Thực trạng và giải pháp về công tác lập kế hoạch cuộc đời. Nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân

MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ Bảng biểu Bảng 2.1: Các nhóm tính cách theo phương pháp MBTI 16 Bảng 3.1: Thống kê tỉ lệ SV K49, K50, K51 xem lại kế hoạch mình đã lập 55 Bảng 3.2: Thống kê tỉ lệ SV K48 xem lại kế hoạch mình đã lập 55 Bảng 3.3: Đánh giá của SV về tầm quan trọng của lập KHCĐ 57 Bảng 3.4: Mức độ SV KTQD sẵn sàng tham gia khóa học về lập KHCĐ 59 Bảng 4.1: Tính cách theo 12 cung hoàng đạo 61 Hình vẽ Hình 2.1: Bánh xe cuộc sống 20 Hình 2.2: Kết quả khảo sát của bánh xe

doc126 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và giải pháp về công tác lập kế hoạch cuộc đời. Nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cuộc sống 21 Hình 2.3: Ví dụ về bánh xe đánh giá một lĩnh vực 21 Hình 2.4: Tư vấn của Sean Covey về cách đặt trọng tâm cuộc sống 30 Hình 2.5: Sơ đồ về 7 thói quen của Sean Covey 31 Hình 2.6: Ví dụ về sử dụng Mindmap lập KHCĐ 36 Hình 2.7: Công thức về số phận của trung tâm Unesco giáo dục quốc tế 37 Hình 3.1: Sơ đồ tổ chức trường ĐH Kinh tế quốc dân 40 Hình 3.2: Kết quả xếp loại tốt nghiệp của SV KTQD 41 Hình 3.3: Điểm đầu vào trường KTQD qua các năm 42 Hình 3.4 : Sơ đồ các tổ hội sinh viên trường KTQD 43 Hình 3.5: Thống kê sinh viên K48 trường KTQD tham gia khảo sát 44 Hình 3.6: Thống kê sinh viên năm 1, 2, 3 trường KTQD tham gia khảo sát 45 Hình 3.7: Thói quen lập kế hoạch của SV năm 4 KTQD 46 Hình 3.8: Thói quen lập kế hoạch của SV năm 1, 2, 3 trường KTQD 46 Hình 3.9: Tỉ lệ SV KTQD xem lại KH đã lập 47 Hình 3.10: Đánh giá các hoạt động đã được lập KH của SV KTQD 48 Hình 3.11: Số lượng và hiệu quả các hoạt động hướng nghiệp K49, K59, K51 trường KTQD 50 Hình 3.12: Mục tiêu nghề nghiệp của SV KTQD 51 Hình 3.13: Hiểu biết của SV KTQD về lập kế hoạch cuộc đời 52 Hình 3.14: Phân loại theo khoa mức độ thường xuyên về việc lập KH trong cuộc sống của SV KTQD 53 Hình 3.15: Phân tích nguyên nhân SV không lập KHCĐ 58 Hình 4.1: Cây vấn đề 66 Hình 4.2: Cây mục tiêu 67 Hình 4.3: Khung Logic 67 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SV Sinh viên KTQD Kinh tế Quốc dân K Khóa KHCĐ Kế hoạch cuộc đời ĐH Đại học NXB Nhà xuất bản CLB Câu lạc bộ ĐH Đại học PHẦN I: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU I: GIỚI THIỆU VỀ ĐỀ TÀI Lý do chọn đề tài “Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí. Cho khỏi hổ thẹn về dĩ vãng ti tiện và hèn đốn của mình. Để khi nhắm mắt xuôi tay đôi môi ta có thể nở một nụ cười mãn nguyện"  Đoạn trích trong tác phẩm kinh điển "Thép đã tôi thế đấy" như một lời nhắc nhớ mọi người về việc sống hết mình, sống một cuộc sống trần đầy ý nghĩa. Vậy, làm thế nào để biết ta đang sống chứ không phải là tồn tại? Làm thế nào để ta phát huy hết được những khả năng tiềm ẩn của mình? Làm thế nào để khi nằm xuống, ta không cảm thấy phải hổ thẹn về những tháng năm đã sống hoài sống phí? Thế giới quanh tôi là thế giới của những con người trẻ tuổi và đầy nhiệt huyết. Họ là những sinh viên của một trường đại học danh tiếng, mang trong mình sức trẻ và kì vọng của xã hội. Tôi đã thấy một trong số đó đã trở thành niềm tự hào của đất nước, của gia đình. Nhưng tôi cũng đã thấy, không ít trong số những người bạn bên tôi đang lãng phí tiềm năng và tuổi trẻ của mình. Làm thế nào để tôi tìm được câu trả lời cho những trăn trở của mình nhưng lại giúp được những bạn sinh viên có một cuộc sống tốt đẹp và ngập tràn ý nghĩa hơn ? Những câu hỏi hỏi đã theo tôi trong suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường cứ thôi thúc tôi tìm đến một đề tài - đề tài về ‘‘Thực trạng và giải pháp về công tác lập kế hoạch cuộc đời. Nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân ’’ Đây là một đề tài không hề dễ đối với một sinh viên kinh tế. Dù vậy, tôi vẫn quyết tâm làm và đã nhận được sự chỉ bảo nhiệt tình của Th.S Nguyễn Quỳnh Hoa – giảng viên hướng dẫn tôi thực tập. Tôi nhận được sự chia sẻ, giúp đỡ thầy Frederic – nhà nghiên cứu giảng dạy về bản thân và phát triển con người; thầy Hùng - Chủ tịch HĐQT kiêm GĐ Thái Hà Books và rất nhiều anh chị ở trung tâm Unesco giáo dục quốc tế và conduongthanhcong.com Xin chân thành cảm ơn cô, thầy, chú, anh chị đã giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này. Câu hỏi nghiên cứu và Mục tiêu nghiên cứu Chuyên đề nhằm hướng tới việc trả lời các câu hỏi sau: Câu hỏi tổng quát : Thực trạng hoạt động lập kế hoạch cuộc đời của SV hiện nay như thế nào? Cần phải làm gì, làm như thế nào để tăng cường hoạt động lập KHCĐ của SV? Câu hỏi cụ thể: Câu hỏi 1: Tại sao sinh viên cần lập kế hoạch cuộc đời ? Nội dung bản KHCĐ? Phương pháp lập KHCĐ? Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác lập KHCĐ của SV ? Câu hỏi 2 : Hiện tại công tác lập KHCĐ của SV KTQD như thế nào? Có những ưu điểm gì ? Có những hạn chế gì đang tồn tại? Nguyên nhân của những hạn chế đó? Câu hỏi 3: Cần có những giải pháp nào để tăng cường công tác lập KHCĐ cho SV KTQD? Mục tiêu nghiên cứu là nhằm trả lời cho các câu hỏi trên với các nội dung cụ thể sau: Mục tiêu tổng quát : Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác lập kế hoạch và mô hình, quan điểm liên quan tới lập KHCĐ trên thế giới. Xem xét và nghiên cứu thực tế tại trường KTQD, từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể . Mục tiêu cụ thể: Về lý luận: Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hoạt động lập kế hoạch bao gồm: khái niệm, vai trò, qui trình...dựa trên những tài liệu đã học, Nghiên cứu về sự cần thiết phải lập KHCĐ của SV (chương I) Về nghiên cứu: Nghiên cứu mô hình, quan điểm liên quan tới lập KHCĐ trên thế giới. Tập trung vào những công trình nghiên cứu về con người (chương II) Về phân tích đánh giá: Phân tích tình hình hoạt động lập KHCĐ của SV KTQD. Đánh giá trình hình hoạt động này, là cở sở cho việc để ra các giải pháp (chương III) Về đề xuất, can thiệp: Dựa trên những phân tích đánh giá cụ thể từ đó đưa ra các giải pháp chính để tăng cường công tác lập KHCĐ của SV KTQD (chương IV) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của để tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác lập kế hoạch và lập KHCĐ. Phạm vi nghiên cứu : Về mặt nội dung: Trong cuộc đời mỗi người, có rất nhiều loại kế hoạch đã được lập ra. Dựa trên những căn cứ và mục đích khác nhau ta sẽ có những bản kế hoạch khác nhau. Tuy nhiên, trong giới hạn về nội dung chuyên đề chỉ nghiên cứu về kế hoạch dài hạn cho cả cuộc đời. Về mặt không gian: Đề tài phân tích, nghiên cứu hoạt động công tác lập kế hoạch cuộc đời tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân với tư cách là một nhà nghiê cứu độc lập Về mặt thời gian: Đề tài sẽ nghiên cứu các thực trạng, đánh giá, sử dụng các số liệu trong 6 năm trở lại đây của trường KTQD (2004 – 2009) Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện các vấn đề đã nêu, để tài sử dụng tổng hợp các biện pháp nghiên cứu như : Phương pháp luận duy vật biện chứng nghiên cứu cách có hệ thống về các lý luận về hoạt động lập kế hoạch và lập KHCĐ. Phương thống kê so sánh dùng để thu thập, xử lý và so sánh các số liệu để phản ánh tính hiệu quả, tính kết quả. Phương pháp phân tích - tổng hợp để nghiên cứu vấn đề, từ đó có nhận xét, đánh giá để tìm ra những nguyên nhân, giải pháp giải quyết vấn đề. Kết quả dự kiến đạt được Qua việc nghiên cứu từ lý luận đến thực tiễn công tác lập KHCĐ sẽ đánh giá được những hạn chế còn tồn tại và chỉ ra được nguyên nhân chính; từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể để tăng cường công tác lập KHCĐ với SV. Kết cấu đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận thì bố cục của chuyên đề tốt nghiệp bao gồm ba phần chính như sau: Chương I: Sự cần thiết của công tác lập kế hoạch cuộc đời đối với sinh viên Chương II: Các quan điểm và mô hình về việc lập kế hoạch cuộc đời Chương III: Thực trạng công tác lập kế hoạch cuộc đời của sinh viên, nghiên cứu trường hợp của trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Chương IV : Một số khuyến nghị đối với công tác lập kế hoạch cuộc đời của sinh viên Việt Nam hiện nay Đề tài được kết cấu theo Logic sau: Lý luận về công tác lập kế hoạch Sự cần thiết phải lập KHCĐ với SV Giới thiệu về quan điểm và mô hình liên quan tới lập KHCĐ trên thế giới Đánh giá tổng hợp chung về lập KHCĐ Giới thiệu chung về trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Thực trạng công tác lập KHCĐ của SV trường ĐH KTQD Chương III: Thực trạng công tác lập KHCĐ của SV, nghiên cứu tại trường ĐH KTQD Chương II: Các quan điểm và mô hình về việc lập KHCĐ Chương I: Sự cần thiết của công tác lập KHCĐ đối với SV Chương IV : Một số khuyến nghị đối với công tác lập KHCĐ với SV trường ĐH KHQD II. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Lập kế hoạch cuộc đời thực chất là quá trình tìm hiểu chính bản thân mình, biết mình thực sự muốn gì và đưa ra các chương trình hành động để có thể đạt được mục tiêu đã đặt ra. Có thể nói, đề tài này là sự giao thoa giữa triết học và kinh tế, giữa yếu tố nội tại của mỗi người với thế giới bên ngoài đầy biến động. Các tài liệu lí thuyết về lập kế hoạch chủ yếu được trình bày theo từng nội dung cụ thể như: Kế hoạch kinh doanh, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội...Tuy nhiên, các nội dung này cũng đưa ra được định nghĩa, vai trò, các nhân tố ảnh hướng tới các nội dung cụ thể của kế hoạch. Một số lí thuyết về lập kế hoạch đã nghiên cứu được thể hiện qua các tài liệu sau : Giáo trình Chương trình và Dự án phát triển kinh tế – xã hội, NXB Thống kê,1999 Giáo trình Kế hoạch kinh doanh, NXB Lao động - Xã hội,2006 Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, 2009 Tuy nhiên, các lí thuyết về lập kế hoạch cuộc đời thì chưa có tại Việt Nam. Điều này khiến cho việc nghiên cứu về nội dung này trở nên khó khăn hơn. Mặc dù vậy, đã có mốt số bài viết trên các báo lớn về đề tài lập kế hoạch cuộc đời, cụ thể như sau: Kế hoạch cuộc đời – bài viết của Đỗ Chí Nghĩa trên VietNamNet Không kế hoạch, thành công chỉ là ăn may - bài viết của Kiều Oanh trên VietNamNet Thành công: 80% nhờ kế hoạch của - bài viết của Thế Đạt trên VietNamNet Kế hoạch cuộc đời, đừng ỷ vào sức trẻ - bài viết của Kiều Oanh trên VietNamNet Những người trẻ sống bằng kế hoạch của người khác - bài viết của Lan Hương trên VietNamNet Những kế hoạch gây 'sốc' bài viết của Hoàng Lê trên VietNamNet Lập kế hoạch cho cuộc đời bài viết của nhà xã hội học Nguyễn Thị Oanh trên báo tuổi trẻ Các nội dung được đề cập đến là: Sự cần thiết phải lập kế hoạch cuộc đời Quan điểm của một số người nổi tiếng về lập kế hoạch cuộc đời Trăn trở của những người có tâm huyết với giới trẻ về thực trạng không lập kế hoạch cuộc đời cho mình của giới trẻ. Thực trạng không lập kế hoạch cuộc đời trong giới trẻ. Việc mỗi bài báo đi sâu vào nghiên cứu một nội dung cụ thể nêu trên có ưu điểm là phân tích vấn đề được chi tiết từ đó có nhận định chính xác về nội dung liên quan đến vấn đề đi sâu. Tuy nhiên lập kế hoạch là cả một quá trình bao gồm nhiều hoạt động và nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Để có thể nhìn nhận vấn đề này một cách tổng thể đòi hỏi phải trình bày một cách logic đầy đủ các yếu tố hợp thành trong công tác lập kế hoạch cuộc đời. Bên cạnh đó, muốn nâng cao hoạt động lập kế hoạch cuộc đời cho sinh viên cần giúp sinh viên hiểu rõ chính bản thân mình. Đồng thời, cần phân tích ở một tình huống cụ thể để tìm ra được nguyên nhân khiến SV không lập KHCĐ để có thể đưa ra những phương pháp giúp nâng cao công tác lập kế hoạch cuộc đời trong SV. Từ thực tế này mà đề tài đã lựa chọn nghiên cứu tổng thể các vân đề nêu trên . PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT CỦA CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH CUỘC ĐỜI ĐỐI VỚI SINH VIÊN LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC LẬP KẾ HOẠCH Khái niệm kế hoạch Hiểu theo cách chung nhất, kế hoạch là sự thể hiện cách thức, giải pháp cho một hoạt động nhằm đạt được mục đích và kết quả như mong muốn. Nó có thể được xem như nhịp cầu nối hiện tại và vị trí mà chúng ta muốn đến trong tương lai. