Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Thanh Trì

PHẦN I: MỞ ĐẦU. 1.1. Sự cần thiết của đề tài: Ngân hàng thương mại(NHTM) là một trong những trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Thông qua hoạt động của mình, NHTM đã góp phần huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển, là công cụ để điều hòa vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu của nền kinh tế một cách hữu hiệu. Bên cạnh đó, hệ thống NHTM đã trở thành cầu nối tr

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung gian của ngân hàng Trung ương trong việc thực hiện các chính sách kinh tế quốc gia để góp phần phát triển kinh tế xã hội. Với thị phần chiếm hơn 70% cả về huy động vốn và cho vay các ngân hàng thương mại đang giữ vị trí thống lĩnh trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng của nước ta. Trong những năm qua, hệ thống NHTM đã có những bước phát triển mạnh mẽ.Với chức năng và vai trò là kênh huy động vốn và cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, các NHTM đã không ngừng mở rộng quy mô hoạt động và đối tượng khách hàng thông qua các quan hệ tín dụng tiền tệ và phát triển các dịch vụ ngân hàng khác cụ thể như thiết lập các ngân hàng chi nhánh, đại lí từ trung ương đến địa phương … phát triển các dịch vụ như bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh kiều hối, chứng khoán…Tuy nhiên hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động bao trùm, là dịch vụ sinh lời chủ yếu đồng thời là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng rất nhạy cảm liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như kinh tế chính trị , xã hội... đồng thời lại chịu sự cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác nên chứa đựng nhiều rủi ro. Chính vì vậy môi quan tâm hàng đầu của các ngân hàng chính là chất lượng hoạt động của mình. Chất lượng hoạt động là yếu tố quyết định sự phát triển bền vững, lành mạnh của ngân hàng. Việc gia nhập WTO đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho thị trường tài chính Việt Nam. Trong một hai năm trở lại đây, hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng Việt Nam rất phát triển. Tính hấp dẫn của kinh doanh tiền tệ ngân hàng được đánh giá là cao hơn các ngành kinh tế khác. Bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức và rủi ro đối với ngành ngân hàng nói chung và NHTM nói riêng. Cụ thể là sự tăng trưởng quá nóng của tín dụng, lạm phát gia tăng, nội lực của ngân hàng còn yếu, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, năng lực cạnh tranh còn kém, trình độ nguồn nhân lực còn hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm so với khu vực. Trong thời gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu rộng thì sẽ phải đối mặt với các đối thủ nặng kí có tiềm lực tài chính mạnh, với các dịch vụ đa dạng, hiện đại và thông dụng. Cho nên cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường tự do hóa tài chính để từng bước hội nhập với khu vực và thế giới; hoàn thiện và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng và hệ thống thanh toán là xu thế tất yếu đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng của nước ta. Ngân hàng NN và PTNT Việt Nam là ngân hàng thương mại hàng đầu giữ vai trò chủ đạo và chủ lực trong đầu tư vốn và phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Là doanh nghiệp nhà nước đặc biệt ngoài chức năng của 1 ngân hàng thương mại, ngân hàng NN và PTNT được xác định thêm nhiệm vụ đầu tư phát triển đối với khu vực nông thôn thông qua việc mở rộng đầu tư vốn trung và dài hạn để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy hải sản góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Ngân hàng NN và PTNT huyện Thanh Trì là 1 chi nhánh của ngân hàng NN và PTNT Việt Nam. Với sự nỗ lực của ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên trong ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện các hoạt động, không ngừng nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp. Tuy nhiên, ngân hàng cũng không nằm ngoài những khó khăn như hệ thống ngân hàng nước ta đang gặp phải. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng tại các ngân hàng vì vậy tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Thực trạng và 1 số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại ngân hàng NN và PTNT huyện Thanh Trì”. Qua đó nâng cao hiểu biết về hoạt động tín dụng và đưa ra được 1 số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng NN và PTNT huyện Thanh Trì. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu: + Hệ thống hóa một số cơ sở lí luận về tín dụng và chất lượng tín dụng tại các ngân hàng thương mại. + Tìm hiểu tổng quan tình hình tín dụng của ngân hàng Việt Nam nói chung và thực trạng hoạt động tín dụng tại ngân hàng NN và PTNT huyện Thanh Trì nói riêng. + Qua dó đưa ra được những đánh giá và 1 số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu: + Thực trạng và 1 số chính sách về tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại. + Ngân hàng NN và PTNT huyện Thanh Trì. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu: + Nội dung: Thực trạng và 1 số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng NN và PTNT tại huyện Thanh Trì. + Thời gian: Tài liệu được thu thập từ năm 2005 đến năm 2008. Thời gian thực hiện đề tài: +Không gian: huyện Thanh Trì PHẦN II: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN: 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các loại hình tín dụng ngân hàng: 2.1.1.1. Khái niệm: Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ có hoàn trả gốc và lãi giữa người có vốn ( Ngân hàng, TCTD) và người thiếu vốn ( tổ chức, cá nhân).Theo nghĩa nguyên thủy của khái niệm tín dụng (credit) là tin mà đưa tiền cho sử dụng. Như vậy tín dụng phụ thuôc rất nhiều chữ tin hay chữ tín ở người vay tiền. Theo nghĩa rộng, chữ tín này bao hàm cả năng lực tài chính và sự sẵn sàng trả tiền của người đi vay hay không. Theo các nhà kinh tế, tín dụng là một phạm trù kinh tế đã tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế xã hội. Tín dung hình thành và phát triển cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, dưới những góc độ khác nhau, các nhà kinh tế đưa ra những định nghĩa khác nhua về tín dụng. Khi nghiên cứu về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền sản xuất TBCN, C.Mác đã chỉ rõ: “Tín dụng là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến 1 người này giao cho 1 người khác 1 số tư bản nào đó, dưới hình thái tiền hoặc dưới hình thái hàng hóa đáng giá 1 số tiền nhất định nào đó. Số tiền này được trả lại trong thời gian nhất định. Từ đó theo C.Mác điểm tất yếu của sự luân chuyển ( trở về) điểm xuất phát của đồng tiền không chỉ giữ được nguyên vẹn giá trị mà nó lại đồng thời lớn lên trong quá trình vận động. Theo tác giả Lê Văn Tề, trong quyển Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng cho rằng: “ Tín dụng là quan hệ kinh tế vay mượn trên cơ sở lòng tin của cả người cho vay và người đi vay”. Dù được định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng bản chất của tín dụng được thể hiện là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn và người có vốn dựa trên cơ sở lòng tin. Biểu hiện bề mặt của quan hệ tín dụng là sự vận động lượng giá trị vốn tín dụng qua các giai đoạn: phân phối vốn tín dụng, sử dụng vốn tín dụng và hoàn trả vốn tín dụng. Sự vận động của lượng giá trị vốn tín dụng khi quay về điểm xuất phát luôn phải đảm bảo giá trị và giá trị tăng thêm dưới hình thức lợi tức thông qua cơ chế điều tiết lãi suất. Như vậy, ta có thể khái quát như sau: “Tín dụng là quan hệ kinh tế gắn với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng theo nguyên tắc hoàn trả nhằm thỏa mãn nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội”. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng ngân hàng được coi là hình thức tín dụng phát triển, giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tín dụng. Đối với ngân hàng nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chính yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng được định nghĩa là các quan hệ vay mượn vốn tiền tệ phát sinh giữa các ngân hàng với các chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc tín dụng. Trong đó, đối tượng của tín dụng ngân hàng là vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong xã hội. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ đi vay vốn của những người có vốn để cho vay những người cần vốn, được hưởng lợi nhuận, theo sự điều tiết của cơ chế thị trường và được pháp luật bảo vệ. 2.1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ. Hoạt động tín dụng của ngân hàng bao gồm hai quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng hay còn gọi là hoạt động huy động vốn và cho vay. Trong quan hệ tín dụng, các ngân hàng bằng cơ chế thích hợp huy động các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo ra quỹ tiền tệ của mình. Đồng thời với quỹ tiền tệ này , ngân hàng sẽ đáp ứng cho nhu cầu về vốn cho quá trình phát triển kinh tế. Như vậy tiền chính là đối tượng kinh doanh của mỗi ngân hàng đây chính là điểm dặc biệt phân biệt giữa ngành ngân hàng và các ngành sản xuất kinh doanh khác. Trong tín dụng ngân hàng, các ngân hàng đóng vai trò là tổ chức trung gian tài chính trong quá trình huy động vốn và cho vay vốn. Đăc trưng quan trọng nhất là tín dụng ngân hàng chỉ thay đổi quyền sử dụng mà không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Những người thừa vốn không biết đầu tư vào đâu nên đã nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng. Ngân hàng tuy là người mắc nợ nhưng các ngân hàng lại là người chủ động ra điều kiện vay. Hàng kì ngân hàng phải thanh toán 1 phần phí sử dụng nguồn vốn gọi đó là lãi và có trách nhiệm hoàn trả đủ gốc khi đến hạn. Sau khi đã huy động được vốn ngân hàng sẽ tiến hành đưa nguồn tiền đó vào lưu thông bằng cách cho những người có nhu cầu về vốn vay để thu về 1 phần lãi gọi là phí cho vay. Khoản phí cho vay này bao gồm phần phí phải chi trả cho nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động và khoản lãi theo quy định của từng ngân hàng. Khi ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho những người có nhu cầu về vốn, ngân hàng sẽ là người chủ động ra điều kiện cho vay. Người đi vay cũng phải có trách nhiệm trả cả vốn và lãi theo hợp đồng đã kí với ngân hàng. Qúa trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển sản xuất hàng hóa. Vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa. Nhưng trong nhiều trường hợp vốn tín dụng ngân hàng không tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa mà chỉ tham gia vào những hoạt động phi sản xuất vật chất như: cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay tái cầm cố các loại công trái quốc gia, các loại trái khoán của chính phủ. Những trường hợp trên tín dụng ngân hàng có gia tăng nhưng quy mô sản xuất hàng hóa không tăng. Trường hợp khác sản xuất hàng hóa tăng nhưng vốn tín dụng không đáp ứng kịp, mâu thuẫn này diễn ra thường xuyên trong nền kinh tế thị trường. Những trường hợp trên chứng tỏ vận động tín dụng ngân hàng có sự độc lập tương đối với sự vận động của quá trình tái sản xuất xã hội. 2.1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng có nhiều loại hay nhiều hình thức khác nhau. Nền kinh tế càng phát triển các hình thức tín dụng càng phong phú. Việc phân loại tín dụng nhằm hiểu rõ thêm sự khác biệt của từng loại tín dụng và qua đó ta có thể sử dụng hoặc hiểu được tín dụng trong từng hoàn cảnh cụ thể. Tùy theo đối tượng và mục đích ngiên cứu ta có thể phân loại tín dụng theo các hình thức như sau: Phân loại theo mục đích: +Cho vay bất động sản. +Cho vay công nghiệp. +Cho vay nông nghiệp. +Cho vay các định chế tài chính. +Cho vay cá nhân. +Cho thuê. Phân loại theo thời hạn cho vay: +Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. +Cho vay trung hạn: là là khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến 5 năm được dung vào đầu tư TSCĐ và còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp đặc biệt là ngững doanh nghiệp mới thành lập. +Cho vay dài hạn: Là các khoản vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20 đến 30 năm. Được dùng đáp ứng cá nhu cầu dài hạn. Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng: +Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, câm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của khách hàng. +Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên các cơ sở đảm bảo như thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Phân loại theo phương pháp hoàn trả: +Cho vay có thời hạn: là loại cho vay có thỏa thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo hợp đồng. +Cho vay không có thời hạn cụ thể: với hình thức này ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ vào bất kì lúc nào, nhưng phải báo trước 1 thời hạn hợp lí, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng. Phân loại theo xuất xứ tín dụng: +Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng. +Cho vay gián tiếp: là các khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các NHTM cho vay gián tiếp theo các loại sau: - Chiết khấu thương phiếu: người hưởng thụ hối phiếu hoặc lệnh phiếu còn trong hạn thanh toán có thể nhượng lại cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cấp cho khách hàng 1 khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng. Khi chứng từ đến hạn thanh toán người thụ lệnh hối phiếu hoặc người phát hành lệnh phiếu có trách nhiệm thanh toán cho ngân hàng. - Mua các phiếu bán hàng trả góp: Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh nghiệp thực hiện bán hàng hóa theo hình thức trả góp. Tuy nhiên nguồn vốn có hạn nên cần có nguồn tài trợ của ngân hàng thông qua việc nhượng lại các phiếu bán hàng trả góp. Định kì người mua sẽ thanh toán tiền cho ngân hàng. - Nghiệp vụ thanh tín( nghiệp cụ factoring) là nghiệp vụ mua các khoản nợ thương mại(các khoản phải thu), trong đó bên mua( factor) nhận việc thu nợ và chấp nhận rủi ro tín dụng. 2.1.1.4. Ưu , nhược điểm của tín dụng ngân hàng: + Ưu điểm: - Về khối lượng tín dụng: tín dụng ngân hàng có khả năng cung ứng những khoản vốn lớn đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay của khách hàng. - Về thời hạn tín dụng: thông thường người có vốn muốn cho vay ngằn hạn hơn là cho vay dài hạn bởi vì thời hạn ngắn thì đồng tiền ít rủi ro hơn và ít tổn thất về khả năng thanh khoản, nhưng người đi vay thường có nhu cầu vay dài hạn. Còn ngân hàng có thể “đi vay ngắn hạn để cho vay dài hạn”. Chính nhờ, khả năng chuyển hóa thời hạn này mà ngân hàng có thể tạo điều kiện cho nhu cầu người tích lũy và người đầu tư được đáp ứng phù hợp. - Về phạm vi tín dụng: Tín dụng ngân hàng có phạm vi huy động vốn cũng như cho vay rất lớn, liên quan đến rất nhiều chủ thể và các lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Bởi vậy, nó thích hợp với nhiều đối tượng xin vay cũng như cho vay. + Nhược điểm: Hạn chế cơ bản của TDNH là có độ rủi ro cao. Hạn chế này gắn liền với chính những ưu điểm của TDNH, do việc ngân hàng có thể cho vay số tiền lớn hơn nhiều so với số vốn tự có hoặc sự chuyển hóa thời hạn và phạm vi tín dụng rất rộng. Những rủi ro về khả năng thu hồi vốn vay hoặc đầu tư vào dự án lợi nhuận thấp … có nguyên nhân cơ bản là sự lựa chọn đối nghịch, hay rủi ro đạo đức. 2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung, tích tụ và điều hòa vốn giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên hàng đầu và việc tính toán sử dụng vốn bao giờ cũng gắn liền với cả chi phí, kể cả chi phí cơ hội. Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ lãng phí và tốn kém chi phi cơ hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu sinh lợi. Khi ấy, vốn cần được đem cho vay hay phân phối lại từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi thiếu hụt vốn. Ngược lại, khi thiếu hụt vốn cần có sự bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục hoặc tăng trưởng như hoạch định. Nhờ có tín dụng ngân hàng, việc điều hòa hay phân phối lại nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu có thể được thực hiện 1 cách dễ dàng và nhanh chóng. Việc tập trung và tích lũy vốn có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế đang phát triển như nước ta. Đứng trước các yêu cầu cấp bách cho sự phát triển kinh tế đòi hỏi 1 lượng vốn lớn tập trung cho việc phát triển các ngành và các vùng kinh tế. Hiện nay, nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được nắm giữ ở các chủ thể khác nhau trong nền kinh tế là rất lớn. Nhưng nhiều người tích lũy không muốn đầu tư bởi vì họ bị hạn chế về khả năng và kiến thức tài chính. Trong khi đó, hệ thống tín dụng ngân hàng có đủ độ tin cậy do tính chuyên môn hóa cao và làm giảm bớt rủi ro các cá nhân của những người tích lũy. Do đó, tín dụng làm cho quá trình tập trung vốn được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả, tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, dặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Bất kì 1 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng có nhu cầu về vốn đầu tư cho quá trình sản xuất và tái sản xuất phát triển. Chính vì vậy hiện tượng thừa thiếu vốn tạm thời là hiện tượng diễn ra thường xuyên tại các doanh nghiệp. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới khả năng sản xuất liên tục và nếu không chủ động được nguồn vốn kịp thời sẽ gây mất khả năng thanh toán có thể dẫn tới phá sản đối với từng doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng với việc cấp tín dụng thông qua cho vay kịp thời, đã giúp các doanh nghiệp thỏa mãn nhu cầu về vốn luôn thay đổi, tạo khả năng đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh, không để tồn đọng vốn trong quá trình luân chuyển. Bên cạnh đó, vốn tín dụng tạo điều kiện những người muốn đầu tư có được khả năng vay vốn để đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo thêm sản phẩm, hàng hóa cho nền kinh tế quốc dân. Ngày nay. các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh rất cao đòi hỏi các doanh nghiệp phải cải tiến cơ sở vật chất, mở rộng sản xuất, ứng dụng công nghệ mới và hiện đại nâng cao năng lực của máy móc, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tín dụng ngân hàng góp phần tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thực hiện được các dự án đầu tư lớn, tạo ra những bước nhảy vọt về năng lực do được tiếp cận với máy móc thiết bị hiện đại, từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển. Tín dụng ngân hàng góp phần điều chỉnh, ổn định và tăng trưởng kinh tế. Xu hướng của các nhà đầu tư hiện nay là đầu tư vào những ngành, lĩnh vực thu lại lợi nhuận cao đặc biệt là 1 số ngành như công nghệ thông tin, hay chứng khoán… trong khi đó nền kinh tế đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối, đồng bộ giữa các ngành và các vùng, cần phải có những ngành then chốt, mũi nhọn để tạo đà cho nền kinh tế phát triển. Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo đầu tư vốn cho cơ sở hạ tầng, hình thành các ngành then chốt và các ngành kinh tế trọng điểm, góp phần hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu. Tín dụng còn là phương tiện để nhà nước thực hiện các chính sách tiền tệ thích hợp để ổn định nền kinh tế khi nền kinh tế có những dấu hiệu bất ổn. Với các công cụ trực tiếp như: hạn mức tín dụng, lãi suất, tỷ giá đồng thời thiết lâp và bước đàu sử dụng các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở… đã góp phần giúp nhà nước tăng cường phạm vi và hiệu quả điều tiết kiểm soát tiền tệ. góp phần quan trọng trong ổn định hệ thống tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo vốn cho quá trình tăng trưởng kinh tế và tạo điều kiện phát triển thị trường tiền tệ. Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các chính sách xã hội của nhà nước. Với hệ thống ngân hàng rộng khắp, tín dụng ngân hàng giúp cho mọi người dân có thể tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng từ đó có điều kiện nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống. Gắn trách nhiệm của người dân đối với nguồn vốn vay tạo sức ép buộc chủ thể kinh doanh phải thiết lập và phát triển các dự án kinh doanh có hiệu quả để vừa có thể trả lãi ngân hàng đồng thời kinh doanh có lãi, tái sản xuất sức lao động, làm giàu cho mình và cho xã hội. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng, các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Thông qua đó góp phần giải quyết vần đề việc làm, hạn chế các tiêu cực xã hội và các luồng dân cư di chuyển từ khu vực nông thôn vào thành thị. Nhà nước sử dụng tín dụng ngân hàng không chỉ là 1 công cụ thực hiện các chính sách điều tiết kinh tế mà còn hướng tới các mục tiêu xã hội nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách đang diễn ra hiện nay là xóa đói giảm nghèo, dân số, việc làm…Với việc áp dụng các ưu đãi về vốn, lãi suất, điều kiện và thời hạn vay cho các đối tượng chính sách và các hộ nghèo, tín dụng đã đóng vai trò rất quan trọng trong thực hiện xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng đội ngũ cán bộ cho địa phương giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Tín dụng góp phần mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Trong nền kinh tế mở, nhu cầù vay vốn nước ngoài trở thành nhu cầu bức thiết đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam còn nhiều hạn chế về điều kiện và nguồn lực. Nguồn vốn vay từ nước ngoài đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao năng lực sản xuất, tiếp cận trình độ công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lí của các nước trên thế giới. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy việc giao lưu, trao đổi hàng hóa giữa các nước trên thế giới mở rộng quan hệ ngoại thương tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho ngân sách nhà nước đồng thời thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài cho phép khai thác tối đa nguồn lực hiện có cho quá trình phát triển kinh tế. 2.1.3. Lãi suất tín dụng: 2.1.3.1. Khái niệm: Hoạt động tín dụng ngân hàng gắn liền với lợi tức thu được từ hoạt động tín dụng hay còn gọi là lợi tức tín dụng bởi vì lợi tức tín dụng là thước đo hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi ngân hàng thực hiện quyền cho vay, lợi tức được hiểu là thu nhập có được do chuyển nhượng quyền sử dụng vốn vay hay là thu nhập nhằm bù dắp cho chi phí cơ hội của vốn vay. Ngược lại, khi ngân hàng thực hiện quyền vay, lợi tức chính là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho vay để có được quyền sử dụng vốn vay. Lợi tức tín dụng thu được nhiều hay ít phụ thuộc vào doanh số cho vay và lãi suất tín dụng của mỗi ngân hàng. Trong đó, Lãi suất tín dụng là 1 yếu tố quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Lãi suất tín dụng là sự cụ thể hóa lợi tức tín dụng dưới hình thức giá trị tương đối ( tỷ lệ %) bao gồm 2 loại lãi suât đó là : lãi suất huy động tiết kiệm và lãi suất cho vay. LS hiểu theo nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của một quyền vay trong một khoảng thời gian nhất định được biểu hiện bằng tỷ lệ so sánh tổng lợi tức thu được so với tổng vốn cho vay trong 1 khoản thời gian xác định.. Việc quyết định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức kỳ vọng sinh lời của ngân hàng, rủi ro tín dụng của khoản vay và tỷ lệ an toàn vốn. . Công thức: Lãi suất tín dụng trong kì = Tổng lợi tức thu được trong kì Tổng doanh số cho vay trong kì 2.1.3.2. Ý nghĩa của lãi suất tín dụng: Lãi suất tín dụng là công cụ quản lí vĩ mô nền kinh tế. Trong điều kiện thị trường tiền tệ có nhiều biến động bất thường, LSTD được NHTƯ sử dụng như là một công cụ để điều hành chính sách kinh tế. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái và trì trệ NHTƯ có thể hạ lãi suất nhằm tăng cung tiền và kích cầu để thúc đẩy kinh tế phát triển vượt qua tình trạng suy thoái. Ngược lai khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát cao NHTƯ có thể nâng lãi suất huy động vốn và cho vay, điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu; tăng mạnh tỷ lệ giữ trữ bắt buộc bằng VND và ngoại tệ … qua đó hạn chế khả năng tạo tiền và mở rộng tín dụng của các TCTD, góp phần ổn định tiền tệ, bình ổn giá và thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. LSTD tác động ở một mức độ nhất định đến hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp và đến đời sống của dân cư. Khi lãi suất cho vay giảm, làm cho cầu về vốn của các doanh nghiệp tăng, các doanh nghiệp có xu hướng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, giải quyết được tình trạng thất nghiệp trong nền kinh tế và ngược lại. Chính vì vậy lãi suất là công cụ giúp Nhà Nước điều chỉnh cơ cấu ngành, cơ cấu vùng nhằm phát triển cân đối nền kinh tế. LSTD là công cụ điều tiết kinh tế vi mô. LSTD là 1 công cụ thực hiện hoạt động của các trung gian tài chính trong diều kiện cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo tính tự chủ tài chính của các tổ chức này để có thể tồn tại và phát triển. Dựa trên lãi suất cơ bản và biên độ giao động cho phép để tăng khối lượng nguồn vốn huy động, đồng thời mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các tổ chức tài chính trung gian có thể nâng lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức này sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế. 2.1.3.3. Các loại lãi suất tín dụng: Nếu căn cứ vào tính chất chỉ đạo của Nhà Nước, lãi suất tín dụng được chia thành: + Lãi suất chỉ đạo: là lãi suất do ngân hàng nhà nươc trung ương công bố dưới các dạng như lãi suất chiết khấu, lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ bản…làm cơ sở để ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay. - Lãi suất sàn, lãi suất trần là mức lãi suất thấp nhất hoặc cao nhất trong 1 khung lãi suất nào đó, mà ngân hàng trung ương quy định để can thiệp vào hoạt động tín dụng nhằm bảo vệ quyền lợi của người cho vay hoặc người đi vay. - Lãi suất cơ bản bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất lien ngân hàng. .Lãi suất tiền gửi là lãi suất mà ngân hàng thương mại trả cho người gửi trên số tiền ở tài khoản tiền gửi tiết kiệm. .Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất tiền gửi theo tính chất của khoản vay và thời gian vay vốn. .Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay nhằm giải quyết nhu cầu vốn ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. + Lãi suất kinh doanh: là lãi suất do từng hệ thống nâng hàng thương mại và các tổ chức tín dụng xác định trên cơ sở lãi suất chỉ đạo của ngân hàng nhà nước. Nêu căn cứ vào thời gian vay mượn: + Lãi suất ngắn hạn. + Lãi suất trung hạn. + Lãi suất dài hạn. Nếu căn cứ vào giá trị của tiền tệ: + Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được xác định cho 1 kì hạn gửi hoặc vay chưa tính đén sự giảm giá trị của tiền khi có lạm phát. + Lãi suất thực là lãi suất được xác định giá trị thực của khoản lãi có tính đén sự giảm giá trị của tiền. Nếu phân loại theo tiền vay: + Lãi suất nội tệ là lãi suất để huy động vốn hoặc cho vay bằng đồng nội tệ trên thị trường vốn trong nước. + Lãi suất ngoại tệ là lãi suất dung để huy động vốn hoặc cho vay bằng dồng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước. 2.1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng: +Quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường vốn: Lãi suất tín dụng ngân hàng( LSTDNH) là 1 loại giá của tiền tệ. Đã là giá thì LSTDNH phải được hình thành từ nhiều yếu tố kinh tế thậm chí cả các yếu tố phi kinh tế. Cũng như giá của các loại hàng hóa thông thường khác, giá của loại hàng hóa tiền tệ luôn luôn chịu tác động của quan hệ cung cầu trên thị trường. Khi nhu cầu vốn của thị trường tăng lên mà khả năng cung cấp vốn không thể đáp ứng được thì lãi suất cho vay của các NHTM tăng lên; ngược lại, khi nhu cầu vốn trên thị trường giảm thấp trong khi vốn huy động được các NHTM tăng lên, không có nơi tiêu thụ thì lãi suất cho vay của các NHTM có thể giảm thấp. Đây là vấn đề có tính quy luật trong nền kinh tế. LSTDNH khác với các loại giá cả thông thường khác ở chỗ, giá cả của các hàng hóa thông thường được hình thành trên cơ sở giá thành là chủ yếu; các yếu tố về quan hệ cung cầu trên