTH (%) VTH/ VĐK (%) Miền núi và trung du Bắc Bộ 17 241.46 1.41 23.4 0.6 9.7 Đồng bằng sông Hồng 435 5141.04 30.1 1559.7 39.6 30.34 Duyên hải Bắc Trung Bộ 15 6861.5 40.15 354.6 9.01 5.2 Duyên hải Nam Trung Bộ 38 211.3 1.24 60.9 1.55 28.8 Khu vực Tây Nguyên 18 33.5 0.2 19.7 0.5 58.8 Đông Nam Bộ 506 4477.05 26.2 1883.4 47.84 42.1 Đồng bằng Sông Cửu Long 19 122.5 0.7 35.5 0.9 28.9 Tổng 1048 17088.35 100 3937.2 100 - Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Nhìn bảng ta có thể thấy trong 7 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước thì vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ đứng đầu về số dự án và VTH FDI Nhật Bản, trong đó đứng đầu về VĐK lại là vùng duyên hải Bắc Trung Bộ. Trong vùng đồng bằng sông Hồng đứng đầu là thành phố Hà Nội với tổng VĐK đạt 2.46 tỷ USD và 245 dự án. Trong vùng Đông Nam Bộ đứng đầu là TP Hồ Chí Minh với 1.98 tỷ USD và 300 dự án. Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ tuy chỉ có 15 dự án nhưng số VĐK ở đây lại cao,tuy nhiên xét về mặt bằng chung thì vùng duyên hải Bắc Trung Bộ không phải là vùng kinh tế hấp dẫn với các nhà đầu tư FDI Nhật Bản vì trong 6,86 tỷ USD VĐK thì riêng thành phố Thanh Hóa đã chiếm 6,83 tỷ USD với dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn. Vùng kinh tế hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư Nhật Bản là vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộm không những đứng đầu về VĐK mà tỷ trọng VTH cũng chiếm một tỷ trọng cao lần lượt là 39.6% và 47.84%. Ngoài 3 vùng kinh tế kể trên thì các vùng kinh tế khác chỉ có lượng VĐK và VTH khá thấp. Điều này cho thấy sự mất cân đối trong cơ cấu vùng của nguồn FDI Nhật Bản. Thấp nhất là khu vực Tây Nguyên, khu vực thích hợp cho các lĩnh vực nông – lâm nghiệp, lĩnh vực mà các nhà FDI Nhật Bản không ưa thích vì thế vốn FDI Nhật Bản thu hút được ở khu vực này là thấp nhất. trong 7 vùng kinh tế trọng điểm. Bảng 14: So sánh cơ cấu FDI của Nhật Bản theo 3 miền trong 3 giai đoạn từ năm 1996 - 2008 Địa phương Giai đoạn Miền Bắc Miền Trung Miền Nam Tổng Số DA 1996-00 74 7 111 192 2001-05 160 10 182 352 2006-08 196 15 232 443 Tỷ trọng VĐK (%) 1996-00 42.8 2.3 54.9 100 2001-05 56.2 12.2 31.6 100 2006-08 51.3 16.4 32.3 100 Tỷ trọng VTH (%) 1996-00 47.84 2.3 49.86 100 2001-05 47.02 12.48 40.5 100 2006-08 48.3 14.3 37.4 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Vốn FDI Nhật Bản cũng đã sự chuyển biến khi ngày càng có nhiều tỉnh thành trong cả nước có sự góp mặt của FDI Nhật Bản. Sự mở rộng địa bàn đầu tư của FDI Nhật Bản được thể hiện trong năm 1996 chỉ có 24 tình thành có vốn FDI Nhật Bản thì cho đến năm 2008 đã có 42 tình thành có sự góp mặt của FDI Nhật Bản với số dự án qua các thời kỳ cũng đã có sự tăng lên. Các tỉnh miền Bắc và miền Nam với các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,.. vẫn chiếm ưu thế so với các khu vực miền Trung. Nhưng có thể thấy qua các năm thì các tỉnh miền Trung đã có số dự án, VĐK và VTH đang trong chiều hướng tăng lên.Điều này chứng tỏ nhiều thành phố đã có sự phát triển kinh tế, có chính sách thu hút FDI đúng đắn, lôi cuốn được các nhà đầu tư Nhật Bản. Điều này hoàn toàn có lợi cho Việt Nam trong việc giảm khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa các vùng miền trong cả nước. Tóm lại, cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ của FDI Nhật Bản tập trung chủ yếu vào những địa phương có cơ sở hạ tầng hiện đại, kinh tế phát triển như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội,... Trong khi đó các tỉnh miền núi và miền Trung dù đã có những dự án FDI Nhật Bản nhưng chưa cao so với cả nước. Tuy nhiên qua thời gian thì vốn FDI cũng đã có những thay đổi theo vùng lãnh thổ theo hướng mở rộng địa bàn đầu tư ra cả nước và từng bước phù hợp với cơ cấu đầu tư, với nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế trong những năm qua tại Việt Nam. 2.2.3. Cơ cấu vốn đầu tư theo hình thức đầu tư: Nhật Bản tham gia đầu tư vào Việt Nam dưới 3 hình thức: xí nghiệp liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thời gian đầu tiên, hình thức liên doanh được Nhật Bản ưa chuộng nhất bởi vì các nhà đầu tư Nhật Bản muốn phía Việt Nam cùng chia sẻ rủi ro với họ nếu có. Liên doanh với một đối tác bản địa, các nhà đầu tư sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn trong kinh doanh vì họ có một người bạn đồng hành được nhà nước bảo trợ( hầu hết bên đối tác liên doanh của Việt Nam là các doanh nghiệp của nhà nước). Hình thức này cũng cho phép Nhật Bản có khả năng thuận lợi để mở rộng phạm vi và lĩnh vực kinh doanh khi họ đã hiểu rõ về thị trường Việt Nam. Hình thức liên doanh giữa Nhật Bản và Việt Nam chủ yếu liên quan tới các dự án chế biến nông – lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ, dịch vụ, sản xuất xe máy … Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm một phần khá nhỏ trong tổng vốn đầu tư của Nhật Bản và chủ yếu tập trung trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí. Hình thức 100% vốn nước ngoài : đây là hình thức đã tăng lên đáng kể từ khi Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Hình thức đầu tư này ngày càng được các nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm. Các doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiểm một phần nhỏ trong tổng FDI của Nhật, mặc dù hình thức này xuất hiện một thời gian tương đối dài, nhưng cho đến nay nó vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Bảng 15: FDI của Nhật Bản phân theo hình thức đầu tư (tính đến thời điểm 31/12/2008) Hình thức đầu tư Số DA VĐK (triệu USD) Tỷ trọng VĐK (%) VTH (triệu USD) Tỷ trọng VTH (%) VTH/ VĐK 100% vốn nước ngoài 814 6.87 39.98 1.61 30.84 23.43 Liên doanh 200 8.94 52.04 2.08 39.85 23.27 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 20 0.45 2.62 1.38 26.44 306.67 Công ty cổ phần 14 0.92 5.36 0.15 2.87 16.3 Tổng số 1048 17.18 100 5.22 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Nhìn chung theo xu hướng đầu tư theo hợp tác liên doanh va hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày càng giảm và các nhà đầu tư Nhật Bản chuộng hình thức 100% vốn nước ngoài hơn. Đây cũng có thể coi là xu thế chung của hoạt động FDI tại Việt Nam Tính tới thời điểm 31/12/2008: Về số dự án FDI Nhật Bản thì đứng đầu là hình thức 100% vốn nước ngoài, tiếp theo là hình thức liên doanh. Hình thức liên doanh có tổng VĐK lớn nhất là 8,9 tỷ USD và 2,078 tỷ USD VTH. Hình thức 100% vốn nước ngoài có VĐK là hơn 6,8 tỷ USD và vốn thực hiện là 1,6 tỷ USD. Tuy nhiên tỷ lệ VTH/VĐK hai hình thức này là tương đương nhau, lớn nhất là hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh với 306,67%. Đây là hình thức xuất hiện tại Việt Nam tương đối dài. Hình thức này ngày càng có xu hướng giảm trong thời gian tới. Bảng 16: So sánh cơ cấu FDI giữa ba nước Đài Loan, Malaysia và Nhật Bản ( tính đến ngày 31/12/2008 ) Đơn vị: % Hình thức đầu tư FDI Đài Loan FDI cả nước FDI Nhật Bản Tỷ trọng VĐK Tỷ trọng VTH Tỷ trọng VĐK Tỷ trọng VTH Tỷ trọng VĐK Tỷ trọng VTH 100% vốn nước ngoài 84.61 60.94 58.49 59.4 39.98 30.84 Liên doanh 13.4 33.8 34.44 29.2 52.04 39.85 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 0.07 0.08 3.08 7.96 2.62 26.44 Công ty cổ phần 1.92 5.18 2.76 2.38 5.36 2.87 Hợp đồng BOT,BT,BTO - - 1.17 0.9 - - Công ty mẹ con - - 0.07 0.16 - - Tổng 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Nhìn chung chúng ta có thể thấy được hình thức mà các nhà đầu tư FDI ưa thích là 2 hình thức liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Đối với Đài Loan, nước đứng đầu về số vốn FDI đăng ký tại Việt Nam thì hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm tới 84.61% tổng VĐK FDI Đài Loan, cao hơn so với mặt bằng FDI cả nước là 58,49%. Nhật Bản tuy hình thức 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 40,6% tổng số vốn đầu tư so với hình thức liên doanh là 52,2 nhưng trong những năm gần đây Nhật Bản đã ưa thích đầu tư theo hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài hơn do họ có thể tự chủ được trong quản lý, trong hoạt động đầu tư. Trong giai đoạn từ năm 1988 đến nay, ta có thể thấy được sự thay đổi trong hình thức đầu tư của các nhà đầu tư FDI Nhật Bản. Nếu như trong các thời kỳ đầu hình thức đầu tư được ưa chuộng hơn cả là hình thức liên doanh, điều này cũng dễ hiểu đối với một nước mới đi đầu tư sang một nước khác nhằm làm giảm bớt rủi ro khi đầu tư mới. Tuy nhiên qua thời gian các nhà đầu tư Nhật Bản đã chuyển hướng sang hình thức đầu tư khác, đó là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Ta có thể thấy được điều này qua bảng so sánh giữa 2 năm 1998 và năm 2008. Bảng 17: Hình thức vốn đầu tư FDI Nhật Bản trong 2 năm 1998 – 2008 Đơn vị: % Hình thức đầu tư Số dự án Vốn đầu tư 1998 2008 1998 2008 100% vốn nước ngoài 40,84 77,34 24,79 40,6 Liên doanh 53,44 18,61 63,56 52,2 Hợp đồng hợp tác kinh doanh 5,73 2,32 11,64 3,12 Công ty cổ phần - 1,74 - 4,08 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Nếu như trong năm 1998 hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 40,84% số dự án và 24,79% vốn đầu tư FDI của Nhật Bản thì đến năm 2008 số dự án và tổng vốn đầu tư của hình thức này đã tăng lên gần gấp 2 lần là 77,34% và 40,6%. Điều này được coi là một điểm khởi sắc đáng ghi nhận cho thành phần có vốn đầu tư nước ngoài. Sự chuyển dần từ đầu tư theo hình thức liên doanh sang hình thức 100% vốn nước ngoài phần nào thể hiện sự tin tưởng của các nhà đầu tư Nhật Bản vào môi trường đầu tư của Việt Nam. Tuy nhiên điều này thể hiện sự muốn tự chủ của các công ty có nguồn vốn FDI Nhật Bản. Mặt khác việc gia tăng hình thức đầu tư theo kiểu 100% vốn nước ngoài làm cho các doanh nghiệp Việt Nam mất đi cơ hội được học hỏi những kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư từ các nhà đầu tư Nhật Bản. Các nhà đầu tư Nhật Bản nhạn thấy Việt Nam là một nước có tình hình kinh tế chính trị ổn định, họ cũng đã có những kinh nghiệm khi đầu tư tại Việt Nam. Vì thế sự tự chủ trong kinh doanh là hợp lý khi mà thực tế đã chỉ ra rằng Việt Nam chưa có khả năng đáp ứng được nhu cầu về chuyền môn cũng như về vốn của các nhà FDI Nhật Bản. Khi chúng ta góp vốn thì sự tham gia của bên Việt Nam có thẻ sẽ làm ảnh hưởng tới việc đầu tư. Điều này dẫn đến sự suy giảm của hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh trong đầu tư của các nhà FDI Nhật Bản. Thêm vào đó là sự xuất hiện của hình thức mới là công ty cổ phần. Đấy là kết quả của xu thế hội nhập ở nước ta hiện nay. 3. Đánh giá chung về FDI của Nhật Bản vào Việt Nam: 3.1.Những hiệu quả đạt được Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình đổi mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986 đã làm cho nền kinh tế thay đổi một cách cơ bản. Những thành tựu đạt được mới là bước đầu, nhưng rất quan trọng, nó sẽ là sự mở đầu tốt đẹp cho một quá trình cải cách và xây dựng đất nước lâu dài để có thể bắt kịp với nền kinh tế chung của khu vực và thế giới. Những khó khăn trong quá trình đổi mới sẽ không thể vượt qua được nếu chỉ dựa vào những nỗ lực của bản thân chính phủ và nhân dân Việt Nam. Nỗ lực của bản thân tất nhiên là nhân tố chính nhưng cũng cần có sự hợp tác và viện trợ quốc tế,FDI của Nhật Bản vào Việt Nam đã đem lại những hiệu quả như sau: 3.1.1. Hiệu quả về kinh tế: 3.1.1.1. Tỷ lệ thực hiện dự án FDI Nhật Bản cao: Điều này được thể hiện qua tỷ lệ giữa VTH/VĐK FDI Nhật Bản cao so với tỷ lệ VTH/VĐK FDI của cả nước.Tính đến cuối năm 2008, tổng VĐK của Nhật đạt 17,18 tỷ USD với VTH đạt 5,2 tỷ USD. Tuy chỉ đứng thứ 3 trong các quốc gia có VĐK FDI lớn nhất tại Việt Nam nhưng nếu xét về số VTH thì Nhật Bản là quốc gia đứng đầu. Các dự án FDI Nhật Bản đều được triển khai với tốc độ nhanh, cao hơn so với các DA của các đối tác khác. Tỷ lệ VTH trong các dự án đầu tư của Nhật Bản hiện đang còn hiệu lực khoảng 65% trong khi mức chung của khối FDI là 51%. Bên cạnh đó, tỷ lệ giải thể FDI Nhật Bản thấp theo dự án và VĐK so với cả nước. Các dự án đầu tư FDI Nhật Bản có tỷ lệ rút giấy phép khoảng hơn 8% tính theo dự án