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất, kế hoạch chính là sự hướng tới tương lai. Tính chất đó của kế hoạch được thể hiện ở hai nội dung như sau: Kế hoạch dự báo những gì sẽ xảy ra, đặt ra kết quả đạt được trong tương lai. Kế hoạch thực hiện việc sắp đặt các hoạt động của tương lai, các công việc cần làm và thứ tự thực hiện các công việc để đạt được kết quả đã định. Để thể hiện hai nội dung trên, các kế hoạch thông thường sẽ đi trả lời bốn câu hỏi chính như sau : Chúng ta đang ở đâu ? Chúng ta muốn đi đến đâu ? Làm thế nào để chúng ta đi đến đó ? Làm thế nào để chúng ta luôn đi đúng hướng ? Tương ứng với bốn câu hỏi đó là bốn giai đoạn của quá trình lập kế hoạch. Đó chính là: Phân tích tổng quan; thiết lập và phân tích mục tiêu; lên kế hoạch hành động; theo dõi, đánh giá quá trình thực hiện kế hoạch và các kết quả đạt được. Bốn giai đoạn này có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau. Chúng ảnh hưởng đến chất lượng và tính khả thi của kế hoạch đã được đưa ra. Vai trò của công tác lập kế hoạch Mỗi loại kế hoạch có vai trò cụ thể khác nhau và hiện nay, chưa có tài liệu nào nói về vai trò của công tác kế hoạch nói chung. Tuy nhiên, căn cứ vào bốn câu hỏi chính của công cụ kế hoạch, ta có thể nhận thấy vai trò của công tác lập kế hoạch như sau: Giúp cá nhân hay tổ chức lập kế hoạch hiểu rõ điểm mạnh, điểm yếu…của đối tượng được lập kế hoạch. Định hướng cho đối tượng được lập kế hoạch về mục tiêu trong tương lai của mình. Tìm kiếm, huy động, tập trung và phối hợp các nguồn lực một cách hiệu quả nhất nhằm đạt được mục tiêu và mong muốn đặt ra. Phối hợp giữa các cá nhân, bộ phận, tổ chức có liên quan. Là một công cụ dùng để quản lý và ứng phó với những bất định của cuộc sống. Như vậy, có thể thấy kế hoạch có vai trò rất lớn trong tất cả mọi hoạt động của đời sống con người. Qui trình lập kế hoạch. Thông thường, lập kế hoạch thường trải qua 4 bước Bước 1 : Trả lời câu hỏi chúng ta đang ở đâu ? Bước 2 : Trả lời câu hỏi chúng ta muốn đi tới đâu ? Bước 3 : Trả lời câu hỏi: Làm thế nào để chúng ta đi đến đó ? Bước 4 : Trả lời câu hỏi làm thế nào để chúng ta luôn đi đúng hướng ? Cụ thể như sau : Bước 1: Trả lời câu hỏi chúng ta đang ở đâu Để trả lời trên, người lập kế hoạch phải có cái nhìn tổng quan và khách quan về nội dung lập kế hoạch. Mặc dù vậy, mỗi loại kế hoạch khác nhau sẽ đi sâu phân tích tổng quan về một nội dung khác nhau. Với kế hoạch phát triển Kinh tế Xã hội, người làm kế hoạch thường đi sâu phân tích khả năng, điều kiện phát triển các yếu tố tiềm năng trong tương lai và đánh giá trình độ phát triển của quốc gia hoặc địa phương đó ở hiện tại. Kế hoạch kinh doanh thì lại đi sâu vào phân tích đánh giá môi trường bên trong, bên ngoài để xác định doanh nghiệp đang đứng ở đâu trên cơ sở điểm mạnh và điểm yếu của mình…Tuy nhiên tựu chung lại, khi trả lời câu hỏi chúng ta đang ở đâu, người lập kế hoạch cần phải rút ra được tương quan so sánh giữa ta trong quá khứ với ta ở hiện tại, giữa ta hiện tại với thế giới bên ngoài. Cùng với đó, quá trình này cũng cần đưa ra nhận dạng những cơ hội có thể có trong tương lai cũng như các thách thức có thể xảy ra. Bước 2: Trả lời câu hỏi chúng ta muốn đi tới đâu Câu trả lời của câu hỏi chúng ta muốn đi tới đâu là quá trình thiết lập mục tiêu, chỉ tiêu và những nhiệm vụ cần thực hiện cho bản kế hoạch. Thông thường, căn cứ vào thông tin có đuợc từ quá trình phân tích tổng quan, người lập kế hoạch sẽ đề ra các cấp độ mục tiêu khác nhau như mục tiêu cuối cùng (hay còn gọi là tác động), mục tiêu trung gian (hay còn gọi là kết quả), mục tiêu đầu ra…Tuy nhiên, tất cả các mục tiêu đều cần tuân thủ một nguyên tắc được rất nhiều người biết đến - nguyên tắc Smart : S - Specific: Cụ thể, rõ ràng và dễ hiểu. M - Measurable: Đo đếm được. A - Achievable: Có thể đạt được bằng chính khả năng của mình. R-Realistic: Thực tế, không viển vông. Time bound: Thời hạn để đạt được mục tiêu đã vạch ra. Bước 3: Trả lời câu hỏi: Làm thế nào để chúng ta đi đến đó Hành trình đi đến mục tiêu đã đặt ra luôn nhiều chông gai và yếu tố bất định. Vì vậy, cần phải có một kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện mục tiêu đã đặt ra. Trong kế hoạnh hành động này, người lập kế hoạch sẽ liên kết, huy động và cân đối các nguồn lực. Đồng thời, người lập kế hoạch cũng sẽ xác định thứ tự ưu tiên, chia nhỏ mục tiêu và lên kế hoạch thời gian cụ thể để con đường đi đến mục tiêu là con đường phù hợp nhất. Bước 4: Trả lời câu hỏi làm thế nào để chúng ta luôn đi đúng hướng Là quá trình theo dõi, đánh giá nhằm thúc đẩy tiến độ thực hiện mục tiêu, phát hiện những vấn đề có liên quan đến khả năng thực hiện mục tiêu đã đề ra để có những điều chỉnh cho phù hợp. Việc theo dõi đánh giá này có thể được triển khai bởi chính người lập kế hoạch hoặc một cá nhân, tổ chức khách quan, độc lập. Trong một thế giới có tính biến dịch rất cao thì việc theo dõi và đánh giá là vô cùng cần thiết. Nó sẽ giúp cho chúng ta tránh được những hạn chế của công tác phân tích, dự báo và giúp bản kế hoạch trở nên linh hoạt trong một môi trường linh động. SỰ CẦN THIẾT PHẢI LẬP KẾ HOẠCH CUỘC ĐỜI VỚI SINH VIÊN Đặc điểm của sinh viên Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, là những người đang theo học ở bậc đại học để chuẩn bị cho hoạt động sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt này được đào tạo với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào các hoạt động cộng đồng, là nguồn bổ sung đội ngũ trí thức cho xã hội. Tuổi sinh viên nhìn chung là từ 18 – 25. Đây là thời kỳ của sự trưởng thành xã hội - bắt đầu có quyền của người công dân, hoàn thiện học vấn để chuẩn bị cho một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có quan điểm chính trị, có được nghề ổn định, bắt đầu lao động, giảm phụ thuộc kinh tế, bước vào hôn nhân… Sinh viên là những người lớn cả về phương diện sinh học và xã hội. Mặc dù vẫn còn là đối tượng đang được tiếp tục giáo dục nhưng xã hội nhìn nhận sinh viên như chủ thể có trách nhiệm của hoạt động sản xuất xã hội và đánh giá các kết quả hoạt động của họ theo "tiêu chuẩn người lớn". Sự phát triển cơ thể Sự phát triển cơ thể của sinh viên diễn ra ổn định, đồng đều. Trọng lượng não đạt mức tối đa, khoảng 1400gr và chứa khoảng 14-16 tỷ nơ-ron. Các nơ-ron đã phát triển hoàn thiện - phát triển các sợi nhánh, sợi trục được myelin hóa hoàn hảo đảm bảo sự dẫn truyền các luồng thần kinh nhanh chóng, chính xác. Các sợi nhánh đảm bảo sự liên hệ hết sức rộng khắp, chi tiết và tinh tế. Các nhà nghiên cứu đã tính được nhiều tế bào thần kinh đến tuổi sinh viên có thể nhận tin từ 1200 nơ-ron trước và gửi đi 1200 nơ-ron sau. Số lượng các kênh liên hệ đó làm cho khả năng hoạt động trí tuệ của sinh viên vượt xa học sinh phổ thông trung học. Ước tính có khoảng 2/3 số kiến thức học được trong cuộc đời được tích lũy trong thời gian này. Những thay đổi về tâm lý Đặc điểm chung của thời kỳ phát triển Đặc trưng tâm lý quan trọng nhất của tuổi sinh viên là tình trạng chuyển tiếp giữa cận dưới là sự chín muồi về sinh lý, cận trên là có nghề nghiệp ổn định và bắt đầu bước vào một phạm vi hoạt động lao động nhất định. Đây cũng là giai đoạn có sự biến đổi mạnh mẽ về động cơ và thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp. Ở sinh viên, sự tự ý thức phát triển mạnh. Họ chú trọng đến việc tự đánh giá hành động và kết quả tác động của mình, đánh giá về tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức, hứng thú, tư tưởng, động cơ hành vi, vị trí của mình trong các mối quan hệ và trong cuộc sống nói chung. Thông qua tự đánh giá, sinh viên chủ động điều chỉnh hành vi, hoàn thiện nhân cách, chủ động tổ chức toàn bộ thế giới nội tâm của mình. Những mâu thuẫn chính phải giải quyết ở tuổi sinh viên Thế giới nội tâm của sinh viên rất phức tạp và nhiều mâu thuẫn. Có thể nêu ra 4 mâu thuẫn lớn sau đây: Mâu thuẫn giữa mơ ước với khả năng, điều kiện và kinh nghiệm để thực hiện mơ ước đó. Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập sâu những môn mình yêu thích với yêu cầu thực hiện toàn bộ chương trình học tập. Mâu thuẫn giữa số lượng thông tin đưa tới người sinh viên và thời gian để hiểu, để suy ngẫm các thông tin đó. Mâu thuẫn giữa yêu cầu học tập và nhu cầu của đời sống giới trẻ. Những véc-tơ phát triển của sinh viên Chickering và Reiser (1993) cho rằng sự phát triển xã hội là cuộc hành trình làm tăng tính phức tạp. Trong quá trình phát triển có những bản đồ (véctơ) "mô tả những xa lộ chính để đi tới cá tính, tới sự đồng cảm với những cá nhân khác và những nhóm khác". Sinh viên thực hiện cuộc hành trình theo những tốc độ khác nhau qua các véctơ, nhưng họ luôn di chuyển từ những mức độ thấp hơn đến mức độ cao hơn của sự phức tạp trong véctơ đó. Véctơ phát triển năng lực Sinh viên di chuyển từ mức độ thấp hơn đến mức độ cao hơn của năng lực trí tuệ, thể lực và năng lực quan hệ giữa cá nhân với nhau. Năng lực trí tuệ bao gồm khả năng nắm vững nội dung, xây dựng kỹ năng thông hiểu, phân tích và tổng hợp, và phát triển tính chất tinh tế về trí tuệ và thẩm mỹ. Năng lực quan hệ giữa các cá nhân với nhau là biết lắng nghe, trả lời và kết hợp các mục đích cá nhân với mục đích của nhóm. Véctơ quản lý cảm xúc Ý thức về cảm xúc: sinh viên tiến triển từ mức độ thấp hơn đến mức độ cao hơn của: Khả năng kiểm soát các cảm xúc gây rối ren (lo lắng, gây gổ, suy sụp...). Nhận thức về cảm xúc. Khả năng phối hợp cảm xúc với hành động. Di chuyển từ độc lập sang tự chủ: sinh viên phải học cách tự lo liệu, nhận trách nhiệm theo đuổi những mục đích tự lựa chọn. Họ trở nên ít chịu ảnh hưởng của người khác. Phát triển những mối quan hệ chín chắn giữa cá nhân với nhau: sinh viên đi từ mức độ thấp hơn đến mức độ cao hơn của: Khả năng dung thứ giữa cá nhân với nhau và giữa các nền văn hoá. Từ có những mối quan hệ tưởng tượng, ngắn hạn hay không lành mạnh sang khả năng quan hệ gần gũi và cam kết lớn hơn. Ổn định cá tính: sinh viên đi từ sự khó chịu đến sự an tâm thoải mái với vẻ ngoài của mình, với giới, gia đình, nguồn gốc xã hội/văn hoá, các vai trò và lối sống. Phát triển mục đích: tạo điều kiện cho sinh viên thực hiện những quan tâm, những mục đích và kế hoạch đối với thiên hướng, những hứng thú cá nhân và sự sốt sắng với các mối quan hệ. Phát triển tính toàn vẹn Các chuẩn mực ứng xử của sinh viên được biến đổi từ nước đôi, cứng nhắc và tự cho mình là trung tâm trở thành các chuẩn mực: Ứng xử có nhân tính (quan tâm đến những sở thích của người khác). Cá nhân hoá (khẳng định những giá trị cốt yếu của mình trong khi vẫn tôn trọng những người khác). Thích hợp (làm cho những chuẩn mực ứng xử của cá nhân mình tương xứng với những hành vi có trách nhiệm về mặt xã hội). Như vậy, có thể thấy lứa tuổi sinh viên là giai đoạn chín muồi về sức khoẻ, rảnh rỗi về thời gian và không chịu nhiều sức ép