Thực trang và giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại tỉnh Lào Ca

lời nói đầu Những lợi ích thu được từ thương mại đang ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ngày nay, trên phạm vi khu vực cũng như thế giới trào lưu tự do hóa thương mại và hội nhập giữa các quốc gia đang được phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Trước xu thế thời đại đó, ở nước ta, đang xây dựng và phát triển các cửa khẩu quốc tế, các khu vực kinh tế cửa khẩu nhằm tạo nên các nhân tố hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trang và giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại tỉnh Lào Ca, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đất nước thông qua các hoạt động thương mại và dịch vụ với các quốc gia có đường biên giới chung với Việt Nam. Lào Cai là một trong sáu tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam có đường biên giới chung với Trung Quốc. Trong bối cảnh quan hệ hợp tác và phát triển kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đang ngày càng được cải thiện về chất lượng và tăng cường về quy mô, Lào Cai với tư cách là tỉnh biên giới có hệ thống cửa khẩu quốc gia và quốc tế sẽ có vị thế quan trọng trong chiến lược phát triển các quan hệ kinh tế và thương mại giữa hai quốc gia. Hiện tại Lào Cai còn là tỉnh nghèo, trình độ phát triển kinh tế còn thấp kém so với cả nước. Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sản xuất theo hướng xuất khẩu đang ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nâng cao đời sống dân cư. Để thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, Lào cai không thể chỉ dựa vào tiềm năng sẵn có của địa phương mà cần phải chú trọng đến hướng phát triển các mối quan hệ kinh tế không chỉ với các địa phương trong cả nước, mà còn với cả phía Trung Quốc thông qua các hoạt động thương mại và dịch vụ. Tất cả những vấn đề đó cùng với vấn đề nội tại của hoạt động thương mại trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế kinh tế nói chung và thương mại ở Việt Nam nói riêng đang đặt ra những yêu cầu phát triển mới đối với thương mại tỉnh Lào Cai trong giai đoạn từ nay đến năm 2010. Dự án quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Lào Cai đến năm 2010, nhằm mục tiêu cơ bản là xây dựng các cơ sở kinh tế, các điều kiện tiền đề để thúc đẩy giao lưu hàng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc, giữa Lào Cai với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc và các vùng, các tỉnh khác trong nước, trước hết là các tỉnh phụ cận và vùng kimh tế đồng bằng sông Hồng. Qua đó, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai theo hướng thực hiện nền kinh tế mở dựa trên nền tảng thương mại xây dựng có chiều sâu. Với những nội dung nói chung của quy hoạch phát triển thương mại tỉnh Lào Cai, trong nội dung của chuyên đề thực tập tốt nghiệp, tôi xin có một số ý kiến đóng góp. Nội dung chính của chuyên đề gồm các phần chính: Vai trò của ngành thương mại trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai Thực trạng phát triển ngành thương mại của tỉnh Lào cai Phương hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển thương mại tỉnh Lào Cai Kết luận và kiến nghị Để hoàn thành chuyên đề này, tôi xin cám ơn thầy T.S Lê Huy Đức - Giảng viên Khoa Kế hoạch và Phát triển, Trường Đại học Kinh tế quốc dân cùng với tập thể Ban lãnh đạo, Cán bộ Ban Vùng và Lãnh thổ - Viện Chiến lược phát triển nói chung và T.S Cao Ngọc Lân nói riêng đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình trong quá trình tôi thực tập và hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Với khả năng có hạn và trình độ còn hạn chế tôi rất mong có sự đóng góp ý kiến bổ sung cho chuyên đề này . Hà nội tháng 5/2002 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Diệu Hương Chương I: vai trò của ngành thương mại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai Một số vấn đề về hoạt động thương mại Khái niệm Thương mại, tiếng Anh là Trade, vừa có ý nghĩa là kinh doanh, vừa có ý nghĩa là trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Ngoài ra, tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ nữa là Business hoặc Commerce với nghĩa là buôn bán hàng hoá, kinh doanh hàng hoá hay là mậu dịch. Tiếng Pháp cũng có từ ngữ tương đương Commerce (tương đương với từ Business, Trade của tiếng Anh) là sự buôn bán, mậu dịch hàng hoá, dịch vụ. Tiếng Latinh, thương mại là “Commercium” vừa có ý nghĩa là mua bán hàng hoá vừa có ý nghĩa là hoạt động kinh doanh. Theo từ điển Nga - Việt xuất bản năm 1997 thì thương mại cũng được hiểu là mua bán, kinh doanh hàng hoá. Như vậy, khái niệm thương mại cần được hiểu cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, thương mại là toàn bộ các hoạt động kinh doanh trên thị trường. Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh được hiểu như là các hoạt động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường. Theo nghĩa hẹp, thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá. Nừu hoạt động trao đổi hàng hoá (kinh doanh hàng hoá) vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì người ta gọi đó là ngoại thương (kinh doanh quốc tế). Theo Luật thương mại thì hành vi thương mại bao gồm: Mua bán hàng hoá; Đại diện cho thương nhân; Môi giới thương mại; Uỷ thác mua bán hàng hoá; Đại lý mua bán hàng hoá; Gia công thương mại; Đấu giá hàng hoá; Đấu thầu hàng hoá; Dịch vụ giám định hàng hoá; Khuyến mại; Quảng cáo thương mại; Trưng bày giới thiệu hàng hoá và Hội chợ triển lãm thương mại. Trên thực tế, thương mại có thể được phân theo nhiều tiêu thức khác nhau: Theo phạm vi hoạt động: Có thương mại nội địa (nội thương), thương mại quốc tế (ngoại thương), thương mại khu vực, thương mại thành phố, nông thôn, thương mại nội bộ ngành,... Theo đặc điểm và tính chất của sản phẩm trong quá trình tái sản xuất xã hội: có thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại hàng tư liệu sản xuất, thương mại hàng tiêu dùng,... Theo các khâu của quá trình lưu thông, có thương mại bán buôn, thương mại bán lẻ. Theo mức độ can thiệp của Nhà nước vào quá trình thương mại, có thương mại tự do (hay mậu dịch tự do) và thương mại có sự bảo hộ. Theo kỹ thuật giao dịch, có thương mại truyền thống và thương mại điện tử. Việc xem xét thương mại theo các góc độ như vậy tuy mang tính tương đối nhưng có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong việc hình thành các chính sách và biện pháp thúc đẩy sự phát triển toàn diện, bền vững thương mại. Các vấn đề lý luận về hoạt động thương mại Thị trường và việc làm Thương mại bao gồm các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá và các dịch vụ. Có thể coi dịch vụ lao động như là những hàng hóa và dịch vụ khác được mua bán trên thị trường. Thị trường lao động ở các nước đang phát triển được đặc trưng bởi cơ cấu việc làm ba bậc; bao gồm khu vực thành thị chính thức, khu vực thành thị không chính thức và khu vực nông thôn. Khu vực thành thị chính thức là nơi hầu hết mọi người đều thích làm việc nếu như có khả năng. Khu vực này bao gồm các tổ chức kinh doanh lớn như ngân hàng, công ty bảo hiểm, nhà máy, cửa hàng, khách sạn. Những người lao động luôn chờ đón cơ hội được làm việc ở những cơ sở này, sức hấp dẫn chủ yếu đối với họ là được trả lương cao và cung cấp việc làm ổn định. Ngay sát những cơ sở kinh tế lớn của khu vực thành thị chính thức là những cơ sở nhỏ hơn thuộc khu vực thành thị không chính thức. Những cửa hàng và cơ sở kinh doanh nhỏ có khả năng cạnh tranh lớn với những cơ sở kinh doanh lớn. Khu vực thành thị không chính thức có khả năng cung cấp một khối lượng lớn việc làm nhưng mức tiền công thấp và có khuynh hướng ở trạng thái cân bằng. Đối với các nước đang phát triển, lao động ở khu vực nông thôn thường được làm việc trong phạm vi gia đình và mục đích không phải để lấy tiền công mà để đóng góp phần mình vào sản lượng của gia đình. Tuy vậy, ở khu vực này vẫn tồn tại một thị trường lao động làm thuê, nhất là theo mùa vụ. Những người làm thuê này thường là do gia đình đông người, đất trồng trọt lại thiếu... Mặt khác, cũng do ở nông thôn, các hộ nông dân vẫn duy trì hoạt động trao đổi lao động ở các thời điểm khác nhau trong năm. Do đó, thu nhập của những trường hợp này có thể là đổi công nhưng thường được trả bằng tiền hay hiện vật. ở khu vực nông thôn người nông dân không chỉ làm nghề nông mà còn tham gia vào một số hoạt động phi nông nghiệp khác: buôn bán, dịch vụ, nghề thủ công. Trao đổi hàng hóa trên cơ sở phân công lao động Theo lý thuyết Macxit về thương mại, Các Mác coi thương mại là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, là kết quả tất yếu của phân công lao động xã hội. Phân công lao động buộc các chủ thể của nền sản xuất hàng hoá phải trao đổi sản phẩm với nhau. Trong quá trình thực hiện chức năng cơ bản là lưu thông, thương mại còn thực hiện chức năng tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông nhằm làm cho các sản phẩm thích ứng hơn với nhu cầu thị trường. Sản xuất, phân phối, lưu thông (trao đổi) và tiêu dùng là những khâu hợp thành và nối tiếp nhau của quá trình tái sản xuất xã hội. Sản xuất sáng tạo ra những vật phẩm thích hợp với các nhu cầu tiêu dùng, dù đó là tiêu dùng mang tính chất sản xuất hay tiêu dùng cá nhân. Tiêu dùng đem lại cho sản phẩm một sự hoàn thiện cuối cùng. Sản phẩm sản xuất ra mà không đem tiêu dùng trên thực tế không phải là sản phẩm “Chỉ có trong tiêu dùng - theo Các Mác - thì sản phẩm mới thực sự trở thành sản phẩm ... khác với vật đơn thuần của tự nhiên, sản phẩm chỉ qua tiêu dùng mới thể hiện ra là sản phẩm, mới trở thành sản phẩm”. Nhưng khi sản xuất được tiến hành trong xã hội có sự phân công lao động thì từ sản xuất đến tiêu dùng, sản phẩm xã hội phải qua phân phối và lưu thông. Nói về ý nghĩa của phân phối đối với sản xuất C.Mác viết: “Vì sản xuất phải xuất phát từ một sự phân phối nhất định về các công cụ sản xuất, nên theo ý nghĩa đó ít nhất phân phối cũng có trước sản xuất”. Về sự tác động của lưu thông đối với sản xuất, F.Ăngghen viết “...Hai chức năng đó luôn chế ước lẫn nhau và ảnh hưởng lẫn nhau đến nỗi người ta có thể gọi, hai chức năng đó là trục hoành và trục tung của đường cong kinh tế”. Thực hiện giá trị hàng hóa Theo lý thuyết Macxit về thương mại, lợi ích của thương mại đem lại được C.Mác và Ăngghen xem xét ở cả góc độ trực tiếp và gián tiếp. Lợi ích gián tiếp thể hiện ở chỗ, thương mại góp phần phá vỡ tính tự nhiên, tự cung tự cấp của nền kinh tế tiền tư bản, thúc đẩy phân công lao động xã hội và do vậy thương mại có vai trò to lớn trong việc khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế. Lợi ích trực tiếp là, sự ra đời của tư bản thương nghiệp góp phần giảm chi phí lưu thông xã hội. Mác cho rằng lợi nhuận của tư bản thương nghiệp được hình thành trên cơ sở giá trị lao động thặng dư do tư bản công nghiệp nhượng lại cho tư bản thương nghiệp và một phần từ giá trị thặng dư mà tư bản thương nghiệp tạo ra trong qúa trình lưu thông bổ sung. Lý thuyết Macxít về thương mại có những đóng góp to lớn trong việc hướng dẫn các chính sách kinh tế vì sự công bằng xã hội ở nhiều nước và đem lại thành công về kinh tế ở các nước xã hội chủ nghĩa. Các tư tưởng Macxit về thương mại vẫn được phát triển trong nhiều lý thuyết thương mại hiện đại. Thị trường và quy luật cung cầu Theo lý thuyết của chủ nghĩa thực tế, lý thuyết lợi thế cạnh tranh nhấn mạnh rằng nhu cầu đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh. Vì vậy, đặc tính thị trường nội địa là đặc biệt quan trong trong việc hình thành các đặc tính sản phẩm và tạo ra những áp lực để phát triển sản phẩm mới hoặc cải tiến chất lượng sản phẩm. Thông thường một quốc gia có thể thu được lợi thế cạnh tranh nếu nhu cầu thị trường nội địa có trình độ cao tạo ra áp lực cho các công ty cải tiến, tiêu chuẩn hoá sản phẩm và tạo ra sản phẩm mới. Ví dụ trường hợp Nhật Bản: Kiến thức, sự hiểu biết của người tiêu dùng và nhu cầu ở trình độ cao của thị trường đã thúc đẩy ngành công nghiệp Camera Nhật Bản sản xuất ra những sản phẩm mới với chất lượng cao và tính năng ưu việt. Tương tự như vậy là lĩnh vực thông tin di động, nhu cầu cao của người dân bán đảo Scandovania đã giúp Nokia (Phần Lan) và Erricsson (Thuỵ Điển) tập trung phát triển công nghệ điện thoại di động rất cao trước khi nhu cầu về điện thoại di động phát triển mạnh ở các nước khác. Kết quả là Nokia và Erricsson trở thành những công ty hàng đầu trên thị trường sản phẩm thông tin di động. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh Học thuyết " Lợi thế tuyệt đối " của Adam Smith: Adam Smith (1723-1790) là nhà kinh tế cổ điển người Anh.Trong tác phẩm "Sự giàu có của các quốc gia”-1776- ông bày tỏ sự nghi ngờ về giả thuyết của Trường phái Trọng thương cho rằng sự giàu có của các quốc gia chỉ phụ thuộc vào số vàng tích trữ. Ông lập luận rằng: hai quốc gia có thể thu được lợi ích từ thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối, nghĩa là mỗi quốc gia nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá mà mình có lợi thế tuyệt đối hơn và nhập khẩu những hàng hoá mà mình kém lợi thế. Tóm lại, Adam Smith ủng hộ tự do hoá thương mại. Lợi thế tuyệt đối, tuy vậy, chỉ giải thích được một phần nhỏ thương mại hiện tại, như thương mại giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Hầu hết, thương mại thế giới, đặt biệt là thương mại giữa các nước phát triển với nhau, không thể giải thích được bằng học thuyết về lợi thế tuyệt đối. Vấn đề này được giải quyết bởi nhà kinh tế học David Ricardo qua học thuyết về lợi thế so sánh phân tích một cách thực tế cơ sở và thặng dư từ thương mại. Lợi thế tuyệt đối được xem xét như trường hợp đặc biệt của học thuyết chung về lợi thế so sánh. Học thuyết " Lợi thế tương đối hay lợi thế so sánh" của David-Ricardo: David Ricardo (1772-1823) là nhà duy vật, nhà kinh tế học người Anh. Ông được Các Mác đánh giá là người “đạt đến đỉnh cao nhất của kinh tế chính trị cổ điển”. Năm 1817, Ricardo xuất bản cuốn sách “những nguyên tắc của kinh tế chính trị và thuế”, trong đó ông trình bày quy luật về lợi thế so sánh. Theo quy luật về lợi thế so sánh, thậm chí một quốc gia sản xuất cả hai hàng hoá đều kém hiệu quả hơn quốc gia kia vẫn có thể thu được lợi ích từ thương mại. Quốc gia đó sẽ tập trung sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá kém lợi thế ít hơn, nhập khẩu những hàng hoá kém lợi thế nhiều hơn. Các quốc gia sẽ có lợi ích thương mại nếu quốc gia đó chuyên môn hoá vào sản xuất các hàng hoá mà việc sản xuất hàng hoá đó có chi phí tương đối thấp hơn các nước khác. Tóm lại, phát triển Thương mại Quốc tế có lợi cho tất cả các quốc gia tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, học thuyết của David Ricardo còn có nhiều hạn chế như : các phân tích của ông chưa đề cập tới chi phí vận tải, hàng rào mậu dịch ngày càng tăng. Lý thuyết của Ricardo không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên không giải thích triệt để nguyên nhân sâu xa của quá trình Thương mại Quốc tế. Vai trò của thương mại đối với đời sống phát triển kinh tế -xã hội: Là một ngành của nền KTQD, thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Xác định rõ vai trò của thương mại cho phép tác động đúng hướng và tạo được những điều kiện cho thương mại phát triển. Vai trò của thương mại một mặt được thể hiện trong quá trình thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nó mặt khác còn được thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, thương mại là điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển. Thông qua hoạt động thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán được các hàng hoá dịch vụ. Điều đó đảm bảo cho quá trình lưu thông hàng hoá, tái sản xuất bình thường, dịch vụ thông suốt. Vì vậy, không có hoạt động thương mại phát triển thì sản xuất hàng hoá không phát triển được. Thứ hai, thông qua việc mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, thương mại có vai trò quan trọng trong việc mở rộng khả năng tiêu dùng nâng cao mức hưởng thụ cuả các cá nhân và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất và mở rộng phân công lao động xã hội, thực hiện cách mạng khoa học công nghệ trong các ngành của nền KTQD. Thứ ba, trong xu thế quốc tế hoá đời sống diễn ra mạnh mẽ, thị trường trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với thị trường nước ngoài thông qua hoạt động ngoaị thương. Sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương sẽ đảm bảo mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường trong nước và bảo đảm sự cân bằng giữa hai thị trường đó. Vì vậy thương mại có vai trò quan trọng là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa. Thứ tư, nói đến thương mại là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường mua bán hàng hoá, dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là quan hệ bình đẳng, thuận mua vừa bán, nói cách khác là các quan hệ đó được tiền tệ hoá. Vì vậy, trong hoạt động thương mại đòi hỏi các doanh nghiệp tính năng động sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay. Với ý nghĩa và vai trò như vậy của thương mại, để phát triển thương mại nước ta, cần chú trọng và đẩy mạnh phát triển cả nội thương và ngoại thương, bảo đảm hàng hoá lưu thông thông suốt, nâng cao năng lực và chất lượng hoạt động thương mại để mở rộng thị trường trong nước và hội nhâpj quốc tế có hiệu quả. Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh lào cai đặc điểm tự nhiên Vị trí địa lý Lào Cai là tỉnh miền núi, vùng cao biên giới thuộc vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, có diện tích đất tự nhiên 8.044,0 km vuông. Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam - Trung Quốc có 203 km đường biên giới, trong đó 103 km biên giới đất liền và 100 km đường biên giới được phân định bằng đường sông, suối. Phía Nam giáp tỉnh Yên Bái. Phía Đông giáp tỉnh Hà Giang. Phía Tây giáp tỉnh Sơn la và Lai Châu. Trên tuyến biên giới của tỉnh Lào Cai có 3 cửa khẩu chính: một cửa khẩu quốc tế thuộc thị xã Lào Cai và hai cửa khẩu quốc gia thuộc các huyện Mường Khương, Bát Xát. Ngoài ra, còn có các cửa khẩu nhỏ như: ý Tý, Bản Mai, Bản Vược (huyện Bát Xát), Na Rốc, Pha Long (Mường Khương), Simaca (Bắc Hà),... Thị xã Lào Cai nằm ở khu vực sát biên, cách thủ đô Hà Nội 300 km và cách thành phố Côn Minh - thủ phủ của tỉnh Vân Nam khoảng 400 km. Như vậy, xét về vị trí địa lý, mặc dù Lào Cai là một tỉnh nằm trong khu vực nghèo, kém phát triển, kể cả tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), nhưng chính trong khu vực kinh tế "ảm đạm" này, Lào Cai lại nổi lên như một vùng sáng nhờ sự hiện hữu của các cửa khẩu quốc tế và quốc gia trên tuyến biên giới. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, nguồn sáng đó chỉ được tạo ra thông qua các hoạt động thương mại và dịch vụ vùng biên. điều kiện địa hình Lào Cai là một tỉnh miền núi, địa hình bị chia cắt mạnh và với độ dốc thay đổi lớn. Trong đó, địa hình nghiêng và dốc chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Rõ ràng điều kiện địa hình của Lào Cai là yếu tố tự nhiên gây trở ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa của tỉnh trên nhiều phương diện khác nhau, như: khó mở rộng quy mô sản xuất nhất là sản xuất nông nghiệp, làm tăng chi phí vận tải và vận chuyển hàng hóa, làm tăng lượng vốn đầu tư, làm tăng chi phí ở các khâu của quá trình sản xuất xã hội,... Tuy nhiên, do sự thay đổi độ cao lớn đã tạo cho Lào Cai có các tiểu vùng khí hậu đa dạng làm tăng tính đa dạng của các sản vật địa phương. Nhưng, điều đó cũng không thể bù đắp được những trở ngại về điều kiện địa hình của Lào Cai. Trong điều kiện địa hình đó, việc phát triển thị trường cũng như các hoạt động thương mại của tỉnh Lào Cai sẽ hết sức khó khăn, từ việc tổ chức khai thác nguồn hàng, nắm bắt nhu cầu tiêu dùng đến việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm, hạ thấp chi phí lưu thông,... Tài nguyên thiên nhiên Tiềm năng về khoáng sản: Lào Cai là tỉnh miền núi khá giàu tài nguyên khoáng sản, như: Nhóm khoáng sản kim loại, bao gồm: quặng sắt - trữ lượng 186 triệu tấn, phân bố ở các huyện Mường Khương, Văn Bàn. Quặng mangan - trữ lượng lớn, phân bố chủ yếu ở Mường Khương. Mỏ đồng tập trung ở Bát Xát. Ngoài ra Lào Cai còn có các mỏ chì, kẽm, vàng, bạc, thiết, thủy ngân,... Nhóm khoáng sản phi kim loại, bao gồm: apatit tập trung ở Cam Đường, các mỏ đá vôi, đá hoa, đá granit, cao lanh,... Nhìn chung, Lào Cai là tỉnh khá giàu về tiềm năng khoáng sản của về chủng loại, trữ lượng, hàm lượng của các loại khoáng sản. Điều đó cho phép Lào Cai có thể phát triển mạnh ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản. Tiềm năng về đất đai: Lào Cai có khoảng 10 nhóm với gần 30 loại đất chính. Trong đó, đất mùn vàng đỏ và đất đỏ vàng chiếm tới 84,3% diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Theo mục đích sử dụng đất, diện tích đất nông nghiệp chiếm 10,48% diện tích đất tự nhiên, đất lâm nghiệp chiếm tới 70,63%. Hiện nay, đất được sử dụng mới chiếm 41,96% diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Nhìn chung, tiềm năng về đất đai của tỉnh Lào Cai chủ yếu thuộc về kinh tế lâm nghiệp với các sản phẩm từ rừng như mỡ, bồ đề, quế, cây dược liệu, hương liệu,... Ngoài ra, Lào Cai còn có các tiềm năng về nước, khí hậu, đa dạng sinh học và nhất là tiềm năng phát triển du lịch. Như vậy, nhìn vào tài nguyên thiên nhiên của tỉnh Lào Cai, có thể nhận thấy tiềm năng phát triển các ngành kinh tế chủ yếu của tỉnh là công nghiệp khai khoáng và chế biến khoáng sản, sản xuất lâm nghiệp và phát triển du lịch. đặc điểm điều kiện xã hội Dân số và kết cấu dân số Với điều kiện địa hình không thuận lợi Lào Cai là tỉnh có mật độ dân số khá thấp - mật độ dân số năm 1994 là 69 người / km vuông và năm 1997 là 73,84 người/ km vuông. Hơn nữa, sự phân bố dân số trên địa bàn tỉnh lại không đều, tập trung chủ yếu ở thị xã Lào Cai (614 người/ km vuông), thị xã Cam Đường (217 người/ km vuông), trong khi các huyện Văn Bàn, Than Uyên,... mật độ dân số chỉ khoảng 40-50 người/ km vuông (số liệu năm 1997). Nhìn chung, trong giai đoạn 1991-1998, nhịp độ tăng dân số bình quân của tỉnh Lào Cai đạt 2,6%/ năm. Sự thay đổi số dân trong giai đoạn do biến đổi cơ học không lớn. Theo báo cáo chuyên đề "Dân số, lao động, việc làm và mức sống dân cư", Lào Cai là địa bàn đa dân tộc, bao gồm 18 dân tộc khác nhau. Trong đó: Người Kinh chiếm 33,74 dân số tỉnh, phân bố tập trung ở dọc theo thung lũng sông Hồng, sông Chảy, như thị xã Lào Cai, thị xã Cam Đường, các huyện Bảo Thắng, Bảo Yên và Than Uyên. Người HMông chiếm 21,17%, tập trung ở các huyện Sa Pa, Mường Khương, Bát Xát, Bắc Hà. Người Tày chiếm 13,36% dân số tỉnh, định cư tập trung ở các huyện Văn Bàn, Bảo Yên. Người Dao chiếm 13,2% tập