và 4% tính theo VĐK trong khi đó tỷ lệ FDI cả nước lần lượt là khoảng hơn 18% tính theo dự án và 7,8% tính theo VĐK. Bảng 18: So sánh tỷ lệ rút giấy phép giữa FDI của cả nước và FDI của Nhật Bản từ năm 1991 -2008 (tính đến thời điểm 31/12/2008) Giai đoạn FDI của cả nước FDI của Nhật Bản Tỷ lệ rút giấy phép theo VĐK (%) Tỷ lệ rút giấy phép theo DA (%) Tỷ lệ rút giấy phép theo VĐK (%) Tỷ lệ rút giấy phép theo DA (%) 1991 – 95 5.8 17.14 3.2 7.2 1996 – 00 9.7 23.2 5.4 8.8 2001 – 05 7.4 12.7 4.3 7.9 2006 – 08 8.3 21.7 4.8 9.48 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Tổng hợp của sinh viên Các dự án của Nhật Bản có tỷ lệ giải thể thấp theo dự án và VĐK do một số lý do chính như sau. Một là, các nhà đầu tư Nhật Bản là những người hết sức thận trọng và cẩn thận khi ra quyết định đầu tư. Họ thường tính toán kỹ lưỡng trước khi tiến hành đầu tư và họ có thế mạnh về tài chính. Hai là, những nhà đầu tư Nhật Bản là những người giàu kinh nghiệm trong hoạt động đầu tư nước ngoài, có trình độ khoa học – kỹ thuật cũng như trình độ quản lý tiên tiến. Ba là, hầu hết các dự án FDI Nhật Bản tại Việt Nam đều có quy mô nhỏ vì thế tỷ lệ giải thể dự án FDI Nhật Bản về VĐK thấp cũng là đều dễ hiểu. 3.1.1.2.FDI Nhật Bản bổ sung cho sự phát triển của đất nước: FDI Nhật Bản góp phần đưa đất nước thoát khỏi những cuộc khủng hoảng đi vào ổn định và phát triển kinh tế, đóng góp đáng kể vào sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Nó cung cấp cho thị trường một lượng hàng hóa lớn, nhất là hàng hóa thay thế nhập khẩu như xi măng, sắt thép, điện tử, điện dân dụng, hàng tiêu dùng,... góp phần bình ổn cung cầu và giá cả thị trường. FDI Nhật Bản chủ yếu đầu tư vào khu công nghiệp, dầu khí, dịch vụ và khách sạn góp phần nâng cao tỷ trọng của các khu vực này trong nền kinh tế. Đặc biệt nhà có nguồn FDI Nhật Bản mà nhiều ngành mũi nhọn của nền kinh tế đã xuất hiện như khai thác dầu khí, sản xuất và lắp ráp ô tô xe máy,... Thêm nữa, FDI Nhật Bản còn đóng góp vào tổng vốn đầu tư toàn xã hội theo hướng tăng dần hàng năm được thể hiện thông qua tỷ trọng vốn FDI Nhật Bản trong tổng VĐT toàn xã hội. Giai đoạn 1991 – 1995 1996 – 2000 2001 – 2005 2006 – 2008 Tỷ trọng FDI của Nhật Bản trong VĐTXH (%) 4.9 1.5 2.2 3.5 Trong thời kỳ 1996 – 2000 tỷ trọng FDI Nhật Bản giảm đi so với thời kỳ trước là do cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á đã ảnh hưởng đến việc hoạt động đầu tư của các nhà FDI Nhật Bản. Tuy nhiên vào những thời kỳ tiếp theo tỷ trọng FDI Nhật Bản trong VĐTXH đều tăng so với thời ký trước đó. Có được điều này là nhờ các chính sách được cải thiện của Việt Nam thời gian qua đã khiến cho các nhà đầu tư Nhật Bản an tâm hơn khi thực hiện các dự án, góp phần củng cố lòng tin của họ và giúp bổ sung nguồn vốn cho việc phát triển kinh tế. 3.1.1.3. FDI Nhật Bản góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cả nước: Đóng góp của các doanh nghiệp FDI Nhật Bản vào sự tăng trưởng của GDP của cả nước là điều không thể phủ nhận. Từ năm 1991 – 2008 tốc độ tăng trưởng của cả nước luôn đạt ở mức cao và cao dần theo từng thời kỳ. Bảng 19: Đóng góp FDI của Nhật Bản trong tăng trưởng kinh tế Giai đoạn 1991 – 1995 1996 – 2000 2001 – 2005 2006 – 2008 VTH của FDI Nhật Bản ( triệu USD ) 1191.71 923.12 1963 531.4 Tốc độ tăng trường GDP 8.18 6.9 7.5 7.7 Tỷ lệ đóng góp của FDI Nhật Bản trong GDP (%) 1.4 0.8 1.3 2.1 Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Như vậy có thể thấy, tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước có xu hướng tăng cùng chiều với tỷ lệ đóng góp của FDI Nhật Bản trong GDP và tỷ lệ đóng góp của FDI Nhật Bản trong GDP ngày càng tăng. Điều này thể hiện một điều rằng các dự án đầu tư của Nhật Bản có một tỷ lệ đóng góp cho GDP khá quan trọng trong tổng số các dự án đến từ 84 quốc gia và vùng lãnh thổ có vốn FDI tại Việt Nam. 3.1.1.4. FDI Nhật Bản góp phần chuyển giao công nghệ tại Việt Nam: Trước hết cần biết rằng, hầu hết các dự án đầu tư FDI Nhật Bản tại Việt Nam đều là các dự án chuyển giao công nghệ. Việc chuyển giao công nghệ vừa mang lại lợi ích cho phía doanh nghiệp FDI khi họ có thể tiết kiệm được chi phí trong việc mua máy móc thiết bị mới ở các nước kém phát triển hơn, bên cạnh đó sẽ không phải bỏ đi những thiết bị tuy đã lạc hậu ở nước mình nhưng lại hữu ích mà ở những nước khác. Mặt khác việc chuyển giao công nghệ góp phần nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói riêng tại Việt Nam. Thông qua hoạt động CGCN, FDI Nhật Bản dã tạo những hiệu ứng tích cực thúc đẩy việc nghiên cứu và áp dụng những thành tựu KHCN trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam. Nhiều công nghệm mới từ Nhật Bản đã được chuyển giao thông qua các dự án FDI, tạo bước ngoặt trong việc tạo sức cạnh tranh trong các doanh nghiệp tiếp nhận. Việc CGCN mới, hiện đại tại Việt Nam không chỉ có lợi cho hoạt động kinh doanh của chính DN chuyển giao mà còn có tác dụng phổ biến những công nghệ này cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế khác, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng những công nghệ mới trong những DN và tại các cơ sở nghiên cức khác của Việt Nam. Như đã đề cập ở trên, các DA FDI Nhật Bản chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp như công nghiệp nặng. công nghiệp nhẹ. Vì thế phần lớn các dự án chuyển giao công nghệ cũng chủ yếu tập trung vào các ngành như công nghiệp ô tô xe máy, công nghiệp điện tử. Có một số ít vào lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ. Lĩnh vực điện tử được các nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm ngay từ đầu với việc xuất hiện các TNCs và các hãng điện tử lớn của Nhật Bản như Sony, JVC, Toshiba,... Việc xuất hiện này đã thúc đẩy nhan chóng quá trình CGCN ở Việt Nam. Những dây chuyền công nghệ lắp ráp tiên tiến trên thế giới đã đước các TNCs chuyển giao vào Việt Nam. Việc này đã giúp chúng ta đã tạo ra được những sản phẩm mới, hiện đại hơn so với trước đây. Mặt khác thay vì phải nhập khẩu một số loại hàng hóa như trước kia, thì với việc CGCN này chúng ta đã có thể tự sản xuất trong nước. 3.1.1.5 Doanh thu và kim ngạch xuất khẩu của FDI Nhật Bản cao: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của FDI Nhật Bản tăng nhanh và đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩ về dầu khí, hàng điện tử, máy tính và linh kiện. Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia của Nhật Bản, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Hiện nay số DN Nhật Bản tham gia lĩnh vực xuất khẩu chiếm 78%, trong đó mức xuất khẩu của các doanh nghiệp Nhật Bản chiếm 35% tổng mức xuất khẩu (kể cả dầu thô) của khối ĐTNN và đến năm 2008 đạt 26.3%. Tuy nhiên có một thực tế rằng số công ty có tỷ lệ nội địa hóa chưa cao, thấp hơn so với tỷ lệ ở khu vực Asean. 3.1.1.6. FDI Nhật Bản góp phần chuyển dị._.chương trình, hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư. Thứ hai, tạo mọi điều kiện để triển khai DA một cách nhanh nhất, miễn giảm tiền thuê đất, có ưu đãi về thuế thu nhập DN, đồng thời nhanh chóng hoàn thuế khi DN tạm ứng đất, có ưu đãi về thuế thu nhập DN, đồng thời nhanh chóng hoàn thuế khi DN tạm ứng trước tiền thuế GTGT để tạo điều kiện khi DN có nguồn vốn để hoạt động kinh doanh, sản xất Ngoài ra cần có những hướng phát triển các ngành công nghiệp quan trọng trong thời gian tới bao gồm ngành công nghiệp điện và điện tử, ngành công nghiệp ô tô và xe máy. 1.5.1 Phát triển ngành công nghiệp điện và điện tử: Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngành công nghiệp điện và điện tử đựoc coi là một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất. Quan điểm này đựoc củng cố từ những kinh nghiệm từ những nước láng giềng đã phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, cung cấp linh kiện cho các nhà lắp ráp và là ngành không thể thiếu trong quá trình phát triển ngành công nghiệp. Tuy nhiên ngành công nghiệp điện và điện tử tại Việt Nam còn rất nhiều yếu kém và hiện nay việc tìm ra một cách phát triển ngành công nghiệp là cực kỳ quan trọng. 1.5.2. Phát triển ngành công nghiệp ô tô và xe máy: Đây là một ngành thế mạnh của Nhật Bản và thực tế đây là ngành mà FDI Nhật Bản đầu tư tập trung nhất tại Việt Nam. Hơn nữa, ngành công nghiệp sản xuất ô tô đựoc công nghận là ngành công nghiệp then chốt ở các nước phát triển nhất, nơi có các ngành công nghiệp phụ trợ lớn và góp phần làm tăng GDP và tạo ra nhiều việc làm. Ở Việt Nam ngành công nghiệp ô tô là ngành công nghiệp có trỉên vọng với chinh sách mở rộng đầu tư hiện tại và htu hút các ngành công nghiệp phụ trợ có vốn FDI. Việt Nam và Nhật Bản nên liên kết hợp tác để sản xuất bộ phận quan trọng nhất của ô tô xe máy là động cơ. Để thúc đấy 3 ngành trên thì chính phủ Việt Nam nên thực hiện một số giải pháp sau: Một là, điều tra khảo sát thực tế tình hình sản xuất các phụ tùng linh kiện chủ yếu. Hai là, có chính sách phát triển côgn nghiệp ổn định, chính sách thuế và nhập khẩu rõ ràng. Ba là, chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ và mở rộng tỷ lệ nội địa hoá. Các biện pháp phát triển sản xuất, kế hoạch tập trung sản xuất các phụ tùng linh kiện nhập khẩu với số lượng lớn và CGCN nhằm xúc tiến việc nội địa hoá các phụ tùng linh kiện này. Bốn là, sửa đổi thuế nhập khẩu cho phụ tùng xe máy, xe ô tô. Chính phủ Việt Nam xem xét lại việc phân nhóm phụ tùng linh kiện và thuế suất nhập khẩu trên danh mục thuế XNK hiện hành. Đồng thời thực hiện các biện pháp ưu đãi cho XK. 1.6. Đẩy mạnh hoạt động vận động, XTĐT và quảng bá hình ảnh Việt Nam đến các nhà đầu tư Nhật Bản: Thứ nhất, chính phủ cần đẩy mạnh hơn các hoạt động xúc tiến đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Tiến hành xây dựng hệ thống các Trung tâm XTĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại các khu vực: xây dựng hệ thống các văn phòng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm trách vai trò như một trung tâm xúc tiến đầu tư tại các vùng kinh tế trong cả nước. Đồng thời các trung tâm xúc tiến tại các khu vực phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhật và luôn được chia sẽ giữa các văn phòng trung tâm và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tín thống nhất và liên kết giữa các địa phương.\ Tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động XTĐT. Cùng với việc tổ chức các cuộc hổi thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiện cứu và xác định qua kinh nghiệm về vấn để đầu tư tại NHật Bản vừa qua, cần tăng cường vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các DA cụ thể. Bên cạnh đó, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, hoặc lĩnh vực tại các địa bàn có thế mạnh với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành. Thứ hai, tăng cưòng quảng bá hình ảnh Việt Nam tới Nhật Bản.Tiếp tục triển khai kết quả vận động đầu tư tại Việt Nam trong khuôn khổ chuyến thăm hữu nghị chính thức Nhật Bản của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức giao lưu văn hoá giữa hai bên Việt Nam và Nhật Bản. Thứ ba, duy trì cơ chế dối thoại thuờng xuyên giữa lãnh đạo chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư Nhật Bản nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang hoạt động, bảo đảm các dự án hoạt động hiệu quả, đúng tiến độ. 1.7. Sử dụng hợp lý nguồn vốn ODA của Nhật Bản để hỗ trợ và tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút FDI Nhật Bản: ODA của Nhật Bản được ưu tiên tập trung vào năm lĩnh vực tại Việt Nam bao gồm: phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn, y tế và giáo dục. Cơ sở hạ tầng có hiện đại, trình độ lao động cao thì mới có thể thu hút nhiều hơn vốn FDI Nhật Bản nói riêng và FDI nói chung. Trong những năm qua Nhật Bản luôn đứng đầu trong danh sách các nhà tài trợ cho Việt Nam. Nhưng thời gian qua đã có những tình trạng tham nhũng của các can bộ ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà tài trợ cho Việt Nam. Để tiếp tục thu hút ODA Nhật Bản nhiều hơn cần: Thứ nhất, tạo điều kiện để cho các DN của Nhật Bản tham gia vào các dự án ODA do Chính phủ tài trợ là