về tiền bạc. Đây cũng chính là giai đoạn chuyển tiếp vô cùng quan trọng, là giai đoạn định hình, phát triển và ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời của mỗi người. Ở giai đoạn này, sinh viên đã bắt đầu được gia đình, xã hội trao quyền quyết định về cuộc đời mình. Vì vậy, việc lên kế hoạch cuộc đời cho chính mình và bắt tay vào thực hiện kế hoạch đó là rất cần thiết với sinh viên. Sự cần thiết của việc lập kế hoạch cuộc đời với sinh viên Theo như phân tích ở trên, việc lập kế hoạch cuộc đời sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho sinh viên như : Giúp sinh viên hiểu được những giá trị nội tại của mình, sử dụng thời gian hiệu quả, vượt qua những khó khăn trở ngại trong cuộc sống …Tuy nhiên trong phạm vi đề án, xin phân tích tích lợi ích tổng quan ở tầm vĩ mô của việc lập kế hoạch cuộc đời trên 3 khía cạnh: Tâm lý, Văn hoá – Xã hội và Kinh tế. Lợi ích về mặt tâm lý Mỗi người chỉ có một cuộc đời để làm chủ, đề sống theo đúng niềm đam mê của mình. Chỉ khi theo đuổi ước mơ và những kế hoạch do chính mình đặt ra, mỗi người mới có thể sống vui vẻ, mạnh mẽ hơn trong cuộc sống và phát huy hết năng lực, sự nhiệt tình của mình trong công việc. Tuy nhiên hiện nay, có rất nhiều bạn trẻ đang sống với kế hoạch và sự sắp xếp của cha mẹ, họ hàng. Điều này khiến cho nhiều lúc, một số lượng không nhỏ các bạn sinh viên cảm thấy hoang mang hay chán nản về tương lai của chính mình. Lướt qua các phương tiện thông tin đại chúng, người lớn có thể giật mình trước những thống kê về tỉ lệ giới trẻ nói chung và sinh viên nói riêng bị rối loạn tâm lý trước những áp lực từ bố mẹ, cuộc sống. Trong lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, áp lực học tập vì kỳ vọng của gia đình với học sinh THPT vào khoảng 50%; và với sinh viên là hơn 37%. Ngoài ra, những khó khăn HS gặp phải khi học tập có đủ dạng: học thiếu động cơ, mục đích (53,53%); nội dung học quá nặng, thiếu phương pháp học tập có hiệu quả 30,02%; thời gian học nhiều (30,8%). Bên cạnh đó, theo ông Trần Văn Vũ - Phó trưởng khoa 3 thuộc Bệnh viện Tâm thần T.Ư cho hay: “Mỗi năm, bệnh viện đón nhận gần 4.000 bệnh nhân, trong đó 30% là đối tượng HS, sinh viên. Có thể thấy, trước những khó khăn và áp lực từ nhiều phía, nhiều sinh viên không chống đỡ nổi với cạm bẫy, cám dỗ, phát triển tâm lý lệch lạc, rơi vào trầm cảm hoặc khiến có những phản ứng “phá phách”. Việc sống không có mục đích, không có định hướng còn để lại hậu quả về mặt tâm lý cho những “tri thức trẻ” khi rời giảng đường bước vào cuộc sống. Không ít người khi trở thành một phần của guồng máy chầm chậm tại các công ty nhà nước hay khi đối mặt với những góc tối của cuộc sống đã cảm thấy chán nản, mệt mỏi…Cũng có một số lượng không nhỏ sinh viên chọn làm việc tại các doanh nghiệp tư nhân hay các doanh nghiệp nước ngoài. Ở môi trường này, áp lực về hiệu quả, chất lượng và tính chuyên nghiệp khiến nhiều người đã dốc hết cả thể chất và tinh thần vào công việc, để rồi dẫn đến chứng rối loạn tâm thần (RLTT). Biểu hiện của chứng bệnh RLTT là căng thẳng, lo âu, trầm cảm, thậm chí có người tự hủy hoại sự sống. Đương nhiên, không phải tất cả sinh viên nếu không lập kế hoạch cuộc đời đều trở nên như vậy ; và không phải lập kế hoạch cuộc đời sẽ chắc chắn giúp sinh viên tránh được toàn bộ những khó khăn trở ngại như đã kể ở trên. Tuy nhiên, hoạt động đó luôn là điều kiện cần, là hành trang không thể thiếu khi ta muốn đi tới đích là một cuộc sống thành công, khoẻ mạnh và hạnh phúc. Lợi ích về mặt văn hoá - xã hội Lập kế hoạch cuộc đời giúp sinh viên nâng cao chất lượng cuộc sống của chính bản thân gia đình và xã hội. Như những thông tin phía trên, việc không có kế hoạch cuộc đời có thể dẫn đến rối loạn về mặt tâm lý. Kéo theo đó là sự phá huỷ nguồn lực, chất lượng cuộc sống của cá nhân nói riêng và xã hội nói chung. Nếu có khoảng 50% sinh viên ý thức sâu sắc về bản thân mình, biết mình học để làm gì, mình thực sự phù hợp và yêu thích công việc gì thì những người này có thể đóng góp nhiều hơn cho bản thân, gia đình và xã hội. Từ đó, nâng cao chất lượng cuộc sống chính bản thân mình, của gia đình và xã hội. Bên cạnh đó, lập kế hoạch cuộc đời có thể giúp sinh viên chủ động tránh xa những tệ nạn xã hội. Thời gian rảnh rỗi nhiều lại không có sự quản lý và giám sát của gia đình, không ít sinh viên đã bị lôi kéo vào những hoạt động xã hội không lành mạnh. Theo thống kê chưa đầy đủ của Bộ GD-ĐT, giai đoạn từ năm 2003-2007, số SV phạm tội hình sự là 27 SV, bị bắt giữ liên quan đến vụ việc khác là 77 SV, 126 SV bị buộc thôi học và 2.533 SV vi phạm quy chế nhà trường. Những con số này có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây. Để giải thích cho những tình trạng báo động trên, có một nguyên nhân đã được giới truyền thông đã, đang và có lẽ sẽ còn nhắc đến nhiều. Đó chính là thói quen không lập kế hoạch trong cuộc sống, bị động, chưa chủ tâm tìm đến những môi trường sinh hoạt lành mạnh và sử dụng thời gian một cách hiệu quả của chính sinh viên. Hơn 30 năm trước, kinh tế Việt Nam vận hành dưới chế độ kế hoạch hóa tập chung. Trong đó, nhà nước lên kế hoạch phát triển, trực tiếp kiểm soát các nguồn lực xã hội và giao chỉ tiêu về cho từng địa phương, từng công dân. Thói quen thụ động bắt nguồn từ đó và ảnh hưởng sâu sắc đến tận bây giờ, bất chấp nền kinh tế Việt Nam đã vận động theo chế độ kinh tế thị trường với những quy luật vốn có của nó. Thời đại mới đòi hỏi lối tư duy mới, những con người mới. Lập kế hoạch cuộc sống, chủ động chèo lái con thuyền cuộc đời giúp sinh viên trở thành người đặt viên gạch đầu tiên trong quá trình thay đổi tư duy thụ động và thiên về cảm tính của người Việt Nam, viết lên một trang mới về con người Việt Nam giàu truyền thống văn hóa nhưng lại rất linh hoạt, chủ động và sáng tạo khi hòa mình vào dòng chảy của thế giới. Lợi ích về mặt kinh tế Trong cuộc sống, các phương tiện thông tin đại chúng nhắc rất nhiều tới lãng phí biển, lãng phí rừng, lãng phí đất. Nhưng có một nguồn lực vô hạn chưa được đánh giá đúng với giá trị vốn có của nó, đó là tiềm năng của con người. Tiềm năng con người có sức mạnh phi thường. Theo các nhà khoa học, con người có khả năng đạt được hầu hết những mục tiêu mà mình thiết lập cho bản thân. Mọi cá nhân đều có khả năng làm được nhiều hơn những gì người đó có thể hình dung. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không nhận ra và sử dụng hết tiềm năng của mình. Theo một nghiên cứu của trường Đại học Stanford, một người bình thường chỉ sử dụng 2% năng lực trí tuệ của mình. Phần còn lại chỉ nằm yên dự trữ để giành thời gian về sau. Nó cũng giống như việc cha mẹ giành cho con cái một ngân quỹ 100.000 đô-la, nhưng con trẻ chỉ rút ra tiêu 2.000 đô la. Số tiền còn lại vẫn nằm trong tài khoản và không được sử dụng đến hết cuộc đời. Không chỉ gây lãng phí cho cá nhân, việc không lập kế hoạch cuộc đời còn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội và đất nước. Theo khảo sát về việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học do tiến sĩ (TS) Lê Thị Thanh Mai và Trần Văn Đồng thực hiện, hơn 60% sinh viên ra trường phải đào tạo lại. Đó là một con số lãng phí đáng báo động với một nước còn nghèo như nước ta. Đứng trước thực trạng đó, bản thân mỗi sinh viên cần có trách nhiệm với cuộc đời mình. Sự bùng nổ của các phương tiện thông tin đại chúng giúp giới trẻ có thể tiến tới gần hơn nền văn mình của nhân loại. Vậy tại sao mỗi sinh viên không tự giúp mình và góp phần vào sự thay đổi bộ mặt của đất nước ? Giá trị thặng dư của xã hội bắt nguồn từ sự cố gắng của mỗi cá nhân. Các quy luật tự nhiên như luật hấp dẫn, luật nhân quả, luật cho nhận…vẫn luôn hiện hữu trong xã hội, dẫu cho mọi người có biết tới nó hay không. Với những sinh viên chủ động lập kế hoạch cuộc đời, họ kiên trì theo đuổi mục tiêu của mình và nhận được những gì xứng đáng với những thứ họ đã bỏ ra. Đó có thể là những thứ có thể đo đếm được như : Mức lương cao, địa vị xã hội, môi trường làm việc chuyên nghiệp… Đó cũng có thể là những thứ không thể đo đếm được như: nắm bắt tri thức mới, làm việc ở môi trường chuyên nghiệp, có những bạn bè cùng chung chí hướng… Và điều ngược ngược lại sẽ đến với những người không chủ động với cuộc đời mình. Đó là sự tương hợp giữa cuộc sống với các qui luật tự nhiên. Đánh giá của một số người nổi tiếng về tầm quan trọng của hoạt động lập kế hoạch cuộc đời. Cố thạc sĩ phát triển cộng đồng Nguyễn Thị Oanh Cố thạc sĩ phát triển cộng đồng Nguyễn Thị Oanh - nhà xã hội học quen thuộc với giới truyền thông đã từng viết về tầm quan trọng của việc lập kế hoạch cu._.ộc đời như sau: “Kế hoạch cuộc đời, nói nghe thật to lớn nhưng thật ra ai cũng có ước mơ cho tương lai hay một mục đích để vươn tới. Kế hoạch chính là công cụ để đạt tới ước mơ đó. Thường người ta bắt đầu ước mơ từ lúc nào? Ngay từ nhỏ ta ước mơ theo đuổi một công việc nào đó như muốn trở thành bác sĩ, kỹ sư, và ngày nay ta còn muốn trở thành nhà khoa học hay nhà phi hành vũ trụ... Có người muốn trở thành một chính trị gia, một nhà hoạt động xã hội phục vụ người nghèo... Người ta nghĩ đến những nghề nghiệp cụ thể hay có những ước mơ bay bổng. Dù còn “mơ mơ màng màng”, ước mơ là sức hút làm cho cá nhân vươn tới, là lực đẩy để ta tiến xa’’  Không ít bạn trẻ có những ước mơ cao đẹp như cải tạo xã hội, phục vụ nhân loại, sống lý tưởng... Ước mơ hay lý tưởng ấy nếu được gia đình và xã hội góp phần hun đúc sẽ như chiếc la bàn để định hướng cá nhân trong cơn sóng gió của cuộc đời. Chiếc thuyền có thể trôi giạt trên sóng biển nhưng chiếc la bàn sẽ luôn giúp những bạn trẻ ấy hướng về lý tưởng ban đầu. Để hướng tới ước mơ, mỗi cá nhân phải định cho mình một mục đích cụ thể. Ví dụ: muốn giúp người, bản thân mình phải trở thành một bác sĩ, một nhà tham vấn tâm lý, một chính trị gia... Nhưng mục đích đã nêu trên phải được chia ra thành những mục tiêu nhỏ hơn nữa và được thực hiện theo từng giai đoạn trong thời gian. Kế hoạch chính là tấm bản đồ vẽ ra những đoạn đường đi cụ thể để đạt tới đích. Có người đi tới đích bằng xa lộ thẳng tắp. Ví dụ như được cha mẹ có đủ điều kiện cho ăn học đến nơi đến chốn. Nhưng đa số các bạn trẻ phải chọn những con đường ngoằn ngoèo, ví dụ như phải vừa học vừa làm, phải nghỉ vài năm giữa hai thời kỳ học để tích lũy tiền đóng học phí. Những đoạn đường nhỏ này cũng phải được vẽ trên bản đồ để mỗi người có thể dự trù, tính toán hầu không bị động trong kế hoạch. Các nhà khoa học nói có kế hoạch là đã đi được 2/3 đoạn đường. Nếu không có sẵn bản đồ, mỗi cá nhân sẽ mất nhiều công sức và thời gian để mò mẫm.  