trung ở huyện Bát Xát, Bảo Yên. Người Thái chiếm 8,2% dân số tỉnh, định cư chủ yếu ở vùng lòng chảo Than Uyên, giáp với Sơn La và Lai Châu. Người Dáy khoảng 4% dân số, tập trung chủ yếu ở huyện Bát Xát, Bảo Thắng và thị xã Lào Cai. Người Nùng chiếm 3,89% dân số, cư trú chủ yếu ở các huyện Mường Khương, Bắc Hà, Bảo Yên. Ngoài ra, còn một số dân tộc khác, chiếm khoảng 36,7% dân số tỉnh Lào Cai. Sự phân bố dân cư theo các khu vực thành thị và nông thôn của tỉnh Lào Cai qua các năm trong giai đoạn 1991-2000 đã có sự thay đổi theo hướng tăng dân số đô thị. Nhịp độ phát triển dân số đô thị bình quân trong giai đoạn là 8,27%/năm và nông thôn đạt 1,50%/năm. Như vậy, quá trình đô thị hóa trên địa bàn toàn tỉnh Lào Cai trong nhiều năm qua tuy có phát triển nhưng so với tình hình chung của cả nước còn quá thấp, bởi lẽ, cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển hệ thống đô thị là sự phát triển của kinh tế, cũng như sự phát triển của hệ thống giao thông, các điều kiện giao lưu kinh tế và hàng hóa ... mà những điều đó Lào Cai chưa đạt được trình độ và nhịp độ phát triển cần thiết. Cùng với quá trình chậm đô thị hóa là sự tập trung cao của lực lượng lao động tỉnh Lào Cai vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Theo số liệu thống kê tỉnh, lĩnh vực nông - lâm nghiệp thu hút đến 85,89%, lực lượng lao động, trong khi các lĩnh vực dịch vụ chỉ chiếm 9,80% và công nghiệp, xây dựng là 4,31%. Ngoài ra, trình độ dân trí của Lào Cai còn thấp, không đồng đều giữa các tiểu vùng, các dân tộc. Các huyện Bắc Hà, Mường Khương, tỷ lệ người biết đọc, biết viết chỉ chiếm thu nhập 11-16,95% dân số từ 5 tuổi trở lên. Tương tự tỷ lệ này ở các khu vực thị xã Lào Cai, Cam Đường, huyện Bảo Thắng là 80-83,5% và khu vực Văn Bàn, Bảo Yên là 64%. Tóm lại, nếu xem xét con người là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, thì Lào Cai với mật độ dân số thưa thớt, kết cấu dân số kém hiệu quả và trình độ dân trí thấp đã mất đi phần lớn hiệu suất của động lực phát triển này. Thậm chí có nơi, có lucs động lực phát triển này lại trở thành trở lực cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ muốn phát triển kinh tế - xã hội trước hết phải quan tâm phát triển cho được yếu tố con người để phù hợp với yêu cầu và mục tiêu của phát triển. Từ đó góp phần thúc đẩy quá trình kinh tế - xã hội bền vững hơn với nhịp độ ngày càng cao hơn. Thu nhập và đời sống dân cư Theo đánh giá chung của UBND tỉnh Lào Cai, thu nhập của dân cư trong tỉnh còn thấp, trong đó thu nhập thấp nhất rơi vào các gia đình vùng cao thuộc các dân tộc H'Mông, Hà Nhì, Xà Phò, Khơ Mú - mức thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng chỉ đạt 14-22 ngàn đồng. Trong cơ cấu thu nhập của các gia đình tỉnh Lào Cai thì thu nhập từ nông nghiệp vẫn chiếm tới 75,7%, và chủ yếu là từ trồng trọt. Đối với lao động trong khu vực Nhà nước, do địa phương quản lý, theo số liệu thống kê 1998, mức tăng thu nhập bình quân lao động một tháng của tỉnh Lào Cai là 9,70%/ năm trong giai đoạn 1995-1998. Nếu so sánh với mức tăng thu nhập bình quân của vùng Đông Bắc và Tây Bắc, thì mức tăng thu nhập bình quân của lao động trong khu vực Nhà nước do địa phương quản lý, tỉnh Lào Cai ở mức tương đương. Trong điều kiện thu nhập dân cư thấp, khả năng chi tiêu cũng rất hạn chế và đương nhiên tỷ trọng chi cho nhu cầu ăn uống thường cao, khoảng trên dưới 80% tổng số chi tiêu. Đồng thời, mức tích lũy trong nội bộ dân cư, mặc dù có tăng lên trong những năm gần đây nhưng cũng còn ở mức thấp so với tình hình chung của cả nước. Theo số liệu điều tra tình hình cơ bản về cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam (Nhà Xuất bản Thống kê, 1995) các chỉ tiêu chủ yếu về cơ sở hạ tầng nông thôn của tỉnh Lào Cai đều ở tình trạng thấp kém hơn so với cả nước và vùng miền núi trung du Bắc bộ. Tóm lại, qua xem xét điều kiện xã hội cơ bản của tỉnh Lào Cai cho thấy, trong điều kiện chung của các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, mức độ khó khăn trong đời sống sinh hoạt của dân cư tỉnh Lào Cai, đặc biệt là đồng bào các dân tộc vùng cao còn khá nặng nề. Trên phương diện thị trường, nhìn nhận yếu tố thu nhập và các điều kiện sống hiện tại của dân cư là yếu tố cơ bản trong quá trình hình thành và phát triển nhu cầu tiêu dùng - yếu tố quan trọng trên thị trường - có thể thấy rằng, thị trường Lào Cai chưa phải là thị trường phát triển cả về quy mô, nhịp độ và trình độ, mặc dù trong những năm gần đây đã được cải thiện đáng kể. Đặc điểm kinh tế Trong công cuộc đổi mới, sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường, mở cửa biên giới sẽ tác động mạnh mẽ tới sự phát triển các ngành kinh tế tỉnh Lào Cai. Ngược lại, sự phát triển của các ngành kinh tế trong tỉnh, sự phát triển của quan hệ thị trường trong cả nước đã tạo cơ sở vật chất để đẩy mạnh các hoạt động kinh tế biên giới, khai thác có hiệu quả hơn các cửa khẩu vùng biên. Phát triển kinh tế cửa khẩu, Lào Cai thực chất là thúc đẩy tiềm năng, thế mạnh “cửa ngõ” của mình và tổ chức khai thác tốt lợi thế đó. Việc phát triển sản xuất, xuất khẩu các nguồn hàng hoá nội tỉnh cần được đẩy mạnh. Với những điều kiện thuận lợi về địa hình đa dạng, Lào cai có nhiều tiềm năng về du lịch, nhất là khu du lịch nghỉ mát Sa Pa là điểm thu hút nhiều du khách nước ngoài và quốc tế. những thuận lợi và hạn chế đối với hoạt động thương mại Trong điều kiện của một tỉnh vùng cao, biên giới có trình độ phát triển kinh tế - xã hội dưới mức trung bình của cả nước, việc đánh giá những lợi thế và hạn chế phát triển thương mại của tỉnh Lào Cai hầu như chỉ được xem là những lợi thế và hạn chê tương đối. Do đó, việc đánh giá nó được tuân thủ theo một số nguyên tắc sau: Những lợi thế và hạn chế có thể là do tự nhiên quy định và cũng có thể do sức phấn đấu của con người bồi đắp nên. Thực tế, sự phát triển của ý thức con người ngày nay đã tạo nên sức mạnh đáng kể trước tự nhiên và có thể tạo nên sự phát triển ngược chiều của những lợi thế tự nhiên. Những lợi thế và hạn chế được đánh giá trong phạm vi không gian phù hợp với tỉnh Lào Cai và ở thời điểm ban đầu của các xu hướng có triển vọng phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Thuận lợi Lợi thế để phát triển thương mại quan trọng và nổi bật nhất của Lào Cai chính là vị trí tỉnh biên giới mang lại trong hiện tại và cả trong tương lai. Bởi vì: Một là, trên tuyến vành đai biên giới Sơn La - Lai Châu - Lào Cai - Hà Giang - Cao Bằng, Lào Cai chiếm vị trí trung tâm chuyển tiếp giữa các tỉnh Đông Bắc và Tây Bắc. Các tỉnh trên tuyến vành đai này đều có trình độ phát triển kinh tế tương đồng nhau và là các tỉnh nghèo, nhưng Lào Cai có lợi thế hơn về hệ thống giao thông liên hệ giữa các tỉnh trong tuyến và với vùng Đồng bào sông Hồng. Mặt khác, trên tuyến vành đai này chỉ có một cửa khẩu quốc tế được Nhà nước công nhận là cửa khẩu Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai. Hai là, chuyển sang giai đoạn đổi mới và phát triển kinh tế, trước xu thế hội nhập của khu vực và quốc tế, chính phủ Việt Nam, một mặt, đang thực thi chính sách kinh tế mở, tăng cường các mối quan hệ song phương và đa phương, mặt khác, chính phủ cũng đang tích cực chuẩn bị đầu tư xây dựng và phát triển các điều kiện kinh tế - kỹ thuật để thực hiện chương trình hội nhập. Trong bối cảnh đó, các tỉnh biên giới nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng đã, đang và sẽ được chú trọng của chính phủ cả về vốn đầu tư lẫn các chính sách ưu tiên, khuyến khích nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Có thể khẳng định rằng, vị trí kinh tế mà trước hết là lĩnh vực kinh tế đối ngoại của các tỉnh biên giới đang được nâng dần trong nhãn quan của các nhà kinh tế và chính phủ của cả hai phía biên giới. Ba là, Trung Quốc là thị trường lớn, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, do đó, nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng nhanh, nhất Lào Cai nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp và nhập khẩu hàng tiêu dùng bổ xung thiếu hụt (hàng lương thực - thực phẩm) do quá trình đô thị hóa tạo ra. Thực tế, Trung Quốc đã là bạn hàng lớn của Việt Nam đối với nhiều sản phẩm xuất khẩu quan trọng như cao su, hạt điều, hạt tiêu, gạo,... và ngược lại. Trong tương lai, quan hệ kinh tế đối ngoại giữa hai nước đang được phát triển ở quy mô và phạm vi lớn hơn sẽ tạo nên sức ép phát triển trước hết là phát triển các hoạt động thương mại đối với các tỉnh biên giới nói chung và Lào Cai nói riêng. Từ đó, Lào Cai có thể phát triển không chỉ thị trường cung ứng trong tỉnh ._.mà cả các thị trường cung ứng khác trong cả nước. Lợi thế về tiềm năng khoáng sản của Lào Cai đang dần trở nên hiện thực hơn trong giai đoạn hiện nay khi Nhà nước thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính điều này sẽ là tác nhân quan trọng giúp Lào Cai đẩy mạnh quá trình hình thành và phát triển thị trường, thương mại. Quá trình khai thác tiềm năng khoáng sản đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu, cụm công nghiệp quy mô lớn và do đó, sẽ kéo theo hàng loạt các quá trình như quá trình đô thị hóa, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh, quá trình hình thành và phát triển các nhu cầu tiêu dùng với quy mô ngày càng lớn,... Tất cả những điều đó làm nẩy sinh các thị trường cung ứng và tiêu thụ hàng hóa trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Đó là thị trường hàng tiêu dùng, thị trường vật liệu xây dựng, thị trường thiết bị máy móc, thị trường vật tư nguyên liệu, thị trường vốn, thị trường lao động,... Ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản Lào Cai phát triển dựa trên lợi thế tiềm năng khoáng sản có trữ lượng lớn và hàm lượng cao là khả năng lớn trong việc tăng thu nhập và sức mua của dân cư trên địa bàn tỉnh. Cùng với sự cải thiện về thu nhập và sức mua của dân cư là sự phát triển về chất lượng và số lượng nhu cầu tiêu dùng. Chính điều đó cho phép hoạt động thương mại có hiệu quả hơn, đồng thời, cũng đòi hỏi thương mại phải phát triển ở trình độ cao hơn cả về hình thức phục vụ và chất lượng phục vụ cho các nhu cầu dân cư. Để khai thác tiềm năng khoáng sản trên địa bàn tỉnh Lào Cai điều cần chú trọng trước hết Lào Cai phát triển hệ thống giao thông trong và ngoài tỉnh. Khi hệ thống giao thông được mở rộng sẽ tạo điều kiện để không gian thị trường mở rộng và hơn nữa tính thị trường sẽ thấm sâu hơn vào đời sống sản xuất và tiêu dùng của các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh. Tiềm năng lớn về du lịch của Lào Cai là một lợi thế không nhỏ trong quá trình phát triển thị trường và các hoạt động thương mại, nhất là trong thế giới ngày nay, nhu cầu giao lưu và mở rộng hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên, xã hội ngày càng cao. Tác động của du lịch đối với quá trình phát triển thị trường và các hoạt động thương mại được thể hiện trên các phương diện sau: Tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư trong tỉnh, từ đó góp phần cải thiện tình hình tiêu dùng, thúc đẩy tiêu dùng phát triển cả về só lượng và chất lượng. Góp phần thúc đẩy các ngành nghề truyền thống trong tỉnh phát triển. Thị trường tiêu thụ các sản vật địa phương (các đặc sản và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ) có điều kiện tốt để phát triển. Sự giao lưu giữa khách du lịch và dân địa phương sẽ là một môi trường tốt để không ngừng nâng cao hiểu