thị trường có ảnh hưởng nhất định đến sự tăng giảm giá của giá cả trên thị trường nhưng không phải là quyết định; thường có tính chất tạm thời và phạm vi ảnh hưởng, tác động của nó là không lớn. Trong khi đó, LSTDNH thường được xác định bằng “giá mua vào” tức là “giá vốn” trên thị trường và chi phí sử dụng vốn. Gía vốn và chi phí huy động vốn không những chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu trên thị trường mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình thị trường, vào đặc điểm kinh tế - xã hội nơi các NHTM hoạt động. + Thực trạng nền kinh tế: Vì LSTDNH chịu tác động rất nhiều vào tình hình cung cầu vốn trên thị trường, nên những nhân tố tác động đến LSTDNH bao giờ cũng là các nhân tố phản ánh một cách đầy đủ tình hình tăng trưởng của nền kinh tế, tình hình ổn định của sức mua tiền tệ. Kinh tế tăng trưởng bền vững luôn là yếu tố quyết định đến sự ổn định của sức mua tiền tệ, của LSTDNH. Sự biến động tăng giảm của LSTDNH hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng, đầu tư trong xã hội tăng làm cho cầu vốn đàu tư tăng do đó lãi suất có xu hướng tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong tình trạng suy thoái, đầu tư xã hội giảm, để kích cầu đầu tư, Nhà nước chủ trương hạ lãi suất cơ bản để hạ lãi suất cho vay. + Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế: Lạm phát hay tăng giá có tác động nhất định đến lãi suất trên thị trường. Bởi lẽ, lãi suất là 1 biến số hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế nói chung và các hiện tượng của lạm phát nói chung. Khi nền kinh tế có lạm phát quá cao trong 1 thời kì nào thì lãi suất có xu hướng tăng lên. Khi lạm phát tăng (đặc biệt là khi lạm phát gia tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế) thì gửi tiền tiết kiệm có thể phải chịu lãi suất âm tức là gửi tiền tiết kiệm không những không có lãi mà còn lỗ do đồng tiền mất giá khi đó người có vốn sẽ dùng nguồn vốn tiết kiệm sang tích trữ hàng hóa hoặc đầu tư sang lĩnh vực khác làm giảm nguồn cung tiền gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Bên cạnh đó để hạn chế lạm phát gia tăng ngân hàng trung ương sẽ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt,tức là giảm cung tiền cũng là 1 trong những yếu tố làm cho LSTDNH gia tăng nhanh chóng. + Thời hạn hoàn trả. Nói chung, thời hạn hoàn trả tiền vay càng dài , ngân hàng sẽ yêu cầu lãi suất càng cao. Lý do là ngân hàng sẽ gặp tình hình rủi ro lớn hơn trong những thay đổi thực trạng tài chính củ doanh nghiệp trong tương lai và thời gian cho vay càng dài, tài sản thế chấp càng có thể bị sụt giá tới mức mà giá trị của nó sẽ không còn dủ để đảm bảo số dư cho tiền vay. + Các chính sách vĩ mô của Nhà Nước. Mỗi chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước đề ra ảnh hưởng đến toàn bộ ngành, lĩnh vực và mọi đối tượng trong nền kinh tế chính vì vậy nó cũng tác động rất lớn tới thị trường tín dụng. Bội chi ngân sách là 1 bộ phận quan trọng trong cầu quỹ cho vay nên khi bội chi ngân sách tăng làm cho cầu quỹ cho vay tăng kéo theo lãi suất có xu hướng tăng. Thông thường để bù dắp bội chi._. ngân sách, Chính phủ thường phát hành thêm trái phiếu và chứng từ có giá. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm, lãi suất thị trường có xu hướng tăng lên. Chính sách tiền tệ của Chính phủ nhằm kiểm soát lượng cung tiền, kiểm soát lạm phát và tác động tới lãi suất nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định nên các chính sách tiền tệ tác động mạnh mẽ đến lãi suất. 2.1.4. Chất lượng tín dụng: 2.1.4.1. Khái niệm: Trong bất kì một hoạt động kinh doanh nào chất lượng hoạt động, chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố quyết định tới sự thành công của mỗi doanh nghiệp, đối với ngân hàng cũng như vậy. Ngân hàng là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, tín dụng là sản phẩm đặc biệt và chiếm vị trí chủ yếu trong mọi hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy chất lượng hoạt động ngân hàng được thể hiện rõ nét nhất qua chất lượng của hoạt động tín dụng. Khái niệm về chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng bao hàm nhiều nội dung về khả năng tài chính ngân hàng, mức độ thích nghi với sự thay đổi môi trường, khả năng thu hút khách hàng, tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ quá hạn, trình độ quản lí, trình độ cán bộ CNV …Chất lượng tín dụng thể hiện ở khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển của ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Cụ thể như sau: Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở mức độ thỏa mãn của khách hàng qua các hình thức tín dụng và dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Xét về góc độ huy động vốn và cho vay thì ngân hàng cần phải có quy trình thủ tục hồ sơ đơn giản, thực hiện nhanh chóng, lãi suất đầu vào cao, lãi suất đầu ra thấp, đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn và không gây phiền hà cho khách hàng . Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ ngân hàng có hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Tỷ lệ nợ quá hạn , tỷ lệ an toàn vốn có phù hợp với các tiêu chuẩn của nhà nước nước quy định và các chuẩn mực thông lệ quốc tế. Tốc độ phát triển nguồn vốn và dư nợ có đảm bảo với khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài chính hay không?... Đối với góc độ kinh tế xã hội: Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ hoạt động đó đem lại bao nhiêu lợi ích cho xã hội, có phù hợp với định hướng chung phát triển kinh tế, có tuân thủ luật pháp và đóng góp bao nhiêu phần trăm tăng trưởng. Qua đó có thể rút ra: Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính toán được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn) vừa trìu tượng ( thể hiện khả năng thu hút khách hàng tác động đến nền kinh tế). Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của, nhân tố chủ quan ( khả năng quản lý, trình độ cán bộ), và các nhân tố khách quan( sự thay đổi của môi trường bên ngoài). Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp. Nó không tự nhiên sinh ra mà là kết quả của một quy trình kết hợp hoạt động giữa con người trong một tổ chức, giữa các tổ chức với nhau vì mục đích chung. Vì vậy, để có chất lượng tín dụng thì hoạt động tín dụng phải có hiệu quả và quan hệ tín dụng phải được thiết lập trên cơ sở sự tin cậy và uy tín trong hoạt động. Nói cách khác chất lượng tín dụng tỷ lệ thuận với hiệu quả và độ tin cậy trong hoạt động tín dụng. Đánh giá đúng chất lượng tín dụng và hiểu được các nguyên nhân tác động giúp các ngân hàng tìm được biện pháp quản lý thích hợp để hạn chế các tác động khách quan, nâng cao năng lực cạnh tranh, đảm bảo cho ngân hàng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. 2.1.4.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng: Ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, các hoạt động của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với khách hàng và nền kinh tế thông qua quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, các dịch vụ ngân hàng khác như: huy động vốn; cho vay vốn; thanh toán và các hoạt động dịch vụ khác. Chính vì lẽ đó rủi ro đối với hoạt động ngân hàng rất đa dạng, tiềm ẩn và xuất hiện gắn liền với mỗi hoạt động dịch vụ tác động rất lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của mỗi tổ chức tín dụng, cao hơn nó tác động ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng bởi chính đặc thù trong hoạt động tín dụng, hoạt động kinh doanh ngân hàng. Việc nâng cao chất lượng tín dụng góp phần nâng cao lợi nhận cho chính ngân hàng, đảm bảo cho tăng cường CSVC – KT, đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ CNV. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng tín dụng cũng góp phần nâng cao khả năng đáp ứng cho nhu cầu của khách hàng, thúc đẩy quá trình phát triển KT –XH của địa phương và đất nước. 2.1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng: a. Tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ: Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau: Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn x 100% Tổng dư nợ Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM. Bởi vì chỉ tiêu này thể hiện chất lượng của những khoản vay. Khi tỷ lệ này vượt mức giới hạn cho phép nó thể hiện sự yếu kém của hoạt động tín dụng. Chính vì vậy, tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng càng cao. Theo chuẩn mực quốc tế chỉ tiêu này nằm trong khoảng từ 2% - 5% là có thể chấp nhân được. Theo quy định số 493/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 về việc ban hành quy định phân loại nợ, trích lập và dử dụng dự phòng để xử lí rủi ro và quyết định số 18/2007/QĐ- NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN về việc bổ sung sửa đổi một số điều của Quyết định 493, nợ của các NHTM được phân thành 5 nhóm bao gồm: + Nợ nhóm 1: nợ đủ tiêu chuẩn Các khoản nợ trong hạn được TCTD đánh giá là có khả năng trả đủ cả gốc và lãi. + Nợ nhóm 2: Nợ cần chú ý. Bao gồm: Các khoản nợ quá hạn 90 ngày và các khoản cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại. + Nợ nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn. Là các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày hoặc là cá khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. + Nợ nhóm 4: Nợ nghi ngờ. - Các khoản nợ quá hạn từ 180 – 360 ngày. - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại. + Nợ nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn. - Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày. - Các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lí. - Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại. Việc phân loại các nhóm nợ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong quản lý các khoản nợ đến hạn. Góp phần đánh giá mức độ ảnh hưởng của nợ quá hạn, các khoản nợ không có khả năng thu hồi dẫn đến suy giảm vốn tự có để có các biện pháp tích cực trong việc xử lí các khoản nợ trong từng nhóm cụ thể. Nợ xấu là các loại nợ thuộc nhóm 3 đến nhóm 5. Nhóm nợ xấu là nhóm nợ quá hạn có mức độ rủi ro cao cho nên đây cũng là một chỉ tiêu cần xem xét khi đánh giá chất lượng tín dụng. Công thức: Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu x 100 Tổng dư nợ Đối với các khoản nợ này thể hiện chất lượng tín dụng của khoản vay kém và năng lực tài chính cũng như khả năng trả nợ của khách hàng thấp. Chính vì vậy chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng càng cao thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng yếu kém. Tình trạng này kéo dài làm gia tăng chi phí đòi nợ, gia tăng các chi phí khác liên quan đến xử lí các khoản nợ khó đòi, ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng, khả năng sinh lời của đồng vốn huy động và tác động tiêu cực tới khả năng thanh toán. b. Lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng: Chất lượng tín dụng được đánh giá dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Chỉ tính đến kết quả thu được từ hoạt động tín dụng thì chưa phản ánh đầy đủ về chất lượng hoạt động tín dụng. Nhưng hiệu quả của hoạt động tín dụng thì nhất định phải thể hiện ở kết quả thu được từ hoạt động tín dụng mang lại cho nên lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng là một chỉ tiêu rất quan trọng trong đánh giá hiệu quả của hoạt động tín dụng của ngân hàng. Công thức tính cụ thể như sau: - Xét về mặt tuyệt đối: Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Doanh thu từ hoạt động tín dụng - Chi phí hoạt động tín dụng - Xét về mặt tương đối: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lãi thu từ hoạt động tín dụng x 100% Doanh thu từ hoạt động tín dụng Đối với chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng cho ta biết mức tăng tuyệt đối của doanh thu so với chi phí phát sinh từ hoạt động tín dụng. Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ tính toán mức được tăng, giảm lợi nhuận qua các năm, mức tăng giảm lợi nhuận bình quân từ đó thể hiện mức độ phát triển lợi nhuận mà ngân hàng đạt được. Đối với chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cho biết một đồng doanh thu từ hoạt động tín dụng tạo ra được bao nhiều đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu trên cho ta thấy sự tăng giảm về mặt lượng của lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng, thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thể hiện sự tăng giảm về chất của lợi tức tín dụng. Từ chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ta có thể đánh giá chính xác hiệu quả của lợi nhuận tín dụng ngân hàng. Vì vậy, tỷ lệ này càng cao lợi nhuận đạt được càng cao chứng tỏ chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng càng cao. c.Vòng quay vốn tín dụng: Vòng quay vốn tín dụng là một chỉ tiêu tài chính rất quan trọng trong đánh giá chất lượng tín dụng của Chi nhánh. Chỉ tiêu này phản ánh 2 vấn đề chính đó là hoạt động quản lý nợ của ngân hàng và quy mô tín dụng hàng năm mà Chi nhánh đạt được. Ý nghĩa của chỉ tiêu này là đánh giá khả năng thu hồi vốn của ngân hàng nhanh hay chậm sau khi đưa lượng vốn huy động vào lưu thông. Chỉ tiêu này càng cao tức là tốc độ luân chuyển dòng vốn của ngân hàng càng nhanh, mức sinh lời của 1 đồng vốn bỏ ra càng cao. Phản ánh khả năng của ngân hàng trong chủ động nguồn vốn tín dụng đồng thời hạn chế được các rủi ro của nguồn vốn trong quá trình lưu thông. Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức sau: Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ/ năm Dư nợ bình quân/ năm d. Hiệu suất sử dụng vốn vay: Hiệu suất sử dụng vốn vay là chỉ tiêu so sách giữa khả năng cho vay so với khả năng huy động vốn của ngân hàng.Qua đó, phản ánh hiệu quả cho vay của nguồn vốn huy động. Bởi vậy, hệ số này càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng càng cao và ngược lại. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá lớn (>1) thì nó phản ánh mức tăng trưởng tín dụng quá nóng có nghĩa là hoạt động huy động vốn của ngân hàng không đáp ứng đủ đối với nhu cầu cho vay. Điều này ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của ngân hàng cũng đồng nghĩa tác động làm giảm chất lượng của hoạt động tín dụng. Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng dư nợ x 100% Tổng nguồn vốn huy động được e.Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích: Công thức: Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích = Dư nợ sử dụng sai mụch đích x 100% Tổng dư nợ Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích cho phép ngân hàng đánh giá được trong tổng dư nợ có bao nhiêu phần trăm vốn sử dụng sai mục đích. Nếu tỷ lệ này càng cao càng chứng tỏ ngân hàng đã chủ quan trong việc kiểm tra, giám sát các khoản vay. Thông qua tính toán chỉ tiêu này góp phần cho biết khả năng của ngân hàng trong quản lý việc sử dụng vốn của khách hàng đồng thời đánh giá chất lượng của các khoản vay để có thể thực hiện việc trích lập và xử lý các khoản nợ rủi ro. Chính vì vậy, chỉ tiêu này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng đạt hiệu quả cao và ngược lại. 2.1.4.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng: a, Nhân tố khách quan: Nhân tố khách quan tác động đến chất lượng tín dụng (CLTD) bao gồm 3 nhân tố chính: tự nhiên - kinh tế, xã hội và pháp lý. + Nhân tố tự nhiên, kinh tế: Mọi thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh trong môi trường kinh tế luôn chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế vĩ mô hoặc chịu sự chi phối của các quy luật cung cầu, quy luật giá trị…. Hoạt động TD ngân hàng cũng chịu sự tác động rất lớn của môi trường kinh tế vĩ mô và vi mô. Quả vậy, trong điều kiện nền kinh tế bình thường, tạo điều kiện các loại hình doanh nghiệp thực hiện SXKD thuận lợi không gây biến động lớn tới khả năng trả nợ của khách hàng, ngân hàng có điều kiện thực hiện nhiều biện pháp mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của mình. Ngược lại, khi nền kinh tế bất ổn, lạm phát gia tăng, hoạt động SXKD bị ngừng trệ ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng, thì ngân hàng là đối tượng chịu rủi ro lớn nhất. Bởi vì nguồn vốn cho vay của ngân hàng là do ngân hàng huy động nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế. Khi lạm phát gia tăng tác động tới tâm lý khách hàng là không muốn gửi tiền tiết kiệm mà chuyển sang đầu tư lĩnh vực khác có hiệu quả hơn, gây áp lực lên chính hoạt động huy động vốn và cho vay của ngân hàng dẫn tới làm suy giảm chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngoài ra các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà Nước ưu tiên phát triển một số ngành nghề cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nhất là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chịu nhiều sự tác động của môi trường tự nhiên và môi trường kinh tế rất dễ phát sinh nhiều rủi ro tác động xấu tới CLTD của ngân hàng. + Nhân tố pháp lý: Môi trường pháp lý là một trong những yếu tố tác động rất lớn đến CLTD của ngân hàng. Hoạt động của ngành ngân hàng là rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro chính vì vậy nó phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp lý và các quy định của NHNN. Sự tác động của các chính sách luôn có tác động 2 chiều hoặc là tạo điều kiện thuận lợi hoặc là hạn chế sự phát triển của các ngân hàng. Vì vậy, tác động tích cực hay tiêu cực đến CLTD là phụ thuộc rất nhiều vào sự chính xác của các quy định mà hệ thống pháp lý ban hành. Cụ thể như theo quyết định 127/2005/QĐ – NHNN ngày 3/2/2005 đã quy định toàn bộ số dư gốc của khách hàng có khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ sẽ bị coi là quá hạn trả nợ, phải phân vào nhóm nợ không đủ tiêu chuẩn và thực hiện việc trích lập dự phòng rủi ro. Điều này đã dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng tăng lên rất nhiều so với thời gian trước đây khiến cho lợi nhuận của ngân hàng bị giảm sút rất lớn nhưng Quyết định 127 không phải là nguyên nhân khiến cho năng lực tài chính của các ngân hàng giảm đi, mà thực thi nghị định này thực trạng của các TCTD được đánh giá đúng mức độ nguy hiểm để có biện pháp xử lý kịp thời. Mặc dù, CLTD của các ngân hàng theo đánh giá là bị giảm sút rất nhiều( phản ánh đúng thực tế hơn) nhưng đây là công tác rất cần thiết nâng cao chất lượng của ngành ngân hàng nước ta. + Nhân tố chính trị - xã hội: Sự ổn định của môi trường chính trị xã hôi có tác động rất lớn đến nhu cầu đầu tư và các hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện bất ổn về chính trị sẽ kéo theo sự bất ổn về kinh tế tác động tiêu cực tới toàn bộ hoạt động của của nền kinh tế đất nước dẫn tới CLTD của ngân hàng cũng chịu sự tác động rất lớn và ngược lại. + Nhân tố tự nhiên: Yếu tố tự nhiên là nhân tố có tác động đến toàn bộ đời sống kinh tế xã hội đặc biệt là đối với nền kinh tế có nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong phát triển như nước ta. Khi các yếu tố tự nhiên không thuận lợi thì làm cho SXNN bị suy giảm ảnh hưởng đầu tiên tới khu vực nông nghiệp nông thôn trong đó tác động trực tiếp đến thị trường tín dụng nông thôn. Thi trường tín dụng nông thôn là thị trường có địa bàn rộng lớn và có khả năng thu hút khách hàng cao do nhu cầu vay vốn của người dân phục vụ cho SXKD, cho phát triển kinh tế hộ gia đình thực hiện xóa đói giảm nghèo. Để mở rộng địa bàn tín dụng, các chi nhánh ngân hàng tập trung ở khu vực này khá đông. Vì vậy, khi thị trường tín dụng nông thôn suy giảm kéo theo hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng bị suy giảm, tác động không nhỏ tới CLTD của mỗi ngân hàng. b, Nhân tố chủ quan:: + Các chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng(CSTD) là hệ thống các chủ trương, định hướng của ngân hàng đưa ra ở từng thời kỳ khác nhau nhằm chi phối hoạt động tín dụng, sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho các doanh nghiệp, các hộ gia đình và cá nhân trong phạm vi cho phép theo những quy định của pháp luật và của NHNN Việt Nam. Một CSTD được thiết lập sẽ cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý tín dụng cách thức chỉ đạo cụ thể trong việc thực hiện đường lối, mục tiêu kế hoạch đề ra phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển của ngân hàng. CSTD của ngân hàng chịu sự tác động của CSTD, CSTT của NHNN và chính sách do ban quản lí ngân hàng đề ra cho nên có ý nghĩa quyết định tới chất lượng của hoạt động tín dụng ở mỗi ngân hàng. Mỗi CSTD ban hành cần phải có căn cứ vào điều kiện thực tế của ngân hàng và điều kiện quan trọng nhất là phải có tầm nhìn dài hạn. Không vì mục tiêu mở rộng thị phần tín dụng trước mắt mà ảnh hưởng tới lợi ích lâu dài. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt các NHTM thường tăng lãi suất huy động, hạ lãi suất đầu ra, không thực hiện đầy đủ các quy trình tín dụng, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, mạo hiểm cho vay ồ ạt các dự án kém chất lượng, tiềm ẩn nhiều rủi ro dẫn đến tăng đột biến nợ quá hạn… Điều đó làm suy giảm chất lượng các hoạt động tín dụng. Do vậy, khi xây dựng chính sách tín dụng cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và người sử dụng vốn vay. Đồng thời CSTD phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế của Đảng, Nhà Nước và cần dựa trên những thực tiễn khoa học nhất định. + Chất lượng công tác thẩm định dự án: Thẩm định dự án là khâu quan trọng trước khi ngân hàng quyết định có cấp tín dụng hay không cấp tín dụng. Việc thẩm định dự án giúp ngân hàng xác định hiệu quả cũng như rủi ro của dự án kinh doanh, và khả năng trả nợ của khách hàng. Làm tốt công tác thẩm định giúp kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng đối với các dự án không hiệu quả hạn chế phát sinh của các khoản nợ không sinh lời. Chính vì vậy, chất lượng của công tác thẩm định ngân càng cao thì chất lượng của hoạt động tín dụng càng cao. + Quy trình tín dụng. Quy trình tín dụng là toàn bộ các bước của quá trình cho vay kể từ khi tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của khách hàng, hướng dẫn họ hoàn chỉnh hồ sơ vay vốn, thẩm định dự án xin vay cho đến lúc giải ngân, kiểm soát theo dõi khoản vay và thu nợ. Quy trình chỉ kết thúc khi ngân hàng đã thu được nợ gốc và lãi của khách hàng và thanh lý hợp đồng tín dụng. Quy trình tín dụng giúp cho quá trình cho vay diễn ra thống nhất khoa học, hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng. Việc không tuân thủ quy trình tín dụng có thể dẫn tới nhiều rủi ro do không nắm đầy đủ các thông tin cần thiết về các dự án, về tình hình tài chính của khách hàng và sơ hở trong các hợp đồng tín dụng rất dễ xảy ra các tranh chấp về quyền lợi…Việc xây dựng được một quy trình tín dụng hiệu quả là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự áp dụng nhất quán và chặt chẽ chính sách tín dụng của các ngân hàng. + Chất lượng đội ngũ nhân sự: Yếu tố con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của bất cứ một hoạt động nào trên mọi lĩnh vực. Đối với hoạt động tín dụng thì yếu tố con người lại càng đóng một vai trò quan trọng, nó quyết định đến chất lượng tín dụng, chất lượng dịch vụ và hình ảnh của ngân hàng và từ đó quyết định đến hiệu quả tín dụng của ngân hàng. Quả đúng như vậy, hoạt động tín dụng ngân hàng luôn đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải có trình độ trong phân tích, đánh giá; đồng thời phải linh hoạt trong xử lí các nghiệp vụ và có kinh nghiệm trong công tác quản trị rủi ro như vậy mới hạn chế thấp nhất các rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Bên cạnh đó phẩm chất đạo đức cũng là một yếu tố rất quan trọng của các cán bộ tín dụng trong việc phục vụ nhu cầu của từng khách hàng và thực hiện công việc hiệu quả theo đúng các quy định đề ra. Tránh các hiện tượng quan liêu, chủ quan, hay cố tình làm sai dẫn tới suy giảm chất lượng của hoạt động tín dụng ngân hàng. + Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là nguồn thông tin mà ngân hàng có được trong quá trình thiết lập các mối quan hệ với khách hàng. Các thông tin này giúp cho ngân hàng hiểu đầy đủ về tình trạng của khách hàng qua đó có các quyết định đúng trong việc thực hiện cấp tín dụng, góp phần giúp cho ngân hàng chủ động trong việc đôn đốc thu nợ, phân loại chính xác các khoản nợ, đánh giá đúng các mức độ rủi ro và tiến hành các điều chỉnh kịp thời khi cần thiết. Việc không thu thập thông tin đầy đủ, kịp thời ảnh hưởng tới khả năng đánh giá về khách hàng đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến phát sinh các rủi ro trong hoạt động tín dụng và hạn chế khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Vì vậy, thông tin tín dụng mà ngân hàng có được càng đầy đủ, chính xác khả năng ngăn ngừa rủi ro càng lớn thì chất lượng tín dụng của ngân hàng càng cao. 2.2. Cơ sở thực tiễn: 2.2.1. Khái quát chung về tình hình ngân hàng nước ta trong thời gian gần đây: Năm 2007, cùng với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng đạt những kết quả khả quan và có những đóng góp quan trọng vào phát triển và lớn mạnh của nền kinh tế. Tính đến nay, hệ thống ngân hàng nước ta có 6 NHTM NN, 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 6 ngân hàng liên doanh, và 10 công ty thuê tài chính…Vốn pháp định của các NHTMNN và NHTMCP đã tăng vượt bậc, nhiều NHTMCP đã gần đạt mức vốn pháp định năm 2010. Tốc độ tăng tổng tài sản của các NHTM CP đã đạt trên 30%, lợi nhuận của các NHTM đạt cao hơn nhiều năm trước đó. Đặc biệt trong năm 2007 công nghệ thông tin của ngành ngân hàng phát triển mạnh mẽ nhiều loại hình dịch vụ ra đời… so với thời gian trước đây ngành ngân hàng đã có những bước phát triển vững mạnh. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, bên cạnh những thành công đã đạt được thì ngành ngân hàng hiện nay vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn đã thể hiện qua một số chỉ tiêu như sau: Tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng cao hơn nhiều năm trước ( tăng 37% so với năm 2006) vượt 80% so với kế hoạch. Đây là con số nới lên lượng cung tiền tệ tăng quá mức cần thiết của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong vấn đề này, có thể khẳng định là có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nguyên nhán khách quan là do năm 2007, lượng tiền ngoại tệ vào nhiều thông qua con đường FDI, FII và kiều hối chuyển về, xuất khẩu tăng… Nguyên nhân chủ quan phải thừa nhận chúng ta chưa chú trọng đúng mức việc thắt chật tiền tệ ngay từ đầu năm mà đôi khi lại áp dụng chính sách có phần nới lỏng như phát hành tiền ra quá mức để mua ngoại tệ, tăng dữ trữ ngoại tệ một cách ồ ạt 6 tháng đầu năm 2007. Nguồn huy động vốn năm 2007 qua hệ thống ngân hàng tăng 39,6% so với cuối năm 2006.(Trong đó, việc huy động tiền đồng tăng cao khoảng 45,6 %, huy động ngoại tệ chỉ tăng 22,5% so với năm 2006). Kết quả này khẳng định nền kinh tế nước ta không thiếu vốn vấn đề là hấp thụ và sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả. Bên cạnh hai chỉ tiêu trên, tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn tăng liên tục qua các năm (năm 2005 tăng 19%, năm 2006 tăng 24%năm năm 2007 tăng 37,8% ). Dư nợ cho vay theo các ngành kinh tế lên đến 1triệu tỷ đồng. Trước và sau Tết Nguyên Đán năm 2008 đã xảy ra tình trạng các ngân hàng khan hiếm tiền đồng để cho vay. Lãi suất huy động, lãi suất cho vay và đặc biệt là lãi suất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng tăng cao chưa từng thấy. Thông thường các lãi suất cho vay của ngân hàng bằng lãi suất huy động 12 tháng cộng với biên độ 0,3% - 0,5 % / tháng. Vừa qua mặt bằng lãi suất huy động của các ngân hàng đã được đẩy lên kịch trần 1%/tháng tăng khoảng 0,2%/tháng. Nhưng tốc độ tăng lãi suất cho vay còn nóng hơn từ 0,5 % - 0,7 %/tháng lên 1,5 % - 1,8%/tháng. Thậm chí 1 số ngân hàng còn đẩy mức lãi suất lên đến 2% tháng để hạn chế cho vay. Đáng chú ý là tăng trưởng tín dụng tập trung ở các lĩnh vức ẩn chứa rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản và cho vay tiêu dùng. Tăng trưởng tín dụng nóng đặc biêt là tín dụng tiêu dùng làm tăng tổng cầu kinh tế góp phần làm tăng giá cả gây sức ép lạm phát, tác động làm gia tăng nhập khẩu, tăng mức thâm hụt tài khoản vãng lai, gây tác động xấu đến nền kinh tế nước ta. 2.2.2. Kinh nghiễm thực tiễn của một số nước trên thế giới về nâng cao chất lượng