TS Nguyễn Sỹ Dũng, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội TS Nguyễn Sỹ Dũng cũng đã chia sẻ ý kiến về lập kế hoạch cuộc đời trên báo Vietnamnet như sau: ‘‘Trong cuộc sống mình phải có "đích" hướng đến ; và muốn đi tới đích thì phải lên kế hoạch. Thực tế, các bạn trẻ thường có hào hứng rất chung chung: "Muốn thành đạt, muốn cống hiến, muốn làm nhiều điều có ích..." Những ham muốn như vậy đặt nền tảng cho định hướng giá trị tốt. Nhưng định hướng hành động không thực vì nó không rõ những mục đích vươn tới. Chẳng hạn: muốn phục vụ dân tốt hơn thì phải chọn những nghề phục vụ dân nhiều hơn...Nghĩa là định hướng hành động phải cụ thể hóa hơn một bước nữa thì người Việt không có nhiều’’ Việc lập kế hoạch rất cần thiết. Vì, nếu có kế hoạch thì sẽ làm chủ được cuộc đời, còn không thì "may nhờ, rủi chịu", cũng có khi thành đạt. Bên cạnh đó, việc lập kế hoạch còn có rất nhiều lợi ích như: Chọn được đúng thời gian cho đúng việc nên giảm chi phí về thời gian và chi phí khác; có thời gian đánh giá kế hoạch và đánh giá khả năng của mình để điều chỉnh; đồng thời, thấy được các công cụ để đạt mục tiêu đề ra. Trong cuộc sống không loại trừ tính "ăn may". Cũng có khi "Người lập kế hoạch 10 năm phấn đấu không bằng người được cơ cấu 1 giờ". Nhưng số người được "cơ cấu" chỉ đếm trên đầu ngón tay. Đa số mọi người là phải xác lập được mục tiêu cá nhân... Nguyễn Mạnh Hùng. Chủ tịch HĐQT kiêm GĐ Thái Hà Books Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐQT kiêm GĐ Thái Hà Books nhận định: Hiện nay, đa phần sinh viên Việt Nam không có thói quen lập kế hoạch cuộc đời. Nguyên nhân thì có rất nhiều như: không được dạy về lập kế hoạch cuộc đời, không có ý thức, mải chơi, không có tầm nhìn, thích lý thuyết mà không lưu tâm đến ứng dụng vào công việc và cuộc sống… Tuy nhiên, việc sinh viên lập kế hoạch cuộc đời là hết sức cần thiết. Bởi kế hoạch cuộc đời giúp sinh viên có tầm nhìn xa, biết mình đi về đâu, kiểm soát được cuộc đời mình. Có kế hoạch sẽ biết rõ từng giai đoạn của cuộc đời, vững vàng trong cuộc sống. Cũng có một số sinh viên thành công nhưng không lập kế hoạch. Nhưng, thành công bền vững khó có thể có ở những người không có kế hoạch cuộc đời. Harry Nguyễn - Project Manager của FPT Chia sẻ với giới truyền thông, Harry Nguyễn đưa ra quan điểm của mình về lập kế hoạch cuộc đời như sau : ‘‘Theo tôi, lập chiến lược cho cuộc đời là một việc cần và buộc phải làm, đặc biệt đối với lớp trẻ. Bởi vì sống có mục đích sẽ giúp chúng ta không bị trật "đường ray" trong lúc vận chuyển trên đường đời. Tôi nghĩ rằng ai không có tham vọng trong công việc mình đang làm thì không nên làm công việc đó nữa. Có tham vọng sẽ làm hết mình và đi đến tận cùng trong công việc - có thế mới vỡ ra được nhiều bài học quý giá trong công việc chứ - bạn nhỉ? Trước đây, tôi không làm plan cho cuộc đời gì cả - sống rất thoải mái - nhưng bây giờ khi trưởng thành thêm - đi nhiều biết nhiều tôi thấy một cuộc đời bắt buộc phải có một kế hoạch. Các nước tiên tiến các em bé đã biết lập rõ ràng kế hoạch từ cấp 1, cấp 2 rồi. Có kế hoạch thì chúng ta sẽ biết mình ở đâu trong 5 năm nữa, 10 năm tới và không bị mù mờ về ngày mai của mình’’ CHƯƠNG II: CÁC QUAN ĐIỂM VÀ MÔ HÌNH VỀ VIỆC LẬP KẾ HOẠCH CUỘC ĐỜI I. GIỚI THIỆU VỀ QUAN ĐIỂM VÀ MÔ HÌNH LIÊN QUAN TỚI LẬP KẾ HOẠCH CUỘC ĐỜI TRÊN THẾ GIỚI Đi theo bốn câu hỏi của qui trình lập kế hoạch, tôi tìm tới công trình nghiên cứu của một số chuyên gia về thay đổi bản thân trên thế giới. Cụ thể như sau : Nghiên cứu về giá trị của con người và cách xác định mình đang ở đâu của Mike George; Carl Gustav Jung và công ty House, Cardiff, Vương quốc Anh. Những nghiên cứu này là căn cứ quan trọng để mỗi cá nhân hiểu rõ về giá trị của bản thân. Từ đó, xác định được điểm xuất phát trong hành trình lập kế hoạch cuộc đời. Nghiên cứu về xác định tiềm năng cá nhân, cách đặt, đạt được mục tiêu và các quy luật chi phối quá trình chinh phục mục tiêu của Brian Tracy. Thông qua kết quả nghiên cứu trên, người muốn lập kế hoạch có thể thiết lập mục tiêu một cách phù hợp và đưa ra một chương trình hành động khả thi nhằm hướng tới mục tiêu đã đặt ra. Nghiên cứu về các thói quen và cách đặt trọng tâm cuộc sống để lên kế hoạch hành động và biết mình đang đi đúng hướng của Sean Covey. Theo Sean Covey, nguyên tắc sống chính là căn cứ để mỗi cá nhân nhìn lại và điều chỉnh quá trình triển khai kế hoạch cuộc đời của mình. Mike George – Giá trị nội tại của mỗi người Giới thiệu Mike George là một diễn giả người Anh nổi tiếng. Hiện nay, ông sống tại London (Anh) và là người phụ trách quản lý biên tập tạp chí Heart & Soul. Trong 20 năm qua, Mike George đã tới hơn 30 quốc gia để dạy về nghệ thuật thiền định, giúp đỡ nhiều người trong lĩnh vực phát triển tinh thần. Ông là tác giả của 8 cuốn sách bán chạy nhất được dịch ra 15 ngôn ngữ khác nhau, chủ yếu tập trung về khả năng nhận thức bản thân. Quan điểm của Mike George – Giá trị nội tại của mỗi người Theo Mike George, con người rất dễ bị ấn tượng bởi người khác. Đó có thể là ấn tượng bởi tài sản, học vị, tài năng, hình thức…Dễ bị gây ấn tượng thực chất không phải là xấu, nhưng nó có thể là điều bất lợi, bởi nó làm cho mỗi người có xu hướng bị mắc bẫy trong cái vỏ bọc của cuộc sống, dính mắc vào hình thức. Tất cả mọi người sinh ra đều hoàn hảo. Mỗi người là một thực thể sống độc đáo có cuộc đời riêng, đa dạng về tính cách và khác nhau trong lối suy nghĩ. Tuy nhiên, xuất phát từ thói quen đã được học từ nhỏ, con người thường hay so sánh bản thân với người khác mà quên đi rằng không ai có thể “là” người khác, trông giống như người khác hoặc hành động tương tự theo kiểu của người khác. Mọi ý định bắt chước luôn đưa đến thất bại thảm hại, nhất là việc một cá nhân chỉ cảm thấy tốt về bản thân khi được là bản sao của ai đó. Quý trọng bản thân là nền tảng cho sự tự tin và tạo động lực cho sự tiến bộ của bản thân. Đó là cách mỗi người cảm nhận về chính mình qua mỗi giây phút. Tuy nhiên, đa số mọi người đã quen với việc tạo dựng lòng tự trọng dựa trên những nền tảng sai lạc, những điều thuộc về bên ngoài như: Chức quyền, địa vị, của cải, thu nhập, lời tán dương, ca ngợi nhận được từ người khác…thay vì xuất phát từ những phẩm chất tốt đẹp sẵn có trong lòng. Thói quen so sánh và sao chép một cách thiếu cân nhắc, vô ích này là kẻ thù lớn nhất của sự quý trọng bản thân. Nó cản trở mong muốn tìm hiểu bản thân, kìm giữ mỗi cá nhân trong thế giới xô bồ, bất an, đầy cạm bẫy. Thậm chí, nó không cho mỗi người sự sáng suốt nhận ra vẻ đẹp thật sự mình đang tìm kiếm, vẻ đẹp không nhìn thấy được bằng mắt thường mà với con mắt nội tâm. Vì vậy, bước đầu tiên và quan trọng nhất là từ bỏ thói quen so sánh, và ý muốn được là người khác. Carl Gustav Jung (1876-1961) – Cách xác định tính cách của mình Giới thiệu Gustav Jung (1876-1961) sinh ra trong một gia đình mục sư gốc Đức, đến lập nghiệp ở Thụy Sĩ gần hồ Constance. Từ rất sớm ông đã say mê khảo cổ học và cổ sinh học. Nhưng rồi ông theo học ngành y ở đại học Bále (1895-1900). Sau một thời gian thực tập, ông trình bày luận văn tiến sĩ y khoa năm 1902: “Góp phần nghiên cứu về tâm lí học và bệnh học đổi với những hiện tượng gọi là huyền bí”. Năm 1920, ông đưa ra công trình nghiên cứu về “các kiểu tâm lý”, là nền tảng để Katharine Cook Briggs và con gái của bà Isabel Briggs Mayers đưa ra công cụ MBTI (Mayers-Briggs Type Indicator) – một công cụ kiểm tra tính cách cá nhân. Phương kiểm tra tính cách MBTI – Cách xác định tính cách của mình Phương pháp này dựa trên nguyên lý của Jung cho rằng có thể phân loại tính cách con người dựa trên 3 tiêu chí: hướng nội/hướng ngoại; trực giác/giác quan; lý trí/tình cảm. Trong hệ thống phân loại của Jung, không có nhóm nào tốt, nhóm nào xấu, nhưng Jung nhận xét rằng: cùng một sự vật hiện tượng sẽ gây ra những suy nghĩ, cảm xúc, phản ứng khác nhau cho những người khác nhau. Ba yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến suy nghĩ, cảm xúc và phản ứng của một con người là: xu hướng tự nhiên của người đó - hướng nội/hướng ngoại; cách thức mà người đó tìm hiểu và nhận thức thế giới bên ngoài - trực giác/giác quan; và cách thức mà người đó quyết định, đưa ra lựa chọn: lý trí/tình cảm. Sau này, Briggs/Myer bổ sung tiêu chí thứ 4: nguyên tắc/linh hoạt. Từ 4 tiêu chí này, Briggs/Myer đưa ra 2^4 = 16 nhóm tính cách. Tên của mỗi nhóm đều có 4 chữ cái, đại diện cho 4 tiêu chuẩn phân loại. Bảng 2.1: Các nhóm tính cách theo phương pháp MBTI Tiêu chí 1 - Xu hướng tự nhiên Extraverted (Hướng ngoại)/Introverted (Hướng nội) Mỗi người đều có 2 biểu hiện: Hướng ngoại - hướng về thế giới bên ngoài gồm các hoạt động, con người, đồ vật... Hướng nội - hướng vào nội tâm, bao gồm ý nghĩ, tư tưởng, trí tưởng tượng. Đây là 2 mặt đối lập nhưng bổ sung lẫn nhau. Tuy nhiên, một mặt sẽ chiếm ưu thế trong việc phát triển tính cách và ảnh hưởng đển cách ứng xử. Các đặc điểm của nhóm Extraverted Hành động trước hết, suy nghĩ và cân nhắc sau. Cảm thấy khổ sở nếu bị cách ly với thế giới bên ngoài. Hứng thú với con người, sự việc xung quanh. Quảng giao, thích tiếp xúc với nhiều người. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái đầu tiên trong MBTI của người đó là E. Các đặc điểm của nhóm Introverted Suy nghĩ và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi hành động. Cần có một khoảng thời gian riêng tư đáng kể để nạp năng lượng. Hứng thú với đời sống nội tâm, đôi khi tự cô lập với thế giới bên ngoài. Thích nói chuyện tay đôi. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái đầu tiên trong MBTI của người đó là I. Tiêu chí 2 - Cách tìm hiểu và nhận thức thế giới: Sensation (Giác quan)/Intuition (Trực giác) Trung tâm "Giác quan" trong não bộ chú ý đến các chi tiết liên quan đến hình ảnh, âm thanh, mùi vị... của hiện tại được đưa đến từ các giác quan của cơ thể. Nó phân loại, sắp xếp và ghi nhận những chi tiết của các sự kiện thực tế đang diễn ra. Nó cũng cung cấp các thông tin chi tiết của các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Trung tâm "Trực giác" của não bộ chịu trách nhiệm tìm hiểu, diễn dịch, và hình thành các mô hình từ thông tin thu thập được; sắp xếp các mô hình và liên hệ chúng với nhau. Nó giúp cho não bộ suy đoán các khả năng và tiên đoán tương lai. Mặc dù cả hai cách nhận thức đều cần thiết và được mọi người sử dụng, nhưng mỗi người có xu hướng thích cách này hơn cách kia. Các đặc điểm của nhóm Sensation: Sống với hiện tại. Thích các giải pháp đơn giản và thực tế. Có trí nhớ tốt về các chi tiết của những sự kiện trong quá khứ. Giỏi áp dụng kinh nghiệm. Thích các thông tin rõ ràng, chắc chắn; không thích phỏng đoán hoặc những sự việc không rõ ràng. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái thứ 2 trong MBTI của người đó là S. Các đặc điểm của nhóm Intuition: Hay nghĩ đến tương lai. Sử dụng trí tưởng tượng, hay sáng tạo ra những khả năng mới. Thường chỉ nhớ đến ý chính và các mối liên hệ. Giỏi vận dụng lý thuyết. Thoải mái với sự nhập nhằng, hay thông tin không rõ ràng. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái thứ 2 trong MBTI của người đó là N. Tiêu chí 3 - Cách quyết định và lựa chọn: Thinking (Lý trí)/Feeling (Tình cảm) Phía "Lý trí" trong não bộ con người phân tích thông tin một cách khách quan, làm việc dựa trên đúng/sai, suy luận và đưa ra kết luận một cách có hệ thống. Nó là bản chất logic của con người. Phía cảm giác của não bộ đưa ra quyết định dựa trên xem xét tổng thể; yêu/ghét; tác động qua lại lẫn nhau; và các giá trị nhân đạo hay thẩm mỹ. Đó là bản chất chủ quan của con người. Mọi người đều dùng cả 2 cách để đưa ra các quyết định, nhưng một cách tự nhiên mỗi người đều thiên về hoặc là lý trí, hoặc là tình cảm khi đưa ra quyết định của mình Các đặc điểm của nhóm Thinking: Luôn tìm kiếm sự kiện và logic để đưa ra kết luận. Chú ý đến các nhiệm vụ, công việc cần phải hoàn thành một cách tự nhiên. Đưa ra các phân tích phê phán và có mục đích một cách dễ dàng. Chấp nhận xung đột là một phần tự nhiên trong mối quan hệ giữa người với người. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái thứ 3 trong MBTI của người đó là T. Các đặc điểm của nhóm Feeling: Xem xét cảm giác cá nhân và ảnh hưởng đến người khác trước khi đưa ra quyết định. Một cách tự nhiên, dễ xúc động trước nhu cầu hay phản ứng của người khác. Tìm kiếm sự nhất trí hay ý kiến của đa số. Khó xử khi có xung đột. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái thứ 3 trong MBTI của người đó là F. Tiêu chí 4 - Cách thức hành động: Judging (Nguyên tắc)/Perceiving (Linh hoạt) Tiêu chuẩn 4 liên quan đến cách thức mà mỗi người lựa chọn để tác động tới thế giới bên ngoài. Phong cách Judging tiếp cận thế giới một cách có kế hoạch, có tổ chức, có chuẩn bị, quyết định và đạt đến một kết cục rõ ràng. Phong cách Perceiving tiếp cận thế giới một cách tự nhiên, tìm cách thích nghi với hoàn cảnh, thích một kết cục bỏ ngỏ, chấp nhận những cơ hội mới, và chấp nhận thay đổi kế hoạch. Các đặc điểm của nhóm Judging: Có kế hoạch chu đáo trước khi hành động. Tập trung vào các hoạt động có tính nhiệm vụ; hoàn tất các công đoạn quan trọng trước khi tiếp tục. Làm việc tốt nhất và không bị stress khi vượt trước thời hạn. Tự đặt ra mục tiêu, thời hạn, và các thủ tục để quản lý cuộc sống. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái thứ 4 trong MBTI của người đó là J. Các đặc điểm của nhóm Perceiving: Có thể hành động mà không cần lập kế hoạch; lập kế hoạch tùy theo tình hình. Thích làm nhiều việc cùng lúc, không phân biệt giữa công việc và trò chơi. Chịu sức ép tốt, vẫn làm việc tốt khi sắp hết thời hạn. Tìm cách tránh né cam kết nếu nó ảnh hưởng đến sự linh động, tự do và phong phú. Nếu đây là các đặc điểm của một người thì chữ cái thứ 4 trong MBTI của người đó là P. Nguồn: Kết quả nghiên cứu của Jung Myers-Briggs Công ty House, Cardiff, Vương quốc Anh - Wheel of Life Giới thiệu công cụ Wheel of Life Công ty House là đơn vị đăng kí bản quyền công cụ Wheel of Life – Bánh xe cuộc sống. Đây là công cụ cung cấp cho con người hình ảnh đại diện sinh động về các sống hiện tại của mình. Sử dụng công cụ Wheel of Life , mỗi người có thể xem xét từng lĩnh vực trong cuộc sống, đánh giá xem mình đang ở đâu, sẽ cần làm những gì tiếp theo để có thể cân bằng cuộc sống. Công cụ này cũng giúp các cá nhân biết được lĩnh vực cần được quan tâm và đầu tư công sức cũng như tâm sức nhiều hơn. Nội dung công cụ Wheel of Life Hình 2.1: Bánh xe cuộc sống Trên đây là hình ảnh của bánh xe cuộc sống. 10 khía cạnh cần đánh giá trong cuộc sống lần lượt là đóng góp xã hội, tình cảm, sức khỏe, tri thức, sự nghiệp, tiền bạc, gia đình, mối quan hệ, niềm đam mê, tâm linh. Trên vòng tròn có các thang độ từ 1 đến 10. Mỗi thang chia độ lớn của một tiêu chí mà người sử dụng cảm thấy quan trọng với bản thân trong một thời điểm. Những đánh giá này mang tính chất chủ quan, do mỗi cá nhân tự nhận xét về bản thân mình và cho điểm. Sau khi cho điểm tất cả các lĩnh vực, người sử dụng sẽ thu lại được hình ảnh bánh xe cuộc sống có hình dạng tương tự như sau: Hình 2.2: Kết quả khảo sát của bánh xe cuộc sống Thông qua hình ảnh trên, mỗi cá nhân có thể biết ta đang ở mức độ nào, còn thiếu những gì, thiếu bao nhiêu…Đây là cách nhìn một cách tổng quát và khách quan về bản thân mỗi người. Ngoài ra, công cụ Wheel cũng có thể đánh giá từng phần nhỏ trong cuộc sống của mỗi người thông qua chi tiết như hình ảnh dưới đây. Hình 2.3: Ví dụ về bánh xe đánh giá một lĩnh vực Brian Tracy Giới thiệu Brian Tracy là một nhà hùng biện, diễn thuyết, tư vấn chuyên nghiệp và là Chủ tịch Tập đoàn quản lý nguồn nhân lực Brian Tracy International có trụ sở tại Solana Beach, San Diego. Không chỉ vậy, Brian Tracy còn là nhà tư vấn và giảng viên cho hơn 500 tập đoàn trên thế giới. Mỗi năm, ông tổ chức thuyết trình khoảng hơn 100 lần cho hơn 300 ngàn thính giả đồng thời tham gia hoạt động kinh doanh tại 17 nước. Mô hình và quan điểm của Brian Tracy Brian Tracy đưa ra quan điểm trong vũ trụ có hai loại luật: Luật do con người tạo ra và luật tự nhiên. Các qui luật tự nhiên lại được chia làm hai loại: Vật chất và tinh thần. Các hoạt động của luật vật chất như điều khiển điện hoặc cơ có thể được chứng minh bằng thí nghiệm và thực hành. Nhưng luật tinh thần, chỉ có thể được chứng minh bằng trải nghiệm, trực giác hoặc bằng cách chứng kiến chúng hoạt động trong cuộc sống của chính mỗi người Bên cạnh đó, ông chỉ ra các đặc điểm quan trọng của luật tinh thần như: Luật tinh thần cũng giống luật vật chất ở chỗ chúng luôn có hiệu lực. Các luật tinh thần này luôn hoạt động ở mọi thời điểm, mặc dù con người không dễ thấy được ảnh hưởng vật chất của chúng. Khi nào cuộc sống của mỗi người diễn ra suôn sẻ có nghĩa là suy nghĩ và hoạt động đang hài hòa với các luật tinh thần vô hình này. Còn khi nào vi phạm một trong số các quy luật này thì dù có biết chúng hay không, mỗi cá nhân cũng sẽ gặp vấn đề. Dưới đây là một số mô hình và quan điểm của Brian Tracy liên quan đến lập kế hoạc cuộc đời Định nghĩa tiềm năng cá nhân Theo Brian Tracy, tiềm năng của con người được thể hiện trong phương trình : [ IA + AA ] x A = IHP Trong đó: IA: Inborn attributes - Các thuộc tính bẩm sinh: Là những gì mỗi người có ngay khi mới khi sinh. Đó là tính khí và khả năng trí tuệ tổng thể. AA: Acquired Attributes – Các thuộc tính thu được: Là những kiến thức, kỹ năng, năng lực, kinh nghiệm và khả năng mà mỗi cá nhân thu được và phát triển cho đến khi chúng ta trưởng thành. A: Attitude – Là năng lượng tinh thần mà mỗi người mang lại để kết hợp giữa các thuộc tính bẩm sinh và thuộc tính thu được IPP: Individual Human Performance – Sự biểu hiện cá nhân con người. Theo Brian Tracy, thuộc tính bẩm sinh thuộc về yếu tố di truyền và được cố định ngay từ khi mới sinh ra. Con người không thể làm gì nhiều để thay đổi chúng. Những thuộc tính thu được có thể cải thiện, thay đổi và phát triển theo thời gian thông qua học tập, thực hành. Nhưng quá trình này diễn ra rất chậm, đòi hỏi phải kiên trì và nỗ lực cao. Theo ông, quân bài tự do duy nhất có thể thay thế cho các quân bài khác trong phương trình trên là thái độ. Thái độ là các mỗi người tiếp cận với cuộc sống, là nhịp tinh thần chung và là sự thể hiện các suy nghĩ và cảm xúc của mình ra bên ngoài. Thái độ được quyết định bằng sự kì vọng. Sự kỳ vọng lại được quyết định bởi đức tin về bản thân và về thế giới mình đang sống. Và đức tin được hình thành từ quá trình tự nhận thức. Có ba điều kiện để thay đổi sự tự nhận thức mới. Một là mỗi người phải thực sự muốn thay đổi, khao khát trở nên tích cực với con người và năng lực của chính mình. Không ai có thể đặt mục tiêu hay chỉ cho người khác biết phải làm gì. Vì điểm khởi đầu cùa sự thay đổi, của sự làm được gì đó khác đi hay tốt hơn là sự khao khát – và nó luôn mang tính cá nhân. Hai là phải sẵn sàng để thay đổi. Có nhiều người nói muốn thay đổi, nhưng trong thâm tâm người đó không thực sự sẵn sàng từ bỏ lối sống cũ, mối liên hệ cũ cùng mọi thứ khác. Họ không vượt qua được hai trở ngại lớn, đó là sự điều bình, chứng xơ cứng tâm lý của vùng thoải mái và của những suy nghĩ cứng nhắc. Nếu không sẵn sàng từ bỏ con người cũ để trở thành con người mới, không sẵn sàng để chấm dứt làm một số công việc nhất định thì không thể bắt đầu trở thành một con người mới tốt hơn. Ba là phải sẵn sàng cố gắng. Mỗi cá nhân đã mất nhiều năm trở thành con người hiện nay và những gì mỗi người đang hướng tới là sự đổi mới lâu dài, cơ bản trong cuộc sống. Vì vậy, cần phải kiên trì trong một thời gian không hề ngắn mới có thể giải phóng những khả năng tiềm ẩn của mình. Bẩy qui luật chi phối tinh thần Luật kiểm soát. Luật kiểm soát phát biểu rằng, con người cảm thấy tích cực với bản thân đến mức kiểm soát được cuộc sống của chính mình. Ngược lại, mỗi cá nhân cảm thấy tiêu cực với bản thân đến mức không thể kiểm soát hay bị kiểm soát bởi một thế lực bên ngoài, bởi một người hay một tác động nào đó. Luật hay nguyên tắc này được thừa nhận rộng rãi trong môn tâm lý học. Nó còn được gọi là lý thuyết ‘‘Nhân kiểm soát”. Người ta thống nhất rằng hầu hết mọi căng thẳng, lo lắng và căn bệnh thần kinh xảy ra là kết quả của việc cảm thấy mình ở ngoài tầm kiểm soát hoặc không thể kiểm soát một số mặt trong cuộc sống của mình. Brian Tracy cho rằng, tính kỷ luật tự giác, tự chủ và bình tĩnh đều bắt đầu với việc mỗi người kiểm soát được suy nghĩ của mình. Để con người có thể kiểm soát cuộc sống thì cần bắt đầu với việc học cách kiểm soát suy nghĩ của chính mình. Vì việc nghĩ như thế nào là một tình huống sẽ quyết định cách người đó cảm nhận, và cách cảm nhận sẽ quyết định cách cư xử của mỗi người. Luật nhân quả. Luật nhân quả phát biểu rằng, kết quả trong cuộc sống của mỗi người đều có một nguyên nhân. Theo luật này, không có sự ngẫu nhiên nào mà mọi thứ diễn ra đều có lí do. Và cái hay của quy luật bất biến này ở chỗ, bằng cách chấp nhận nó, con người có thể kiểm soát được toàn bộ suy nghĩ, cảm giác và kết quả của mình. Bằng cách áp dụng luật nhân quả, con người sẽ hài hòa được với luật kiểm soát, cảm thấy tích cực hơn về bản thân và thấy mình hạnh phúc hơn. Theo luật nhân quả, có nguyên nhân cụ thể của thành công và có nguyên nhân cụ thể cho những thất bại. Có nguyên nhân cụ thể cho sức khỏe hay đau ốm. Có nguyên nhân cụ thể cho hạnh phúc và nỗi buồn. Và nếu con người muốn có được nhiều kết quả như mình mong muốn thì mỗi cá nhân cần phải tìm bằng được nguyên nhân của nó và lặp lại chúng. Ngược lại, nếu có một kết quả nào không thích, mỗi người cần phải tìm được nguyên nhân và loại bỏ chúng. Ông cho rằng, mọi thứ mà con người đang và sẽ trở thành là kết quả của cách người đó suy nghĩ. Nếu thay đổi chất lượng suy nghĩ thì chất lượng cuộc sống của sẽ thay đổi. Luật lòng tin Luật lòng tin phát biểu rằng, bất cứ điều gì mà mỗi người tin tưởng chân thành sẽ trở thành hiện thực. Càng có niềm tin mãnh liệt thì điều đó càng dễ trở thành hiện thực. Thật sự tin tưởng vào một điều gì đó nghĩa là không thể tưởng tượng được nó sẽ trở thành một cái gì đó khác. Ông cho rằng, nhìn chung mọi người có một trong hai thế giới quan. Một là thế giới quan tích cực. Nếu ai có quan điểm thế giới nhân đạo nói chung, người đó có xu hướng quan sát những điều tốt đẹp trong mỗi người, mỗi hoàn cảnh và tin tưởng rằng có rất nhiều cơ hội xung quanh bạn và ngược lại. Luật mong đợi Luật mong đợi phát biểu rằng bất cứ điều gì mỗi người hy vọng với một niềm tin chắc chắn sẽ trở thành lời tiên đoán cho sự hoàn thiện bản thân. Sự mong đợi của các cá nhân có ảnh hưởng mạnh mẽ, vô hình khiến con người cư xử và tạo ra các tình huống như mình đã dự đoán trước. Những người thành đạt đều tự tin, hy vọng và chủ động. Họ mong muốn được thành công, được mọi người yêu quí, được hạnh phúc và hiếm khi bọ bị tthất vọng. Những người không thành công thường có thái độ tiêu cực, chỉ trích, bi quan và bằng cách này hay cách khác, thái độ này sẽ dẫn đến những tình huống chấm dứt ngay những gì mà họ mong muốn. Luật hấp dẫn Luật hấp dẫn phát biểu rằng con người là một nam châm sống. Mỗi người luôn thu hút vào cuộc sống những con người và tình huống hòa hợp với suy nghĩ ngự trị trong bản thân mình. Giống như những luật tinh thần khác, luật hấp dẫn là trung tính. Nó có thể giúp con người và cũng có thể làm con người bị tổn thương. Luật này có thể được xem như một biến thể của luật nhân quả, hay luật gieo và gặt. Đây là lý do tại sao các nhà triết học lại nói: Gieo suy nghĩ, gặt hành động Gieo hành động, gặt thói quen Gieo thói quen, gặt tính cách Gieo tính cách, gặp số phận. Ai cũng có thể sở hữu nhiều hơn và làm được nhiều điều hơn, bởi vì mỗi người có thể thay đổi suy nghĩ ngự trị bằng cách luyện tập luật tinh thần này. Mỗi cá nhân có thể rèn luyện trí tuệ bằng cách giữ cho suy nghĩ của mình hướng về những gì bản thân mình mong muốn và loại bỏ những suy nghĩ về những gì không mong muốn. Luật tương ứng. Luật tương ứng là một trong những