biết chung, cũng như kiến thức về thị trường, kinh doanh của người dân trong tỉnh. Qua đó, sẽ góp phần chuyển biến nhanh hơn từ nền kinh tế tự cấp, tự túc sang kinh tế thị trường trên địa bàn tỉnh Lào Cai, từ nền sản xuất nhỏ, manh mún sang nền sản xuất tập trung với các sản phẩm mang tính hàng hóa cao hơn. Hạn chế Hạn chế lớn nhất trong sự phát triển thương mại, thị trường tỉnh Lào Cai chính là sự phát triển thấp kém của nền sản xuất trong tỉnh. Lào Cai là tỉnh nghèo, kém phát triển so với mức trung bình cả nước, và hơn nữa là một tỉnh mới được tách ra, những cơ sở vật chất ban đầu còn trong giai đoạn hình thành. Trong hoàn cảnh đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trong tỉnh không những chưa đủ sức sản sinh ra một nền thương mại phát triển đủ năng lực hướng dẫn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và làm năng động các yếu tố sản xuất, mà còn chưa đủ sức để dung dưỡng một nền thương mại lớn. Trong giai đoạn công nghiệp hóa, nhu cầu vốn cho đầu tư rất lớn, trong khi nền kinh tế Lào Cai hiện nay vẫn chưa có khả nảng tích lũy và vẫn phải dựa vào hỗ trợ ngân sách từ trung ương. Do đó, khả năng hình thành, phát triển các thị trường và các hoạt động thương mại nhờ thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển cũng không lớn trong giai đoạn tới. Tiềm năng phát triển nền công nghiệp Lào Cai là công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản. Tuy nhiên, để phát triển ngành công nghiệp này Lào Cai không những sẽ gặp phải khó khăn về điều kiện giao thông (do địa hình phức tạp, nhu cầu về vốn đầu tư lên cao) mà còn gặp phải khó khăn về hiệu quả của ngành công nghiệp này trong điều kiện các ngành công nghiệp kỹ thuật cao đang có lợi thế hơn hẳn và xu thế bảo vệ môi trường, phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Cùng với những khó khăn về phát triển thị trường dựa vào khả năng khai thác tiềm năng khoáng sản trong tỉnh là khó khăn phát triển thị trường dựa vào hoạt động chế biến, tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp. Bởi vì, điều kiện sản xuất nông nghiệp (chủ yếu do địa hình phức tạp) làm phát sinh hạn chế trong việc tạo nguồn nguyên liệu cung ứng cho các cơ sở chế biến ở quy mô công nghiệp. Hạn chế về tiềm lực phát triển thị trường thương mại của Lào Cai nằm trong chính lợi thế về vị trí địa lý của tỉnh tạo ra, trên phương diện lợi ích thương mại hai bên. Trong quan hệ thương mại giữa hai bên, mặc dù về lý thuyết, cả hai bên cùng có lợi nhưng rõ ràng bên nào có lợi thế lớn hơn, sẽ có lợi hơn và bên khác sẽ chịu sức ép lớn hơn trong quan hệ mậu dịch. Trong khi đó xét cả về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp lẫn công nghiệp, Lào Cai đều kém phát triển và ít lợi thế hơn so với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ thị trường Lào Cai sẽ bị xâm nhập do ít có khả năng cạnh tranh, do đó các nhà sản xuất trong tỉnh sẽ bị mất dần thị trường của mình. Để ngăn chặn, giảm bớt áp lực về mậu dịch biên giới, Lào Cai có thể phải vận dụng các rào cản thương mại. Đồng thời với điều đó, khả năng phát sinh và khó kiểm soát các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại qua biên giới. Do đó, lợi ích thương mại của Nhà nước càng bị sút giảm hơn. Những biến động thị trường tạo ra một cách có chủ ý của phía Trung Quốc có thể làm thất bại cho nhiều doanh nghiệp trong nước cũng như doanh nghiệp của tỉnh Lào Cai, gây nên bất ổn trong hoạt động kinh doanh và ngay cả với sản xuất. Những vấn đề dân cư và đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện tại cũng là hạn chế lớn trong việc phát triển thương mại, thị trường tỉnh. Mặc dù, trong nhiều năm gần đây, thu nhập và đời sống của dân cư đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của tỉnh Lào Cai, khả năng chi tiêu cho các nhu cầu tiêu dùng rất thấp và sẽ dựa phần lớn vào các sản phẩm kinh tế phụ gia đình, mang tính tự cấp, tự túc. Như vậy, cùng với dân số ít, mật độ dân cư thưa thớt, thị trường Lào Cai là thị trường nghèo "chất dinh dưỡng", nhu cầu trao đổi thấp cả về lưu lượng lẫn nhịp độ. Trình độ dân trí thấp, cùng với những tập tục lạc hậu của đồng bào các dân tộc trong tỉnh đang tạo ra trở lực lớn trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Lào Cai. Đồng thời, điều đó cũng làm giảm quá trình phát sinh và phát triển thị trường tỉnh xét từ phía nhu cầu. Vai trò của ngành thương mại trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh lào cai Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn những yếu tố thiếu hụt như vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với nước giàu. Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng phải được coi là một chính sách cơ cấu có tầm quan trọng, chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài, nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, giải quyết việc làm cho người lao động, thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nước, vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu. Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, thương mại thực sự có vai trò quan trọng, thể hiện : đối với tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện: Thương mại tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển thương mại sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên vật liệu như bông, đay, ... Sự phát triển ngành chế biến thực phẩm (gạo, cà phê...) có thể kéo theo của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó. Thương mại tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định. Thương mại tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước. đối với lao động và giải quyết việc làm Tác động của thương mại đến đời sống bao gồm rất nhiều mặt. Trước hết thông qua hoạt động sản xuất hàng , với nhiều công đoạn khác nhau đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân. Thương mại còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động. đối với tích lũy và đầu tư Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc thiết bị hiện đại từ bên ngoài, nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: đi vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và . Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là . Thực tế là nước nào gia tăngđược thì nhập khẩu theo đó cũng tăng theo. Ngược lại , nếu nhập khẩu nhiều hơn làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế quốc dân. Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên nhưng mọi cơ hôi đầu tư, vay nợ từ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ có được khi các chủ đầu tư và những người cho vay thấy được khả năng - nguồn vốn vay duy nhất để trả nợ thành hiện thực. đối với việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài và tăng cường công nghệ Đẩy mạnh thương mại có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế..., và công nghiệp sản xuất hàng thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế.... Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng . Có thể nói xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát triển kinh tế, mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền kinh tế như : vốn, lao động, kỹ thuật, nguồn tiêu thụ thị trường... Đối với nước ta, hướng mạnh về là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại, được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy bất cứ một nước nào và trong một thời kỳ nào đẩy mạnh thương mại thì nền kinh tế nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao. thúc đẩy phát triển đời sống kinh tế - xã hội Với những vai trò của thương mại như trên, góp phần vào tăng trưởng kinh tế đồng thời góp phần vào tăng mức thu nhập cho người dân. Và từ đó cải thiện đời sống nhân dân, phúc lợi xã hội được nâng cao,... Tóm lại, thông qua thương mại sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. Nước ta đã thực hiện chính sách mở cửa giao lưu kinh tế với nước ngoài, thúc đẩy và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Việt Nam đã từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Chương II: thực trạng phát triển của ngành thương mại Lào Cai đánh giá về tốc độ phát triển thực trạng lưu chuyển hàng hóa Theo số liệu thống kê tỉnh Lào Cai, trong giai đoạn 1991-2000, tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội (TMLCHHBL) trên địa bàn tỉnh tăng 4,88 lần (tính theo giá hiện hành), từ 116,1 tỷ đồng năm 1991 lên 567,03 tỷ đồng năm 2000. Tuy nhiên, mức tăng của TMLCHHBL có xu hướng nhanh dần. Cụ thể, trong giai đoạn 1991-1995, TMLCHHBL Lào Cai tăng 1,81 lần hay tăng bình quân 16,00%/năm; trong giai đoạn 1995-2000, số liệu tương tự là 1,98 lần và 12,1 %/năm. Tình hình chung của cả nước trong giai đoạn 1991-1999, TMLCHHBL theo giá hiện hành đã tăng tới 5,82 lần, cao hơn nhiều so với tỉnh Lào Cai. Tuy nhiên, ngược lại với xu hướng tăng của Lào Cai, TMLCHHBL của cả nước lại có xu hướng chậm dần. Cụ thể, trong giai đoạn 1991-1995, TMLCHHBL cả nước tăng bình quân 22,83%/năm (đã loại trừ yếu tố tăng giá) đã giảm xuống còn 8,00%/năm trong giai đoạn 1995-1998. Như vậy, so với tình hình chung của cả nước, sự phát triển của TMLCHHBL tỉnh Lào Cai đã có xu hướng khả quan hơn trong những năm gần đây. Điều này đã phần nào giảm bớt sự chênh lệch về TMLCHHBL của Lào Cai so với cả nước. Mặc dù đã có những bước tiến đáng kể trong những năm gần đây nhưng TMLCHHBL và dịch vụ (khu vực kinh tế trong nước) tính bình quân đầu người của Lào Cai vẫn ở mức rất thấp so với cả nước và ngay cả đối với vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Theo số liệu thống kê cho thấy, mức bình quân đầu người của Lào Cai so với cả nước đã tăng lên từ 26,62% năm 1995 lên 30,55% năm 1997, 35,43% vào năm 1999 và so với vùng Tây Bắc, tương tự đã tăng từ 69,83% lên 89,91% và so với vùng Đông Bắc lại có sự suy giảm chút ít, từ 62,44% còn 61,92%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh nói chung và của lĩnh vực thương nghiệp nội địa nói riêng, đồng thời cũng phản ánh sức mua và tình hình thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng hàng hóa của dân cư trên thị trường xã hội. Nếu so về mức thu nhập bình quân đầu người hàng tháng của lao động trong khu vực nhà nước của Lào Cai với cả nước thì tỉ lệ này chênh lệch không lớn và bằng 85,32% (1995) và 85,76% (1998). Theo đánh giá thu nhập chung của dân cư trong tỉnh từ điều tra mức sống dân cư của cục thống kê Lào Cai, mức thu nhập bình quân đầu người của Lào Cai bằng 62,99% so với cả nước. Như vậy có thể thấy rằng, một mặt tỷ lệ tiêu dungf của dân sư Lào Cai từ kinh tế hiện vật còn khá lớn, mặt khác hoạt động thương nghiệp trong tỉnh cũng chậm phát triển - ở đây có cả nguyên nhân về sức mua dân cư và nguyên về năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại. Mức BLHH và DV bình quân đầu người (khu vực kinh tế trong nước) vùng 1: Cả nước series 1: năm 1995 vùng 2: Đông Bắc series 2: năm 1996 vùng 3: Tây Bắc series 3: năm 1997 vùng4:LàoCai nguồn : Niên giám Thống kê cả nước 1997-1998 Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế ngoài quốc doanh đã có bước phát triển nhanh hơn, đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động thương mại nội địa. Nếu như trước đây, thương nghiệp quốc doanh chiếm ưu thế đó đã giảm dần, ngay cả trong hoàn cảnh các tỉnh vùng cao biên giới, thu nhập quốc doanh được sự hỗ trợ về nhiều mặt của Nhà nước trong việc cung ứng hàng hóa tiêu dùng cho đồng bào