Thực trạng và giải pháp trong hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Tây

Lời mở đầu 1- Tính tất yếu của việc hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn hiện nay , chúng ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa hội nhập vào nền kinh tế khu vực cũng như tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá với các hiệp định thương mại song phương, đa phương, hoạt động cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và toàn diện hơn. Được ví như “ trái tim của nền kinh tế ”, hệ thống Ng

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp trong hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân hàng đang trở mình trong công cuộc đổi mới đất nước. Bên cạnh việc giữ vững và hoàn thiện các nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống, các Ngân hàng thương mại hiện nay còn không ngừng tiếp cận và mở rộng các dịch vụ Ngân hàng tiên tiến khác. Việc đa dạng hoá các nghiệp vụ sẽ góp phần quan trọng tới sự bền lâu của Ngân hàng. Đây cũng là phương châm cho các Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện nay. Bảo lãnh Ngân hàng được coi là một trong những dịch vụ Ngân hàng hiện đại. Nghiệp vụ này bắt đầu xuất hiện trên thế giới từ những thập niên 70 . Nhờ những ưu điểm trong việc chống đỡ các rủi ro nên bảo lãnh Ngân hàng đã nhanh chóng chiếm ưu thế và được áp dụng rộng rãi trong các giao dịch thương mại quốc tế. Tuy nhiên ở Việt Nam, đối với các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển nói riêng , nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng mới được đưa vào thực hiện và còn khá mới mẻ , chỉ dừng lại ở một số loại hình bảo lãnh đơn giản và trong quá trình thực hiện vẫn gặp nhiều khó khăn vướng mắc . Mặc dù thời gian qua nghiệp vụ bảo lãnh đã có sự phát triển không ngừng nhưng nó vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế và chưa tương xứng với vai trò của nó đối với nền kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng thương mại nói riêng Do vậy, việc nghiên cứu hoạt động bảo lãnh để đưa ra những giải pháp áp dụng vào thực tiễn sao cho phát huy hết được vai trò của nó không chỉ là mối trăn trở của các nhà nghiên cứu, các cán bộ Ngân hàng mà còn là mối quan tâm sâu sắc của chúng em – những sinh viên sắp bước vào ngành . 2- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu :Vấn đề hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại NHĐT&PTHT trong đó chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu loại hình bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh bảo hành công trình, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm… Phạm vi nghiên cứu : Nghiên cứu về hoạt động bảo lãnh tại NHĐT&PTHT trong thời gian từ năm 2000 đến nay. 3- Mục đích và phương pháp nghiên cứu. Mục đích : Tiếp cận hoạt động bảo lãnh và phân tích thực trạng hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT&PTHT để thấy rõ vai trò của hoạt động bảo lãnh đối với Ngân hàng , trên cơ sở đó đề ra các giải pháp , kiến nghị nhằm hoàn thiện nghiệp vụ này. Phương pháp : Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp , phân tích so sánh kết hợp với phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. 4- Kết cấu củachuyên đề: Trong khuôn khổ có hạn của chuyên đề , em xin đề cập những vấn đề sau: - Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung về bảo lãnh Ngân hàng . - Chương 2 : Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại NHĐT&PTHT - Chương 3: Những giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT . Em xin trân trọng cảm ơn các thày cô giáo trong khoa Tiền tệ – thị trường vốn đã dày công giảng dạy , dìu dắt chúng em trong suốt khoá học vừa qua. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – thạc sĩ Tô Kim Ngọc chủ nhiệm khoa Tiền tệ – thị trường vốn – người đã dành nhiều tâm huyết chỉ bảo và hướng dẫn em trong thời gian thực tập tại trường . Đồng thời em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ tại chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây đặc biệt là các cô chú , các anh chị làm việc tại phòng tổ chức, phòng tín dụng 1 và phòng nguồn vốn đã tận tình giúp đỡ chỉ bảo em trong thời gian thực tập vừa qua và xem xét đóng góp ý kiến cho chuyên đề thực tập của em. Chương 1: Những vấn đề chung về bảo lãnh ngân hàng 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng 1.1.1. Sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là khách tất yếu khách quan Xã hội loài người đã lần lượt trải qua các hình thức kinh tế tự nhiên, kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế tự nhiên sản phẩm sản xuất ra chỉ để phục vụ người sản suất do năng xuất lao động thấp chỉ đủ đáp ứng nhu cầu của bản thân, không có của cải dư thừa. Sản xuất hàng hóa ra đời đã tạo ra bước nhảy vọt trong đời sống kinh tế, xã hội và tạo điệu kiện thúc đẩy sự phát triển của thương mại, phân công lao động, chuyên môn hóa sâu sắc. Sự phát triển thương mại đă làm tăng số lượng , giá trị và tốc độ các giao dịch giữa các doanh nghiệp và đă vượt qua biên giới của một quốc gia. Thương mại phát triển đă kéo theo sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các doanh nghiệp trên mọi lĩnh vực. Để giành thắng lợi, các doanh nghiệp cần có vốn để đổi mới sản phẩm công nghệ đáp ứng nhu cầu thị trường từ đó kéo theo sự phát triển của tín dụng. Tín dụng khi đó không những bao gồm quan hệ cung ứng vốn giữa các tổ chức trong nước mà còn giữa các nước, các khu vực trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Khi thương mại mở rộng không biên giới sẽ dẫn đến sự thiếu hụt thông tin. Các giao dịch diễn ra với đặc điểm tăng về số lượng, phức tạp hơn trong thời gian dài và trên phạm vi toàn cầu. Cùng một lúc doanh nghiệp phải giao dịch với nhiều bạn hàng khác nhau nên thiếu hụt thông tin về bạn hàng cũng như đối thủ cạnh tranh từ đó có thể dẫn đến rủi ro về đạo đức do bạn hàng không thực hiện các hợp đồng đã ký kết. Hoặc khi đã thu thập đầy đủ thông tin thì cơ hội kinh doanh đã bị bỏ lỡ. Chi phí để có được thông tin cần thiết cũng là không nhỏ. Sự thiếu hiểu biết về nhau sẽ làm các bên không có đủ độ tín nhiệm để đi đến ký kết hợp đồng. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động thương mại. Như vậy, bản thân nền kinh tế xuất hiện nhu cầu có một công cụ ra đời để ngăn ngừa rủi ro từ phía đối tác kinh doanh , khắc phục tình trạng không cân xứng về thông tin, tạo sự yên tâm cho các bên tham gia giao dịch. Về mặt thanh toán, các rủi ro đã được kiểm soát bằng hình thức tín dụng chứng từ, bảo đảm hối phiếu. Còn các rủi ro về việc không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng chính là cơ sở cho việc ra đời một công cụ mới, một loại dịch vụ mới - đó là bảo lãnh. Để thực hiện nghiệp vụ này đòi hỏi phải có một bên thứ ba đứng ra đảm bảo để các bên yên tâm thực hiện hợp đồng. Ngân hàng là một trung gian tài chính có khả năng đảm bảo về mặt tài chính , có uy tín trong kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế đồng thời có khả năng nắm bắt thông tin nhanh chóng, kịp thời. Do đó, Ngân hàng hoàn toàn có khả năng đứng ra cung ứng loại hình dịch vụ này. Những lý do trên đã chứng tỏ sự ra đời của bảo lãnh Ngân hàng là tất yếu khách quan. 1.1.2. Quá trình phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. Nếu như thư tín dụng đã được các Ngân hàng sử dụng rộng rãi từ những năm 30 thì bảo lãnh Ngân hàng mới chỉ xuất hiện vào những năm 60 trên thị trường nội địa nước Mỹ. Đến những năm 70 loại hình dịch vụ hiện đại này mới được áp dụng rộng rãi trong giao dịch thương mại quốc tế. Giai đoạn này, một số quốc gia ở Trung Đông đã giàu lên nhanh chóng nhờ sản xuất dầu lửa. Họ liên tục phải ký kết những hợp đồng kinh tế lớn với các nước phương Tây để thực hiện dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, dự án canh tân công nông nghiệp, quốc phòng…Giá trị rất lớn của các hợp đồng cũng như thế mạnh của các quốc gia Trung Đông đã cho phép họ phải có một sự đảm bảo chắc chắn về phía đối tác khi tham gia vào các giao dịch. Những bảo lãnh độc lập do ngân hàng của các nước phương Tây phát hành đã thực sự đáp ứng được yêu cầc về sự thuận tiện và an toàn cho các quốc gia nhập khẩu. Từ đó đến nay, bảo lãnh Ngân hàng đã thực sự phát huy tác dụng trong giao dịch trên mọi lĩnh vực trong và ngoài nước: cả tài chính và phi tài chính, thương mại và phi thương mại. Với sự phát triển của thương mại quốc tế, các giao dịch ngày càng mang tính toàn cầu, ngày càng có nhiều thương vụ có giá trị lớn và các dự án đầu tư mang tính phức tạp có phạm vi rộng. Tầm cỡ và sự phức tạp của các giao dịch đòi hỏi và thúc đẩy sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng. Việt Nam sau năm 1990, hệ thống ngân hàng đã được đổi mới một cách đáng kể trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, bắt đầu hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Kể từ đầu những năm 90 hệ thống các ngân hàng thương mại đã không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước trong đó nghiệp vụ bảo lãnh và tái bảo lãnh được phát triển như một tất yếu khách quan. Những năm đầu mới thực hiện, do chưa có sự chỉ đạo thống nhất bằng các văn bản pháp lý chặt chẽ nên hoạt động bảo lãnh chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế. Từ năm 1994, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định 196/ QĐ- NH 14 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh thay cho quyết định 192/ NH- QĐ ban hành ngày 17/9/1992. Với quy chế này, NHNN đã bước đầu tạo ra cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho nghiệp vụ bảo lãnh. Ngày 25/8/2000 Thống đốc NHNN ra quyết định số 283/ 2000- QĐ/ NHNN14 về việc ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng để thay thế cho các quy chế trước đây. Đến nay, các hoạt động bảo lãnh của ngân hàng đã phát triển một cách nhanh chóng với xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế trong và ngoài nước với loại hình ngày càng phong phú, đa dạng. Doanh số của nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng cao cho thấy tiềm năng phát triển của loại hình dịch vụ này ở nước ta là rất lớn. 1.2. Bản chất và đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng. 1.2.1. Khái niệm bảo lãnh- bảo lãnh Ngân hàng. Trước khi tìm hiểu khái niệm bảo lãnh ngân hàng chúng ta tìm hiểu qua về khái niệm bảo lãnh. Bảo lãnh là một thuật ngữ đã xuất hiện từ lâu đời. Trong xã hội phong kiến người ta đã biết đến thuật ngữ này qua những người có thế lực bảo lãnh cho tù nhân trong thời gian thi hành án, cha mẹ bảo lãnh cho con… Sau đó bảo lãnh được phát triển sang lĩnh vực dân sự và nhiều lĩnh vực khác của đời sống kinh tế xã hội. Bảo lãnh được phân ra hai hình thức dựa vào tính chất và đối tượng của bảo lãnh là bảo lãnh đối nhân và bảo lãnh đối vật. Bảo lãnh đối nhân là bảo lãnh được áp dụng chủ yếu với các quan hệ phi tài sản hình sự, tố tụng hình sự, chế tài hành chính và quan hệ phi tài sản trong dân sự. Bảo lãnh đối vật dược áp dụng trong quan hệ hợp đồng kinh tế và dân sự có yếu tố tài sản. Đó chính là phương thức đảm bảo trong trường hợp xẩy ra vi phạm hợp đồng. Điều 366 bộ luật dân sự nước ta nêu rõ: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba ( gọi là người bảo lãnh ) cam kết với bên có quyền ( gọi là người nhận bảo lãnh ) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ ( gọi là người được bảo lãnh ) nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ…” Theo nghị định 17HĐBT ngày 16/1/1990 của hội đồng bộ trưởng thì “ Bảo lãnh tài sản là sự đảm bảo bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng đã ký kết”. Từ đó ta có thể đưa ra khái niệm chung về bảo lãnh như sau: “ Bảo lãnh là sự cam kết của người nhận bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nếu người đề nghị bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ với bên yêu cầu bảo lãnh”. Bảo lãnh ngân hàng là một trong những loại hình bảo lãnh ngày càng được phát triển và áp dụng phổ biến trong các giao dịch thương mại trong nước và quốc tế. Khi một cá nhân hoặc một doanh nghiệp muốn vay một khoản tiền hoặc muốn tham gia một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó nhưng chưa đủ độ tin cậy đối với phía đối tác kinh doanh, họ phải nhờ một bên thứ ba có đầy đủ tài sản và uy tín đứng ra đảm bảo. Bảo lãnh Ngân hàng là một hình thức tài trợ thông qua uy tín của Ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm được nguồn tài trợ mới để mua hàng hóa hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng chỉ đưa ra cam kết dưới hình thức cấp chứng thư hoặc hạch toán theo dõi ngoại bảng chứ thực tế không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh. Do vậy, bảo lãnh được coi là một hình thức tín dụng gián tiếp và được coi như tài sản ngoại bảng. Để đưa ra khái niệm về bảo lãnh Ngân hàng có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau: Xét theo khía cạnh học thuật, bảo lãnh Ngân hàng là một hình thức tín dụng chữ ký-Signature Credit. Ngân hàng không xuất vốn ngay mà chỉ phát hành thư bảo lãnh bảo đảm chi trả cho người thụ hưởng nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng đã ký kết với người thụ hưởng. Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam (ngày 12/12/1997) quy định bảo lãnh Ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng được thực hiện thông qua sự cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Theo quy chế mới nhất về bảo lãnh Ngân hàng do Thống đốc NHNN ban hành ngày 25/08/2000 kèm theo quyết định số 283/2000 –QĐ-NHNN quy định :” Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của Ngân hàng ( bên bảo lãnh) với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng ( bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả số tiền mà Ngân hàng đã trả thay”. Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh Ngân hàng được xem như loại hình tài trợ ngoại thương nhằm chống đỡ những rủi ro của người thụ hưởng bảo lãnh do sự vi phạm nghĩa vụ của bên đối tác liên quan. 1.2.2 . Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng Bản chất của hoạt động bảo lãnh là lời cam kết sẽ thanh toán cho người thụ hưởng bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng . Vì vậy có thể nói bảo lãnh là một công cụ bảo đảm không phải là công cụ thanh toán. Khi đưa ra các đặc điểm của bảo lãnh chúng ta sẽ thấy được sự khác biệt giữa bảo lãnh với các công cụ bảo đảm và thanh toán khác nhau như thư tín dụng, bảo hiểm… Bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm sau: Thứ nhất, bảo lãnh ngân hàng là một mối quan hệ nhiều bên phụ thuộc lẫn nhau. Trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng thường có ít nhất ba thành phần sau: Người bảo lãnh ( the Gurantor ) là người phát hành bảo lãnh, có thể là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác. Ngưòi được bảo lãnh ( the Principal ) là người yêu cầu bảo lãnh. Ngưòi thụ hưởng bảo lãnh ( the Credit ) là người nhận cam kết bảo lãnh. Một nghiệp vụ bảo lãnh không chỉ đơn thuần là quan hệ giữa Ngân hàng bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh mà còn bao gồm các mối quan hệ khác. Quan hệ giữa người được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh được thể hiện bằng hợp đồng gốc, có thể là hợp đồng thương mại, hợp đồng thi công, thiết kế… Đây chính là mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Trong mối quan hệ này, người được bảo lãnh có các nghĩa vụ phải thực hiện đối với người hưởng bảo lãnh. Tùy từng loại hợp đồng mà nghĩa vụ đó có thể là nghĩa vụ tài chính như nghĩa vụ thanh toán, nghĩa vụ đóng thuế, hoặc nghĩa vụ phi tài chính như nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, nghĩa vụ đảm bảo chất lượng sản phẩm… Mối quan hệ giữa Ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh - đó là quan hệ giữa Ngân hàng cấp tín dụng và người hưởng tín dụng. Mối quan hệ này được thể hiện bằng một hợp đồng bảo lãnh ( còn gọi là thư bảo lãnh ). Hợp đồng này độc lập với mối quan hệ trong hợp đồng gốc. Như vậy, các mối quan hệ giữa các bên tham gia là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của nhau. Nếu thiếu một trong những mối quan hệ trên thì nghiệp vụ bảo lãnh sẽ không tồn tại. Thứ hai bảo lãnh ngân hàng có tính độc lập. Đây là một đặc tính rất quan trọng của nghiệp vụ bảo lãnh. Trước tiên bảo lãnh Ngân hàng có tính độc lập với hợp đồng. Mặc dù nội dung hợp đồng giữa người thụ hưởng bảo lãnh và người được bảo lãnh là cơ sở phát sinh và hình thành nên nội dung của bảo lãnh song về mặt pháp lý mà nói thì bảo lãnh hoàn toàn độc lập với nguồn đã hình thành nên nó. Mặc dù mục đích của một bảo lãnh Ngân hàng là bồi hoàn cho người thụ hưởng những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh nhưng việc thanh toán bảo lãnh chỉ căn cứ vào các điều khoản hoàn toàn. Tuy nhiên tính độc lập của bảo lãnh cũng phụ thuộc vào các điều kiện của bảo lãnh. Nếu là bảo lãnh vô điều kiện, việc thanh toán được thực hiện theo yêu cầu đầu tiên, tính độc lập được đảm bảo. Ngược lại nếu là bảo lãnh có điều kiện hay bảo lãnh kèm chứng từ như phán quyết của tòa án, quyết định của trọng tài, xác nhận của bên thứ ba về sự vi phạm của người được bảo lãnh thì tính độc lập của bảo lãnh ít nhiều bị giảm sút. Bên cạnh đó tính độc lập của bảo lãnh còn thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân hàng phát hành bảo lãnh với người được bảo lãnh. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với mối quan hệ giữa ngân hàng và người được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện các lý do như người được bảo lãnh bị phá sản, vẫn còn nợ Ngân hàng… để từ chối thanh toán Về tính độc lập này trong điều 2 của quy tắc thống nhất về bảo lãnh yêu cầu UCP 845 của ICC có giải thích: “Về bản chất bảo lãnh là giao dịch tách rời khỏi hợp đồng cơ sở hay các điều kiện dự thầu mà bảo lãnh lấy đó làm căn cứ và bên bảo lãnh không hề quan tâm hay bị ràng buộc bởi hợp đồng hay các điều kiện dự thầu đó dù có trích tham chiếu đến chúng trong bảo lãnh. Trách nghiệm của bên bảo lãnh là trả lại số tiền được quy định khi xuất trình yêu cầu thanh toán bằng văn bản và các chứng từ khác quy định trong bảo lãnh mà hình thức phù hợp với các quy định của bảo lãnh”. Với ngân hàng, quy tắc độc lập này cũng có thuận lợi. Khi người thụ hưởng có yêu cầu đòi tiền theo thư bảo lãnh, ngân hàng chỉ có trách nhiệm xem xét, kiểm tra xem những điều khoản, điều kiện của thư bảo lãnh có được thỏa mãn hay không? Nhiệm vụ này được thực hiện khá dễ dàng. Do đó, Ngân hàng sẽ không liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hợp đồng cơ sở và không liên quan đến tranh chấp phát sinh từ hợp đồng cơ sở giữa hai bên. Tuy vậy, tính độc lập của bảo lãnh cũng làm tăng rủi ro do phải thanh toán hộ khi có sự không trung thực của bên yêu cầu bảo lãnh. Chính vì điểm này mà khi thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng phải phân tích khách hàng chi tiết như khi cho vay. 1.2.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng. 1.2.3.1. Chức năng bảo đảm. Đây là một chức năng rất quan trọng của bảo lãnh ngân hàng. Ngân hàng là một trung gian tài chính có khả năng tài chính đảm bảo, có uy tín trong kinh doanh tiền tệ. Do vậy khi ngân hàng phát hành bảo lãnh thì người thụ hưởng bảo lãnh chăc chắn sẽ được nhận khoản bồi thường về tài chính nếu người được bảo lãnh vi phạm cam kết. Chính điều này đã tạo tâm lý tin tưởng cho người thụ hưởng bảo lãnh từ đó tạo điều kiện cho hợp đồng được ký kết một cách suôn sẻ, thuận lợi. Mặt khác, hệ thống ngân hàng có khả năng thu thập, nắm bắt thông tin nhanh nhạy, kịp thời do có mạng lưới khách hàng rộng khắp và đội ngũ cán bộ chuyên môn giàu kinh nghiệm nên trong thực tế việc trả thay cho khách hàng chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Tỷ trọng các loại bảo lãnh được yêu cầu thanh toán không cao, thông thường chỉ khoảng dưới 5%,( ở Mỹ khoảng 1% )… Ngoài ra bảo lãnh còn được sử dụng cho thỏa thuận phi mua bán như dự thầu công trình, bảo hành sản phẩm , thực hiện hợp đồng… đây là những thỏa thuận không mang tính mua bán hay thanh toán. Do vậy, bảo lãnh chỉ được dùng cho mục đích bảo đảm an toàn cho người thụ hưởng khi có biến cố vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. 1.2.3.2 Chức năng tài trợ. Để thi công trình hay thực hiện một hợp dồng mua bán có thể phải dùng tới một số vốn lớn trong thời gian dài. Trong xây dựng, người thi công sẽ gặp phải những khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro nếu như phải làm hoàn tất công trình hay từng hạng mục công trình thì mới nhận được thanh toán của người chủ công trình.Vì vậy, khi ký kết hợp đồng thi công, công ty xây dựng sẽ thương lượng với chủ công trình về một khoảng tài trợ cho mình. Còn trong các hợp đồng thương mại, người cung ứng có thể yêu cầu đặt hàng đặt trước một khoản tiền tính trên giá trị hợp đồng, hoặc trong cuộc đấu thầu, bên mời yêu cầu bên dự thầu nộp một khoản tiền đặt cọc tham gia đấu thầu. Ngân hàng phát hành bảo lãnh như một công cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho người được bảo lãnh.Thông qua bảo lãnh, khách hàng (người được bảo lãnh )sẽ không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ khoặc kéo dài thời gian thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ … Vì vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn nhưng với uy tín và khả năng đảm bảo về mặt tài chính Ngân hàng phát hành bảo lãnh đã giúp khách hàng của mình được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi cho vay thực sự. Đến khi rủi ro xảy ra ngân hàng không thể viện cớ những vấn đề phát sinh từ hợp đồng cơ sở để từ chối thanh toán. 1.2.3.3 Chức năng đôn đốc thực hiện hợp đồng . Như đã trình bày ở trên, khi người bảo lãnh không hoàn thành được nghĩa vụ cam kết với bên thụ hưởng bảo lãnh, ngân hàng sẽ là người bồi thường thiệt hại như đã thỏa thuận trong bảo lãnh. Bảo lãnh cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh tóan khi người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và ngân hàng có quyền được đòi lại khoản đã thanh toán thay. Đối với ngân hàng khoản phải trả thay được xếp vào loại tài sản “xấu” trong nội bảng, được coi như một loại nợ quá hạn . Ngân hàng phải chịu áp lực của việc thanh toán thay nếu người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của họ. Người được bảo lãnh cũng phải chịu áp lực sẽ bị đòi bồi hoàn bảo lãnh khi không thực hiện nghĩa vụ của mình. Giữa ngân hàng và người được bảo lãnh có mối quan hệ mật thiết về măt lợi ích. Vì vậy ngân hàng sẽ luôn luôn phải đôn đốc khách hàng thực hiện các cam kết bảo lãnh đã ghi trong hợp đồng. Đối với người thụ hưởng bảo lãnh, mặc dù chắc chắn sẽ nhận được khoản tiền bồi thường do sự vi phạm hợp đồng xảy ra nhưng điều mà họ muốn là hợp đồng được hoàn tất suôn sẻ. Nếu bắt đầu lại từ đầu họ sẽ mất nhiều thời gian và chi phí để tìm kiếm đối tác mới. Vì vậy có thể nói bảo lãnh mang ý nghĩa ràng buộc đốc thúc người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng hơn là việc bồi hoàn. Ba chức năng trên cho thấy tác dụng của bảo lãnh ngân hàng. Nghiên cứu chúng cho phép chúng ta phát huy đầy đủ các chức năng này và vận dụng bảo lãnh có hiệu quả. 1.3 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng Mặc dù là một nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, vẫn còn mới mẻ song bảo lãnh ngân hàng đã chứng tỏ được vai trò hết sức tích cực của mình, không những đối với các doanh nghiệp, với ngân hàng mà với cả nền kinh tế. 1.3.1. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng đối với doanh nghiệp Doanh nghiệp trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng có thể đóng vai vai trò là người được ngân hàng bảo lãnh cũng có thể là người thụ hưởng bảo lãnh. Trong từng trường hợp bảo lãnh ngân hàng đóng vai trò khác nhau. Đối với trường hợp doanh nghiệp là người được ngân hàng bảo lãnh. Thứ nhất, trong quan hệ kinh tế, do sự giới hạn của thông tin cũng như giới hạn về phạm vi địa giới nên không phải lúc nào các bên tham gia cũng có đủ độ tin tưởng nhau. Hơn nữa trong quá trình hoạt động kinh doanh luôn gặp phải nhiều rủi ro từ nhiều phía gây ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng như đã cam kết. Để an toàn và nhanh chóng, một bên thường yêu cầu bên kia phải có bảo lãnh của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng đôi khi là yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp để tiếp cận tới hợp đồng. Thứ hai, bảo lãnh ngân hàng sẽ khiến cho doanh nghiệp không phải đặt trước một khoản tiền đặt cọc (ví dụ trong bảo lãnh dự thầu), như vậy doanh nghiệp có thể tiết kiệm một khoản vốn đáng kể, có thêm nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động…mà chỉ phải trả một khoản kinh phí bảo lãnh tương đối thấp. Thứ ba, bảo lãnh ngân hàng còn góp phần tăng uy tín của các doanh nghiệp đối với các đối tác. Đối với trường hợp doanh nghiệp là người thụ hưởng bảo lãnh. Thứ nhất, doanh nghiệp có thể tiết kiệm thời gian tìm hiểu đối tác mà vẫn lựa chọn được đối tác tốt nhất, tạo cơ hội kinh doanh hiệu quả, đồng thời yên tâm khi ký kết hợp đồng. Thứ hai, bảo lãnh ngân hàng giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro trong giao dịch vì trong trường hợp vi phạm hợp đồng xảy ra thì doanh nghiệp sẽ được bồi thường đầy đủ như thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh ngân hàng một khoản thời gian ngắn nhất. Ngoài ra bảo lãnh ngân hàng còn góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc, hoàn thành đúng các hợp đồng đúng theo quy định, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tránh lãng phí trong sản xuất kinh doanh, góp phần làm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp. 1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng với ngân hàng. Mặc dù là một nghiệp vụ còn khá mới mẻ của ngân hàng song bảo lãnh ngân hàng đã thực sự đem lại những lợi ích to lớn cho ngân hàng. Với sự tăng trưởng không ngừng về số lượng và chất lượng, sự có mặt trong hầu hết mọi giao dịch của nền kinh tế, bảo lãnh ngân hàng đã đem về cho ngân hàng một khoản thu không nhỏ từ phí bảo lãnh. Phí bảo lãnh chiếm tỉ lệ khá lớn trong tổng phí dịch vụ các ngân hàng hiện đại. Không những góp phần làm tăng lợi nhuận, bảo lãnh còn làm đa dạng hóa các loại hình dịch vụ nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung làm giảm sự phụ thuộc vào tín dụng. Mà tăng tỷ trọng thu từ dịch vụ là xu hướng phát triển chung của các ngân hàng hiện đại ngày nay. Ngoài ra bảo lãnh còn nâng cao uy tín và tăng cường quan hệ của ngân hàng đặc biệt là trên trường quốc tế. Nền kinh tế thế giới ngày nay phát triển theo xu hướng hội nhập, do vậy thị trường thế giới đã trở thành bộ phận không thể thiếu đối với thương mại và ngoại thương. Bảo lãnh ngân hàng đã thúc đẩy hoạt động tín dụng quốc tế, thanh toán quốc tế… từ đó góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại của ngân hàng. 1.3.3. Vai trò của bảo lãnh đối với nền kinh tế. Bảo lãnh là loại hình dịch vụ ngân hàng tồn tại khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế ngày càng phát triển. Điều này được thể hiện qua vai trò to lớn của bảo lãnh ngân hàng đối với nền kinh tế thể hiện qua các mặt sau: Thứ nhất bảo lãnh như một chất xúc tác điều hòa và xúc tiến hàng loạt các quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế. Khi có bảo lãnh ngân hàng, các bên tham gia giao dịch sẽ yên tâm ký kết hợp đồng và có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đã ký kết. Bảo lãnh đem lại lợi ích cho các bên tham gia cũng là mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Thứ hai, bảo lãnh có vai trò quan trọng trong vấn đề thu hút vốn cho sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước. Đối với những nước đang phát triển, đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vốn thực sự rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp trong nước chưa đủ độ tin tưởng đối với các đối tác nước ngoài. Bằng tài sản và uy tín của mình, Ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh cho các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn nước ngoài. Như vậy, bảo lãnh ngân hàng đã góp phần thu hút một lực lượng vốn nước ngoài có thời hạn tương đối dài mà lãi suất lại tương đối thấp. Nguồn vốn này được tập trung cho sản xuất tạo điều kiện cho doanh nghiệp đổi mới thiết bị, hiện đại hóa công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Sản xuất phát triển sẽ làm tăng các lợi ích xã hội khác như: tạo công ăn việc làm, tăng sản phẩm kinh tế quốc dân… Thứ ba, bảo lãnh Ngân hàng còn tác động đến chiến lược phát triển kinh tế quốc gia thông qua chính sách bảo lãnh ngân hàng như ưu tiên bảo lãnh cho các ngành kinh tế mũi nhọn và các khu vực trọng điểm phát triển… Ngoài ra, thông qua việc ưu đãi về tỷ lệ phí bảo lãnh, ngân hàng còn là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển, tạo cho những ngành này vay được vốn với mức lãi suất thấp, từ đó vươn lên đứng vững trên thị trường. Thứ tư, bảo lãnh ngân hàng còn góp phần làm trong sạch, lành mạnh hóa nền kinh tế. Chịu tác động của chức năng bảo đảm và đôn đốc thực hiện hợp đồng của bảo lãnh ngân hàng, nên các bên tham gia giao dịch sẽ yên tâm ký kết hợp đồng và nghiêm túc thực hiện, từ đó làm giảm rủi ro cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung. Cuối cùng, bảo lãnh ngân hàng còn góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại giữa các quốc gia trên thế giới… 1.4. Nội dung nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. 1.4.1. Các loại bảo lãnh ngân hàng. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, bảo lãnh Ngân hàng ngày càng phát triển đa dạng, phong phú. Ta có thể chia nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng thành nhiều loại. 1.4.1.1. Phân loại theo đối tượng bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng được chia làm bảo lãnh trong nước và bảo lãnh ngoài nước. Bảo lãnh ngân hàng trong nước là loại bảo lãnh mà các bên tham gia bao gồm: người được bảo lãnh , người thụ hưởng bảo lãnh, ngân hàng bảo lãnh ở trong phạm vi một quốc gia. Các loại bảo lãnh ngân hàng trong nước thường được áp dụng là bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước… được thực hiện qua hình thức phát hành thư bảo lãnh của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng ngoài nước thường được áp dụng trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Đối tượng giao dịch được bảo lãnh là thương vụ mua bán giữa các bên xuất khẩu và nhập khẩu. Tổ chức bảo lãnh thường là ngân hàng thương mại, trú đóng tại nước của người được bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng ngoài nước thường được thực hiện qua hình thức: mở thư tín dụng mua hàng trả chậm, ký bảo lãnh trên các hối phiếu nhận nợ với nước ngoài, phát hành thư bảo lãnh, lập giấy chứng nhận kỳ hạn nợ … 1.4.1.2. Phân loại theo bản chất của bảo lãnh. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ Đây là loại bảo lãnh mang tính chất truyền thống nếu xét theo nguồn gốc của nó. Trong hình thức bảo lãnh này, ngân hàng và người được bảo lãnh có cùng nghĩa vụ như nhau, nhưng nghĩa vụ của khách hàng là nghĩa vụ đầu tiên còn nghĩa vụ của ngân hàng là nghĩa vụ bổ sung. Ngân hàng chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình khi có những bằng cớ chứng thực nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ rất được áp dụng vào trong quan hệ giao dịch thương mại quốc tế do tính phức tạp của nó, chủ yếu nó được thực hiện trong phạm vi nội địa. Bảo lãnh độc lập Khác với loại bảo lãnh trên bảo lãnh độc lập là loại bảo lãnh ngân hàng được áp dụng phổ biến trong thương mại quốc tế do sự thuận lợi mà nó đem lại cho các bên tham gia. Bảo lãnh ngân hàng được coi là dạng nghiệp vụ ngân hàng hiện đại trong đó nghĩa vụ của ngân hàng bảo lãnh hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ của người được bảo l._.ãnh trong hợp đồng gốc. Việc ngân hàng thanh toán thay chỉ diễn ra khi các điều khoản thanh toán qui định trong văn bản bảo lãnh được thỏa mãn mà thôi. 1.4.1.3. Phân loại theo mục đích của bảo lãnh. Bảo lãnh hoàn thanh toán Bảo lãnh hoàn thanh toán là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc đảm bảo nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã kí kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh và phải hoàn trả tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ hoàn số trả tiền ứng trước cho bên nhận bảo lãnh. Một số trường hợp, khi tham gia ký kết hợp đồng thương mại, dịch vụ người mua hàng hay người sử dụng dịch vụ trả trước cho người bán hàng hay người cung cấp dịch vụ một khoản tiền, thường bằng 5% - 15% giá trị hợp đồng. Nhưng do nhiều nguyên nhân mà hợp đồng không thể thực hiện, người mua hàng hóa, dịch vụ có thể không nhận lại được số tiền đã ứng trước. Để hạn chế rủi ro, người mua sẽ yêu cầu người bán phải có bảo lãnh hoàn thanh toán của ngân hàng. Bằng việc cam kết sẽ trả lại số tiền ứng trước cho bên mua, Ngân hàng đã tạo ra nền tin tưởng cho bên mua và giúp bên bán thoát khỏi những khó khăn nhất thời về mặt ngân quỹ. Tuy nhiên, trong bảo lãnh hoàn thanh toán để đề phòng sự không trung thực của người thụ hưởng, văn bản bảo lãnh phải có quy định chặt chẽ về điều khoản thanh toán. Nghĩa là ngân hàng chỉ thanh toán khi những điều kiện tiền đề có liên quan đến hành vi ứng trước tiền của người thụ hưởng đã được thỏa mãn. Các loại bảo lãnh hoàn thanh toán thường được áp dụng: Bảo lãnh thi công công trình. Bảo lãnh sản xuất máy móc thiết bị. Bảo lãnh dự thầu Đối với các hợp đồng lớn như hợp đồng mua sắm hàng hóa, cung ứng máy móc thiết bị, hợp đồng xây lắp…đấu thầu là hình thức thường được sử dụng để lựa chọn đối tác tối ưu nhất. Trong các hợp đồng này, bên mở thầu thường yêu cầu các nhà thầu phải có bảo lãnh dự thầu của ngân hàng. Bảo lãnh dự thầu là một loại bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên mời thầu để đảm bảo nghĩa vụ tham gia mời thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Mục đích chủ yếu của bảo lãnh dự thầu là tránh rủi ro cho bên mời thầu trong trường hợp nhà thầu trúng thầu “ bỏ cuộc”. Khi đó bên mở thầu sẽ phải tốn nhiều chi phí cho việc tìm kiếm đối tác lại từ đầu. Ngoài ra, bảo lãnh dự thầu còn tạo điều kiện cho người dự thầu tham gia dự thầu thuận lợi hơn. Nhà thầu phải nộp bảo lãnh dự thầu cùng với hồ sơ dự thầu. Trong trường hợp áp dụng bảo lãnh dự thầu hai giai đoạn, bảo lãnh dự thầu nộp ở giai đoạn hai. Giá trị bảo lãnh dự thầu bằng từ 1%- 3% giá dự thầu. Bên mời thầu có thể quy định mức bảo lãnh thống nhất để đảm bảo bí mật về mức giá dự thầu cho các nhà thầu. Bên mời thầu quy định về hình thức và điều kiện bảo lãnh dự thầu. Bảo lãnh dự thầu sẽ được trả lại cho những nhà thầu không trúng thầu trong thời gian không quá 30 ngày kể từ ngày công bố kết quả đấu thầu. Trong trường hợp nhà thầu trúng thầu nhưng từ chối thực hiện hợp đồng, rút hồ sơ dự thầu sau khi đóng thầu hoặc vi phạm quy chế đấu thầu thì sẽ không được nhận lại bảo lãnh dự thầu. Sau khi nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng, nhà thầu trúng thầu sẽ được hoàn trả bảo lãnh dự thầu. Các loại bảo lãnh dự thầu thường được áp dụng là: -Bảo lãnh dự thầu xây lắp. -Bảo lãnh cung ứng máy móc, thiết bị, hàng hóa. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm việc thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của khách hàng với bên nhận bảo lãnh theo hợp đồng đã ký kết. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Mục đích của bảo lãnh thực hiện hợp đồng là chống đỡ rủi ro cho người thụ hưởng (người đặt hàng) trong trường hợp người cung cấp không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng như giao hàng không đúng ngày, giờ quy định, sai số lượng, chất lượng… Số tiền trong thư bảo lãnh thường có giá trị từ 10%- 15% giá trị hợp đồng cơ sở. Trường hợp đặc biệt trong bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp số tiền này có thể hơn 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng hết hiệu lực khi người cung ứng đã hoàn thành nghĩa vụ của mình: giao xong hàng hóa, máy móc thiế bị đã được vận chuyển… Bảo lãnh thực hiện hợp đồng được dùng phổ biến nhất và có thể không phải yêu cầu một loại bảo lãnh nào khác trong quá trình mua bán hàng hóa hoặc dự thầu xây dựng. Các loại bảo lãnh thực hiện hợp đồng hay được sử dụng là: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng xây lắp. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cung ứng máy móc, thiết bị, hàng hóa… Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm theo hợp đồng. Đây là loại bảo lãnh Ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thỏa thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Mục đích của loại bảo lãnh này nhằm bảo đảm cho nhà thầu hoặc người cung ứng hàng hóa dịch vụ sẽ sửa chữa những hỏng hóc phát sinh sau khi giao hàng, bàn giao công trình hoặc bồi thường thiếu hụt hàng hóa, sản phẩm không đạt tiêu chuẩn… Loại bảo lãnh này có hiệu lực trong thời gian bảo hành sản phẩm. Số tiền bảo lãnh thấp hơn nhiều so với bảo lãnh thực hiện hợp đồng và vào khoảng từ 2%-5% giá trị hợp đồng. Các loại bảo lãnh chất lượng sản phẩm: - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng công trình ( thường được dùng nhiều trong các hợp đồng xây lắp). - Bảo lãnh bảo đảm chất lượng máy móc thiết bị và hàng hóa. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán là một loại bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh cam kết sẽ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Bảo lãnh bảo đảm thanh toán nhằm mục đích tránh tổn thất cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh không thanh toán hoặc không thanh toán đủ số tiền theo đúng hợp đồng . Số tiền và thời hạn bảo lãnh phù hợp với số tiền và thời hạn thanh toán trong hợp đồng cơ sở. Các loại bảo lãnh bảo đảm thanh toán: - Bảo lãnh thanh toán tiền xây lắp công trình. - Bảo lãnh thanh toán tiền lắp đặt máy móc thiết bị. Bảo lãnh hoàn trả vốn vay. Bảo lãnh hoàn trả vốn vay của ngân hàng là một bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành về việc cam kết sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Việc bảo lãnh nói chung khá phức tạp, số tiền bảo lãnh thường lớn do vậy rủi ro của ngân hàng bảo lãnh rất cao. Ngân hàng phải xem xét kỹ tính khả thi của dự án, tài sản thế chấp và tư cách của người vay để quyết định bảo lãnh bởi ngân hàng sẽ chịu trách nhiệm trả tiền thay khi người vay không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Số tiền và thời hạn của bảo lãnh là số tiền, thời hạn ghi trong thư bảo lãnh theo đề nghị của bên đi vay và phù hợp với hợp đồng vay vốn. Thư tín dụng dự phòng Thư tín dụng dự phòng thường được sử dụng với mục đích tương tự như bảo lãnh thanh toán và được áp dụng chủ yếu trong quan hệ quốc tế. Trong các hợp đồng thương mại quốc tế, bên nhập khẩu thường phải cấp tín dụng cho người xuất khẩu dưới dạng ứng trước tiền, ký quỹ, đặt cọc, mở L/ C… các khoản này chiếm 10%- 15% giá trị hợp đồng.Trường hợp bên xuất khẩu không thực hiện hợp đồng thì cần có công cụ bảo đảm chắc chắn rằng người xuất khẩu sẽ được nhận lại tiền đã ứng, công cụ đó là thư tín dụng dự phòng. Thư tín dụng dự phòng có nhiều điểm khác so với thư tín dụng thông thường. Người thụ hưởng ở đây là người nhập khẩu trong khi người thụ hưởng trong thư tín dụng thông thường là người xuất khẩu. Thư tín dụng dự phòng là công cụ bảo lãnh còn thư tín dụng thông thường là công cụ thanh toán. Loại thư tín dụng này được quy định trong điều lệ thống nhất và thực hành về thư tín dụng UCP 500 của Phòng thương mại Quốc tế năm 1996. Thư tín dụng dự phòng thường được áp dụng trong các giao dịch mua bán nguyên vật liệu với khối lượng lớn, thời hạn dài, mua bán máy móc và thiết bị toàn bộ… Bảo lãnh thuế quan Trong một số trường hợp, hàng hóa được nhập khẩu vào một nước nào đó để trưng bầy trong hội chợ triển lãm trong một thời gian nhất định, hoặc trong những công trình lớn cần nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài để hỗ trợ việc thi công sau đó sẽ xuất khẩu lại nước ban đầu thì những loại hàng hóa máy móc đó không phải chịu thuế quan. Tuy nhiên, trong những trường hợp này bên cơ quan hải quan sẽ yêu cầu bên chủ hàng phải có bảo lãnh của ngân hàng. Trong trường hợp đã quá hạn đăng ký mà hàng hóa, máy móc đã nhập mà không tái xuất thì ngân hàng sẽ phải thanh toán thay bên chủ hàng một số tiền trong số tiền đã bảo lãnh cho cơ quan hải quan coi như tiền nộp thuế và tiền nộp phạt. Số tiền bảo lãnh do cơ quan hải quan quy định trong từng trường hợp cụ thể. Bảo lãnh hết hiệu lực khi hàng hóa đã được xuất khẩu trở về nước đúng hạn hoặc đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Bảo lãnh vận đơn Vận đơn là một chứng từ rất quan trọng trong thanh toán quốc tế vì nó là bằng chứng cho sự di chuyển của hàng hóa. Những sai sót trong vận tải đơn rất khó sửa chữa và những sai sót này có thể bị lợi dụng để gây thiệt hại cho các bên tham gia giao dịch. Bảo lãnh vận đơn là loại bảo lãnh được áp dụng phổ biến trong thương mại quốc tế nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên tham gia giao dịch trước sự lợi dụng vận đơn. Bảo lãnh vận đơn có hai loại: - Bảo lãnh vận đơn do người nhập khẩu là người đề nghị phát hành: Ngân hàng cam kết với chủ vận tải sẽ bồi thường mọi khoản thiệt hại nếu hàng hóa được giao cho một người không có quyền nhận hàng, do chứng từ thất lạc, đến chậm hơn tầu hoặc chủ hàng vận tải được ủy nhiệm nhận hàng không có chứng từ để sử dụng. - Bảo lãnh vận đơn do người xuất khẩu là người đề nghị phát hành: Ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bồi thường mọi thiệt hại nảy sinh với họ khi vận đơn gốc không được xuất trình hoặc xuất trình không kịp thời. Số tiền bảo lãnh thường bằng từ 100% đến 150% giá trị của hàng hóa để bù đắp những thiệt hại phát sinh cho tới khi chủ hàng có hàng mới. Bảo lãnh sai sót trong chứng từ nhờ thu Đây là loại bảo lãnh mà theo đề nghị của nhà xuất khẩu ngân hàng cam kết với người nhập khẩu bù đắp những thiệt hại phát sinh trong phương thức thanh toán chứng từ nhờ thu do việc xuất trình những chứng từ không phù hợp với những điều khoản của hợp đồng mua bán hoặc chứng từ thiếu không được gửi tiếp theo. Bảo lãnh hối phiếu Hối phiếu là mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện dưới dạng văn bản do một người ký phát yêu cầu người này ngay khi nhìn thấy phiếu hoặc tới một ngày cụ thể nhất định hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định cho người ký phát hoặc theo lệnh của người này trả tiền cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu. Bảo lãnh hối phiếu là cam kết của ngân hàng trả tiền cho bên thụ hưởng khi hối phiếu đến hạn trả tiền mà bên được bảo lãnh không thực hiện đúng các trách nhiệm tài chính như đã quy định. Với hình thức bảo lãnh này phải ghi rõ nội dung và kèm theo chữ ký của đại diện bên đứng ra bảo lãnh. Ngân hàng có trách nhiệm tương đương như trách nhiệm của người được bảo lãnh đối với bên thụ hưởng trừ khi ngân hàng đã quy định trên hối phiếu. Thông thường, số tiền bảo lãnh bằng số tiền ghi trên hối phiếu, còn thời hạn bảo lãnh do sự thỏa thuận của các bên nhưng thường cũng chỉ sau một thời hạn nhất định kể từ khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Bảo lãnh phát hành chứng khoán Bảo lãnh phát hành chứng khoán là loại bảo lãnh của ngân hàng cho việc phát hành cổ phiếu của ngân hàng cho công ty chưa có uy tín và tiếng tăm trên thị trường. Khi công ty phát hành chứng khoán, ngân hàng sẽ nhận chứng khoán của công ty và chuyển cho công ty số tiền của đợt phát hành (trừ một phần hoa hồng phí) và bán lại cho công chúng. Khi ngân hàng quyết định bảo lãnh phát hành chứng khoán cho công ty có nghĩa là ngân hàng sẽ gánh chịu mọi rủi ro trong trường hợp chứng khoán bị mất giá trên thị trường. Về phía công ty, khi được ngân hàng bảo lãnh phát hành chứng khoán thì việc huy động vốn sẽ nhanh chóng và tiết kiệm thời gian và chi phí hơn là tự tổ chức phát hành. 1.4.1.4. Phân loại theo cách mở bảo lãnh Bảo lãnh trực tiếp NGười được bảo lãnh Người thụ hưởngbảo lãnh Ngân hàng thông báo Ngân hàng phát hành 1 3a 3b 2 3b 1. Người được bảo lãnh ký kết hợp đồng với người thụ hưởng bảo lãnh 2. Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phát hành bảo lãnh và cam kết bồi hoàn. 3.a. Ngân hàng phát hành văn bản bảo lãnh và chuyển cho người thụ hưởng 3.b. Ngân hàng phát hành văn bản bảo lãnh và chuyển cho người thụ hưởng bảo lãnh qua ngân hàng thông báo. Bảo lãnh trực tiếp là loại bảo lãnh ngân hàng trong đó ngân hàng trực phát hành bảo lãnh theo yêu cầu trực tiếp của người được bảo lãnh mà không qua trung gian. Sau khi ngân hàng bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh thì người được bảo lãnh có trách nhiệm bồi hoàn số tiền đã thanh toán cho ngân hàng. Trong trường hợp người thụ hưởng bảo lãnh là người nước ngoài, có thể xuất hiện một ngân hàng cùng quốc gia với người thụ hưởng bảo lãnh trong vai trò ngân hàng thông báo. Văn bản bảo lãnh được chuyển qua ngân hàng này. Bảo lãnh gián tiếp Ngân hàng phát hành Ngân hàng chỉ thị Người được bảo lãnh Ngân hàng thông báo Người thụ hưởng bảo lãnh 4b 4b 3 2 1 Người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh ký kết hợp đồng gốc. Khách hàng yêu cầu ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ra chỉ thị cho ngân hàng phát hành bảo lãnh, đồng thời cam kết bồi hoàn trên bảo lãnh đối ứng. 4.a. Ngân hàng phát hành chuyển trực tiếp văn bản bảo lãnh tới người thụ hưởng bảo lãnh. 4.b. Văn bản bảo lãnh chuyển qua ngân hàng thông báo tới cho người thụ hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh ngân hàng trong đó người được bảo lãnh yêu cầu ngân hàng thứ nhất ( gọi là ngân hàng chỉ thị ) đề nghị ngân hàng thứ hai ( gọi là ngân hàng phát hành ) phát hành văn bản bảo lãnh chuyển cho người thụ hưởng. Trong loại bảo lãnh này, khi vi phạm hợp đồng xảy ra người thụ hưởng bảo lãnh sẽ được nhận khoản bồi thường từ ngân hàng phát hành bảo lãnh. Ngân hàng chỉ thị sẽ nhận trách nhiệm bồi hoàn số tiền này cho ngân hàng phát hành bảo lãnh và đến lượt mình ngân hàng chỉ thị có thể truy đòi từ người được bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài ngân hàng phát hành ở ngay quốc gia của người thụ hưởng. Vì vậy quyền lợi của người thụ hưởng được bảo vệ chắc chắn hơn. Đồng bảo lãnh Ngân hàng 1 Ngân hàng 2 Ngân hàng 3 Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo Người được bảo lãnh Người thụ hưởng bảo lãnh 4.2 4.2 4.1 1 2 Ngân hàng phát hành 3 1. Người mua và người bán ký kết hợp đồng gốc 2. Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh 3. Ngân hàng đầu mối dàn xếp đồng bảo lãnh cùng các Ngân hàng hàng đồng minh 4.1. Ngân hàng phát hành chuyển trực tiếp văn bản bảo lãnh cho người thụ hưởng hoặc chuyển cho người thụ hưởng qua Ngân hàng thông báo ( 4.2 ). Đối với các dự án lớn có giá trị, để phòng tránh rủi ro một Ngân hàng không thể đứng ra bảo lãnh riêng mà phải ký kết hợp đồng với một số Ngân hàng khác. Trong các Ngân hàng này, một Ngân hàng đứng ra giữ vai trò Ngân hàng đầu mối phát hành văn bản bảo lãnh.Trường hợp xảy ra vi phạm hợp đồng, Ngân hàng đầu mối chi trả cho người thụ hưởng theo bảo lãnh đã lập. Ngân hàng này có thể đòi bồi hoàn từ các Ngân hàng đồng minh theo tỷ lệ tham gia của họ. Các Ngân hàng này sau khi bồi hoàn xong sẽ được quyền truy đòi từ người được bảo lãnh. 1.4.1.5. Phân loại theo điều kiện thanh toán. Bảo lãnh vô điều kiện Bảo lãnh vô điều kiện là loại bảo lãnh có tính độc lập rất cao, là loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là người thụ hưởng chỉ cần xuất trình yêu cầu thanh toán cho Ngân hàng. Yêu cầu thanh toán có thể là văn bản yêu cầu thanh toán hoặc văn bản yêu cầu thanh toán đi kèm với tờ trình về sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Ngân hàng không thể viện bất cứ lý do nào liên quan đến hợp đồng gốc để trì hoãn việc thanh toán. Bảo lãnh vô điều kiện rất thuận lợi cho người thụ hưởng vì nó đảm bảo thanh toán nhanh chóng, kịp thời. Tuy nhiên, Ngân hàng cũng phải đề phòng trường hợp người thụ hưởng lợi dụng điều này để lừa đảo gây thiệt hại cho cho Ngân hàng và người được bảo lãnh. Bảo lãnh kèm chứng từ Bảo lãnh kèm chứng từ là loại bảo lãnh Ngân hàng mà điều kiện bảo lãnh là phải có chứng từ xác nhận của bên thứ ba. Người thụ hưởng bảo lãnh có thể xuất trình yêu cầu thanh toán cùng giấy tờ chứng minh của bên thứ ba về sự vi phạm của người được bảo lãnh hoặc người thụ hưởng bảo lãnh chỉ phải xuất trình yêu cầu thanh toán nhưng trong trường hợp này nếu người được bảo lãnh cung cấp giấy tờ của bên thứ ba chứng nhận là đã hoàn thành hợp đồng thì người thụ hưởng sẽ không được Ngân hàng bồi thường nữa. So với bảo lãnh vô điều kiện thì bảo lãnh kèm chứng từ có nhiều ưu điểm hơn vì nó bảo vệ quyền lợi của người được bảo lãnh tốt hơn. 1.4.2. Kỹ thuật nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. 1.4.2.1. Các bên trong bảo lãnh Ngân hàng. Một giao dịch bảo lãnh luôn gồm ba bên : bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh. Bên bảo lãnh: là Ngân hàng có uy tín và khả năng tài chính đảm bảo đứng ra phát hành bảo lãnh cam kết chịu trách nhiệm thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện đúng hợp đồng. Bên được bảo lãnh: là bên được Ngân hàng cam kết trả thay nếu vi phạm hợp đồng. Bên thụ hưởng: là bên được Ngân hàng thanh toán khi có yêu cầu do bên được bảo lãnh vi phạm hợp đồng. Các hợp đồng liên quan khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh: Hợp đồng cơ sở giữa bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng. Thư bảo lãnh của Ngân hàng. 1.4.2.2. Trình tự thực hiện Bảo lãnh là một trong những hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng hay còn gọi là tín dụng gián tiếp. Do vậy, muốn được Ngân hàng chấp nhận phát hành bảo lãnh, khách hàng phải đạt được các điều kiện cấp tín dụng và thực hiện các thủ tục như khi tiến hành các hoạt động tín dụng khác. Bảo lãnh cũng có quy trình nghiệp vụ riêng bao gồm các bước sau: Bước 1- Chuẩn bị và tiếp nhận hồ sơ yêu cầu bảo lãnh. Ngân hàng sẽ tiếp xúc và lựa chọn khách hàng có nhu cầu bảo lãnh, hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ sau đó tiếp nhận và hoàn chỉnh hồ sơ. Hồ sơ của khách hàng thường bao gồm: Giấy đề nghị phát hành bảo lãnh. Các tài liệu chứng minh khả năng tài chính của khách hàng: bảng cân đối tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh… Các tài liệu liên quan đến giao dịch được yêu cầu bảo lãnh: phương án sản xuất kinh doanh, hợp đồng thương mại, giấy phép xuất nhập khẩu… Các tài liệu liên quan đến đảm bảo cho việc phát hành bảo lãnh: giấy tờ thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba… Bước 2- Thẩm định yêu cầu bảo lãnh và ra quyết định Ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định hồ sơ yêu cầu bảo lãnh của khách hàng ở góc độ tính hợp pháp, năng lực kinh doanh, uy tín khách hàng cũng như khả năng trả nợ. Sau khi xem xét, Ngân hàng sẽ quyết định chấp nhận hay không chấp nhận bảo lãnh. Nếu từ chối, Ngân hàng cần giải thích lý do cho khách hàng hiểu, ngược lại nếu đồng ý cũng phải cân nhắc lựa chọn loại hình bảo lãnh thích hợp với yêu cầu của khách hàng. Bước 3- Thực hiện và theo dõi tiến trình bảo lãnh. Trong bước này, cán bộ Ngân hàng thoả thuận với khách hàng về việc thực hiện các biện pháp bảo đảm thích hợp. Tiếp đó, cán bộ Ngân hàng cùng với khách hàng lập hợp đồng dịch vụ, phát hành thư bảo lãnh và thu phí dịch vụ bảo lãnh. Thư bảo lãnh của khách hàng bao gồm những nội dung cơ bản sau: + Tên của người được bảo lãnh, Ngân hàng phát hành, Ngân hàng chỉ thị, Ngân hàng thông báo ( nếu có ) và đặc biệt tên của người thụ hưởng bảo lãnh phải được ghi rõ để tránh rủi ro và tranh chấp. + Mục đích của bảo lãnh ( vì nó thể hiện bản chất của giao dịch hợp đồng ). Trong văn bản bảo lãnh phải ghi rõ phần tham chiếu đến số hiệu hợp đồng gốc. Tên gọi của bảo lãnh cũng phải thống nhất với mục đích của bảo lãnh. + Số tiền của bảo lãnh: được quy định theo mức tối đa và xác định dựa trên bản chất của giao dịch cũng như giá trị hợp đồng. Số tiền bảo lãnh thường được ghi chính xác theo giá trị tuyệt đối. Các khoản khấu trừ ( nếu có ) cũng phải đưa vào văn bản bảo lãnh nhằm bảo vệ quyền lợi của Ngân hàng bảo lãnh, người được bảo lãnh và tránh sự lạm dụng của người thụ hưởng. + Các điều kiện thanh toán: quy định rõ các chứng từ cần thiết phải xuất trình. Việc quy định các chứng từ này tuỳ thuộc và sự thoả thuận giữa người thụ hưởng và người được bảo lãnh cũng như vị thế của mỗi bên trong hợp đồng. + Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh: là khoảng thời gian mà bất cứ lúc nào điều kiện thanh toán được thoả mãn thì Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như đã thoả thuận. Quá thời hạn này thì Ngân hàng được giải phóng khỏi nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết trước đó. + Tham chiếu luật áp dụng: cần ghi rõ nội dung này để biết căn cứ phát hành bảo lãnh và có cơ sở giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. + Một số nội dung khác như trường hợp miễn trừ trách nhiệm của Ngân hàng, chữ ký của người có thẩm quyền… Phí bảo lãnh Phí bảo lãnh là chi phí mà người được bảo lãnh phải trả cho Ngân hàng do được hưởng dịch vụ này. Phí bảo lãnh đảm bảo bù đắp chi phí bỏ ra của Ngân hàng có tính đến các rủi ro mà Ngân hàng có thể phải gánh chịu. Phí bảo lãnh được tính cho mỗi khoản bảo lãnh theo công thức sau: Phí bảo lãnh = ( số dư bảo lãnh ) *( mức phí bảo lãnh /360 ) * thời gian bảo lãnh Trong đó: + Số dư bảo lãnh là số tiền đang còn được bảo lãnh. + Mức phí bảo lãnh: tuỳ từng Ngân hàng quy định, được tính căn cứ vào biểu phí dịch vụ của Ngân hàng, thường tính theo tỷ lệ %/ năm. + Thời gian bảo lãnh được quy định trong thư bảo lãnh. Bước 4 - Xử lý các tình huống phát sinh. Bước 5 – Kết thúc giao dịch bảo lãnh. Thanh lý hợp đồng bảo lãnh Ngân hàng đã ký kết. Giải toả các biện pháp đảm bảo tín dụng. Rút kinh nghiệm, phân loại và lưu hồ sơ. 1.4.3. Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. 1.4.3.1. Rủi ro đối với người thụ hưởng bảo lãnh Ngân hàng. Trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng, người thụ hưởng là người gặp ít rủi ro nhất nhưng rủi ro không phải là không xảy ra. Người thụ hưởng có thể gặp rủi ro từ những nguy cơ sau đây: Thứ nhất, rủi ro do không nhận được khoản thanh toán của Ngân hàng phát hành bảo lãnh. Nguyên nhân có thể do Ngân hàng phát hành bảo lãnh là một Ngân hàng còn non trẻ, chưa nắm vững các quy tắc về thương mại và thanh toán quốc tế, không có quan hệ đại lý với các Ngân hàng lớn có uy tín…làm cho việc thanh toán bảo lãnh bị chậm trễ. Ngoài ra nếu Ngân hàng phát hành bảo lãnh mất khả năng thanh toán thì người thụ hưởng bảo lãnh cũng không nhận được khoản bồi hoàn. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng còn có thể gặp những rủi ro bất khả kháng ở quốc gia của Ngân hàng phát hành bảo lãnh như thiên tai, địch họa…làm gián đoạn hoạt động Ngân hàng và khi Ngân hàng hoạt động trở lại thì thư bảo lãnh đã hết hiệu lực, người thụ hưởng do vậy cũng không nhận được bồi hoàn nếu người bảo lãnh không đồng ý. Bên cạnh đó, một số sự thay đổi về pháp luật, thể chế chính trị, các quan hệ kinh tế đối ngoại…cũng có thể làm cho thư bảo lãnh của Ngân hàng trở nên vô hiệu mặc dù có những bằng chứng về sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Thêm vào đó là nguyên nhân từ chính người thụ hưởng bảo lãnh: do kiến thức về bảo lãnh còn hạn chế hoặc không xem xét kỹ nên đã chấp nhận thư bảo lãnh có các điều khoản bất lợi cho mình trong trường hợp vi phạm hợp đồng xảy ra. 1.4.3.2. Rủi ro đối với người được Ngân hàng bảo lãnh. Người được bảo lãnh là người chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng và trong trường hợp không thực hiện được thì không có lý do gì để từ chối việc phải bồi thường cho phía đối tác. Khi vi phạm hợp đồng xảy ra, mặc dù Ngân hàng bảo lãnh sẽ là người bồi thường cho người thụ hưởng bảo lãnh nhưng sau đó chính người được bảo lãnh sẽ phải có trách nhiệm thanh toán lại cho Ngân hàng. Trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng, rủi ro có thể đến với người được bảo lãnh từ phía người thụ hưởng bảo lãnh. Người thụ hưởng bảo lãnh có thể lợi dụng quyền lợi của mình lập chứng từ giả để đòi bồi thường từ phía người bảo lãnh trong khi bên này vẫn nghiêm túc thực hiện hợp đồng. Vì vậy, người được thụ hưởng bảo lãnh một mặt có trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng, mặt khác phải nâng cao cảnh giác đề phòng sự lừa đảo từ phía người bảo lãnh nhằm tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra. 1.4.3.3. Rủi ro với Ngân hàng bảo lãnh. Mọi hoạt động của Ngân hàng đều chứa đựng những rủi ro mặc dù mức độ rủi ro của các hoạt động này là khác nhau và bảo lãnh Ngân hàng là một trong số đó tuy rằng khi thực hiện nghiệp vụ này Ngân hàng chỉ phải phát hành thư bảo lãnh mà không phải xuất quỹ nhưng không phải vì thế mà rủi ro giảm đi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. Thứ nhất, rủi ro từ phía người thụ hưởng bảo lãnh: Đây chủ yếu là rủi ro về đạo đức. Vì có ưu thế về mặt quyền lợi nên người thụ hưởng có thể lập chứng từ giả về sự vi phạm của bên được bảo lãnh ( dù bên này nghiêm túc thực hiện ) để đòi tiền bồi hoàn. Ngân hàng không phát hiện ra hoặc không thẩm định lại sự việc nên đã bồi hoàn cho người thụ hưởng. Ngân hàng sau đó không nhận được tiền bồi hoàn từ phía người được bảo lãnh vì trách nhiệm không thuộc của họ và việc đòi tiền từ bên thụ hưởng cũng rất khó khăn. Thứ hai, rủi ro có thể đến với Ngân hàng từ phía người được bảo lãnh. Khi yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh cho mình, người được bảo lãnh phải đưa ra các hình thức đảm bảo cho việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán của mình có thể là cầm cố, thế chấp hoặc tín chấp tuỳ theo yêu cầu của Ngân hàng. Rủi ro xảy ra khi Ngân hàng đã thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng mà khách hàng lại mất khả năng thanh toán. Lúc này việc phát mại tài sản để thu hồi vốn của Ngân hàng là rất khó khăn và có thể do việc định giá không sát nên tài sản bị mất giá, số tiền thu về nhỏ hơn so với chi phí đã bỏ ra. Ngân hàng từ đó có thể bị mất vốn và uy tín cũng phần nào bị ảnh hưởng. Thứ ba, rủi ro có thể do nguyên nhân từ phía bản thân Ngân hàng do đội ngũ cán bộ còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, không đánh giá chính xác tình hình tài chính của khách hàng, thông tin lại không nắm bắt đầy đủ nên có thể phát hành thư bảo lãnh cho các khách hàng không đáng tin cậy. Ngoài những nguyên nhân trên còn có một số nguyên nhân khác có thể gây ra sự mất an toàn cho nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng như sự thiếu đồng bộ của hệ thống văn bản pháp luật, các quy định chỉ đạo không phù hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hay việc sửa đổi thường xuyên cũng gây ra không ít trở ngại cho thực hiện nghiệp vụ. 1.5. Hoạt động bảo lãnh Ngân hàng ở một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 1.5.1.Hoạt động bảo lãnh Ngân hàng ở một số quốc gia trên thế giới. Nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng xuất hiện trên thế giới từ những năm 70 và trở thành công cụ không thể thiếu trong các giao dịch thương mại quốc tế.Việt Nam là một nước mà nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng còn chưa phát triển, để ngày càng hoàn thiện và nâng cao chất lượng loại hình nghiệp vụ này thì việc học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước là cần thiết. Sau đây là hoạt động bảo lãnh Ngân hàng ở một số nước và những bài học cho Việt Nam. * Hoạt động bảo lãnh tại Cộng hoà liên bang Đức. CHLB Đức là một quốc gia có nền tài chính vững mạnh và có hệ thống Ngân hàng phát triển từ lâu đời nên hoạt động bảo lãnh có nhiều khác biệt. Hoạt động này tập trung chủ yếu vào các loại sau: - Bảo lãnh đấu thầu: được sử dụng để bảo lãnh cho các công ty của CHLB Đức tham gia đấu thầu. Mục đích của loại bảo lãnh này là tạo điều kiện cho các công ty đó thực hiện hoạt động xuất khẩu hoặc tham gia xây dựng các công trình trong nước cũng như nước ngoài. Họ quy định người tham gia đấu thầu phải nộp từ 2%-5% tổng giá trị công trình không thực hiện, ngoài ra công ty còn phải trả một khoản phí bảo lãnh đối với Ngân hàng. - Bảo lãnh tiền đặt cọc: hình thức này áp dụng trong các hợp đồng có giá trị lớn và được sử dụng để bảo hộ cho các nhà nhập khẩu Đức để đề phòng trường hợp nhà xuất khẩu không thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh an toàn tín dụng: Mục đích của loại bảo lãnh này là tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư Đức khi họ tham gia đầu tư nước ngoài, đảm bảo quyền lợi của họ trong quan hệ ngoại thương đồng thời mang lại khoản thu cho Ngân hàng. - Bảo lãnh chứng khoán: Đây là hình thức bảo lãnh phổ biến ở Đức vì thị trường chứng khoán của họ rất phát triển. Khi các công ty cổ phần mới thành lập, phần lớn họ cần đến sự bảo lãnh của Ngân hàng thì cổ phiếu mới có thể lưu hành trên thị trường. Loại hình này áp dụng nhiều với các công ty mới thành lập hoặc những công ty mới phục hồi sau những lần chứng khoán bị mất giá. Tuy nhiên, loại hình bảo lãnh vay vốn nước ngoài không được chú trọng ở Đức vì đây là một quốc gia có nền kinh tế phát triển, có hệ thống Ngân hàng và thị trường tài chính- tiền tệ phát triển ở trình độ cao, có thể hoàn toàn đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, các doanh nghiệp lớn có uy tín của Đức có thể vay vốn trực tiếp của nước ngoài hay của các tổ chức tài chính quốc tế mà không cần sự bảo lãnh của Ngân hàng. * Hoạt động bảo lãnh tại Trung Quốc. Trung Quốc là một quốc gia có nền kinh tế khá phát triể._.ng trình lớn và quan trọng của Nhà nước, đảm bảo an toàn và phù hợp với hạn mức tín dụng của doanh nghiệp. 4-Thực hiện tốt chính sách khách hàng, chiến lược Marketing thu hút thêm khách hàng mới, chú trọng đến thành phần kinh tế ngoài quốc doanh nhằm giảm bớt sự mất cân đối trong việc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh. 5- Nâng cao kiến thức về nghiệp vụ bảo lãnh cho các cán bộ thực hiện, cử các cán bộ tham gia các lớp tập huấn về nghiệp vụ bảo lãnh do Trung ương mở, căn cứ vào văn bản, chế độ, hướng dẫn mới của NHNN để tiếp tục hoàn chỉnh quy chế hoạt động về nghiệp vụ bảo lãnh. 6- Từng bước hiện đại hóa hoạt động bảo lãnh, tiến hành tin học hóa công nghệ Ngân hàng trong các lĩnh vực hoạt động bao gồm cả nghiệp vụ bảo lãnh nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. 3.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT. Mặc dù chưa phải là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHĐT&PTHT song bảo lãnh cũng đóng góp một phần không nhỏ vào việc hỗ trợ thúc đẩy các nghiệp vụ ngân hàng khác cùng phát triển ( nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước…) đồng thời mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ thu phí bảo lãnh, nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng và tiềm năng phát triển của loại hình nghiệp vụ này NHĐT&PTHT đã và đang chú trọng đẩy mạnh hoạt động này bên cạnh việc phát triển các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống khác. Để thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của NHĐT&PTHT theo các phương hướng đã đề ra nhằm góp phần thực hiện tốt chiến lược mở rộng các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng đáp ứng các nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng nhằm tăng lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh và an toàn trong kinh doanh thì việc tất yếu thì phải nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh trong thời gian tới. Vấn đề đặt ra là cần phải có giải pháp thích hợp cả về mặt cơ cấu điều hành của nhà nước thông qua các văn bản, các quy định của NHNN cung như việc tổ chức thực hiện tại NHĐT&PTHT. Mục tiêu của giải pháp là vừa mở rộng hoạt động bảo lãnh cả về chiều rộng và chiều sâu, vừa đảm bảo được yếu tố an toàn của Ngân hàng. Bằng vốn kiến thức ít ỏi của mình em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoành thiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT như sau: 3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án: Không chỉ trong hoạt động tín dụng mà ngay cả trong hoạt động bảo lãnh công tác thẩm định dự án là hết sức quan trọng, là yếu tố quyết định khi đưa ra quyết định bảo lãnh. Mặc dù trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng không chỉ xuất tiền mà còn hạch toán ngoại bảng nhưng khi phải trả thay sẽ bị coi như khoản nợ quá hạn và ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do đó nâng cao chất lượng thẩm định dự án là giải pháp tối ưu để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro cần được quan tâm đúng mức. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định trong nghiệp vụ bảo lãnh, trước tiên các cán bộ Ngân hàng phải phân tích tình hình tài chính của đơn vị một cách thường xuyên để nắm bắt được năng lực tài chính của doanh nghiệp như các khoản thu chi, khả năng vay, trả, đi sâu phân tích các khoản phải trả, doanh thu, chi phí, thị trường, thị phần, hiệu quả sử dụng vốn…Qua đó, có trể đánh giá một cách tổng quát về tình hình hoạt động chung của khách hàng. 3.3.2. Mở rộng thêm đối tượng khách hàng được bảo lãnh. Như đã đề cập trong phần trước, cơ cấu khách hàng được Ngân hàng bảo lãnh là khá mất cân đối, khách hàng được bảo lãnh chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như công ty TNHH, công ty liên doanh… được bảo lãnh rất ít. Bên cạnh bộ phận các công ty ngoài quốc doanh làm ăn không nghiêm túc gây mất lòng tin với Ngân hàng còn có nhiều công ty làm ăn nghiêm túc, tuân thủ đúng pháp luật và rất có triển vọng phát triển. Đây là một thị trường có tiềm năng tương đối lớn và vẫn còn để ngỏ. Vì vậy, trong thời gian tới Ngân hàng cần nghiên cứu để mở rộng đối tượng khách hàng được bảo lãnh với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh này. 3.3.3. Đổi mới cơ chế chính sách khách hàng. Ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, mối quan hệ này tồn tại một cách khách quan, luôn bổ sung và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Để phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong điều kiện cơ chế chính sách còn nhiều bất cập chưa được bổ sung đòi hỏi các Ngân hàng phải xây dựng chính sách khách hàng phù hợp để đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp với các hình thức bảo lãnh đa dạng hơn mà vẫn đảm bảo an toàn cho nghiệp vụ bảo lãnh. - Đối với các khách hàng truyền thống và các khách hàng có uy tín. Khách hàng truyền thống là khách hàng gắn bó với Ngân hàng cả về thời gian và nội dung hoạt động, có cả quá trình lịch sử hiện tại và tương lai. Các khách hàng có uy tín là các khách hàng luôn thực hiện tốt chính sách của Đảng và nhà nước, vay trả sòng phẳng và có trách nhiệm với đồng vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, chi tiêu đúng chế độ, kinh doanh có lãi. Với các đối tượng khách hàng này nên ưu tiên xem xét nhu cầu bảo lãnh và nên có một chút chính sách phí mềm dẻo, có thể thấp hơn so với mức quy định. Vận động các đơn vị có quan hệ vay vốn ngắn hạn thường xuyên sử dụng các hình thức bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại Ngân hàng, hạn chế ký qũy trực tiếp tại các ban quản lý dự án. - Đối với các Tổng công ty lớn (áp dụng bảo lãnh theo hạn mức) Ngân hàng cần nắm bắt nhu cầu bảo lãnh của khách hàng, có thể trình Trung ương cho phép vượt quá hạn mức trong một chừng mực nhất định. Với các tổng công ty có đủ đảm bảo cho hạn mức chi nhánh nên cho phép các công ty thành viên được bảo lãnh bằng hình thức tín chấp. Cách làm này có lợi cho cả Ngân hàng và khách hàng. - Với các khách hàng mới cũng nên xem xét để không phải tất cả các khách hàng đều phải ký qũy 100% nhưng cũng không bỏ qua khâu thẩm định tài chính. Nếu bảo đảm, có thể cho phép khách hàng ký quỹ thấp hơn và kết hợp với thế chấp tài sản. - Vì đặc điểm của Tổng công ty là có nhu cầu bảo lãnh và có các giao dịch kinh tế lớn nên nếu để mất khách hàng cũng là mất rất nhiều cho Ngân hàng vì chi phí giữ khách hàng bao giờ cũng nhỏ hơn chi phí tìm kiếm khách hàng mới. Do vậy, Ngân hàng cần có chính sách khách hàng mềm dẻo. Mối quan hệ giữa khách hàng và Ngân hàng luôn gắn bó và tác động qua lại với nhau. Để tạo dựng tốt mối quan hệ này đóng góp vào việc xây dựng chính sách khách hàng hợp lý cần thực hiện tốt các giải pháp sau: - Thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng, thu thập lắng nghe ý kiến của khách hàng. Ngân hàng có thể tổng kết ý kiến của khách hàng về: + Những việc làm được và chưa được của cả hai phía. + Những ưu, nhược điểm của sản phẩm Ngân hàng, những vướng mắc về thủ tục, phí và chất lượng phục vụ của cán bộ Ngân hàng. + Thu thập ý kiến về nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng, phổ biến chính sách, thể lệ của Ngân hàng trong bảo lãnh. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên tạo mối quan hệ thân thiết gần gũi bằng các cuộc viếng thăm thực tế của lãnh đạo Ngân hàng với khách hàng. Đồng thời cũng luôn gắn bó và quan tâm sâu sát tới doanh nghiệp để khi khách hàng có vướng mắc phát sinh Ngân hàng có thể kịp thời tháo gỡ. Luôn nêu cao tinh thần coi trọng khách hàng trong cán bộ công nhân viên, xác định khách hàng là bạn hàng, không có khách hàng không có Ngân hàng. Giáo dục cán bộ không ngừng giữ vững và phát huy phong cách giao dịch tận tình, chu đáo để giữ tín nhiệm với khách hàng. Bên cạnh đó phải tiếp cận và làm việc với khách hàng mới để nắm bắt nhu cầu bảo lãnh và đề xuất các khung hạn mức, các điều kiện đảm bảo an toàn đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu của doanh nghiệp. Ngoài ra, Ngân hàng cần tranh thủ sự giới thiệu của khách hàng qua các thương vụ cho vay để nắm bắt nhu cầu của bạn hàng là đối tác của khách hàng, từ đó giới thiệu và cung cấp dịch vụ bảo lãnh. 3.