luật trong trọng nhất và là luật tóm tắt giải thích cho nhiều luật khác. Nội dung của luật này là: “Bên trong thế nào thì bên ngoài thế ấy” - thế giới bên ngoài là sự phản chiếu thế giới bên trong của mỗi con người. Thế giới bên ngoài của các mối quan hệ của mỗi người tương ứng với con người bên trong. Thế giới sức khỏe bên ngoài tương ứng với thái độ tinh thần bên trong. Thế giới thu nhập và thành tích tài chính tương ứng với những suy nghĩ và chuẩn bị bên trong. Cách người khác phản ứng với mỗi cá nhân phản ảnh thái độ và các cư xử của người đó đối với họ. Luật cân bằng tinh thần. Luật cân bằng tinh thần còn được gọi là luật trí tuệ, được coi như sự trình bày lại các luật trước đó. Luật này phát biểu rằng những suy nghĩ là sự cụ thể hóa chính mình. Những suy nghĩ của con người được tưởng tượng và lặp lại một cách sinh động, được tiếp thêm cảm xúc sẽ trở thành hiện thực. Mọi thứ mỗi người có được trong cuộc sống dù tốt hay xấu đều được tạo ra từ chính suy nghĩ của chính mình. Nói cách khác, suy nghĩ cũng là một vật. Chúng cũng có cuộc sống riêng. Đầu tiên con người sở hữu chúng, sau đó chúng sở hữu con người. Mỗi cá nhân hành động phù hợp với những gì người đó nghĩ. Cuối cùng cá nhân đó trở thành người như đã nghĩ. Nếu ai đó thay đổi suy nghĩ và nhìn nhận về cuộc sống thì sẽ thay đổi cả cuộc đời. Khi một cá nhân bắt đầu nghĩ theo hướng tự tin và tích cực về các hoạt động chính trong cuộc sống, người đó sẽ kiểm soát được những gì đang diễn ra với chính mình. Cá nhân này đã mang vào cuộc sống sự hài hòa giữa nguyên nhân và kết quả. Gieo nguyên nhân tích cực và gặt hái kết quả tích cực. Khi mỗi người bắt đầu tin tưởng tuyệt đối vào bản thân và khả năng của mình; khi mỗi người kỳ vọng vào các kết quả tích cực hơn thì chẳng mấy chốc các kết quả bên ngoài sẽ bắt đầu tương ứng với thế giới suy nghĩ mang tính xây dựng bên trong. Sự chuyển đổi toàn bộ này bắt đầu bằng những suy nghĩ của mỗi người. Từ đó, mọi thứ sẽ khác đi theo. Thiết lập và chinh phục mục tiêu Brian Tracy cho rằng mục tiêu sẽ mang đến trọng tâm đối với mọi khoảng khắc trong cuộc sống của mỗi người. Bởi vì, khi nghĩ về mục tiêu của bản thân và cách đạt được nó, mỗi người có khả năng kích hoạt định luật hấp dẫn trong đời mình. Lúc đó, mỗi cá nhân bắt đầu thu hút mọi nguồn lực, cơ hội, ý tưởng và con người nhằm giúp mình tiến nhanh đến mục tiêu. Bên cạnh đó, mục tiêu cũng tiến nhanh đến với cá nhân trên. Đồng thời, theo quy luật tương xứng, những trải nghiệm bên ngoài sẽ đáp ứng và hòa hợp với những mục tiêu thuộc thế giới bên trong con người. Khi con người thiết lập và luôn hướng mục tiêu lớn lao và cụ thể, những biểu hiện bên ngoài của người đó sẽ như tấm gương phản chiếu mục đích ấy. Ngoài ra, một mục tiêu lớn lao và cụ thể cũng sẽ kích hoạt những tiềm thức trong mỗi người. Bất cứ suy nghĩ, kế hoạch hay mục tiêu nào mà mỗi cá nhân có thể xác định rõ ràng trong nhận thức của mình thì cuối cùng – với tất cả những khả năng, nỗ lực của chính mình – nó sẽ được chuyển hóa thành hiện thực. Một mục tiêu lớn và cụ thể là một mục tiêu có những đặc điểm sau:     Là một điều gì đó mà người đó thật sự mong muốn. Sự khát khao của mỗi người dành cho mục tiêu này phải hết sức mạnh mẽ. Một khi hoàn thành mục tiêu lớn lao và cụ thể, người đặt mục tiêu sẽ cảm thấy thật sự phấn khích và hạnh phúc. Rõ ràng và phải định nghĩa được bằng ngôn từ. Người đặt mục tiêu cần viết ra giấy và biết chính xác mình đang muốn điều gì và khả năng hoàn thành ra sao. Đo lường và ước lượng được. Thay vì nói một cái chung chung rằng: “Tôi muốn kiếm thật nhiều tiền”, thì người đặt mục tiêu cần phải đưa ra một mục tiêu cụ thể hơn, chẳng hạn như: “Tôi muốn thu nhập mỗi tháng là 10.000 đô-la vào năm sau. Có tính khả thi. Mục tiêu đặt ra không thể quá viển vông mà phải có cơ sở thực tế và khả năng hoàn thành. Có xác xuất thành công hợp lý, có thể là 50-50. Nếu chưa có kinh nghiệm trong việc xác định mục tiêu thì nên bắt đầu bằng việc đề ra một mục tiêu mà xác suất thành công có thể lên đến 80%. Khi đoán chắc vào sự thành công, mỗi người sẽ tự tin để tiến lên. Sự tự tin từ những thành công ban đầu sẽ khiến người đó có đủ dũng khí để đề ra những mục tiêu vĩ đại có xác suất thành công rất thấp về sau. Tương hợp với những mục tiêu khác. Hay nói đúng hơn, mục tiêu này phải tương hợp với những mục tiêu nhỏ hơn và nhất quán với n._.ó của họ cũng như để hoàn thiện chúng. Đối với một vài INTJ, có lẽ sẽ tốt hơn nếu họ giảm bớt tính lập gị của họ. Quan hệ các nhân, đặc biệt là chuyện tình cảm là điểm yếu của INTJ. Trong khi họ có khả năng quan tâm sâu sắc đến người khác (thông thường là một số nhỏ, có chọn lọc) và muốn dành thời gian đáng kể để củng cố các mối quan hệ đó, kiến thức và sự tự tin đã làm cho họ thành công trong các lĩnh vực khác lại cản trở họ. Điều này xảy ra một phần vì phần lớn INTJ không nắm được các quy tắc của xã hội, ví dụ hầu như không hiểu hoặc thiếu kiên nhẫn với các việc như tán tỉnh hoặc nói chuyện phiếm. Thêm vào đó, INTJ là những người rất kín đáo và trầm tĩnh nên dễ bị hiểu nhầm. Và nguyên nhân chính có lẽ là INTJ lúc nào cũng muốn người khác phải “hợp lý”. Tương tự như nhóm EF lúc nào cũng muỗn người khác phải tình cảm, mùi mẫn thì INTJ lúc nào cũng nghĩ người khác phải rõ ràng, hợp lý. Có lẽ điểm mạnh duy nhất của các INTJ trong quan hệ với người khác là trực giác của họ và mong muốn “hoàn thiện” một quan hệ nào đó. Mặc dù cũng giống như các nhóm T khác, họ đồng cảm hơn những người thuộc nhóm F, tuy nhiên một trực giác tốt rất có ích cho họ. Khả năng này có thể được tôi luyện và hướng dẫn bằng các cố gắng đều đặn và liên tục để hiểu và giúp đỡ những người họ quan tâm. Những mối quan hệ với INTJ, một khi đã được xác lập, thường rất lành mạnh, ổn định và rõ ràng. Chân dung nhóm ESTP ESTP là những người nhanh nhẹn, hoạt bát. ESTP tìm thấy sự thỏa mãn khi được hành động theo bốc đồng của họ. Các hoạt động gắn liền với sức mạnh, tốc độ, nguy hiểm … thu hút họ. Sự thiếu vắng chúng một thời gian dài làm cho ESTP cảm thấy như bị “chết trong lòng” Đối đầu trực tiếp là điểm mạnh của ESTP. Dường như họ sinh ra là để trở thành người đứng đầu trong các cuộc cạnh tranh, thi đua. P.T Barnum giải thích khả năng của ESTP: Gần như theo bản năng, ESTP tìm kiếm những dấu hiệu, cử chỉ về điểm yếu của đối tượng. Một khi đã biết, anh ta chờ đợi đến đúng thời điểm thích hợp để tung ra đòn quyết định và giành thắng lợi. Khá kỳ lạ là ESTP dường như thực sự khâm phục những người có thể đánh bại được họ. “Ngay cả khi trình độ của tôi khá hơn, tôi cũng chịu thua” Một ESTP thừa nhận như vậy sau thất bại. Anh ta khâm phục sức mạnh của anh ta và người khác. “Hiệu ứng shock” là một kỹ thuật ưa thích của ESTP để thu hút sự chú ý của người khác. ESTP yêu thích được là trung tâm sự chú ý, biểu diễn các khả năng và lòng can đảm của mình. Chân dung nhóm ISTP Giống như phần lớn các SP khác, ISTP thích biểu diễn, nhưng do ảnh hưởng bởi yếu tố T, họ thường chú ý đến kỹ thuật hơn là nghệ thuật. Họ cũng hiếm khi gây ấn tượng về sự hoạt bát. Vẻ ngoài lờ đờ, ISTP để dành sức lực của mình chờ đến khi gặp được một công việc hoặc một cuộc phiêu lưu nào đáng để họ chú ý – họ sẽ bừng tỉnh và làm việc với toàn bộ khả năng của mình. Khi đó, mặc dù vẻ rất phấn khích, nhưng ISTP lại rất tự chủ, họ biết họ cần phải làm gì khi gặp trở ngại, tuy nhiên với người ngoài thì có vẻ như hành động của họ là một chuỗi những sự lộn xộn, và mâu thuẫn. Nhu cầu về sự riêng tư của ISTP cũng rất khó hiểu, và nó ảnh hưởng xấu đến quan hệ của họ với người khác. Họ cũng có nhu cầu phải hòa đồng vơi những người khác, cả về mặt vật lý lẫn tâm lý, đặc biệt là khi người đó liên quan đến công việc của họ. Đồng thời họ lại muốn được tự do ở một mức độ do họ xác định, nên họ sẽ trở nên rất nguyên tắc khi cảm thấy cách sống của họ bị đe dọa (họ có thể nguyên tắc không kém gì những người thuộc nhóm J). Trong quan hệ với ISTP, việc tôn trọng phạm vi riêng tư của họ rất quan trọng. Giao tiếp với họ cũng rất khó khăn vì họ thường thể hiện mình qua ngôn ngữ cử chỉ. Khi họ dùng lời, họ thường rất ngắn gọn, thường thể hiện sự hài hước trong những tình huống căng thẳng, nên đôi khi bị xem là trơ lì hay vô vị. ISTP có thể gặp khó khăn khi phải học về những khái niệm quá trừu tượng hay quá lý thuyết, và đây không phải là thước đo tốt để đánh giá khả năng và sự thông minh của họ. Họ thường có xu hướng nghi ngờ giá trị thực tế của các lý thuyết. ISTP thường thiên về các lớp như mỹ thuật công nghiệp, các chương trình dạy nghề… Trong việc chọn nghề ISTP rất hợp với cơ khí hoặc các nghề tương tự. Cứu thương, chữa cháy cũng là những nghề nghiệp đáp ứng được nhu cầu mạo hiểm của ISTP. ISTP là những người thích hợp nhất cho các tình huống khẩn cấp, khi mà bản chất bỏ qua tất cả các quy tắc, cơ cấu tổ chức giúp họ tập trung giải quyết tình huống theo cách có hiệu quả nhất. Các ISTP làm những việc bình thường hơn cũng rất hứng thú với các hoạt động nguy hiểm như đua xe, nhảy dù, chơi tàu lượn… Trong khi luôn ý thức được sự nguy hiểm, ISTP rất gần gũi với thế giới vật lý và họ biết rằng họ có thể vượt qua được nguy hiểm chỉ với một mức độ an toàn nhỏ hơn nhiều so với các nhóm khác. Chân dung nhóm ESFP “Có tiệc tùng ở đâu vậy?” ESFP thích chỗ đông người, thích sự nhộn nhịp, khoái kể chuyện, và ham vui. Bản chất hiếu động và sôi nổi của họ làm cho họ lúc nào cũng tươi vui. Và các ESFP rất thích các trò giải trí – trên sân khấu, ở chỗ làm, hay ở nhà. Những buổi vui chơi, gặp gỡ là nguồn năng lượng cung cấp sức lực cho các “người của mọi người” này. SP đôi khi nghĩ và nói theo kiểu “dây cà ra dây muống”. Rất nhiều bạn bè thuộc nhóm ESFP của tôi nhảy từ suy nghĩ này sang suy nghĩ khác khi đang ở giữa câu. Họ hay lan ý này sang ý nọ. Nhưng nếu người nghe biết bỏ qua những chi tiết không liên quan (do sự bốc đồng) thì câu chuyện của họ rất hấp dẫn. ESFP rất dễ bị thu hút bởi cái mới: ý tưởng mới, thời trang mới, đồ nghề mới … Họ cũng rất thích tán chuyện về người khác. Suy nghĩ của các ESPF thường mộc mạc, giản dị và bao dung. Hầu như tất cả các ESPF đều thích nói nhiều. Nếu bạn thấy một người có thể dành 20 phút để nói về một vấn đề đơn giản, chắc chắn đó là ESFP. Chân dung nhóm ISFP ISFP thường là những người đầu tiên nhận ra sự thay đổi. Rất nhiều trong số họ đổ xô vào các thời trang mới, các cách suy nghĩ mới, hay các xu hướng “hip”, một vài người còn là người tạo ra các xu hướng. ISFP gần với thực thế hơn là INFP nhờ yếu tố S của họ. Các ISFP hầu như chỉ sống trong hiện tại. Họ có những cơn bốc đồng khao khát tự do, đôi khi làm họ trở nên phóng túng vào lúc người khác ít ngờ nhất. Các ISFP phải thường xuyên đè nén cơn bốc đồng của mình cảm thấy “chết trong lòng” và đôi khi chợt bỏ đi và vứt bỏ tất cả. ISFP có thể tỏ ra rất dễ thương và đáng mến ngay trong lần gặp đầu tiên, với vô số những lời khen ngợi (cả đúng lẫn không đúng) dành cho người khác. Nhưng trong các trường hợp khác, cũng chính con người đó lại rất lầm lì, khó hiểu. Một vài ISFP nam rất hiếu thắng và thích tranh đua, đặc biệt là trong thể thao hoặc các trò chơi đối kháng, và gặp khó khăn khi phải thất bại. Bản chất thích tranh đua này (cũng thường thấy ở các nhóm SP khác) làm cho họ có vẻ như những người may mắn, can đảm, và thích mạo hiểm. Phần lớn ISFP gặp khó khăn với các môn học quá chặt chẽ, và nhiều người bỏ học giữa chừng. Họ dễ tập trung chú ý hơn đến các cách học thông qua thực nghiệm và nhiều người rất thành công. ISFP có thể học chơi một nhạc cụ hoặc tập một kỹ năng nào đó mà họ yêu thích nhiều giờ liền mà vẫn cảm thấy hứng thú. PHỤ LỤC 3: THÔNG TIN CỤ THỂ CỦA CÁC CHÒM SAO Nguồn: Sách Tín hiệu thành công Tác giả: Lý Húc Đại. Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa Thông tin BẠCH DƯƠNG STT Thời gian sinh 21/3 =>20/4 Kỳ 10 ngày 21/3 => 30/3 Kỳ thứ nhất : thể hiện những tính cách của chòm sao này 1 cách rõ nét nhất. 31/3 => 9/4 Kỳ thứ hai : Thể hiện những nét tính cách này một cách mờ nhạt hơn 10/4 => 20/4 Kỳ thứ ba : Không có tính hiếu thắng, thích đấu tranh. Họ thể hiện những nét tính cách của chòm sao này tương đối linh hoạt. Tượng trưng chòm sao Con cừu trắng đầu đàn có cặp sừng oai vệ. Hành tinh chủ đạo Hỏa tinh, tên có được căn cứ vào Thần Chiến tranh và Thần Tình yêu La – mã. Hành tinh này đem đến dũng khí và tính hiếu chiến. Mục tiêu theo đuổi Thống trị người khác, giành chiến thắng trong mọi lúc mọi nơi Loại tính cách Tích cự - Giỏi về giao tiếp Chủ đạo – Có nội lực mạnh Hỏa – Dễ kích động, hay nổi cáu. Tính cách cơ bản Điếc không sợ súng và tìm những việc quyền uy là đặc trưng của người thuộc chòm sao này Thích sống ở nơi đông đúc, không thích sống độc lập và không muốn hành động của mình khác biệt so với chúng bạn Giữ bên mình một số quan niệm truyền thống về ăn mặc, ẩm thực…không thích những kiểu mới lạ, độc đáo. Bảo vệ những người yếu hơn mình. Nếu người ngoài dùng ngôn từ hay hành động mạo phạm đến người được bảo vệ, họ sẽ đứng ra bảo vệ mà không cần biết đối thủ mạnh hơn họ bao nhiêu. Ấn tượng trong lòng người khác Có ý thức nghề nghiệp, có chí tiến thủ, tính cách mạnh mẽ, có chủ kiến. Có tài tổ chức mọi người với nhau, đồng thời làm cho mọi người đều nghe và làm theo mệnh lệnh của mình. Luôn lấy mình là trung tâm, tự tư tự lợi, hiếu thắng, hữu dũng vô mưu.. Hành vi đặt trưng Hành động mạnh mẽ, có chí tiến thủ Khả năng thích ứng công việc Phù hợp với công việc có nhiều thử thách, mạo hiểm vào chế độ đãi ngộ cao. KIM NGƯU STT Thời gian sinh 21/4 – 21/5 Kỳ 10 ngày 21/4 – 30/4 : Kỳ thứ nhất. 1/5 – 10/5 : Kỳ thứ hai 11/5 – 21/5 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Con trâu với vặp sừng dài Hành tinh chủ đạo Căn cứ vào nữ thần sắc đẹp và tình yêu La – mã cổ đại mà đặt tên là Kim tinh. Hành tinh này đem đến cho người cảm hứng tình yêu đồng thời thúc giục mọi người tìm đến khoái lạc. Mục tiêu theo đuổi Có cảm giác an toàn và mãn nguyện Loại tính cách Tiêu cực : Hướng nội Loại kiên định : Ngoan cường Loại thổ : Cẩn thận, thật thà. Tính cách cơ bản Có thể dùng lí trí để khống chế hành vi của bản thân Không bao giờ có ý chiếm thứ của người khác làm của riêng. Nếu có người gây sự, họ không chủ động ra tay. Nhưng nếu ai đó cố tình gây hấn, họ sẽ nổi giận thật sự và dùng toàn bộ sức lực của mình để chiến đấu. Để phát huy khả năng của bản thân, họ cần những người bạn cùng chí hướng. Vì vậy, họ không muốn hành sự độc lập. Họ muốn thành lập 1 nhóm đoàn kết và tạo ra bầu không khí bình tĩnh và thoải mái. Không thích những kiểu mốt mới, hở hang, lòe lẹt mà thường mặc những bộ quần áo thông thường, đại chúng. Ý chí bền bỉ, thuận theo người khác, kiên định sùng bái hưởng thụ vật chất nhưng lại rất độ lượng khảng khái, tràn đầy tình yêu, hiếu khách, hơn nữa lại rất ít khi bừa bãi là những tính cách nổi bật của Kim Ngưu. Ấn tượng trong lòng người khác Phóng túng, bền bỉ, hòa khí, vui vẻ giúp đỡ người khác. Khả năng hành động chậm chạp, tư tưởng chiếm hữu cao, bảo thủ và cố chấp. Hành vi đặt trưng Kiên định, khó thay đổi, theo đuổi mục tiêu đến cùng.. Khả năng thích ứng công việc Phù hợp với những công việc đòi hỏi sự cần cù, suy nghĩ thấu đáo, phải tiến hành trong thời gian dài và có cơ hội để tiến lên những vị trí có mức đãi ngộ cao. Những công việc yêu cầu sáng tạo, phản ứng nhanh nhạy hoặc có chút mạo hiểm thì họ lại không đảm nhận nổi hoặc chất lượng kém. SONG TỬ STT Thời gian sinh 22/5 – 21/6 Kỳ 10 ngày 22/5 – 31/5 : Kỳ thứ nhất. 1/6 – 10/6 : Kỳ thứ hai 11/6 – 21/6 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Hai người trẻ tuổi có ngoại hình giống hệt nhau, lúc nào cũng sống động, là con của thần Choce và vương hậu Leanta Hành tinh chủ đạo Thủy tinh ( đặt trên theo tên của vị thần La – mã cổ ), hành tinh này giúp con người có tư duy năng động, không chịu an phận thủ thường. Mục tiêu theo đuổi Hòa chung với mọi người, thúc đẩy cái mới phát triển. Loại tính cách Tích cực : Giỏi giao tiếp Loại dễ thay đổi : Tính thích nghi cao. Loại không khí : Hành vi nhẹ nhàng, tư duy nhanh nhậy. Tính cách cơ bản Do chịu sự chi phối đối lập bởi hai tầng tư duy khác nhau => Họ thay đổi khôn lường về tình cảm, cáu giận yêu thương thường xen kẽ nhau k hó phân biệt được. Độ thích ứng cao, thân thiện dễ gần và luôn có những câu nói hay, đắt giá trong công việc. Biết cách giao tiếp và kết thêm nhiều bạn mới. Không quyết tâm làm những biệc khó khăn hay phải đối mặt với những vấn đề phức tạp không thể xoay chuyển được trong thời gian nhắn. Luôn hiếu kì và khát vọng có một cuộc sống đầy màu sắc tươi trẻ.Không ngừng tiếp nhận những quan điểm mới và cơ hội mới. Sẵn sàng đẩy những người thủ cựu sang một bên để tiến bước và tiếp nhận cái mới. Có nhiều suy nghĩ không thực tế. Ấn tượng trong lòng người khác Hòa nhã, dễ gần, vui vẻ hài hước, thông minh nhanh nhẹn và giỏi giao tiếp. Không kiên định, sốc nổi hời hợt, không an phận, thích cãi nhau Hành vi đặt trưng Đa tài đa nghệ, luôn có tính hiếu kỳ. Khả năng thích ứng công việc Thích hợp với những công việc cần đến khả năng biểu đạt ngôn ngữ tốt, những công việc thường xuyên đi công tác kết hợp du lịch đây đó. CUA LỚN STT Thời gian sinh 22/6 – 23/7 Kỳ 10 ngày 22/6 – 2/7 : Kỳ thứ nhất. 3/7 – 12/7 : Kỳ thứ hai 13/7 – 23/7 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Con cua lớn sống ngoài biển, có lớp vỏ ngoài cứng và chắc. Hành tinh chủ đạo Mặt trăng – một vệ tinh của trái đất lúc tỏ lúc mờ => tình cảm luôn thay đổi. Tính cách cơ bản Khuynh hướng tiêu cực, tính hướng nội Không ưu giao tiếp, lấy mình làm trung tâm, có tư tưởng chủ nghĩa quyền lợi cá nhân Tình cảm thành thật và mãnh liệt. Câu nói cửa miệng “ Tôi cho rằng” dùng để biểu đạt khả năng mẫn cảm cao với những vấn đề có hứng thú. Ấn tượng trong lòng người khác Mẫn cảm, có lòng thương người, ôn hòa, mềm mại và giỏi về chăm sóc người khác. Tình cảm hóa, quá mẫn cảm, dễ sầu muộn vô căn cứ Hành vi đặt trưng Cố chấp, đa sầu đa cảm. Khả năng thích ứng công việc Có năng khiếu nhất định trong 1 hay nhiều lĩnh vực nghệ thuật SƯ TỬ STT Thời gian sinh 24/7 – 23/8 Kỳ 10 ngày 24/7 – 1/8 : Kỳ thứ nhất. 1/8 – 12/8 : Kỳ thứ hai 13/8 – 23/8 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Sư tử đực trưởng thành – bách thú chi vương Hành tinh chủ đạo Mặt trời – thiên thể đem đến nguồn sống cho các hành tinh khác trong hệ của nó. Sự tổn tại của mặt trời tượng trưng cho sự sống. Mục tiêu theo đuổi Hòa chung với mọi người, thúc đẩy cái mới phát triển. Loại tính cách Tích cực, chủ động, hướng ngoại Tự tin, tương đối cố chấp, dễ bị kích động và tính tình nóng nảy. Tính cách cơ bản. Cởi mở, lạc quan, thường xuyên biết vượt lên từ nghịch cảnh và làm nên kỳ tích. Ý nghĩ và hành động táo bạo. Thích những cái mới, thích kiểm nghiệm bản thân trong khó khăn thử thách và một điều họ luôn tâm niệm là cả thế giới này xoay xung quanh họ. Tính cách trẻ con của họ tồn tại đến hết đời. Không bao giờ ngồi nghĩ, đắn đo tính toán thiệt hơn xong mới hành động. Đối đãi với mọi người khảng khái, đại lượng, không keo kiệt và đáy lòng luôn mong được mọi người yêu quí. Không có khái niệm: “ Sống trong yên ổn nghĩ ngày vinh quang” => dễ khiến nhiều người oán trách, thậm chí còn thù hận họ. Ít khi ngồi nghe ý kiến của người khác. Dễ tin tưởng vào người khác. Có độ ỳ lớn. Khi tìm được một người có thể làm thay họ là không cần bỏ thời gian và công sức suy nghĩ về việc đó nữa. Hành vi đặc trưng Coi trọng sự tôn nghiêm, thích chi phối người khác. Câu cửa miệng “ Tôi quyết định” – dùng câu nói này để khẳng định ý chí và sức mạnh của bản thân. Ấn tượng trong lòng người khác Kỹ nghệ các mặt đều hơn người, tư duy thoáng đạt, tự tin cao độ và nhiệt tình. Độc đoán, chuyên quyền, tự kiêu và thích chơi đùa. Khả năng thích ứng công việc Phù hợp với những công việc cần có niềm tin vững chắc và quyền lực chiếm vị trí chủ đạo. Chọn những công việc có nhiều cơ hộ thể hiện tài năng và trong thời gian ngắn bằng sự nỗ lực của bản thân là có thể cách xa các đồng nghiệp XỬ NỮ STT Thời gian sinh 24/8 – 23/9 Kỳ 10 ngày 24/8 – 2/9 : Kỳ thứ nhất. 3/9– 13/9 : Kỳ thứ hai 14/9 – 23/9 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Một cô gái phẩm hạnh, có vẻ đẹp cao quí giản dị.Tay phải phải đang vuốt ve bó lúa, đây là biểu hiện kết quả thu hoạch của một người chịu khó lao động; tay trái đang giữ chắc thanh bảo kiếm đã cắm đầu xuống đất và những ngọn núi nhấp nhô phía sau muốn nhắc nhở chúng ta rằng, cô gái này là sự uy nghiêm của một trong ba vị thần trong nhân gian. Hành tinh chủ đạo Thủy tinh : Hành tinh này được bắt nguồn từ một tín sử không biết ngừng nghỉ trong thần thoại Hy - lạp. hành tinh này kích thích sự cần mẫn và khả năng giao lưu tư tưởng. Mục tiêu theo đuổi Làm việc và học tập Loại tính cách Hướng nội Khả năng thích nghi tốt. Chất phác nên cẩn thận và tự tin Tính cách cơ bản. Có trí tuệ và luôn mưu cầu đạt tới chân lí. Luôn tạo cho mình hình ảnh sạch sẽ và đáng yêu như con mèo cảnh trong nhà, nếu có một khuyết tật nào đó họ sẽ mất rất lâu để nghĩ về nó. Không bao giờ tự phụ hay ra oai với ai, mọi thứ của họ đều rất cẩn trọng và có đầu có cuối, họ luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Không phải người dễ hòa nhập với mọi người , họ là người khó tính và ưa sự hoàn hảo. Các đồ đạc trong nhà luôn được đặt đúng vị trí và phải đạt được yêu cầu thực tế không lòe loẹt khuếch trương. Không bao giờ quan tâm tới những lời bàn tán về họ và sãn sàng ngồi nghe ý kiến đóng góp của người khác Hành vi đặc trưng Hiền thục cần mẫn, phân biệt rõ đúng sai. Câu cửa miệng “Tôi phân tích” ; câu nói này muốn nói, cần phải điều tra cặn kẽ, tìm hiểu rõ nguyên nhân của mọi vấn đề. Ấn tượng trong lòng người khác Ngoan ngoãn lễ độ, dám tự hy sinh, chú trọng thực tế biết kiềm chế bản thân, cũng có lúc bị ấn tượng xấu như bới lông tìm vết, hơn người. Khả năng thích ứng công việc Có khả năng giải quyết tất cả những vấn đề mà họ gặp phải, phân tích vấn đề một cách hết sức cặn kẽ, loại bỏ những yếu tố phụ tập trung vào yếu tố chính Họ phù hợp với công việc cần đến khả năng phán đoán và quan sát ngoài ra những yêu cầu cần cù bền bỉ cũng là một sự lựa chọn Có khả năng thích ứng với hoàn cảnh, khả năng hành văn tốt. THIÊN XỨNG STT Thời gian sinh 24/9 – 23/10 Kỳ 10 ngày 24/9 – 3/10 : Kỳ thứ nhất. 4/10– 13/10 : Kỳ thứ hai 14/10 – 23/10 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Hai đĩa cân bằng vàng tượng trưng cho lúc nào cũng cân bằng. Hành tinh chủ đạo Kim tinh – Tên này được bắt nguồn từ thần tình yêu và sắc đẹp trong thần thoại la mã. Kim tinh hướng mọi người tới hòa bình và hữu nghị. Mục tiêu theo đuổi Giữ hòa khí tĩnh lặng và luôn ở trạng thái cân bằng Loại tính cách Tự tin và hướng ngoại, tự yêu quý bản thân nên hay thể hiện tính tự tôi, ung dung tự tại và có phong thái của một văn nhân Tính cách cơ bản. Nghiêm túc, nghiêm túc đến mức người ta tưởng đó là một cái máy biết nói, họ giữ được trạng thái thống nhất giữa bên trong và bên ngoài Họ bình tĩnh hữu hảo linh hoạt đúng mực và rất thích tham gia các hoạt động tập