các dân tộc. Cơ cấu bán lẻ hàng hóa xã hội (Phân theo thành phần kinh tế) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Chung cả nước Thu nhập quốc doanh Thu nhập ngoài quốc doanh Lào Cai Thu nhập quốc doanh Thu nhập ngoài quốc doanh 100,00 22,60 77,40 100,00 41,43 58,57 100,00 21,00 79,00 100,00 40,17 59,83 100,00 20,00 80,00 100,00 37,25 62,75 100,00 20,02 79,80 100,00 37,56 62,44 100,00 19,30 80,70 100,00 40,08 59,92 100,00 - - 100,00 40,00 60,00 Nguồn: Số liệu niên giám Thống kê cả nước và tỉnh Lào Cai Mặc dù, thu nhập quốc doanh trong tình trạng suy giảm chung của cả nước, nhưng nếu so với giai đoạn 1991-1995 thì thu nhập quốc doanh của Lào Cai đã có sự phục hồi đáng kể trong giai đoạn 1995-2000 về tỷ trọng trọng TMLCHHBL. Đồng thời, các mặt hàng chính sách phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa đã được thu nhập quốc doanh tổ chức cung ứng kịp thời, phục vụ tốt nhu cầu của đồng bào các dân tộc. Tình hình thực hiện các mặt hàng thiết yếu của TNQD Đơn vị 1995 1996 1997 1998 Muối Iôt Dầu hỏa Tiền trợ cấp, trợ giá tấn 100 lít triệu đồng 3.114 800 3.200 1.100 1.735 3.380 1.000 2.343 3000 750 2.100 Nguồn: Báo cáo hàng năm của Sở Thương mại - Du lịch Lào Cai Nhìn chung, đối với hai mặt hàng chính sách (muối Iốt và dầu hỏa) thu nhập quốc doanh đã đáp ứng đủ cho nhu cầu dân cư, không xảy ra tình trạng thiếu hàng trong những năm vừa qua. Đồng thời do sự cải thiện về điện sinh hoạt và khả năng cung cấp muối Iốt của thu nhập quốc doanh, khối lượng cung ứng của thu nhập quốc doanh đối với hai mặt hàng chính sách này đã giảm trong năm 1998. Cùng với điều đó là sự giảm về gánh nặng ngân sách và điều đáng nói hơn là từ đó Lào Cai có thể hỗ trợ thêm cho hoạt động thu mua nông - lâm sản cho đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, góp phần thúc đẩy các quá trình lưu thông hàng hóa trên địa bàn tỉnh trong những năm tiếp theo. Trong TMLCHHBL và dịch vụ của Lào Cai, tỷ lệ thương nghiệp đã có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 1991-1997, từ 82,18% (1991) còn 60,45% (1997). Sự tăng lên đáng kể của tỷ trọng dịch vụ trong TMLCHHBL và dịch vụ là xu hướng tích cực của hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh Lào Cai nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng của dân cư. Đồng thời, điều đó cũng là dấu hiệu phản ánh sự phát triển của thị trường xã hội tỉnh Lào Cai. Thực trạng kinh doanh xuất nhập khẩu: Tình hình kim ngạch xuất nhập khẩu tỉnh Lào Cai Trong giai đoạn 1992-1998, cùng với sự cải thiện trong quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc và những tháo gỡ về cơ chế kinh doanh xuất - nhập khẩu biên giới của Nhà nước, tình hình kinh doanh xuất - nhập khẩu của Lào Cai đã có nhiều cố gắng, nhất là trong tình hình các năm gần đây, bất chấp sự ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực. Kim ngạch xuất - nhập khẩu của Lào Cai Đơn vị: 1.000 USD 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng số Xuất khẩu Nhập khẩu 1.502,4 533,8 968,6 5.881,9 1.961,0 3.920,9 11.287,8 2.832,4 8.455,4 10.007,9 3.553,0 6.454,9 8.972,2 5.177,9 3.794,2 10.845,8 7.232,8 3.613,0 12.000 8.000 4.000 Nguồn: Số liệu thống kê - Cục Thống kê Lào Cai và Ban Kinh tế tỉnh Theo số liệu thống kê trên đây, tình hình kinh doanh xuất - nhập khẩu của Lào Cai, mặc dù tăng khá nhanh trong giai đoạn, nhưng xu hướng tăng không ổn định, đặc biệt là kim ngạch nhập khẩu. Đồng thời, tình hình hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu qua biên giới từ năm 1996 đã trở nên hết sức sôi động góp phần vào làm tăng tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lào Cai. Theo số liệu thống kê của Cục hải quan Lào Cai, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lào Cai trong các năm 1996-1998 cao hơn nhiều so với số liệu thống kê của cục thống kê Lào Cai do có sự tham gia mạnh mẽ của các đơn vị kinh doanh xuất - nhập khẩu ngoài tỉnh. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu Lào Cai (kể cả các đơn vị kinh doanh ngoài tỉnh) ĐVT 1996 1997 1998 1999 Tổng số Xuất khẩu Nhập khẩu Dịch vụ khác 1000 USD tỷ đồng 1000 USD tỷ đồng 1000 USD tỷ đồng 1000USD 45.589,43 151,55 13.255,8 345,78 30.199,13 24,44 2.134,50 61.689,64 106,31 8.315,9 599,54 47.018.6 81,03 6.355,14 57.969,35 131,93 9.559,9 616,30 44.659,09 51,75 3.750,36 - 143,23 - 659,77 - - - Nguồn: Cục Hải quan Lào Cai - Báo cáo tổng kết công tác năm 1997, 1998 Như vậy, bên cạnh sự gia tăng nhanh kim ngạch xuất - nhập khẩu của tỉnh Lào Cai, sự tham gia của các doanh nghiệp kinh doanh ngoài tỉnh đã đóng góp rất lớn vào không khí sôi động chung của hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh. Theo số liệu cho thấy, kim ngạch xuất - nhập khẩu của tỉnh Lào Cai chỉ chiếm 24,76% trong tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu năm 1996 và sau đó giảm xuống chỉ còn 16,22% năm 1997 và 16,26% năm 1998. Tình hình này một mặt phản ánh lợi thế của tuyến cửa khẩu biên giới Lào Cai, mặt khác là kết quả của hàng loạt các chính sách từ trung ương đến địa phương nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu qua biên giới, như Nghị quyết Trung ương 3, Chỉ thị 835/TTg của Thủ tướng chính phủ, chỉ thị 826/CT của Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan,... đồng thời với sự tăng nhanh về kim ngạch xuất - nhập khẩu, các hình thức kinh doanh xuất - nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Lào Cai cũng phát triển ngày càng phong phú hơn, như hình thức tạm nhập tái xuất, vận tải quá cảnh, kinh doanh kho ngoại quan, tổ chức hội chợ triển lãm, xuất - nhập khẩu chính ngạch và tiểu ngạch. Tuy nhiên, cần thấy rằng, tình hình kim ngạch xuất - nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lào Cai cũng không nằm ngoài tình hình chung của cả nước và tuyến biên giới Việt - Trung. Đó là kim ngạch nhập khẩu luôn tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao trong tỷ trọng xuất - nhập khẩu chung. Cụ thể, tỷ trọng nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lào Cai năm 1996 chiếm 66,24% tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu, tương tự, năm 1997 là 76,22% và năm 1998 là 77,04%. Rõ ràng, sức ép về mậu dịch biên giới Việt - Trung nói chung và tuyến cửa khẩu Lào Cai nói riêng đang ngày càng lớn và vấn đề thiết lập cân bằng thương mại giữa hai bên cũng ngày càng khó khăn hơn. Tình hình kinh doanh xuất khẩu tỉnh Lào Cai Với lợi thế về tuyến cửa khẩu biên giới, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Lào Cai trong giai đoanh 1992-2000 đã được sự hỗ trợ khá lớn của nguồn hàng trong nước, nhất là trong các năm 1996-1998. Theo số liệu của Cục hải quan Lào Cai, kim ngạch xuất khẩu trực tiếp của Lào Cai so với kim ngạch xuất khẩu chung qua địa bàn các năm như sau: năm 1996 chiếm 21,37% và các năm 1997, 1998 là 42,73%, 54,92%. Như vậy, sau thời kỳ khó khăn về xuất khẩu do chính sách hạn chế (cấm) xuất khẩu gỗ Pơ mu, hoạt động xuất khẩu của Lào Cai đã dần dần được khôi phục với sự vươn lên mạnh mẽ của các đơn vị kinh doanh xuất - nhập khẩu trong tỉnh trong việc tìm kiếm, khai thác nguồn hàng và đẩy mạnh xuất khẩu. Trong kim ngạch xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu chính ngạch chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối. Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới Lào Cai không lớn so với các cửa khẩu của Lạng Sơn hay một số tỉnh biên giới khác. Kim ngạch xuất khẩu của Lào Cai (Phân theo chính ngạch, tiểu ngạch) 1997 1998 Giá trị (1.000 USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000 USD) Tỷ trọng (%) Tổng số Chính ngạch Tiểu ngạch 8.315,9 7.879,2 436,7 100,00 94,75 5,25 9.559,9 9.443,2 116,7 100,00 98,78 1,22 Nguồn: Cục Hải quan Lào Cai Trong cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo ngành hàng của Lào Cai, vào giai đoạn đầu những năm 1990, kim ngạch xuất khẩu ngành hàng nông - lâm sản chiếm tỷ trọng chủ yếu với các mặt hàng chủ lực là gỗ pơmu và chè. Trong những năm gần đây, do sự gia tăng nhanh của các ngành hàng xuất khẩu khác, nhất là hàng khoáng sản, cơ cấu kim ngạch xuất khẩu của Lào Cai theo các nhóm hàng trở nên đồng đều hơn. Cụ thể, theo số liệu thống kê (Cục thống kê) năm 1997, cơ cấu xuất khẩu theo ngành hàng của Lào Cai như sau: Hàng nông lâm sản chiếm 26,94%; hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 26,21%; hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp chiếm 28,63% và hàng hóa khác chiếm 18,22%. Các mặt hàng xuất khẩu: Đối với ngành hàng nông - lâm sản: các mặt hàng nông lâm sản xuất khẩu của Lào Cai trong các năm 1991-1995 chủ yếu là gỗ pơmu, chè đen, bột vàng đắng. Trong những năm gần đây, bù lại sự sụt giảm của nguồn gỗ pơmu xuất khẩu, Lào Cai đã khai thác xuất khẩu nhiều sản phẩm nông - lâm nghiệp khác như thảo quả, sắn khô,... Đối với ngành hàng công nghiệp nặng và khoáng sản: mặt hàng xuất khẩu chủ yếu có các loại quặng thô như quặng sắt, đồng,... khối lượng xuất khẩu các loại quăng tăng nhanh, nhất là trong các năm 1996 - 1998, mỗi năm tăng gấp 2 lần. Đối với ngành hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp: Lào Cai chưa có sản phẩm nào được xem là có giá trị và có khả năng xuất khẩu lớn trong ngành hàng này. Thị trường xuất khẩu: trong kim ngạch xuất khẩu của Lào Cai, hầu như 100% là kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, mà chủ yếu trước hết là thị trường tỉnh Vân Nam và ở vùng giáp biên. Nhìn chung, qua thực tế kinh doanh xuất khẩu hàng hóa của Lào Cai trong giai đoạn 1992-2000, cho thấy bên cạnh lợi thế về tuyến cửa khẩu biên giới, hạn chế của Lào Cai đã bộc lộ rõ hơn trên phương diện tạo ra những mặt hàng xuất khẩu chủ lực - có khối lượng xuất khẩu lớn, có hàm lượng lao động cao và có thị trường xuất khẩu rộng. Tuy nhiên, nhìn bao quát hơn, trong điều kiện của Lào Cai, việc tạo ra mặt hàng xuất khẩu chủ lực là hết sức khó khăn. Trước hết, là tiềm năng đất đai không cho phép Lào Cai tổ chức sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn, tạo ra các nông sản hàng hóa có khối lượng lớn như cao su, cà phê của Tây Nguyên hay lúa ở đồng bằng sông Cửu Long. Hai là, trình độ công nghệ và khả năng vốn đầu tư của nền kinh tế Lào Cai cũng hết sức hạn chế đã tạo nên trở ngại lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp, ngay cả công nghiệp chế biến các sản phẩm địa phương. Ba là, thị trường xuất khẩu của Lào Cai chủ yếu là thị trường vùng biên và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) - thị trường có cơ cấu sản xuất khá tương đồng với điều kiện của Lào Cai và lại có cơ cấu sản xuất khá tương đồng với điều kiện của Lào Cai và lại có nhiều lợi thế hơn Lào Cai trên nhiều phương diện: công nghệ, vốn, điều kiện tổ chức sản xuất,... Tình hình kinh doanh nhập khẩu tỉnh Lào Cai áp lực về mậu dịch biên giới Việt - Trung, cùng với sự kém phát triển về sản xuất hàng hóa trong nước nói chung và tỉnh Lào Cai nói riêng thì sự tăng nhanh chóng của kim ngạch nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lào Cai là tất yếu. Tuy nhiên, theo số liệu thống kê, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp trong tỉnh chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ và giảm dần so với tổng số kim ngạch nhập khẩu qua địa bàn Lào Cai. Cụ thể, kim ngạch nhập khẩu của doanh nghiệp trong tỉnh năm 1996 chiếm 28,00% sau giảm xuống còn 13,73% năm 1997 và 9,35% năm 1998. trong kim ngạch nhập khẩu của các đơn vị trong tỉnh Lào Cai, kim ngạch nhập khẩu trực tiếp của địa phương có xu hướng tăng ổn định qua các năm và đưa tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu trực tiếp tăng từ 24,07% năm 1996 lên 92,58% năm 1998. Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu của Lào Cai (Phân theo trực tiếp và ủy thác) đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số Trực tiếp % so với tổng số ủy thác % so với tổng số 1.000USD 1.000USD % 1.000USD % 3.921 2.763 70,46 1.158 29,54 8.455,4 2.035,7 24,07 6.419,7 75,93 6.454,9 3.839,3 59,47 2.615,6 40,53 3.794,2 3.334,6 87,88 459,6 12,11 3.613 3.613 100 - - Nguồn: Cục Thống kê Lào Cai và báo cáo kinh tế - xã hội năm 1998 (Ban Kinh tế Tỉnh ủy) tổng kim ngạch nhập khẩu qua địa bàn tỉnh Lào Cai, kim ngạch nhập khẩu chính ngạch cũng chiếm tỷ trọng áp đảo và giá trị khá ổn định trong vài năm gần đây. Kim ngạch nhập khẩu Lào Cai (Phân theo chính ngạch, tiểu ngạch) 1998 1999 Giá trị (1.000 USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000 USD) Tỷ trọng (%) Tổng số Chính ngạch Tiểu ngạch 47.018,6 44.752,1 2.266,5 100,00 95,18 4,82 44.659,1 44.108,2 550,9 100,00 98,76 1,24 Nguồn: Cục Hải quan Lào Cai (Báo cáo tổng kết năm 1997-1998) trong kim ngạch nhập khẩu trực tiếp của Lào Cai, phân theo nhóm hàng thì nhóm hàng vật tư hoá chất và nhóm hàng thiết bị, máy móc có xu hướng tăng khoảng 10%-25%/năm và chiếm tỷ trọng lớn, riêng các hàng hoá vật tư nông nghiệp lại có chiều hướng giảm, nhóm hàng hoá tiêu dùng chiếm tỷ trọng nhỏ và chủ yếu qua đường tiểu ngạch. Nhìn chung, cơ cấu nhập khẩu phân theo nhóm hàng của Lào Cai phần lớn phụ thuộc vào biểu thuế suất nhập khẩu (những mặt hàng cần phát triển sản xuất hay tiêu dùng trên thị trường quy định). thị trường nhập khẩu của Lào Cai, cũng tương tự như xuất khẩu, thị trường chủ yếu vẫn là vùng biên giới Trung Quôc (tỉnh Vân Nam). Trong đó, thị trường Trung Quốc đang ngày càng xác định rõ hơn về khả năng cung ứng các loại vật tư hoá chất không chỉ đối với nhu cầu tỉnh Lào Cai mà còn đối với phạm vi cả nước. Nhìn chung, từ thực trạng kinh doanh nhập khẩu của tỉnh Lào Cai nói riêng và hoạt động kinh doanh nhập khẩu trên địa bàn tỉnh nói chung cho thấy, kinh doanh nhập khẩu có phần phát triển nhanh hơn so với xuất khẩu. Tình trạng này, ngoài nguyên nhân về sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế của hai bên cũng như chính sách biên mậu của Trung Quốc còn có nguyên nhân về sự gia tăng của nhu cầu vật tư hoá chất cho sản xuất trong nước khi mà công nghiệp hoá chất của Việt Nam còn rất kém phát triển. Điều này có nghĩa là sự gia tăng nhanh hơn của kim ngạch nhập khẩu so với xuất khẩu qua tuyến biên Lào Cai không phải là trở ngại lớn trong chính sách phát triển kinh tế và chính sách phát triển thương mại của ngoại thương Việt Nam nói chung và Lào Cai nói riêng cần phải nghiên cứu sâu hơn về nhu cầu nhập khẩu hàng hoá của tỉnh Vân Nam để tìm ra sản phẩm xuất khẩu có ưu thế của Việt Nam qua tuyến biên giới này. Tóm lại, đánh giá chung về hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu trên địa bàn tỉnh Lào Cai cho thấy: Sự phát triển nhanh của ._.g mại Giải pháp về tổ chức, quy hoạch mạng lưới Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất và các phương tiện, điều kiện kinh doanh, mọi ranh giới thị trường đều bị tấn công, bị “xé rách”, không gian thương mại ngày càng mở rộng hơn ở tầm vĩ mô xuyên quốc gia, xuyên lục địa. Vì vậy, giải pháp về tổ chức quy hoạch mạng lưới thương mại tỉnh Lào Cai không thể và không chỉ bó hẹp trong phạm vi không gian lãnh thổ của tỉnh, nhất là trong điều kiện Lào Cai là tỉnh có lợi thế về phát triển thương mại quốc tế. Tuy nhiên, với giới hạn cố hữu về không gian lãnh thổ của một tỉnh, những hạn chế tất yếu về nguồn lực phát triển trước đòi hỏi đa dạng của thị trường trong và ngoài nước, và hơn nữa là tính hiệu quả trong phát triển đã ràng buộc mọi hướng phát triển phải xoay quanh các yếu tố thuộc về lợi thế so sánh, do đó, không gian thương mại của một tỉnh cũng cần được giới hạn. Giới hạn này sẽ được mở rộng trong quá trình phát triển chung, nhưng không thể mở rộng đến vô cùng. Trên cơ sở những vấn đề về lợi thế và hạn chế trong phát triển thương mại của Lào Cai, quy hoạch các vùng sản xuất, quy hoạch mạng lưới giao thông... để xem xét sự phân bổ không gian kinh tế nói chung của tỉnh Lào Cai, cho thấy hiện tại và tương lai, tuyến trục kinh tế động lực dọc sông Hồng kéo dài từ Trịnh Tường - Sơn Quyền (Bát Xát) qua Lào Cai - Cam Đường - Bảo Thắng xuống đến Bảo Yên, tuyến Dương Quỳ - Bảo Yên, Lào Cai - Sa Pa là những tuyến có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế thương mại. Trong điều kiện Lào Cai là một trong các tỉnh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, quốc lộ nối liền Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng là tuyến hành lang quan trọng trong quan hệ hợp tác và phát triển kinh tế trực tiếp giữa Hà Nội - trung tâm kinh tế lớn nhất Việt Nam với Vân Nam - Trung Quốc. Như vậy, có thể tổ chức không gian thương mại Lào Cai trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 dựa vào sự ảnh hưởng chủ yếu của tuyến trục này. Nói một cách hình tượng, tổ chức không gian thương mại tỉnh Lào Cai theo kiểu cấu tạo của “nam châm điện” với lõi là các tuyến trục và các cuộn dây là các hoạt động kinh tế trong và ngoài tỉnh gắn liền với sự phát triển thương mại của tỉnh. Điện từ trường mạnh hay yếu là sự phản ánh không gian thương mại được mở rộng hay bị thu hẹp và điều đó lại phụ thuộc vào cường độ hay chất lượng các hoạt động kinh tế. Như vậy, giải pháp quy hoạch mạng lưới không gian thương mại trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 là Lào Cai phải kích thêm “từ tính” cho lõi của nam châm bằng các chính sách cụ thề như: chính sách thu hút đầu tư, chính sách ưu đãi và khuyến khích phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh,... trên cơ sở “từ tính” sẵn có (nhưng còn yếu) nhờ sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, quyết định xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai của chính phủ, việc nâng cấp tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội... Đây là mô hình dựa vào khả năng phát huy nội lực Lào Cai. Mô hình này hàm chứa cả việc tổ chức thương mại nội tỉnh và thương mại hướng ngoại. Trong đó, trước hết là coi trọng tổ chức thương mại nội địa nhằm tạo nên tiền đề cho sự phát triển của tuyến, trục và từ sự phát triển của các trục tuyến này sẽ tạo nên khả năng hướng tới thị trường bên ngoài tỉnh, ngoài nước. Mặt khác, việc tổ chức các hoạt động thương mại nội tỉnh cũng cần phải tuân thủ nguyên tắc có ưu tiên để hướng tới sự phát triển của tuyến trục quan trọng này. Chẳng hạn, không xây dựng nhiều trung tâm thương mại độc lập với tuyến trục này, hoặc nếu xây dựng trung tâm, cụm thương mại ngoài tuyến trục thì phải xem nó như là một chân rết của tuyến trục trong tương lai... Giải pháp về vốn Từ thực trạng và yêu cầu phát triển thương mại, thị trường từ nay tới năm 2010, trên phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Lào Cai nói riêng cần phải thực thi các chính sách vốn và tài chính thích hợp ở cả tầm vĩ mô và vi mô, giúp doanh nghiệp kinh doanh thương mại thoát khỏi tình trạng khó khăn về vốn nhằm đẩy mạnh giao lưu thương mại, phát triển thị trường. Đối với các hoạt động kinh doanh thương mại chung của các thành phần kinh tế ở tầm vĩ mô, tỉnh cần có kiến nghị với Nhà nước Trung ương áp dụng các biện pháp nhằm huy động vốn trên thị trường (trong và ngoài nước) theo các pháp lệnh, cụ thể: Thiết lập các định chế nhằm tổ chức, phát triển thị trường vốn dài hạn, ngắn hạn, thị trường chứng khoán, hoàn thiện cơ chế tín dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào vòng luân chuyển vốn của xã hội. Huy động mọi tiềm năng về vốn trên thị trường theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt luật khuyến khích đầu tư trong nước nhằm thu hút mạnh và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông, lâm sản, thuỷ sản. Thành lập các công ty tài chính, thúc đẩy quá trình liên kết các công ty lớn, kinh doanh các mặt hàng quan trọng với quy mô và giá trị kinh tế cao, tạo điều kiện tích tụ và tập trung vốn. Thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước theo hướng Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với doanh nghiệp lớn. Thực hiện phát hành cổ phiếu thu hút vốn đầu tư của cán bộ nhân viên và của xã hội nhằm phát triển doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh. áp dụng các biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu thông qua biện pháp tín dụng xuất khẩu, cho doanh nghiệp xuất khẩu vay với lãi suất ưu đãi. Vốn bỏ ra cho việc sản xuất và thực hiện các hợp đồng xuất khẩu thường rất lớn. Người xuất khẩu cần có được một số vốn trước và sau khi giao hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Do đó, Nhà nước có biện pháp khuyến khích xuất khẩu thông qua cơ chế cho vay với lãi suất tín dụng xuất khẩu thấp hơn lãi suất thương mại, để góp phần tăng khả năng cạnh tranh vốn, Nhà nước cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu này liên kết chặt chẽ với sản xuất, ứng trước vốn, tư liệu sản xuất cho người sản xuất, chế biến, ổn định nguồn hàng xuất khẩu với chất lượng tốt, số lượng đảm bảo hợp đồng xuất khẩu. Về phía các doanh nghiệp kinh doanh thương mại của tỉnh để tạo vốn kinh doanh tăng khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, cần áp dụng các biện pháp sau: Mỗi doanh nghiệp thương mại trên cơ sở tiềm năng của mình về vốn, lao động, kỹ thuất, lợi thế thương mại cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh và tổ chức thực hiện, áp dụng các biện pháp nhằm tăng khối lượng hàng hóa sản xuất kinh doanh được tiêu thụ nhằm tăng lợi nhuận, đảm bảo việc làm, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên, tăng các khoản nộp ngân sách và điều cơ bản là tích luỹ thêm vốn tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của đơn vị. Đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh cần có phương án cụ thể được bàn bạc thống nhất trên cơ sở nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn. Phương án mở rộng sản xuất kinh doanh phải đề cập tới các yếu tố như nguồn vốn đầu tư, thời hạn thu hồi vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm, yếu tố cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, phương án trả gốc và lãi (nếu tiền đầu tư là tiền đi vay) tránh rủi ro, tổn thất về tài chính cho doanh nghiệp. Thường xuyên xem xét đánh giá lại toàn bộ tài sản của doanh nghiệp để có biện pháp khai thác hiệu quả hơn cơ sở vật chất kỹ thuật của đơn vị. Đồng thời, áp dụng biện pháp tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, áp dụng các phương thức bán hàng văn minh, thuận tiện nhằm tiêu thụ nhanh hàng hóa, hồi vốn nhanh, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng hàng hoá tồn đọng vừa gây đọng vốn, vừa phải chi phí cho bảo quản, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. áp dụng các biện pháp tránh thất thoát vốn, nợ khó đòi, chiếm dụng vốn của doanh nghiệp bằng cách thanh toán kịp thời tiền bán hàng. Thiết lập quan hệ bạn hàng trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau nhưng phải có biện pháp nắm tình trạng tài chính của khách hàng để có phương thức bán hàng thích hợp. Chấn chỉnh quy chế quản lý tài