tín dụng: a. Kinh nghiệm của Thái Lan: Hệ thống ngân hàng Thái Lan đã có bề dày hoạt động hàng trăm năm, nhưng đứng trước cơn khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997 – 1998 đã bị chao đảo. Nhiều công ty tài chính và ngân hàng thương mại bị phá sản hoặc buộc phải sáp nhập. Tình hình đó buộc các ngân hàng Thái Lan phải xem xét lại toàn bộ chính sách, cách thức, quy trình hoạt động ngân hàng, trong đó đặc biệt là lĩnh vực tín dụng, nhằm giảm thiểu rủi ro…Đi đôi với việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng và dịch vụ, xác định khách hàng, mục tiêu, chủ động tiếp thị khách hàng… một loạt thay đổi cơ bản đã được các ngân hàng Thái Lan triển khai nhanh chóng và triệt để. Dưới đây là một số nét đặc trưng đáng quan tâm của quá trình đó. Tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu trong quy trình giải quyết các khoản vay. Hoạt động ngân hàng bán lẻ là một xu hướng của các ngân hàng Thái Lan. Hoạt động này trong tín dụng càng phát triển thì sự tách bạch các bộ phận có liên quan trong quy trình tín dụng lại càng cần thiết. Tại Bangkok Bank, trước đây các bộ phận trong quy trình này gộp làm một, nay ngân hàng đã tách hẳn thành hai bộ phận độc lập với nhau: bộ phận tiếp nhậ, giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm định… Đây là một thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan trong quá trình thực thi công việc. - ngân hàng đã phân loại khách hàng theo từng nhóm khác nhau: khách hàng tiêu dung ( nhiều nhất). khách hàng kinh doanh, khách hàng cá nhân (giàu, nghèo). Từ đó, nhận rõ tính chất khác nhau làm cơ sỏ cho việc xác định nhiệm vụ cụ thể có những nét khác nhau cho từng bộ phận nói trên trong việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ, thẩm định và quyết định. Kasikorn Bank đã tổng kết quy trình cho vay cần được tuân thủ như sau: + Tiếp xúc khách hàng. + Phân tích tín dụng. + Thẩm định tín dụng. + Đánh giá rủi ro tín dụng. + Quyết định cho vay. + Thủ tục giấy tờ hợp đồng, giải ngân. + Đánh giá chất lượng, xem lại khoản vay. Cùng với quy trình tương tự, trong khâu phân tích tín dụng ( phân tích khoản vay), Siamcity Bank (SCIB) dựa trên phương pháp sau: + Phương pháp phân tích truyền thống: đánh giá doanh nghiệp dựa vào danh tiếng, mối quan hệ và tài sản đảm bảo. + Phương pháp 5Cs, Credit assessment: Tính cách (Character), năng lực trả nợ (Capacity), vốn (Capital), tài sản đảm bảo( Collateral), điều kiện (Conditions); phân tích SWƠT ( Streng – Weakness/ Opportunity – Threat) và dự báo dòng tiền, phân tích các chỉ số tài chính chủ yếu. Việc thẩm định tín dụng, SCIB đã chia nhóm thành 4 nhóm khách hàng: + Doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có nhu cầu về doanh số tín dụng > 50 triệu baht/ năm. + Doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn từ 5 – 50 triệu baht/năm.. + Tín dụng cá nhân la những khách hàng cá nhân có hưởng lương và chủ doanh nghiệp có nhu cầu vay dưới 5 triệu baht/năm, sử dụng sản phẩm tiêu dùng hoặc thẻ tín dụng dưới dạng các sản phẩm tín dụng tiêu chuẩn của SCIB. Trong cho vay khách hàng các nhân, tại Kasikorn Bank ( một ngân hàng có thế mạnh cho vay khách hàng cá nhân) đã áp dụng quy trình quyết định tự động: + Nhận đơn xin vay của khách hàng: Từ các kênh trực tiếp, thư, nhân viến tiếp thị, Internet, chi nhánh. + Xử lí kiểm tra dữ liệu: dữ liệu mới, cơ bản được nhập vào chương trình dữ liệu; kiểm tra hồ sơ hoàn thiện; kiểm tra thu thập dữ liệu; bảo đảm dữ liệu đầu vào đầy đủ; gọi người vay để kiểm tra xác nhận sự tồn tại thực của họ; kiểm tra thông qua cơ quan quản lí tín dụng của Chính phủ. + Ra quyết định tự động: Nhân viên phân tích xác nhận giới hạn tín dụng, phù hợp với chương trình chấm điểm và cho ý kiến về tài trợ. Tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề có tính nguyên tắc trong tín dụng. Tại Kasikorn Bank, trước đây chỉ quan tâm đến tàu sản thế chấp, không quan tâm đến dòng tiền của khách hàng vay, vì thế hậu quả tín dụng là nợ xấu có lúc đến 40% ( năm 1997 – 1999) ngân hàng tìm ra nguyên nhân đã không tuân thủ chặt nguyên tắc tín dụng trong quá trình cho vay. Giờ đây ngân hàng đã quan tâm và thực hiện triệt để các nguyên tắc tín dụng, đặc biệt là các thông tin về khách hàng. Cụ thể, là khi khách hàng đến vay vốn, tìm hiểu các thông tin về khách hàng: Tư cách của khách hàng vay, có tin tưởng họ được không ? ; hiệu quả kinh doanh của khách hàng, mục đích của các khoản vay ?; nguồn trả nợ ?; khả năng kiểm soát khoản vay, thực trạng tài chính của khách hàng …Để giải đáp câu hỏi trên, ngân hàng phải tiến hành phân tích tài chính, trong đó rất coi trọng đến vòng chu chuyển dòng tiền và vòng thu hồi vốn đầu tư của khách hàng. Việc phân tích tài chính phải kết hợp với nguyên nhân khách hàng vay, đánh giá được các phương diện: rủi ro ngành, rủi ro kinh doanh. Đối với các dự án, ngân hàng phải tiến hành dự báo rủi ro; khảo sát độ nhạy; dự báo dòng tiền của dự án. Về dự báo rủi ro, ngân hàng dự bo rủi ro trong tương lai và những rủi ro chính Về dự báo dòng tiền của dự án thông thường phải qua 3 bước: bước 1, tính lượng tiền của dự án; bước 2, các giả thiết định lượng; bước 3, xem xét toàn diện hoạt động của doanh nghiệp. Hiện nay, nhân viên tín dụng không còn coi tài sản thế chấp là số 1 như trước mà điều đáng quan tâm là “dòng tiền” gắn với cơ cấu món vay theo thời gian để xem doanh nghiệp có thể trả nợ đúng hạn hay không. Tài sản thế chấp vẫn phái được coi trọng, nhưng không coi đó là nguồn trả nợ, mà chỉ là nguồn xử lý khoản nợ khi không thể thu hồi được. Chấm điểm khách hàng. SCIB đã áp dụng việc cho điểm khách hàng (Credit Scoring), để quyết định cho vay đối với tín dụng bán lẻ và để xem xét cho vay đối với tín dụng doanh nghiệp. Hạng uy tín tín dụng được xếp loại theo các hạng từ AAA ( chất lượng cao, rủi ro thấp, khả năng trả nợ cao nhất) đến D( nguy cơ vỡ nợ). Trong đó, hạng có thể xem xét cho vay được xếp từ AAA+, AAA, AAA-, A+, BBB+, BBB, BBB-. Các hạng còn lại là: BB+,BB, BB-, C, D. Các hạng tín dụng này, áp dụng theo tiêu chuẩn S & P ( Standard and Poor). Tuân thủ thẩm quyền phán quyết tín dụng. - Kasikorn Bank quy định việc quyết định tín dụng theo mức tăng dần: mức phán quyết của một người, một nhóm người, Hội đồng quản trị: + > 10 tr baht -> 1 người chịu trách nhiệm. + 100 tr baht -> phải qua 2 người chịu trách nhiệm. + 3 tỷ baht -> phải do HĐQT ngân hàng quyết định. Những khoản vay trượt quá hạn mức quy định trên thì phải chuyển cho bộ phận t._. là đánh giá khách hàng dựa trên các chuẩn mực nhất định. Trong đó bao gồm đánh giá đối với khách hàng là tổ chức kinh tế ( doanh nghiệp), là cá nhân và các tổ chức tín dụng. Với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để phân loại nợ sẽ trợ giúp cho Chi nhánh trong việc kiểm soát danh mục tín dụng cũng như đánh giá khách hàng vay vốn một cách thống nhất. Do đó hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là một trong những trọng tâm để nâng cao chất lượng tín dụng. Đối với Việt Nam hiện nay có 4 mô hình quản lý rủi ro phổ biến mà Chi nhánh có thể áp dụng: - Mô hình chất lượng( đánh giá khách hàng dựa theo tiêu chuẩn 6 C đó là : C đó là tư cách người vay(character), năng lực( capital), thu nhập của người vay( cash), bảo đảm tiền vay ( collateral), các điều kiện ( conditions), kiểm soát (control). Đánh giá theo các tiêu chí riêng mà CBTD trong từng lĩnh vực sẽ thu thập thông tin một cách cụ thể. - . Mô hình xếp hạng của Moody’s và standard & Poor’s thực hiện đánh giá khả năng tài chính và khả năng thanh toán của một tổ chức đối với khảon tiền nghĩa vụ gốc và lãi của các công cụ nợ mà nó phát hành. Công cụ nợ bao gồm: công cụ ngắn hạn : hối phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi và công cụ dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. - Mô hình điểm số Z chấm điểm tín dụng theo công thức Altman xây dựng mô hình này đánh giá khách hàng theo các chỉ tiêu tài chính của khách hàng( áp dụng đối với các loại doanh nghiệp) theo công thức: Z” = 3,25 + 6,56X1+ 3,26X2+ 6,72X3+ 1,05X4. X1…X4 là các chỉ tiêu tài chính của khách hàng. Tùy theo điểm số khách hàng có được để xếp hạng từ: AAA đến C để đánh giá khách hàng đang ở trong tình trạng nào và giúp cho công ty và người đầu tư nhận định tình hình cơ bản về tình hình tài chính và khả năng thanh toán nợ của tổ chức phát hành các công cụ nợ. - Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng chấm điểm khách hàng dựa vào các chỉ tiêu phi tài chính như: hệ số tín dụng, trạng thái tài sản, sở hữu nhà, thu nhập, trình độ… .Việc xây dựng một trong các mô hình này sẽ gặp rất nhiều khó khăn do các yếu tố quản trị đòi hỏi làm gia tăng chi phí quản lý, thời gian thu thập thông tin và đánh giá khách hàng nhưng không thể phủ nhận những ưu điểm của các mô hình này mang lại trong quản trị rủi ro tín dụng bởi có sự bạch giữa bộ phận tiếp thị và bộ phận thẩm định giúp cho các quyết định chi vay mang tính khách quan hơn, cũng nhờ sự chuyên môn hóa sâu hơn theo chức năng mà việc thực hiện phân tích và phản biện tín dụng sâu sắc và chính xác hơn, giúp nhận dạng các rủi ro tiềm năng và có các biện pháp phòng ngừa thích hợp… Thêm vào đó, chính sự giám sát của bộ phận quản lý rủi ro đối với quan hệ khách hàng trong quá trình thực hiện các quyết định cấp tín dụng đã tạo nên cơ chế kiểm tra và giám sát liên tục, song song trong quá trình cho vay, phát hiện và giảm thiểu được những rủi ro sau khi cho