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng. Con người là nhân tố quyết định tới thành công của mọi hoạt động kinh tế xã hội. Mục tiêu của công tác đào tạo cán bộ là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ Ngân hàng có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến thức và năng lực nghề nghiệ về nghiệp vụ ngân hàng, áp dụng được công nghệ hiện đại và có trình độ ngoại ngữ”. Đây là công tác trọng tâm của Ngân hàng vì đội ngũ cán bộ công nhân viên của Ngân hàng không những đại diện cho hình ảnh của Ngân hàng mà còn góp phần đắc lực trong việc nâng cao vị thế tăng khả năng cạnh tranh cho Ngân hàng. Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cần chú trọng đến những vấn đề sau: Bên cạnh việc tuyển chọn cán bộ có năng lực, được đào tạo bài bản cần tăng cường bồi dưỡng chuyên môn cho các cán bộ phần hành. Các cán bộ bảo lãnh không chỉ phải nắm vững nghiệp vụ tín dụng mà còn phải có các kiến thức thanh toán, kế toán, pháp luật, ngoại ngữ…Muốn vậy Ngân hàng cần có chính sách luân chuyển cán bộ, nghĩa là phải gửi họ vào thực tập tại các phòng nghiệp vụ có liên quan, tham dự các khóa đào tạo chuyên sâu trong và ngoài nước, hoặc tổ chức các hội thi, các cuộc thảo luận tại trụ sở để qua đó bổ sung kiến thức, tạo bầu không khí thi đua sôi nổi, đoàn kết trong Ngân hàng. Mặt khác, Ngân hàng cũng cần các cán bộ có kiến thức về các ngành kỹ thuật có liên quan đến các dự án nói chung và dự án bảo lãnh nói riêng. Vì vậy, NHĐT&PTHT có thể tuyển cử nhân của một số ngành kỹ thuật khác kết hợp với bồi dưỡng nghiệp vụ Ngân hàng. Cách làm này hiệu quả hơn việc đào tạo từ đầu về các ngành kỹ thuật khác cho các cán bộ Ngân hàng. Tuy nhiên, việc tuyển chọn cán bộ từ các ngành kỹ thuật phải có trọng tâm, trọng điểm. Ngoài ra, Ngân hàng cũng nên quan tâm đến việc đào tạo lại kiến thức cho cán bộ lâu năm và phổ biến rộng rãi kinh nghiệm kinh doanh cho cán bộ trẻ mới bước vào công tác. Tuyển chọn và sử dụng cán bộ là nội dung quan trọng trong việc thực hiện tiêu chuẩn hóa và trẻ hóa cán bộ. Muốn vậy, cần thực hiện cơ chế thi tuyển một cách khách quan, khoa học, công bằng, công khai để thu hút được nhân tài. Kinh nghiệm từ các nước trên thế giới cho thấy, hình thức tài trợ cho sinh viên từ các cơ sở đào tạo như các trường địa học, viện nghiên cứu…đã góp phần mang lại cho Ngân hàng các cán bộ giỏi về nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính. Bên cạnh đó, việc sử dụng cán bộ phải hợp lý phù hợp với tính chất công việc, trình độ năng lực, tính cách, phẩm chất, điều kiện, sở thích, nguyện vọng của mỗi người để phát huy được hết khả năng của mỗi người. Mạnh dạn sử dụng các cán bộ trẻ có năng lực vì đây là đội ngũ nhanh nhạy và có đầu óc sáng tạo. Ngân hàng cũng cần có chính sách thưởng phạt thích hợp: biểu dương, khen ngợi kịp thời gương lao động tốt, có sáng kiến hoặc thành tích cao trong công việc đồng thời kỷ luật nghiêm khắc những cá nhân có những hành vi làm ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động cũng như uy tín cả Ngân hàng. Cuối cùng, phải luôn đề cao việc giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ cũng như phẩm chất đạo đức nghề nghiệp trung thực, liêm khiết trong cán bộ công nhân viên Ngân hàng. Có như vậy trong bất kỳ hoàn cảnh nào họ cũng làm chủ được bản thân không bị chi phối bởi các mối quan hệ cá nhân và lợi ích vật chất mà làm phương hại đến lợi ích chung của tập thể. Tóm lại, xây dựng đội ngũ cán bộ Ngân hàng tinh thông về nghiệp vụ, hiểu biết về pháp luật, có trình độ ngoại ngữ, tin học và có đạo đức kinh doanh sẽ đem đến cho Ngân hàng những khách hàng chân chính, làm ăn thực thụ, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. 3.3.5. ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh: Như chúng ta đã biết, hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh tế tổng hợp gắn liền với mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Để hoạt động hiệu quả và giảm thiểu mọi rủi ro thì cần thiết phải có một hệ thống thông tin kinh tế, thông tin thị trường đầy đủ và một hệ thống công nghệ hiện đại. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh cho Ngân hàng. Để thực hiện được điều này, Ngân hàng cần chú trọng đến những vấn đề sau: - Hoàn thiện quy trình bảo lãnh, xây dựng trang Web cung cấp các thông tin quảng cáo trên mạng Internet. - Nâng cấp hệ thống máy vi tính cũ và trang bị thêm một số trang thiết bị hiện đại, hệ thống thông tin liên lạc giữa các phòng ban. Chi nhánh đã thực hiện việc nối mạng nội bộ giữa bộ phận kế toán và bộ phận tín dụng, trong thời gian tới cần nghiên cứu để áp dụng việc này với bộ phận bảo lãnh để việc đối chiếu, kiểm soát được nhanh chóng, dễ dàng. Ngoài nối mạng nội bộ giữa các phòng ban nên chú trọng đến việc nối mạng giữa các Ngân hàng cũng như nối mạng quốc tế để nâng cao hiệu quả công tác thu thập thông tin và học hỏi kinh nghiệm nước ngoài. - Chú trọng đầu tư phần mềm để nâng cao hiệu quả khai thác thông tin, không ngừng nâng cao trình độ tin học của cán bộ nghiệp vụ có năng lực tiếp nhận và sử dụng thành thạo những phương tiện mới nhất đặc biệt lag những phương tiện có tính công nghệ cao. - Có chính sách thu hút các kỹ sư tin học. Có chính sách đãi ngộ thỏa đáng nhằm khuyến khích đội ngũ cán bộ tác nghiệp trong Ngân hàng đầu tư thời gian và trí tuệ cho việc nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo, phát triển các công nghệ mới. Kịp thời khen thưởng và biểu dương những cá nhân, nhóm có sáng kiến kinh nghiệm trong lĩnh vực phát triển phần mềm, đưa ra công nghệ mới… Ngoài ra, cần xây dựng mối quan hệ gắn bó với các công ty, các tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình phát triển ứng dụng công nghệ cao vào lĩnh vực hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. 3.4. Một số kiến nghị. 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: * Hoàn thiện môi trường pháp lý: Tất cả các tổ chức kinh tế, các định chế tài chính, các Ngân hàng, các doanh nghiệp…khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Pháp luật càng chặt chẽ thì càng ít gây phát sinh tranh chấp, gian lận, lừa đảo. Hiện nay, chưa có một luật nào có các quy định đầy đủ về hoạt động bảo lãnh Ngân hàng, mới chỉ có văn bản có giá trị pháp lý cao nhất quy định về nghiệp vụ bảo lãnh nói chung là Bộ luật dân sự. Hoạt động Ngân hàng được tiến hành dưới sự bảo lãnh nói chung của NHNN qua các văn bản pháp quy và văn bản dưới luật do NHNN ban hành và hướng dẫn thực hiện. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn chưa mang tính chuẩn mực, có những khía cạnh của bảo lãnh chưa được quy định trong khi đó một số quy định khác lại quá chặt chẽ. Mặt khác các văn bản này lại thường xuyên bị sửa đổi, gây khó khăn trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh của các Ngân hàng đôi khi còn gây thiệt hại cho Ngân hàng. Trong thời gian tới, đối với nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng, Chính phủ cần nghiên cứu về quy chế, nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng nước ngoài cộng với kinh nghiệm thực hiện bảo lãnh của các NHTM trong thời gian qua để đưa ra một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ để điều chỉnh hoạt động bảo lãnh Ngân hàng bao gồm các luật bảo lãnh, luật cầm cố, thế chấp tài sản. Việc ban hành một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ điều chỉnh hoạt động bảo lãnh Ngân hàng sẽ đảm bảo sự thống nhất giữa các ngành trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, ngoài ra nó còn tạo ra căn cứ dẫn chiếu thống nhất cho các Ngân hàng khi tiến hành các giao dịch ngoại thương. Bên cạnh đó, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một vấn đề còn nhiều khúc mắc với các ngân hàng trong quá trình thực hiện hoạt động bảo lãnh. Trong khi chưa đưa ra được một đạo luật thống nhất về thế chấp, cầm cố tài sản, Chính phủ cần ban hành các văn bản dưới luật quy định chi tiết về sở hữu tài sản của doanh nghiệp, cần nêu rõ loại tài sản được dùng để thế chấp khi đề nghị Ngân hàng bảo lãnh với từng loại hình doanh nghiệp: từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp hay doanh nghiệp tự bỏ vốn đầu tư. Ngoài ra cần có những văn bản hướng dẫn về thủ tục phát mại tài sản khi doanh nghiệp không hoàn trả được tiền Ngân hàng bảo lãnh đã trả thay, quy định những người có thẩm quyền quyết định việc phát mại tài sản của doanh nghiệp nhà nước… Mặt khác, hiện nay chúng ta chưa có một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm cấp chứng thư tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản. Chính vì vậy, nhiều trường hợp Ngân hàng rất khó xác định được chính xác chủ sở hữu của tài sản đó hoặc phải lấy chứng nhận của cơ quan nào về nguồn gốc tài sản thế chấp, cầm cố trong khi đây lại là vấn đề then chốt để xác định sở hữu Nhà nước, tư nhân hay của một nhóm thành viên tham gia vào sản xuất kinh doanh, xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ kinh tế. Hiện nay vấn đề này được quy định rải rác trên các văn bản pháp luật khác nhau, chưa được quy định tại một văn bản thống nhất. Hơn nữa pháp luật cho phép các doanh nghiệp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nhưng lại ràng buộc bằng điều kiện gắn với tài sản thuộc sở hữu của mình, điều này khó áp dụng với doanh nghiệp nhà nước. Việc tiến hành phát mại tài sản của doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn vì tổng cục quản lý vốn và tài sản chỉ chứng nghiệm tài sản này “thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp” mà không chấp nhận cho doanh nghiệp sử dụng tài sản này để thế chấp. Vì vậy nếu có rủi ro xẩy ra, Ngân hàng sẽ khó khăn trong việc thu hồi vốn. Vì vậy trong thời gian tới, các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu để có các biện pháp giải quyết những vấn đề trên theo hướng sau: - Nhà nước cần sớm ban hành những văn bản quy định cụ thể việc đang ký sở hữu và cấp giấy chứng nhận sở hữu nhà xưởng, thiết bị, quyền sử dụng đất và công trình trên đất cho các tổ chức kinh tế. Ngoài ra cũng nên đơn giản hóa tối đa các thủ tục hành chính, pháp lý như thủ tục phát mại tài sản, giải quyết chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất cho người mua lại tài sản tạo điều kiện cho việc mua bán chuyển nhượng tài sản được dễ dàng, thuận lợi. Bên cạnh đó, để tiến hành hoạt động bảo lãnh được thuận lợi cần có sự hỗ trợ của một số Bộ, Ngành có liên quan. Cụ thể: - Bộ Tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra bắt buộc các doanh nghiệp tiến hành hạch toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán thống kê, đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời nhằm giúp các Ngân hàng có được các thông tin tài chính, việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh được chính xác… - Bộ Tư pháp cần có những hướng dẫn về các mẫu giấy tờ công chứng trong hoạt động bảo lãnh đồng thời nghiên cứu để đưa ra mức phí công chứng hợp lý (hiện nay phí công chứng còn tương đối cao gây khó khăn cho Ngân hàng và khách hàng). - Mặt khác Bộ Tư pháp cần nâng cao hiệu quả của cơ quan chuyên môn giải quyết việc bán tài sản là Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản. Hiện nay, mới có hai Trung tâm được thành lập tại Hà Nội song hoạt động của các Trung tâm này còn rất hạn chế, chưa thực sự phát huy tác dụng như mong muốn. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm này sẽ góp phần giảm bớt chi phí và thời gian của các NHTM và làm tăng hiệu quả của việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. *ổn định môi trường kinh doanh: Hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng nằm trong môi trường kinh doanh chung của các chủ thể kinh tế, do đó chịu ảnh hưởng rất lớn của sự vận hành của nền kinh tế. Để hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động Ngân hàng nói chung có hiệu quả thì Nhà nước cần hoàn thiện môi trường hoạt động ở tầm vĩ mô của hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để hệ thống ngân hàng khẳng định được vị trí trung tâm của mình trong nền kinh tế. Cụ thể là: Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế thị trường theo định hướng XHCN với hệ thống đồng bộ các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách phát triển kinh tế ngành, địa phương, chính sách xã hội, chính sách phát triển thị trường vốn và thị trường tiền tệ, từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán…Qua đó tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển làm cơ sở cho các doanh nghiệp trong việc tham gia vào thực hiện các dự án hay hợp đồng kinh doanh lớn. Qua đó mới tạo điều kiện để hoạt động bảo lãnh phát triển. Thực hiện việc công khai hóa thông tin và kiểm toán bắt buộc với các doanh nghiệp để lành mạnh hóa hoạt động kinh doanh, đảm bảo cho các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc có hiệu quả, có khả năng thực hiện các hợp đồng đã ký kết. Từng bước hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán, việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển loại hình bảo lãnh của các Ngân hàng. Thông qua thị trường này, ngân hàng có thể sớm đưa ra các loại hình bảo lãnh mới phù hợp với yêu cầu thực tế như bảo lãnh hối phiếu trung, dài hạn, các chứng từ có giá… Ngoài ra cần có những biện pháp để tạo ra một “sân chơi” bình đẳng cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh, tạo điều kiện để thành phần kinh tế này tiếp cận và sử dụng dịch vụ bảo lãnh Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng khác vì đây cũng là thị trường tiềm năng rất lớn của ngân hàng. Bên cạnh đó, nhà nước cần chú trọng các chính sách kinh tế đối ngoại, thực hiện chính sách mở cửa và hợp tác kinh tế với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế thông qua các chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Cải cách các chính sách, chế độ về nhập khẩu, chính sách thuế quan…để đảm bảo công bằng và cạnh tranh lành mạnh. 3.4.2. Kiến nghị với NHNNVN. - Song song với việc củng cố hoàn thiện các loại hình bảo lãnh truyền thống bằng cách cải tiến thủ tục cho gọn nhẹ mà vẫn an toàn, hiệu quả, NHNN cần nghiên cứu và ban hành các văn bản hướng dẫn các NHTM trong việc đưa các hình thức bảo lãnh mới vào sử dụng. Hiện nay, ở nước ta có nhiều loại hình bảo lãnh rất có tiềm năng mà chưa được đưa vào thực hiện tại các Ngân hàng. Ví dụ bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh vận đơn, bảo lãnh phát hành chứng khoán, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh vay vốn nước ngoài…đặc biệt là hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán vì trong điều kiện thị trường chứng khoán của chúng ta mới đi vào hoạt động còn non trẻ, uy tín của các doanh nghiệp còn chưa cao thì hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của ngân hàng là hết sức cần thiết. - Chi nhánh NHNN trên địa bàn các tỉnh, thành phố cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động bảo lãnh của các tổ chức tín dụng để phòng ngừa và xử lý các sai phạm trong quá trình thực hiện đồng thời tổng hợp báo cáo đầy đủ và kịp thời về tình hình bảo lãnh và những vướng mắc của các TCTD về NHNN theo quy định. - Ngoài ra, NHNNVN cần củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng CIC nhằm cung cấp thông tin, số liệu kịp thời đáp ứng yêu cầu của các NHTM. Muốn vậy cần có những biện pháp mạnh mẽ để buộc tất cả các NHTM chưa thực hiện phải cung cấp đầy đủ các thông tin, số liệu theo yêu cầu cho Trung tâm CIC của NHNNVN theo quy định của NHNNVN. 3.3.3. Kiến nghị đối với NHĐT&PTVN. NHĐT&PTHT chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của NHĐT&PTVN do đó để phát huy hết tiềm năng và hiệu quả của hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh, NHĐT&PTVN cần nghiên cứu một số vấn đề sau: - Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, kiểm toán nội bộ thực hiện thường xuyên công tác này từ Trung ương đến các chi nhánh cơ sở để kịp thời phát hiện và xử lý các sai sót nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động của các Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Thông qua hoạt động kiểm tra nên thực hiện việc tuyên truyền giới thiệu những chi nhánh làm tốt, phổ biến những kinh nghiệm hay, cảnh cáo những biểu hiện lệch lạc, nguy cơ rủi ro cao…để nâng cao chất lượng của nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. Để thực hiện tốt công tác này cần kiện toàn lại đội ngũ cán bộ kiểm tra, kiểm toán trong toàn hệ thống Ngân hàng. - NHĐT&PTVN cần thường xuyên tạo điều kiện để NHĐT&PTHT mở rộng quan hệ hợp tác với các Ngân hàng khác tham gia đồng bảo lãnh cho một dự án hoặc khách hàng lớn với giá trị bảo lãnh lớn và thời hạn bảo lãnh kéo dài. Việc này giúp Ngân hàng phân tán được rủi ro khi tham gia nghiệp vụ bảo lãnh do có sự kết hợp thế mạnh, khả năng và kinh nghiệm của nhiều ngân hàng khác nhau. - Bên cạnh đó, NHĐT&PTVN cần thường xuyên mở các khóa tập huấn và bồi dưỡng nghiệp vụ bảo lãnh cho từng cán bộ tín dụng để nâng cao kiến thức chuyên môn. Theo hướng này, NHĐT&PTVN cần kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đào tạo ngắn hạn và phương thức đào tạo dài hạn ở trong nước kết hợp vơí nước ngoài, tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, mời các chuyên gia của nước ngoài và các tổ chức quốc tế để cùng trao đổi học hỏi kinh nghiệm để cùng đưa ra các giải pháp cho nghiệp vụ bảo lãnh để nghiệp vụ này ngày càng hoàn thiện hơn. Kết luận Nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng là một trong những loại hình dịch vụ của ngân hàng, nằm trong hoạt động kinh doanh chung của ngân hàng. Bảo lãnh ngân hàng có vai trò hết sức to lớn không chỉ đối với bản thân Ngân hàng thực hiện mà với cả các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách khách quan thì hoạt động bảo lãnh của hệ thống Ngân hàng nói chung và của NHĐT&PTHT nói riêng mặc dù đã đạt được những kết quả đáng khích lệ song vẫn chưa tương xứng với vai trò và tiềm năng của nó, chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế, đòi hỏi càng ngày càng phải được hoàn thiện và phát triển hơn nữa. Về mặt lý luận, chuyên đề tập trung vào làm rõ vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh: sự cần thiết của hoạt động bảo lãnh ngân hàng, chức năng vai trò của bảo lãnh ngân hàng, các loại bảo lãnh ngân hàng, kinh nghiệm bảo lãnh của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Về mặt thực tiễn, chuyên đề đã phân tích và đánh giá được những thành tựu đạt được và những khó khăn tồn tại trong hoạt động bảo lãnh của NHĐT&PTHT` đồng thời chỉ ra nguyên nhân của các tồn tại trên. Với mục tiêu hoàn thiện và phát triển hơn nữa nghiệp vụ bảo lãnh của NHĐT&PTHT nói riêng và hệ thống NHTM nói chung, chuyên đề đã đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, tồn tại và đưa hoạt động bảo lãnh vào hoạt động theo đúng quỹ đạo. Do trình độ cũng như nhận thức của bản thân còn hạn chế nên chuyên đề không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp chỉ bảo của thày cô giáo và các cán chuyên môn để em có điều kiện bổ sung và hoàn thiện chuyên đề hơn nữa. Một lần nữa em xin cảm ơn cô giáo thạc sỹ Tô Kim Ngọc, các thầy cô giáo và các anh chị phòng tín dụng 1, phòng nguồn vốn đã giúp đỡ, chỉ bảo cho em trong suốt thời gian thực tập và hoàn thành chuyên đề thực tập của mình. Danh mục tài liệu tham khảo ******* Luật Ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng. Luật doanh nghiệp Nhà nước ngày 20 /04 /1998. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995. Tín dụng Ngân hàng-GS -TS. Hồ Diệu- NXB thống kê năm 2000. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - FREDRICS. MISKIN. Nghị định số 42 /CP ngày 16/7/1996 của Thủ tướng chính phủ ban hành kèm theo điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng. Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 của Thủ tướng chính phủ ban hành kèm theo quy chế đấu thầu. Quyết định 283/QĐ- NHNN 14 ngày 25/8/2000 về quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quyết định 2348 ngày 4/9/2001 về hướng dẫn quy chế bảo lãnh kèm theo quyết định 283/ 2000-QĐ-NHNN của Thống đốc NHNHVN. Quyết định số 112/2003/QĐ- NHNN do Thống đốc NHNN ban hành về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế bảo lãnh Ngân hàng ban hành kèm quyết định 283/2000/QĐ-NHNN 14 ngày 25/8/2000. Quy trình bảo lãnh của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam năm 2001. Tạp chí đầu tư và phát triển. Tạp chí Ngân hàng các số năm 2000, 2001, 2002. Tạp chí thị trường tài chính – thị trường tiền tệ. Mục lục Lời mở đầu 1 1- Tính tất yếu của việc hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. 1 2- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 1 3- Mục đích và phương pháp nghiên cứu. 2 4- Kết cấu củachuyên đề: 2 Chương 1: Những vấn đề chung về bảo lãnh ngân hàng 3 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng 3 1.1.1. Sự ra đời của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là khách tất yếu khách quan 3 1.1.2. Quá trình phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. 4 1.2. Bản chất và đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng. 5 1.2.1. Khái niệm bảo lãnh- bảo lãnh Ngân hàng. 5 1.2.2 . Đặc điểm của bảo lãnh Ngân hàng 6 1.2.3. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng. 8 1.3 Vai trò của bảo lãnh ngân hàng 10 1.3.1. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng đối với doanh nghiệp 10 1.3.2. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng với ngân hàng. 11 1.3.3. Vai trò của bảo lãnh đối với nền kinh tế. 11 1.4. Nội dung nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. 12 1.4.1. Các loại bảo lãnh ngân hàng. 12 1.4.3. Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng. 25 1.5.1.Hoạt động bảo lãnh Ngân hàng ở một số quốc gia trên thế giới. 27 1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. 29 Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh của 31 ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây 31 2.1. Vài nét về tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tây 31 2.2. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Tây. 31 2.2.1. Giới thiệu chung về NHĐT&PTHT 31 2.2.2. Vài nét về tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHĐT&PTHT. 33 2.3.1. Tình hình thực hiện quy trình nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT&PTHT. 39 Biểu 3: Tỷ trọng các loại bảo lãnh năm 2002 45 2.3.2. Đánh giá chung về tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT& PTHT. 48 Chương 3: giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả nghiệp vụ bảo lãnh 53 3.1 Định hướng kế hoạch kinh doanh của chi nhánh đến năm 2005. 53 3.2. Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của NHĐT&PTHT. 53 3.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT&PTHT. 54 3.3.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án: 54 3.3.2. Mở rộng thêm đối tượng khách hàng được bảo lãnh. 55 3.3.3. Đổi mới cơ chế chính sách khách hàng. 55 3.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng. 56 3.3.5. ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh: 58 3.4. Một số kiến nghị. 59 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền: 59 3.4.2. Kiến nghị với NHNNVN. 61 3.3.3. Kiến nghị đối với NHĐT&PTVN. 62 Kết luận 64 Danh mục tài liệu tham khảo 65 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28789.doc