chính trong nội bộ doanh nghiệp theo đúng chế độ chính sách hiện hành của Nhà nước. Để tạo vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cần tăng cường liên doanh, liên kết, thu hút vốn từ các thành phần kinh tế. Muốn vậy, cần xây dựng được cơ cấu đầu tư hợp lý có khả năng thu hútđối tác trong và ngoài nước góp vốn liên doanh xây dựng các công trình thương mại như trung tâm thương mại, siêu thị, cụm thương mại, chợ,... dưới các hình thức thành lập công ty cổ phần để kêu gọi vốn của các cổ đông; hợp tác đầu tư xây dựng và phân chia diện tích sử dụng các công trình thương mại. Đối với các doanh nghiệp thương mại Nhà nước Một là, để tạo lượng vốn cần thiết, đủ mạnh để phát huy vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp TMNN tỉnh Lào Cai cần khai thác tốt các nguồn vốn: Nguồn vốn từ ngân sách: đề nghị Nhà nước cấp bổ sung đủ 30% vốn lưu động định mức cho các doanh nghiệp có phương án và chiến lược kinh doanh rõ ràng cả ở tầm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp công ích, những doanh nghiệp kinh doanh ở ngành hàng mũi nhọn, tỉnh Lào Cai cần có kiến nghị để Nhà nước có chính sách nới lỏng hạn chế khi cấp phát vốn lớn hơn định mức quy định chung. Nguồn vốn từ ngân hàng: đây là nguồn vốn chủ yếu đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp TMNN. Ngân hàng nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi cho vay phù hợp với loại hình doanh nghiệp TMNN, phù hợp với từng mặt hàng, ngành hàng và vòng chu chuyển của từng loại hàng hoá; cần nâng tỷ lệ khoản vay vốn trung và dài hạn, nhất Lào Cai vốn dài hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược, có thời gian chu chuyển vốn dài. Bên cạnh đó, phải có chính sách tài trợ đối với một số mặt hàng thiết yếu, như: giấy vở học sinh, lương thực, muối iốt, một số mặt hàng thực hiện chính sách xã hội, ... thông qua hỗ trợ lãi suất vay trong một thời gian nhất định. Các nguồn vốn khác: các doanh nghiệp TMNN cần phải nâng cao khả năng sử dụng vốn, tăng nhanh vòng quanh và lập phương án kinh doanh có hiệu quả, tăng tích luỹ nội bộ. Những doanh nghiệp TMNN trong tỉnh đã được xác định cổ phần hoá cần được tiến hành nhanh, thông qua đó huy động nguồn vốn từ cổ động, từ huy động cổ phiếu, trái phiếu, từ vốn góp của các thành viên. Hai là, đẩy mạnh thu hồi công nợ bằng nhiều biện pháp. Những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thất thoát vốn đều phải đưa ra xem xét từng trường hợp cụ thể, quy trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể để có phương thức xử lý thoả đáng. Các doanh nghiệp còn nợ nhưng đang kinh doanh có hiệu quả, tỉnh nên khoanh nợ, có thể ghi giảm vốn lưu động cho doanh nghiệp tự cân đối lại tổng nguồn vốn; và/ hoặc cho phép thanh lý hay bán tài sản cố định không cần dùng và cho phép doanh nghiệp chuyển thành vốn lưu động. Các doanh nghiệp không còn khả năng trả nợ hoặc cố tình dây dưa công nợ nên chuyển sang các cơ quan pháp luật để xử lý. Ba là, các doanh nghiệp TMNN, doanh nghiệp TMNN nên chú trọng mở rộng liên doanh, liên kết và phát triển hình thức đại lý cho các doanh nghiệp sản xuất, nhất là các doanh nghiệp sản xuất tại Hà Nội và nhiều khâu, tiết kiệm được vốn ứng trước, tăng nhanh vòng quay của vốn, tận dụng được các cơ sở vật chất (cửa hàng, kho tàng, phương tiện, vận chuyển), tiết kiệm lao động xã hội, tăng hiệu quả kinh doanh. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực Từ thực trạng và định hướng của tỉnh về công tác đào tạo đội ngũ lao động, xuất phát từ yêu cầu thực tế phát triển ngành thương mại Lào Cai từ nay tới năm 2010, cần áp dụng các biện pháp nhằm xây dựng lực lượng lao động thương mại đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thương mại nhiều thành phần, thích ứng với từng vùng, từng ngành hàng của địa phương. Đối với doanh nghiệp thương mại quy mô lớn, cần có đội ngũ lao đông chuyên sâu nghiệp vụ trong từng lĩnh vực: cán bộ marketing mua - bán hàng, cán bộ kinh doanh, kế hoạch, tài chính - kế toán, lao động, quản trị kinh doanh với các loại trình độ từ sơ cấp đến đại học được bố trí vào các cương vị hợp với nhu cầu công tác. Đối với doanh nghiệp kinh doanh với quy mô nhỏ, các hộ kinh doanh cần nắm kiến thức tổng hợp, yêu cầu trình độ vừa phải, không bắt buộc phải chuyên sâu nghiệp vụ chuyên môn. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương và ở doanh nghẹp băng cách rà soát, sắp xếp, điều chỉnh đội ngũ cán bộ hiện có, kể cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt. Bổ sung những cán bộ đủ tiêu chuẩn, có triển vọng, đồng thời thay những cán bộ không đủ năng lực, vi phạm đạo đức, pháp luật. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và hình thành đội ngũ cán bộ nghiệp vụ chuyên môn có năng lực kinh doanh, có đức, có tài. Hình thức đào tạo như: Mở các lớp ngắn hạn đào tạo tại địa phương và doanh nghiệp về công tác thương mại và thị trường trong và ngoài nước. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân viên đang công tác lĩnh vực thương mại của tỉnh, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ làm công tác xuất - nhập khẩu có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ nhằm phát triển hoạt động kinh doanh này của địa phương. Có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi tuyển chọn cán bộ trẻ, gửi đi đào tạo trong và ngoài nước với thời gian nhất định để có lớp cán bộ thương mại kế cận, có đủ trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học phục vụ phát triển ngành thương mại tỉnh nhà. Phát triển hình thức đào tạo từ xa với giáo trình, bài giảng cô đọng, dễ hiểu, cung cấp kiến thức tổng hợp, đáp ứng nhu cầu đào tạo của các hộ kinh doanh nhỏ, nâng cao kiến thức trong lĩnh vực quản trị kinh doanh thương mại. có kế hoạch tuyển chọn và đề ra tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, nhân viên mới vào công tác trong lĩnh vực thương mại trong đó quy định rõ trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ tin học, ngoại ngữ, độ tuổi. Đặc biệt, chú ý tiêu chuẩn tuyển chọn cán bộ, nhân viên vào làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực thương mại và tại các doanh nghiệp thương nghiệp Nhà nước, để đội ngũ này thực sự là những nhân tố tạo nên sự thành công trong hoạt động thương mại, góp phần to lớn vào sự phát triển của tỉnh trong giai đoạn sắp tới. Nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó có lĩnh vực thương mại. Việc áp dụng biện pháp nhằm nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực thương mại là hết sức cần thiết, đòi hỏi sự quan tâm không chỉ của những người làm công tác thương mại mà của các cấp, các ngành trong tỉnh nhằm tạo ra đội ngũ lao động giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có trình độ ngoại ngữ, tin học, đáp ứng được yêu cầu phát triển ngành thương mại, Lào Cai từ nay tới 2010, phục vụ sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải pháp về cơ sở hạ tầng Trong thời gian tới nâng cấp thị xã Lào Cai và thị xã Cam Đường, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để sau năm 2010 hai thị xã này sẽ trở thành thành phố của một tỉnh biên giới phía Bắc, phát triển tương xứng với các thành phố biên giới của nước lân cận. Hình thành mạng lưới thị trấn được coi như những đô thị vệ tinh cho thị xã Lào Cai, có sức hút ảnh hưởng kinh tế đối với các vùng khác nhau trong tỉnh. Song song với việc nâng cấp hai thị xã, các thị trấn, thị tứ cũng sẽ đầu tư về cơ sở hạ tầng để nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại phát triển. Chính sách và cơ chế Quán triệt đường lối đổi mới của Đảng và Chính phủ, trong thời gian qua nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được ban hành. Trong đó, có các văn bản về cơ chế quản lý, chính sách, biện pháp, điều hành hoạt động thương mại; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn theo pháp luật; nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của các Sở thương mại; phổ biến rộng rãi các Luật, Nghị định, các chủ trương, chính sách liên quan đến hoạt động thương mại như chính sách xuất - nhập khẩu, chính sách thuế, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, chính sách tự do lưu thông hàng hoá trên thị trường, chính sách về phát triển thương nghiệp biên giới ... Công tác quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại là nội dung rất quan trọng, tuy nhiên đây lại là những lĩnh vực còn nhiều yếu kém. Điều đó, đòi hỏi phải có chính sách và giải pháp tiếp tục hoàn thiện nhằm tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại thông qua việc hoàn thiện và đổi mới cơ chế chính sách trong quản lý thương mại. ở tầm vĩ mô, cần hoàn thiện hệ thống các công cụ quản lý mà công cụ quản lý quan trọng nhất là hệ thống các văn bản pháp quy, hệ thống cơ chế chính sách và đòn bẩy kinh tế. Đồng thời, phải sử dụng các lực lượng kinh tế của Nhà nước để can thiệp trực tiếp vào thị trường khi thị trường có biến động lớn. Muốn vậy, cần phải hoàn thiện bộ máy quản lý và tăng cường công tác quản lý thị trường, đấu tranh chống buôn lậu. đến nay, Nhà nước đã xây dựng và hoàn thiện một bước các chính sách phát triển thị trường, tạo hành lang pháp lý cho thị trường có nhiều tành phần kinh tế tham gia thông suốt và thống nhất trong cả nước, mở cửa với bên ngoài, qua đó thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nội địa và xuất - nhập khẩu phát triển. Đặc biệt, trong năm 1998 công tác xây dựng pháp luật, chính sách và cơ chế quản lý thương mại có nhiều chuyển biến tích cực. Bộ thương mại đã chủ động phối hợp với các Bộ có liên quan khẩn trương xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách khuyến khích xuất khẩu như mở rộng quyền xuất - nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Luật thương mại đã được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1998, đồng thời Bộ đã triển khai các dự thảo Nghị định của Chính phủ để hướng dẫn một số điều quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể thi hành Luất thương mại . Luật thương mại đã được thực hiện trên thực tế, trong quản lý cũng như trong kinh doanh thương mại, góp phần làm lành mạnh hoá các hoạt động thương mại và tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho thương mại Việt Nam từng bước hội nhập với thị trường thế giới và khu vực. Tuy nhiên, khâu soạn thảo Nghị định, hướng dẫn thi hành Luật thương mại cho các thương nhân còn chậm so với yêu cầu, đã phần nào hạn chế tác dụng của Luật thương mại từ khi ban hành. Bộ thương mại cũng đã tiến hành rà soát lại các văn bản pháp quy trong hoạt động thương mại để kịp thời bổ sung sưả đổi phù hợp với yêu cầu quản lý trong tình hình mới; phối hợp với Tổng cục hải quan rà soát, bổ sung, sửa đổi các quy định về thủ tục xuất - nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu cải cách hành chính; triển khai một bước quan trọng việc cải cách thủ tục hành chính nhằm đơn giản hoá và công khai hoá quy trình giải quyết công việc trong quan hệ với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài trên lĩnh vực xuất - nhập khẩu, gia công, cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện của các tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam và văn phòng đại diện các tổ chức kinh tế Việt Nam ở nước ngoài; đồng thời, đã hoàn thiện và ban hành quy chế làm việc của Bộ thương mại để thực hiện chuyển biến mới về cung cách làm việc của Bộ, nâng cao hiệu lực quản lý, giảm bớt sự