thể, hay đắn đo cân nhắc lợi hại trước các loại vấn đề. Theo họ không có việc gì là đúng tuyệt đối và sai tuyệt đối do đó nhìn thấy mặt tốt của vấn đề là hay hơn cả. Hành vi đặc trưng Giỏi giao tiếp, không nhất bên trọng nhất bên khinh Câu cửa miệng “Tôi phân tích” ; câu nói này muốn nói, cần phải điều tra cặn kẽ, tìm hiểu rõ nguyên nhân của mọi vấn đề. Ấn tượng trong lòng người khác Nho nhã có giáo dục, thông minh có lễ độ bình dị dễ gần sẵn sàng hợp tác. Tuy nhiên có lúc bị đánh giá là không hợp thiếu cảm hứng thiếu quyết đoán và có độ ì lớn Khả năng thích ứng công việc Phù hợp với những công việc cần có nhiều người làm, những công việc cần đến năng lực giàn xếp mâu thuẫn hay những công việc cần đến tài diễn thuyết và uy tín của những phẩm chất cao quý. Không phù hợp với những công việc cần tài lãnh đạo siêu việt, những công việc cần đến cơ bắp và có tiết tấu nhẹ. HỔ CÁC STT Thời gian sinh 24/10 – 22/11 Kỳ 10 ngày 24/10 – 2/11 : Kỳ thứ nhất. 3/11– 12/11 : Kỳ thứ hai 13/11 – 22/11 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Con bọ cạp không kêu, có nọc độc và sinh sống ở những vùng hoang dã Hành tinh chủ đạo Diêm vương tinh: tên của vị thần địa phủ trong chuyện cổ thần thoại hy lạp. Diêm vương tinh làm cho con người trở lên ít nói không khoe khoang khuếch trương. Mục tiêu theo đuổi Chiến thắng địch thủ trinh phục tất cả Loại tính cách Tự ti, tiêu cực, do đó có tính hướng nội, không dao động do đó có tính kiên định. Phản ứng tình cảm rất mãnh liệt Tính cách cơ bản. Không thích sống tập thể, không có tính cầu hòa, họ chỉ chấp nhận làm theo họ quy định ra. Tất cả mọi quy định chung hay quy định của người khác họ đều bỏ ngoài tai Không bao giờ có biểu hiện nhượng bộ ai trong quá trình thực hiện mục tiêu của mình khi xác định được mục tiêu, họ bình tĩnh quan sát và chờ đến thời cơ họ lập tức lao ra thực hiện mục tiêu của mình, nếu bị thế lực nào đó khiêu khích họ quay đầu lại nghênh chiến, bất kể đối thử mạnh thế nào và khả năng thành công là bao nhiều phần trăm Không chịu nghe lời khuyến hay sự chỉ bảo của người khác công với không tin ai nên dù họ có cố gắng đến mấy thì khả năng thất bại vẫn rất cao vài lần như vậy nên họ hình thành tâm lí báo thù những người từng cản trở họ Suy nghĩ thấu đáo trước khi hành động. Có tài quan sát và đọc được ý những ý nghĩ nội tâm cũng như động cơ của người khác Hành vi đặc trưng Dễ động lòng, dễ kích động, không chịu khuất phục Câu cửa miệng “Tôi muốn!” do đó khi thực hiện mục tiêu họ quyết tâm đạt được bằng mọi giá Ấn tượng trong lòng người khác Tình cảm mạnh mẽ mạnh dạn, có tinh thần dám xung phong không sợ sệt Có tính phá hoại, luôn muốn báo thù, thô bạo và có ý châm biếm người khác Khả năng thích ứng công việc Phương thức tư duy chủ yếu dựa trên kết quả đánh giá tình cảm ít khi sử dụng phương pháp tư duy logic. Hay sử dụng bẫy ngôn từ , bẫy ngôn ngữ để kiểm tra sự trung thực của người xung quanh Phù hợp với những công việc đem đến cơ hội thành công và đem đến một số quyền lực nhất định. Tránh những công việc đơn giản, cấp thấp hoặc quá vặt vãnh tủn mủn. NHÂN MÃ STT Thời gian sinh 23/11 – 22/12 Kỳ 10 ngày 23/11 – 2/12 : Kỳ thứ nhất. 3/12 – 12/12 : Kỳ thứ hai 13/12 – 22/12 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Hình nửa người nửa ngựa đang giương cung lên Hành tinh chủ đạo Mộc tinh - tên có được từ vị thần chủ trong truyền thuyết la mã. Mộc tinh thể hiện có niềm tin vững chắc vào trương lai, có nguyện vọng muốn nghe ý kiến của người khác Mục tiêu theo đuổi Khám phá những tư tưởng mới, coi bốn bể là nhà, thích đi đến những nơi chân trời góc bể. Loại tính cách Tự tin – có tính hướng ngoại. Dễ thay đổi – khả năng thích nghi cao. Thuộc nguyên tố tự nhiên Hỏa – do đó hay kích động, phản ứng nhanh, mãnh liệt. Tính cách cơ bản. Thích sống tập thể. Không bao giờ biết ngoái đầu lại, không bao giờ thích sống cùng kí ức. Họ không chịu bất cứ sự ràng buộc nào, lúc nào họ cũng tiến về phía trước và tìm kiếm cơ hội. Họ sẵn sàng bỏ hết những cố gắng trước kia để lao vào nắm bắt cơ hội mới. Ít chú ý đến ăm mặc. Thích ánh sáng và khoẳng không gian rộng rãi, thoáng đạt. Thao thao bất tuyệt, thích lí sự. Hành vi đặc trưng Lạc quan hướng tới tương lại, thích mạo hiểm. Câu cửa miệng “ Tôi nhìn thấy “ - ý muốn nói có thể nắm cơ hội trong thời gian ngắn. Ấn tượng trong lòng người khác Giỏi triết lý, nhanh nhẹn, lạc quan, nhiệt tình, hữu hảo. Thô bạo, qua loa đại khái, không hợp vơi thực tế, cảm giác chậm chạp không linh hoạt. Khả năng thích ứng công việc Phù hợp với những công việc cần vận dùng nhiều khả năng thuyết phục người khác, những công việc nhẹ nhàng vui vẻ, có cơ hội được đi làm việc tập thể và thường xuyên được đi công tác xa. SAO DƯƠNG CƯU STT Thời gian sinh 23/12 -20/01 Kỳ 10 ngày 23/12 – 31/12 : Kỳ thứ nhất. 01/1 – 10/01: Kỳ thứ hai 11/01 – 20/01: Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Con dê núi dũng cảm, leo lên những đỉnh núi cao. Hành tinh chủ đạo Thổ tinh – tên có được từ vị thần nông trong thần thoại La – mã. Thổ tinh hướng mọi người đến tình tự cường, tụa luật và biết lợi dụng mọi thời gian. Mục tiêu theo đuổi Gặt hái nhiều và giàu có. Loại tính cách Tự ti, hướng nội. Kiến định, ý thức tự tôn mạnh. Loại thổ, rõ ràng, nhiều mưu kế. Tính cách cơ bản. Họ khát vọng đạt tới định cao danh lợi. Chính vì khát vọng này mà họ phấn đấu vươn lên không biết mệt mỏi. Cẩn thận, có mục đích và luôn tuân thủ qui tắc. Xem xét vấn đề rất nghiêm túc, không tin vào số mệnh hay vận may, không tin tưởng vào những thứ hào nhoáng dả tạo. Mỗi bước đi của họ đều được tính toán kĩ lưỡng. Hành vi đặc trưng Có tinh thần trách nhiệm, thuộc loại người ưu truyền thống. Câu cửa miệng “Tôi lợi dụng”. Quyết tâm lợi dụng mọi cơ hội Ấn tượng trong lòng người khác Cẩn thận, chấp hành kỉ luật, cần mẫn, có chí tiến thủ. Do dự, quá nghiêm túc và keo kiệt. BẢO BÌNH. STT Thời gian sinh 21/1 – 19/2 Kỳ 10 ngày 21/1 – 29/1 : Kỳ thứ nhất. 30/1 – 8/2: Kỳ thứ hai 9/2 – 19/2: Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Một người đàn ông phong độ và mái tóc bạch kim bê một bình nước lớn cấp cho mọi người. Hành tinh chủ đạo Thiên tinh vương. Tên có được một vị thiên thần thời cổ đại. Thiên Vương tinh quyết định lối tư duy phòng khoáng và các xem xét vấn đề kĩ lưỡng. Loại tính cách Tích cự nên có tính hướng ngoại; kiên định nên cố chấp, thuộc nguyên tố tự nhiên Không khí nên thông minh, nhẹ nhàng. Tính cách cơ bản Có khả năng nhìn xa trông rộng hơn người. Độc lập, tự chủ và luôn tích cực tiến về phía trước. Họ không bao giwof che đạy việc mình xem thường những gì thuộc về truyền thống, họ luôn tự coi mình phải hơn mọi người một cấp. Thường đưa ra những lời dự đoán về tương lai 1 cách tự tin. Thích nhữn bộ đò mang phong cách mạnh dạn, thuộc thế hệ mới nhất, thuộc công nghệ tiên tiến nhất và đương nhiên cũng thuộc loại khá đắt tiền. Hành vi đặc trưng Độc lập và túc trí đa mưu. Câu cửa miệng “Tôi biết”; biểu thị sự tin tưởng tuyệt đối vào cách suy nghĩ của mình Ấn tượng trong lòng người khác Ấn tượng tốt; hữu hảo, tích cự, có tinh thần sáng tạo, hay nghĩ cho người khác. Suy nghĩ cho không chu đáo, lạnh nhạt và tùy tiện SONG NGƯ. STT Thời gian sinh 20/2 – 20/3 Kỳ 10 ngày 20/2 – 29/2 : Kỳ thứ nhất. 1/3- 10/3: Kỳ thứ hai 11/3 – 20/3 : Kỳ thứ ba Tượng trưng chòm sao Hai con cá liên hệ nhau bằng một sợi dây xích. Hành tinh chủ đạo Hải Vương tinh, tên có được từ vị thần biển thời La mã. Hành tinh này là đại diện cho thế giới tình cảm phong phú và một chí khí siêu phàm thoát tục. Mục tiêu theo đổi Phát huy tối đa khả năng sáng tạo của bản thân, dành nhiefu thời gian cho mộng tưởng. Loại tính cách Loại bi quan có tính hướng nội; tính khí thay đổi thất thường nhưng lại có khả năng thích nghi tốt, thế giới tình cảm phong phú. Tính cách cơ bản Hay bị kích động và thường tùy tiện trong công việc nên họ thường xuyên xảy ra kiếm khuyết khi xử lý các mối quan hệ. Giàu tình cảm và cả cuộc đời theo đuổi phương châm “ Giúp người khác là niềm vui”, họ vui lòng tìm hiểu những bất hạnh của người khác và sẵn lòng giúp đỡ khi cần. Hành vi đặc trưng Dễ bị kích động và rất mẫn cảm. Câu cửa miệng “Tôi tin rằng “ câu nói này nói lên người thuộc chòm Song Ngư chịu sự chi phối rất lớn của tinh thần. Ấn tượng trong lòng người khác Dễ gần, dễ xúc động, không kén chọn. Hay quên, trốn tránh trách nhiệm. PHỤ LỤC 4: BẢNG HỎI GỬI SV K49, 50, 51 Xin chào bạn! Để phục vụ cho việc khảo sát “thực trạng hoạt động lập kế hoạch cuộc đời với sinh viên KTQD” , mình (Vương Thị Thùy Dung, lớp Kế hoạch 48B) mời bạn tham gia trả lời bảng hỏi dưới đây. Mọi thông tin cá nhân của bạn liên quan đến phiếu điều tra sẽ được giữ kín và không cung cấp cho một bên thứ ba nào. Xin cảm ơn bạn đã hợp tác. Sau khi đề tài hoàn chỉnh, tất cả các bạn tham gia trả lời bảng hỏi có thể nhận được bản thảo qua Email nếu muốn. Phần về bản thân. Tên: Khoa: Sinh ngày: Giới tính: Nam / Nữ Bằng tốt nghiệp cấp 3 A:Giỏi B: Khá C: Trung bình Bạn có muốn nhận được bản thảo đề tài không: Có / Không Email: Phần về gia đình: Nghề nghiệp bố: Nghề nghiệp mẹ: Thu nhập bình quân hàng tháng của gia đình bạn: Bạn là con thứ mấy Con một Con cả Con thứ Con út Hình mẫu trong tương lai Bạn có một hình mẫu lí tưởng muốn hướng tới trong tương lai không (Có thể đó là 1 người bạn ngưỡng mộ, có thể là tập hợp đức tính của nhiều người Hình mẫu rất rõ ràng Hình mẫu hơi mơ hồ Chưa có hình mẫu Không thích có hình mẫu Câu hỏi khảo sát Bạn đã từng tham gia các hoạt động hướng nghiệp nào chưa? Nhiều lần rồi Một vài lần Một lần Chưa tham gia lần nào Với các hoạt động ngoại khóa, bạn tham gia với tư cách nào? Là người lãnh đạo Là thành viên nhiệt tình, năng nổ Là thành viên bình thường Là thành viên ít tham gia Bạn có thích Ngành bạn đang học không ? Rất thích Không thích lắm Bình thường Chẳng thích tí nào Tại sao bạn lại học ngành này ? Vì tôi thích ngành này Vì hiện nay đây là ngành Hot Vì định hướng của gia đình Vì chỉ đủ khả năng học ngành này Trước đây, bạn đã từng lập kế hoạch hành động chi tiết cho một việc gì đó không ? Thường xuyên Đôi lúc Tôi thấy không cần thiết lắm Hầu như là không Bạn có thường xuyên xem lại kế hoạch mình đã lập không? Rất thường xuyên Thỉnh thoảng Ít k hi Không Nếu bạn đã từng lập kế hoạch, bạn đánh giá kết quả của việc triển khai kế hoạch đó như thế nào? Rất tốt Tốt Bình thường Không tốt Hãy viết ra 3 mục tiêu nghề nghiệp của bạn trong 5 – 10 năm tới ? ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… Hãy viết ra 3 việc bạn đang làm để thực hiện mục tiêu nghề nghiệp của bạn trong 5 – 10 năm tới ? ………………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………………… Bạn đã từng tham gia một khóa học hay đọc một quyển sách về lập kế hoạch cuộc đời chưa ? Nhiều lần rồi Một vài lần Biết nhưng chưa đọc chưa chưa tham gia Chưa biết có khóa học hay quyển sách như vậy Bạn nghĩ rằng việc lập kế hoạch cuộc đời với sinh viên có quan trọng không ? Rất quan trọng Quan trọng Bình thường Không biết Lập kế hoạch cuộc đời phải trả lời 4 câu hỏi. Theo bạn câu hỏi nào khó trả lời nhất trong các câu hỏi Tôi là ai và đang ở đâu? Tôi muốn đi đến đâu? Làm thế nào để tôi đi đến đó? Làm thế nào để tôi luôn đi đúng hướng? Nếu có khóa học về lập kế hoạch cuộc đời, bạn có sẵn sàng tham gia không ? Sẵn sàng Để xem bạn bè có tham gia không đã Tôi không quan tâm đến vấn đề này. Ý kiến khác……………………….... PHỤ LỤC 5: HÌNH CHỤP MÀN HÌNH BẢNG HỎI TRỰC TUYẾN GỬI TỚI K48 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26840.doc