một biện pháp giúp họ có được những thuận lợi do được hỗ trợ về tài chính từ phía chính phủ khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam, đồng thời đó là cơ hội để chúng ta mở rộng các quan hệ với các cơ quan, tổ chức KT-XH. Thứ hai, cần chú trọng công tác xây dựng và ban hành văn bản pháp luật theo hướng tạo sự thông thoáng và thuận lợi hơn cho việc tiếp nhận và giải ngân các nguồn vốn ODA. 2. Một số kiến nghị để tăng cường thu hút FDI nói chung: Trọng tâm của công tác quản lý của nhà nước về đầu tư nước ngoài trong những năm tới chính là việc tháo gỡ các vướng mắc, hỗ trợ các dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư trong những năm trước đó đi vào triển khai và giải ngân. Dưới đây là một số các công việc mà Chính phủ cần lưu ý: 2.1. Về hệ thống pháp luật và chính sách Thứ nhất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình thu hút và sử dụng FDI đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Trên cơ sở chiến lược dài hạn, phải xây dựng được các chương trình, kế hoạch đồng bộ, ăn khớp, cụ thể hóa cho từng giai đoạn. Trong đó xác định rõ những ngành, lĩnh vực, địa bàn trọng điểm cần tập trung khuyến khích thu hút FDI và hệ thống giải pháp phù hợp nhằm tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của các ngành, các cấp, tạo ra sức bật mới trong thu hút và sử dụng FDI. Trước mắt phải rà soát để bổ sung, hoàn thiện danh mục dự án quốc gia, của các bộ, ngành và địa phương kểu gọi nguồn FDI trong những năm sắp tới. Bên cạnh đó cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc xem xét, điều chỉnh cho thích hợp trên cơ sở tuân thủ các quy định của quy hoạch. Thứ hai, về việc ban hành các văn bản pháp luật : tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, đặc biệt là hoạt động FDI ở Việt Nam nhằm đảm bảo thực sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ rang nhất quán, minh bạch và ổn định và có tính cạnh tranh cao. Hơn nữa phải tính tới các yếu tố phù hợp với thông lệ quốc tế và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tê, kể cá các cam kết với WTO. Thứ ba, đổi mới và hoàn thiện các chính sách có liên quan đến hoạt động FDI, nâng cao tính cạnh tranh của môi trường kinh doanh. Nhanh chóng thực hiện việc giảm chi phí đầu tư. Chính sách đất đai phải hướng đến việc tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng và minh bạch cho doanh nghiệp FDI, nhất là việc triển khai dự án sản xuất kinh doanh. Thực hiện cải cách hệ thống thuế hiện hành có liên quan đến FDI tại Việt Nam theo hướng tạo ra sự thông thoáng cho nhà đầu tư. Chính sách, pháp luật thuế hiện hành được sửa đổi bổ sung theo hướng giảm mức điều tiết nhưng mở rộng đối tượng chịu thuế,đảm bảo nghĩa vụ thuế công bằng, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và người nước ngoài; thực hiện đúng các cam kết hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế và lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu theo CEPT / AFTA, WTO… Thứ tư, điều chỉnh mức chịu thuế thu nhập cao hơn cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để khuyến khích người Việt Nam đảm nhận các vị trí cao, vị trí quản lý và chuyên môn cao. Đó chính là cơ hội tốt để nâng cao trình độ cho người lao động, để có thể tự đảm trách công việc có hiệu quả khi chuyển giao các doanh nghiệp cón vốn ĐTNN dưới mọi hình thức và thành phần kinh tế. Thứ năm, đổi mới tổ chức, hoạt động và nâng cao năng lực của các cơ quan thực thi pháp luật. Trước hết cần phải bổ sung, hoàn thiện hệ thống trọng tài, tòa án kinh tế đáp ứng yêu cầu làm trọng tài, phán xử kịp thời các tranh chấp, vi phạm trong các quan hệ kinh tế, tránh tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế. Đảm bảo cho mọi công dân, người lao động, nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận một cách dễ dàng với các cơ quan tư pháp nói chung và với hệ thống tòa án nói riêng, đặc biệt là các dịch vụ hỗ trợ pháp lý để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiếp cận thông tin pháp luật, nhu cầu được bảo vệ bằng pháp luật đối vơi các cơ quan, tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài, góp phần nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả và vai trò của pháp luật đối với hoạt động FDI. Thứ sáu, thực hiện bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo hộ công nghệ và sở hữu trí tuệ, nhất là nhãn hiệu hàng hóa. Có sự phân công trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan, từng cấp trong hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo về lĩnh vực này cho nhà sản xuất kinh doanh, xây dụng các tổ chức tư vấn về sở hữu trí tuệ. Khuyến khích thành lập các công ty luật, các trung tâm tư vấn về sở hữu trí tuệ, để từ đó có điều kiện phổ biến cũng như giáo dục cho các doanh nghiệp về vấn đề quyền sở hữu trí tuệ. Hơn nữa chính các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp phải có ý thức trong vấn đề này, tránh tình trạng biết mà vân vi phạm. 2.2.Về thủ tục hành chính : Thứ nhất, tiếp tục tập trung hoàn thiện cơ chế liên thông-một cửa ở các cơ quan cấp giấy chứng nhận đầu tư và quản lý đầu tư. Tăng cường năng lực quản lý ĐTNN của các cơ quan chức năng và cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra hoạt động đầu tư; giải quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, thuế, xuất nhập khẩu, hải quan,... Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản lý ĐTNN trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối, thời gian giải quyết hồ sơ đối với nhà đầu tư, đầu mục hồ sơ cấp GCNĐT... nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN, qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam. Thứ hai, thực hiện từng bước minh bạch hoá chính sách, thủ tục đầu tư; công khai hoá các bước của quá trình cấp Giấy chứng nhận đầu tư lên mạng Thứ ba, cải cách thủ tục hành chính thông qua việc đẩy mạnh việc triển khai phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương. Giảm dần sự tham gia trực tiếp của cơ quan quản lý trung ương vào xử lý các vấn đề cụ thể, mà thay vào đó là nhiệm vụ giám định đầu tư và hậu kiểm được tăng cường, chú trọng vào công tác hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật của các địa phương. Tập trung hướng dẫn, theo dõi thực hiện quy định mới về thủ tục đầu tư, cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một của một đầu mối ở Trung ương và địa phương. Kiên quyết xử lý nghiêm khắc và tiêu cực, vô trách nhiệm của cán bộ có liên quan đến hoạt động đầu tư. Giải quyết kịp thời các vấn đề vướng mắc pháp sinh do thủ tục hành chính gây ra, giúp các doanh nghiệp triển khai dự án thuận lợi; khuyến khích đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất để đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn. 2.3 Về quản lý nhà nước trong hoạt động ĐTNN : - Các Bộ/ ngành/ UBND cấp tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 15/2007/CT-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam. Triển khai ngay các nhiệm vụ được giao tại văn bản số 3237/CP-QHQT ngày 20/5/2008 nhằm thực có hiệu quả túc Chỉ thị nêu trên. - Rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. - Tập trung vào việc thực hiện các hoạt động giải ngân vốn FDI đã được quy định tại Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhằm giảm khoảng cách giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện : Phối hợp hỗ trợ, thúc đẩy nhanh việc giải ngân vốn đăng ký của các dự án đã được cấp GCNĐT, đặc biệt chú trọng công tác thúc đẩy triển khai các dự án quy mô vốn đầu tư lớn được cấp GCNĐT trong năm 2006 và năm 2007 (tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục hành chính, về giải phóng mặt bằng...). Hỗ trợ,giám sát các dự án đã/đang cấp GCNĐT triển khai đúng tiến độ đề ra. - Ban hành chế độ báo cáo thống kê áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài thay thế Thông tư số 01/LB ngày 31/3/1997 để làm căn cứ cho các cơ quan quản lý ĐTNN địa phương và doanh nghiệp thực hiện. Triển khai thực hiện Quyết định số 305/2005/QĐ-TTg ngày 24/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia của các doanh nghiệp ĐTNN. - Phối hợp triển khai tốt việc xây dựng hệ thống quản lý thông tin ĐTNN theo Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ. 2.4 . Về các hoạt động xúc tiến đầu tư - Nghiêm túc triển khai đúng nội dung, tiến độ Chương trình XTĐT quốc gia 2008 ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-BKH ngày 25/4/2008 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong đó, Bộ Tài chính cần xác định và thông báo sớm cho các cơ quan chủ trì phần kinh phí chính thức dành cho Chương trình này. - Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý ĐTNN. - Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư kết hợp các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư- thương mại- du lịch. - Khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch. - Tiếp tục bảo trì, nâng cấp trang thông tin website giới thiệu về ĐTNN (ngoài tiếng Anh bổ sung thêm tiếng Hoa và tiếng Nhật). - Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành triển khai thực hiện chương trình sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản giai đoạn III vè cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam.Tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư với các chuyến viếng thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch. 2.5. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, đào tạo phát triển nguồn nhân lự, cải thiện mối quan hệ giữa người lao động và các công ty nước ngoài Một trong những điều mà Việt Nam thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và Nhật Bản nói riêng là nguồn nhân lực nước ta dồi dào, bên cạnh chi phí nhân công tại Việt Nam thấp hơn hẳn so với các nước trong khu vực như Malaysia, Singapore,.. Vì thế chú trọng công tác đào tạo cán bộ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao nhận thức người lao động là điều cần thiết nhằm thu hút các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam. Thứ nhất, chúng ta cần đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo để, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Tăng cường quản lý nhà nước về đào tạo, dạy nghề, về lao động việc làm và thị trường lao động. Hoàn thiện khung pháp lý, nhất là sửa đổi bộ luật Lao động năm 2010 đảm bảo phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế trong hội nhập; tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động tại doanh nghiệp; đẩy mạnh cải các h hành chính theo hướng minh bạch, công khai, đơn giản, phân cấp mạnh và nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương , thực hiện cơ chế một cửa nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động nhằm nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của người lao động và người sử dụng lao động trong việc chấp hành nghiêm pháp luật lao động. Thứ hai, phát triển và đổi mới cơ bản đào tạo, dạy nghề theo định hướng nhu cầu của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, của các nhà đầu tư nước ngoài và yêu cầu việc làm của người lao động; chuyển từ dạy nghề trình độ thấp sang trình độ cao theo 3 cấp trình độ, nhất là trung cấp nghề, cao đẳng nghề và cao đẳng, đại học kỹ thuật, công nghệ. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo, dạy nghề, đặc biệt coi trọng đào tạo, dạy nghề trong các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và liên kết giữa các cơ sở đào tạo, dạy nghề với doanh nghiệp là chủ yếu; các cơ sở đào tạo, dạy nghề phải xuất phát từ nhu cầu của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, của thị trường lao động để tổ chức đào tạo, dạy nghề cho phù hợp. Đa dạng hóa các ngành nghề đào tạo, trình độ đào tạo, phương thức đào tạo, đảm bảo cơ cấu ngành nghề đào tạo, trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là các ngành nghề mới, kỹ năng mới khi áp dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất của doanh nghiệp nểi chung, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nểi riêng. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo, dạy nghề đảm bảo đào tạo, dạy nghề và cung cấp đủ lao động lành nghề tại chỗ cho các doanh nghiệp, nhất là ở các đô thị lớn, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khắc phục mất cân đối cung – cầu về lao động lành nghề hiện nay, giảm sức ép di chuyển lao động giữa các vùng. Thứ ba, phát triển thị trường lao động đồng đều trên phạm vi cả nước. Hoàn thiện thể chế thị trường lao động theo hướng tiếp cận với chuẩn mực chung của quốc tế về đào tạo, dạy nghề, về lao động, việc làm, phù hợp với các thông lử và cam kết quốc tế của Việt Nam trong hội nhập. Thiết lập hệ thống kết nối giữa các cơ sở đào tạo, dạy nghề với doanh nghiệp, người sử dụng lao động; phát triển hệ thống dự báo cầu về lao động đối với từng ngành, lĩnh vực và địa phương , hệ thống thông tin thị trường lao động để gắn đào tạo, dạy nghề với doanh nghiệp, người sử dụng lao động. Phát triển mạnh hệ thống giao dịch của thị trường lao động áp dụng công nghệ thông tin nối mạng, xây dựng 3 trung tâm giới thiệu việc làm lớn, trọng điểm ở 3 vùng (Bắc, Trung, Nam). Hạn chế tiến tới chấm dứt sự can thiệp không hợp lý của Nhà nước vào thị trường lao động; thực hiện lộ trình thống nhất một mức lương tối thiểu đối với lao động trong các loại hình doanh nghiệp không phân biệt theo thành phần kinh tế và chế độ sở hữu (doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài), làm cơ sở để các bên thỏa thuận về tiền lương phù hợp với quan hệ cung – cầu lao động trên thị trường và khả năng chi trả của doanh nghiệp; nới lỏng các quy định về tuyển dụng lao động đối với doanh nghiệp ĐTNN. Thứ tư, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh, đồng thuận trong các doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động nhằm giảm thiểu tranh chấp lao động và đình công, nhất là trong các doanh nghiệp ĐTNN. Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng giữa các bên trong quan hệ lao động; thúc đẩy cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa thuận giữa các bên về quan hệ lao động, trước hết là về tiền lương, thời giờ làm việc và các điều kiện làm việc khác, theo đúng nguyên tắc thị trường để ký kết hợp đồng lao động cá nhân, thỏa ước lao động tập thể trong doanh nghiệp và ngành. Nghiên cứu hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập. Thứ năm , thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. 2.6. Đa dạng hoá hình thức đầu tư: Việc đa đạng hóa hình thức đầu tư sẽ mở rộng được đối tượng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.Việc đa dạng hóa hình thức đầu tư cần được nghiên cứu, triển khai theo các hướng chính sau: Một là, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư gián tiếp. Cần nghiên cứu, ban hành chính sách cho phép các nhà ĐTNN được phép đầu tư gián tiếp vào Việt Nam thông qua việc cho phép mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam, thành lập các doanh nghiệp cổ phần có vốn ĐTNN và cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được phát hành trái phiếu để huy động vốn ở trong nước và nước ngoài. Theo hướng đó, cần đổi nới lỏng hạn chế về tỷ lệ sở hữu của nhà ĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam lên mức trên 30% như hiện nay và mở rộng lĩnh vực nhà ĐTNN được phép tham gia mua cổ phần của. Trên cơ sở đánh giá kết quả thí điểm việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần cần nghiên cứu cho phép thànhlập các công ty cổ phần có vốn ĐTNN nhằm tạo thêm kênh thú hút vốn ĐTNN, bổ sung thêm cho hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn trước đây. Hai là, cho phép thành lập Công ty hợp danh. Đối với một số lĩnh vực kinh doanh tính chất chuyên môn, nghiệp vụ cao như tư vấn pháp luật, kiểm toán, tư vấn tài chính., công ty hợp danh là hình thức được áp dụng phổ biến trên thế giới. Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp có vốn ĐTNN thuộc các lĩnh vực trên đã được cấp giấy phép đầu tư, tuy nhiên dưới hình thức công ty TNHH. Để góp phần nâng cao chất lượng một số loại dịch vụ thiết yếu, bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng, cần nghiên cứu cho phép thành lập doanh nghiệp hợp danh có vốn ĐTNN (như quy định của Luật Doanh nghiệp) để đưa vào Luật Doanh nghiệp chung. Ba là, cho phép các công ty nước ngoài mở chi nhánh tại Việt Nam. Luật Thương mại đã cho phép thương nhân nước ngoài có đủ điều kiện được thành lập Chi nhánh thương mại theo mục đích, phạm vi và thời hạn quy định trong Giấy phép (như mua, bán hàng hóa, đại diện cho thương nhân, gia công hàng hóa, giám định hàng hóa, đại lý, quảng cáo, giao nhận hàng hóa...); Luật Ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng đã cho phép thành lập Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam… Tuy nhiên, hình thức này chưa có trong Luật Đầu tư nước ngoài. Để mở rộng hình thức thu hút ĐTNN phù hợp với thông lệ quốc tế, nhất là tranh thủ tiềm lực của các công ty xuyên quốc gia, cần nghiên cứu bổ sung các quy định cho phép thành lập chi nhánh của Công ty nước ngoài tại Việt Nam. Bốn là, cho phép thành lập Công ty quản lý vốn (Holding Company). Một số tập đoàn kinh tế lớn đã đầu tư cùng lúc nhiều dự án ĐTNN tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, mỗi doanh nghiệp có vốn ĐTNN có cùng một chủ đầu tư có bộ máy điều hành riêng, hoạt động kinh doanh độc lập. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh, giảm những chi phí không cần thiết..., cần khẩn trương nghiên cứu cho phép các tập đoàn lớn thành lập công ty quản lý vốn, điều phối và hỗ trợ các dự án đầu tư của họ tại Việt Nam. 2.7. Đẩy mạnh quá trình đổi mới phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Nhằm gia tăng sức hút đối với FDI của Nhật Bản nói riêng và FDI trên thế giới nói chung. Chúng ta cần tiếp tục đổi mới, cải cách kinh tế, tạo ra sự phát triển năng động của nền kinh tế. Sự phát triển kinh tế của Việt Nam, nói như ngài đại sứ Nhật Bản Takeshi Nakamura, chính là sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Việc phát triển kinh tế không chỉ tạo ra cơ hội đầu tư mà còn tăng thu nhập mở rộng nhu cầu. Điều này rất có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư nước ngoài nhằm vào sản phẩm phục vụ thị trường Việt Nam. Đổi mới phát triển kinh tế chính là giữ vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả. Phát triển mạnh nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với sự tham gia của các thành phần kinh tế, trong đó một mặt phải củng cố kinh tế quốc dân theo hướng hiệu quả, đồng thời phải phát triển mạnh kinh tế tư nhân dưới nhiều hình thức. Thứ nhất cần dịch chuyển cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phát triển của phân công lao động quốc tế. Một cơ cấu kinh tế mới chỉ nên tập trung phát triển mạnh các ngành và lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Thứ hai là thiết lập một thị trường thông tin công bằng đối với mọi thành viên trong xã hội, đảm bảo quyền thông tin của mọi người dân và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, nhất là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức. Thứ ba là cải cách lại hệ thống giá cả ở Việt Nam, tránh hiện tượng phân biệt mức giá giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời Chính phủ Việt Nam phải hạn chế cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các mắt hàng có hiện tượng bão hoà trên thị trường. Hội nhập quốc tế là vấn đề rất cần thiết khi thực hiện đổi mới phát triển kinh tế. Hội nhập quốc tế chính là tạo ra những mối quan hệ với các nước trên thế giới, tham gia vào các tổ chức quốc tế nhằm tận dụng những nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong các nguồn lực bên ngoài đó có nguồn vốn FDI. Trong những năm đầu của thế kỷ 21 này vấn đề hội nhập cần dược xúc tiến mạnh hơn. Việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN, việc đàm phán tiến tới gia nhập WTO… sẽ là những nhân tố rất quan trọng cho việc gia tăng đầu tư nước ngoài, trong đó có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam.Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, không đổi mới, không hội nhập thì không những không thu hút được FDI mà nền kinh tế cũng khó có thể phát triển. Đất nước sẽ tụt hậu so với thế giới - đó là nguy cơ lớn nhất và cũng là lý do thúc đẩy quá trình hội nhập và mở cửa, qua đó thu hút FDI, biến ngoại lực thành nội lực để phát triển nền kinh tế nước nhà. Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế phải thật quan tâm đến phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt là việc cải tổ hệ thống tài chính, hệ thống ngân hàng, luật tài chính, luật ngân hàng cho phép các ngân hàng hoạt động đúng chức năng của nó, có các điều luật quy định rõ ràng về kinh doanh tiền tệ trên thị trường tiền tệ, làm cho hoạt động tài chính của ta phù hợp với xu hướng chung của khu vực và thế giới. 2.8. Đẩy mạnh cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt nhằm góp phần nâng cao tính cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam: Để thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng X đề ra, trong thời gian tới chúng ta phải nhanh chóng cải thiện cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước. Theo dó ưu tiên các cơ sở hạ tầng kinh tế như: Hệ thống giao thông vận tải, điện nước, viễ thông, thông qua huy động cao độ các nguồn lực tài chính của Nhà nước và tranh thủ khai thác sử dụng nguồn vốn ODA. Muốn vậy, cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất là nâng cao năng lực vận tải và lưu thông: trong thương mại quốc tế , vận tải biển đóng vai trò trung tâm chiếm trên 80 % lượng hàng hoá vận chuyển. Dù rằng, vận tải trong nước phần nhiều là bằng đường bộ nhưng đối với các trường hợp cự li dài thì vận tải biển là chủ yếu. Lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường sắt vẫn còn ít. Về quy chế liên quan đến đầu tư, ngành vận tải là một trong những ngành mà doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chưa được phép tham gia. Cần cải tạo hệ thống cảng biển, nâng cao hiệu quả hoạt động đặc biệt của các cảng như Hải Phòng, Vũng Tàu. Thêm nữa cần tiến hành nâng cấp hệ thống đường bộ cả nước, cải tiến sâu sắc các hoạt động của ngành hàng không Việt Nam, cần hiện đại hóa sân bay Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất nhằm đáp ứng các chuyến bay trong nước và quốc tế, mặt khác đảm bảo độ an toàn cho các chuyến bay, cải thiện hệ thống giao thông đô thị và chú trọng phát triển mạng lưới giao thông ở các vùng nông thôn, vúng sâu vùng xa; cần hợp tác với các nước láng giềng để mở rộng hệ thống giao thông quốc tê, cụ thể mở các tuyến đường sang cá nước Lào, Trung Quốc,... Nhìn chung, chất lượng vận tải của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu vận tải chất lượng cao của các doanh nghiệp Nhật Bản. Do đó, chúng ta cần kích cầu, tăng chất lượng dịch vụ vận tải của các doanh nghiệp xe tải, đường sắt, đường biển trong nước. Việc cho phép doanh nghiệp vận tải 100% vốn nước ngoài tham gia vào thị trường vận tải sẽ góp phần thúc đẩy thị trường đầy tiềm năng này. Thứ hai là cải thiện hạ tầng viễn thông: một vấn đề mà các doanh nghiệp Nhật Bản gặp phải là giá điện thoại quốc tế tại Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. Điều này làm gia tăng chi phí cho các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chunh. Cước điện thoại quốc tế và khu vực đang có xu hướng giảm giá nên Việt Nam cần định giá tương ứng. Do đó, trong thời gian tới, Chính Phủ Việt Nam cần phải tiếp tục giảm giá cước viễn thông quốc tế tới mức trung bình trong khu vực. Mặt khác cần mở rộng mạng lưới internet trên toàn quốc, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm Thứ ba là cải tạo và xây dựng mới các công trình cung cấp điện nước và đảm bảo đủ cho sinh hoạt và sản xuất, đồng thời cũng phải điều chỉnh giá điện nước hợp lý. Nhà nước ta cần xây dựng hiện đại các công trình phục vụ sản xuất, các công trình công cộng và các khu vui chơi giải trí nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí không chỉ cho người dân trong nước mà cả những người nước ngoài. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2221.doc