phàn nàn về tệ quan liêu... Hướng hoàn thiện luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý thương mại trong thời gian tới cần tập trung: Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thương mại cho các thương nhân trên địa bàn tỉnh. Tiếp tục rà soát các văn bản pháp quy hiện hành để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Kiện toàn tổ chức quản lý Nhà nước về thương mại ở địa phương, căn cứ vào yêu cầu và nội dung quản lý xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy các cấp từ tỉnh đến các bộ phận quản lý hoạt động thương mại ở huyện. Hoàn thiện tổ chức quản lý thương mại cấp huyện theo hướng thành lập Phòng công thương nghiệp huyện có chức năng hướng dẫn, kiểm tra, giám sát nhằm hỗ trợ sự phát triển hoạt động thương mại sâu rộng trên địa bàn. Về công tác quản lý thị trường, đấu tranh chống buôn lậu tại địa phương tiếp tục thực hiện Chỉ thị 853/CT của Thủ tướng Chính phủ về chống buôn lậu, buôn bán hàng giả; gian lận thương mại và chỉ đạo của UBND tỉnh về tổng kiểm tra giấy phép kinh doanh các cơ sở kinh doanh ngoài quốc doanh; kiện toàn và sắp xếp lại hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ trong hệ thống quản lý thị trường theo quy định của luật thương mại; xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý thị trường. Đồng thời, phải tổ chức sự phối hợp giữa các lực lượng, đề cao trách nhiệm của các ngành chức năng trên địa bàn; kết hợp biện pháp kinh tế với hành chính, lấy biện pháp kinh tế là chủ yếu để thực hiện tốt công tác chống buôn lậu, sản xuất và kinh doanh hàng giả, hàng nhái mác và những hành vi vi phạm Luật thương mại trên thị trường. áp dụng các biện pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thương mại trên địa bàn tỉnh thông qua việc tiếp tục triển khai thực hiện tốt các văn bản về cơ chế quản lý, chính sách, biện pháp điều hành hoạt động thương mại, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn theo đúng pháp luật góp phần nâng cao vai trò quản lý Nhà nước của Sở thương mại, thúc đẩy hoạt động thương mại và thị trường không ngừng phát triển, có đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà trong giai đoạn tới. Chương IV: Chương IV: Kết luận và kiến nghị Chiến lược phát triển thương mại tỉnh Lào Cai đến năm 2010 được thực hiện trên cơ sở điều tra, khảo sát thực tế hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh nói chung và khu vực cửa khẩu Lào Cai nói riêng. Đồng thời, chiến lược cũng đã tiếp cận các nguồn thông tin, số liệu khác nhau phản ánh thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, cũng như tại khu vực cửa khẩu Lào Cai. Từ những vấn đề thực trạng và tiềm năng, triển vọng phát triển kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực thương mại của tỉnh, của các vùng kinh tế phụ cận, cũng như tình hình và triển vọng phát triển quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt những vấn đề về lợi thế phát triển thương mại của tỉnh với sự hiện diện của các cửa khẩu quốc tế và quốc gia đang đặt ra yêu cầu cần thiết phải thúc đẩy nhanh sự phát triển các hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh. Điều đó có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay và càng quan trọng hơn trong những năm tiếp theo. Trên cơ sở các kết quả khảo sát, nghiên cứu, chiến lược đã phác thảo những nội dung cơ bản quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Lào Cai một cách toàn diện và cần thiết, trong giai đoạn từ nay đến 2010. Đồng thời, chiến lược cũng nêu lên những chính sách và giải pháp phát triển thị trường, phát triển thương mại đến 2010. Tất cả những điều đó nhằm tạo ra một khu vực mà thương mại và thị trường phát triển phong phú sống động, không chỉ có ý nghĩa thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai, mà còn có sức hấp dẫn và lan toả đối với các vùng phụ cận và cả nước. Tuy nhiên để chiến lược phát triển thương mại thực hiện, ngoài các giải pháp đã nêu, tôi xin có một số kiến nghị thực hiện chiến lược phát triển thương mại tỉnh đến năm 2010: Tổ chức triển khai thực hiện các nội dung quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 Sở thương mại - du lịch làm tờ trình đề nghị UBND tỉnh thành lập Ban chỉ đạo thực hiện chiến lược quy hoạch phát triển thương mại tỉnh đến năm 2010, trong đó: Sở thương mại - du lịch là cơ quan chủ trì thực hiện Các cơ quan phối hợp là Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở xây dựng, Sở tài chính, Sở giao thông và các Ban, Ngành khác. Ban chỉ đạo có nhiệm vụ, như: huy động vốn địa phương; tìm kiếm nguồn hỗ trợ bên ngoài; lập chương trình khuyến cáo để thu hút các doanh nghiệp, các thương gia tham gia đầu tư xây dựng và tổ chức các hoạt động kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh; giải quyết các vấn đề liên quan đến các cấp quản lý và các vấn đề liên ngành khác... Trên cơ sở chiến lược phát triển thương mại, Sở thương mại - du lịch Lào Cai đề xuất với UBND tỉnh cho phép triển khai tiếp tục các đề án nhánh, như: Đề án chi tiết xây dựng các trung tâm thương mại tỉnh, nhất là các trung tâm thương mại trọng yếu có tính chất phát luồng. Đề án chi tiết xây dựng hệ thống chợ trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn đến năm 2010. Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp kinh doanh thương mại của tỉnh, trong đó chú trọng đến thị trường tiêu thụ, nhất là thị trường xuất khẩu, thị trường ngoài tỉnh. Các giải pháp tạo nguồn, huy động vốn cho thực hiện quy hoạch xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 Thành lập doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh bất động sản phục vụ cho nhu cầu phát triển mạng lưới kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh. Xác định rõ tính chất các hạng mục công trình thương mại theo tính chất sử dụng, ý nghĩa đối với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, khả năng đầu tư vì mục đích kinh doanh hay hỗ trợ chung cho các đối tượng kinh doanh. Đối với các công trình thương mại quy mô lớn như xây dựng các trung tâm thương mại, chợ đầu nguồn, hệ thống kho và các điểm bán hàng của TNQD ở các huyện biên giới,... khó huy động vốn các nguồn khác, đề nghị UBND tỉnh có kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách địa phương thông qua doanh nghiệp Nhà nước có chức năng kinh doanh, cho thuê các công trình thương mại. Ngoài sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cho ngành thương mại, biện pháp kêu gọi tham gia đầu tư của các doanh nghiệp và tư nhân trong và ngoài tỉnh vào xây dựng các hạng mục công trình phục vụ cho hoạt động thương mại tại địa phương là rất quan trọng nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào phát triển sản xuất - kinh doanh của địa phương. Hình thức huy động có thể là phát hành cổ phiếu của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản; bán cho thuê diện tích sử dụng; đầu tư trực tiếp của ngân hàng và các quỹ tín dụng; ... Xác định rõ ràng phạm vi xây dựng phát triển các công trình thương mại tại các trung tâm thương mại tỉnh. Từ đó, lập phương án bán quyền sử dụng đất và cho thuê đất, trong đó xác định rõ tỷ lệ, vị trí đất bán, đất cho thuê trên bản thiết kế chi tiết; xây dựng giá bán, giá thuê đất và quyền sử dụng đất ở những khu vực quy hoạch phát triển các công trình thương mại. Với chiến lược phát triển thương mại tỉnh Lào Cai từ nay đến năm 2010 cùng với sự quan tâm đầu tư phát triển của các cơ quan chức năng, hy vọng rằng trong tương lai, khi chiến lược phát triển thương mại được thực hiện, một mặt, sẽ góp phần phát triển mạnh mẽ hơn thương mại và thị trường Lào Cai, đồng thời còn thúc đẩy và mở rộng các quan hệ giao lưu thương mại, du lịch, dịch vụ, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật,... với đất nước láng giềng Trung Quốc, cũng như với các nước trong khu vực ASEAN và các nước khác. Mặt khác, chiến lược phát triển thương mại tỉnh Lào Cai cũng sẽ được ghi nhận như một bước khởi đầu của thời kỳ hội nhập và tự do hoá thương mại của Việt Nam với các nước trong khu vực. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Vai trò của thương mại đối với phát triển kinh tế - xã hội Tỉnh Lào Cai 3 I. Một số vấn đề về hoạt động thương mại 3 1. Khái niệm 3 2. Các vấn đề lý luận về hoạt động thương mại 4 3. Vai trò của thương mại đối với phát triển kinh tế xã hội 8 II. Những đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của tỉnh Lào Cai 9 1. Đặc điểm tự nhiên 9 2. Đặc điểm điều kiện xã hội 11 3. Đặc điểm kinh tế 14 4. Những thuận lợi và hạn chế đối với hoạt động thương mại 14 III. Vai trò của ngành thương mại trong phát triển kinh tế xã hội ở Tỉnh Lào Cai 19 1. Đối với tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế 20 2. Đối với lao động và giải quyết việc làm 20 3. Đối với tích luỹ và đầu tư 21 4. Đối với việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài và tăng cường công nghệ 21 5. Thức đẩy phát triển đời sống kinh tế xã hội 22 Chương II: Thực trạng phát triển của ngành thương mại Lào Cai 23 I. Đánh giá về tốc độ phát triển 23 1. Thực trạng lưu chuyển hàng hoá 23 2. Thực trạng kinh doanh xuất nhập khẩu 26 II. Đánh giá về hiệu quả sử dụng lợi thế và nguồn lực 35 1. Lợi thế vùng biên 35 2. Lao động 36 3. Vốn đầu tư 38 III. Những kết luận rút ra từ thực trạng 44 1. Những kết quả đã đạt được 44 2. Những hạn chế về nguyên nhân 44 Chương III; Phương hướng và giải pháp phát triển ngành thương mại tỉnh Lào Cai 47 I. Phân tích đánh giá dự báo các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển thương mại 47 1. Lợi thế về tự nhiên và sản xuất 47 2. Cơ sở hạ tầng, sự phát triển thị trường 48 3. Nguồn nhân lực 49 4. Mối quan hệ giữa thương mại: Công nghiệp và nông nghiệp 52 II. Phương hướng phát triển thương mại tỉnh Lào cai đến năm 2010 54 1. Vai trò ngành thương mại trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tỉnh Lào Cai 54 2. Quan điểm và mục tiêu phát triển thương mại tỉnh Lào Cai 55 III. Lựa chọn cơ cấu và định hướng phát triển 63 1. Cơ cấu thành phần 63 2. Phát triển chợ nông thôn 66 3. Phát triển các trung tâm thương mại 68 4. Phát triển xuất nhập khẩu - kinh tế cửa khẩu 69 IV. Các giải pháp thực hiện phương hướng phát triển thương mại tỉnh Lào Cai 71 1. Giải pháp về tổ chức, quy hoạch mạng lưới 71 2. Giải pháp về vốn 72 3. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 76 4. Giải pháp về cơ sở hạ tầng 78 5. Chính sách và cơ chế 78 Chương IV. Kết luận và kiến nghị 82 Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế phát triển, tập I, II, NXB thống kê Hà Nội, 1999 Giáo trình Kinh tế thương mại, NXB Thống kê 2001. Niên giám Thống kê 1991-1995. Cục Thống kê tỉnh Lào Cai, NXB Thống kê Hà Nội, 1996. Quy hoạch phát triển thương mại trên địa bàn tỉnh Lào Cai đến năm 2010. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai từ 1995-1999 và ước năm 2000. Cục Thống kê Lào Cai - Lào Cai 5/1/2000. Báo cáo tổng hợp: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai thời kỳ 1995-2010. Lào Cai tháng 10/1995. Báo cáo tổng kết của Sở Thương mại - Du lịch Lào Cai các năm 1996, 1997, 1998, 1999. Báo cáo tổng kết của Cục hải quan Lào Cai các năm 1996, 1997, 1998, 1999. Dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai lần thứ III. Tạp chí, báo Thương mại, Kinh tế phát triển, Đầu tư,… Một số tài liệu tham khảo khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV579.DOC
Tài liệu liên quan