vay mà cơ chế kiểm tra nội bộ của Chi nhánh hiện nay còn hạn chế. + Xây dựng môi trường tín + Xây dựng chính sách khách hàng hiệu quả: Chính sách quan hệ khách hàng thể hiện sự chú trọng của mỗi ngân hàng trong nỗ lực phát triển thị trường tín dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Việc xây dựng một chính sách khách hàng hiệu quả góp phần giúp Chi nhánh chủ động trong việc đáp ứng các nhu cầu của khách hàng đồng thời thiết lập mối quan hệ bền vững giữa Chi nhánh với khách hàng. - Cần sớm hoàn thiện và triển khai mô hình kinh doanh theo hướng khách hàng, thực hiện phân khúc thị trường để xác đinh cơ cấu thị trường hợp lý và khách hàng mục tiêu, phân nhóm những khách hàng theo tiêu chí phù hợp, từ đó giới thiệu sản phẩm, dịch vụ phù hợp đối với từng đối tượng khách hàng. - Xây dựng chiến lược khách hàng đúng đắn, ngân hàng và khách hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch khách hàng. Đối với những khách hàng này khi xây dựng chiến lược ngân hàng phải hết sức quan tâm, phải có chế độ chăm sóc ưu đãi khách hàng về lãi suất, và chính sách chăm sóc khách hàng cần thiết. Gắn hoạt động của chi nhánh với hoạt động của khách hàng. - Tăng cường chuyển tải thông tin thông tin tới khách hàng giúp khách hàng nắm được thông tin về Chi nhành và các dịch vụ mà chi nhánh đang cung cấp. * Tăng cường hoạt động huy động vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn giúp ngân hàng tự chủ nguồn vốn tạo điều kiện mở rộng quy mô tín dụng. Huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm và có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành các kế hoạch kinh doanh. Trong điều kiện thiếu vốn đặc biệt là những tháng đầu năm 2008 đã làm ảnh hưởng tới khả năng cung cấp vốn cho khách hàng có thể dẫn tới việc mất các khách hàng quen thuộc, cũng như các khách hàng có nhu cầu vốn lớn thời gian lâu dài. Chính vì vậy để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng công tác huy động vốn cũng là một trong những biện pháp cần có rất quan trọng và có chiến lược cụ thể. Vì vậy việc phải thực hiện tốt một số công việc sau: - Tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác huy động vốn, nhất là nguồn vốn trong dân cư. Có chính sách lãi suất linh hoạt kết hợp với các biện pháp khuyến mãi, ngoại giao có trọng điểm nhằm tiếp tục giữ được khách hàng cữ đồng thời thu hút thêm các khách hàng mới. Trong điều kiện đô thị hóa hiện nay, cần tập trung bám sát các dự án đến bù giải phóng mặt bằng để huy động vốn và tận thu nợ đã XLRR. - Bên cạnh hình thức tiết kiệm dự thưởng cần thực hiện các biện pháp huy động vốn đa dạng và linh hoạt hơn như tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm rút lãi và gốc linh hoạt, tiết kiệm kết hợp bảo hiểm. - Phát động phong trào thi đua huy động tiền gửi tiết kiệm. Tổ chức tuyên truyền, tiếp thị và xét thưởng kịp thời cho những tập thể cá nhân thực hiện kế hoạch huy động vốn đạt chỉ tiêu đề ra. Xây dựng đề án huy động vốn, khuyến khích cán bộ chủ động tìm kiếm nguồn vốn lớn từ nơi khác gửi về với thời hạn ổn định. - Tranh thủ thu hút vốn điều chuyển theo hệ thống và vốn tài trợ của các dự án tín dụng nông thôn của một số tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Thực tế, trong những năm qua việc thu hút vốn của các chi nhánh NHTM trên địa bàn là rất khó khăn không đủ nhu cầu mở rộng tín dụng. Vì vậy, các chi nhánh NHNo Thanh Trì cần tranh thủ vốn điều chuyển theo hệ thống. Bên cạnh đó, là tranh thủ nguồn vốn của các dự án tín dụng nông thôn do ADB, WB tài trợ. - Triển khai thực hiện tốt các hoạt động dịch vụ nhất là dịch vụ thanh toán để thu hút khách hàng quan hệ giao dịch và gửi tiền. Đây là một giải pháp rất hiệu quả so với giải pháp tăng lãi suất huy động để thu hút khách hàng. Đồng thời mở rộng và phát triển hơn nữa hình thức thanh toán thẻ tạo cho người dân thói quen sử dụng thẻ thanh toán. Qua đó, thu hút nguồn vốn tiền gửi lớn, với mức phí rẻ hơn rất nhiều so với các hình thức huy động khác. - Có thể thực hiện các biện pháp cần thiết như là phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các nghiệp vụ thị trường mở( Phát hành và mua lại các chứng từ có giá) cũng là một biện pháp hiệu quả nâng cao nguồn vốn huy động của Chi nhánh. - Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các điểm giao dịch, đảm bảo thu hút thêm khách hàng trên cơ sở nâng cao chất lượng phục vụ, cung cấp tiện ích và nâng cao chất lượng sản phẩm. - Tiến hành các biện pháp thích hợp quảng bá sản phẩm, thương hiệu, thực hiện tốt văn hóa doanh nghiệp… nhằm nâng cao uy tín của bản thân chi nhánh nói riêng và toàn hệ thống nói chung. *Tăng trưởng dư nợ và đẩy mạnh cho vay các dự án trung và dài hạn, mở rộng quy mô hoạt động tín dụng: Đối với hoạt động tín dụng của một ngân hàng thì dư nợ tín dụng cũng là một chỉ tiêu thể hiện hiệu quả hoạt động mà ngân hàng này đạt được. Quả vậy, dư nợ tín dụng tăng thể hiện quy mô tín dụng của ngân hàng được mở rộng, thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng thì lợi nhuận thu được càng cao đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện đa dạng hóa danh mục cho vay qua đó phân tán rủi ro, nâng cao chất lượng các hoạt động tín dụng. Với điều kiện dư thừa nguồn của Chi nhánh hiện nay, trong khi dư nợ còn thấp cho thấy chi nhánh có đủ điều kiện để mở rộng quy mô tín dụng. Trong đó tăng dư nợ tín dụng trung và dài hạn với tỷ lệ hợp lý sẽ góp phần giúp Chi nhánh tận dụng triệt để khả năng vốn có của mình. Để tăng dư nợ trung và dài hạn Chi nhánh phải có các chiến lược và phương hướng hành động cụ thể để không ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Chi nhánh. - Chi nhánh cần triển khai tuyên truyền quảng cáo hình ảnh của mình tới các khách hàng đặc biệt là đối với các doanh nghiệp lớn, tỷ trọng cho vay của doanh nghiệp lớn của chi nhánh còn rất thấp. Đối với cho vay các doanh nghiệp lớn thường có độ rủi ro thấp hơn so với cho vay các doanh nghiệp nhỏ. - Cần thực hiện đa dạng hóa các loại sản phẩm( cho vay tiêu dùng, cho vay mua sắm, cho vay du học…), với lãi suất cho vay hấp dẫn, linh hoạt về phương thức cho vay( đặc biệt là phương thức trả góp) và phương thức trả nợ vay( trả gốc và lãi từng kỳ; lãi trả từng tháng gốc trả từng quý…) phù hợp các nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của từng khách hàng. + Kiên quyết lấy dự án đầu tư làm căn cứ đầu tư: thực hiện giao chỉ tiêu kế hoạch về thu hút khách hàng mới, cho vay, thu nợ đối với từng cán bộ tín dụng. Ưu tiên đầu tư cho các dự án có hiệu quả của hộ nông dân, hộ SXKD cá thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cần đặc biệt thận trọng đối với cho vay các doanh nghiệp nhà nước thuộc diện cổ phần hóa, giao bán, khoán, cho thuê; các doanh nghiệp có tình hình tài chính không rõ ràng thương hiệu mờ nhạt và các dự án dài hạn của một số ngành có hiệu quả thấp, khả năng trả nợ không chắc chắn. + Đầu tư tín dụng tập trung chung vào mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội huyện. Phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương các ban ngành, đoàn thể, tổ chức để giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh đẩy mạnh công tác cho vay và thu nợ đạt hiệu quả cao. Chú ý cho vay đối với lĩnh vực SX nông nghiệp, nông thôn, làng ngề nhỏ, các DN nhỏ. + Công khai hóa cơ chế hoạt động: những thông tin về điều kiện vay vốn, hồ sơ vay vốn, lãi suất, giá mua bán ngoại tệ, phí dịch vụ… + Tạo điêu kiện cho người dân tham gia đóng góp ý kiến về chất lượng các dịch vụ cung cấp. - Thực hiện đơn giản hóa các thủ tục cho vay, nâng cao khả năng thẩm định khách hàng và các dự án, chú ý đến năng lực tài chính, uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận, quyền sở hữu tài sản, các điều kiện kinh tế và các yếu tố khác khi thẩm định vay vốn. * Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các loại sản phẩm, dịch vụ cung cấp: Dưới áp lực cạnh tranh găy gắt như hiện nay, một trong những giải pháp quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Chi nhánh đó là không ngừng đa dạng hóa và nâng cao chất lượng trong việc cung cấp các loại hình sản phẩm dịch vụ. Bởi vì, thứ nhất do sự tiện lợi của các sản phẩm này mang lại cho Chi nhánh và khách hàng góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Chi nhánh . Thứ hai, sự phát triển của các loại sản phẩm dịch vụ này thỏa mãn được nhu cầu sử dụng các loại sản phẩm của từng khách hàng đặc biệt là sản phẩm mang tính công nghệ cao qua đó thu hút được lượng khách hàng lớn sử dụng sản phẩm của chi nhánh góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh và hoạt động tín dụng phát triển. Đặc điểm về số lượng và chủng loại sản phẩm, dịch vụ của NHNo & PTNT chi nhánh Thanh Trì đó là: + Còn mang tính truyền thống, nghèo nàn về chủng loại, tính tiện ích chưa cao và chưa định hướng theo nhu cầu của khách hàng. + Kênh phân phối không đa dạng, phương thức giao dịch chủ yếu vẫn là giao dịch trực tiếp, dịch vụ ngân hàng công nghệ cao chưa được triển khai rộng rãi, lượng khách hàng sử dụng còn ít. Hậu quả là chất lượng dịch vụ chưa cao; thủ tục giao dịch chưa thực sự thuận tiện; thiếu bộ phận nghiên cứu, thiết kế sản phẩm và phát triển các dịch vụ ngân hàng cá nhân; và chưa khai thác hết tiềm lực sẵn có. Nhận thấy, địa bàn Thanh trì có nhu cầu rất lớn trong các loại hình sản phẩm, dịch vụ ngân hàng. Trong thời gian tới đây là một địa bàn thu hút đông đầu tư của các doanh nghiệp, tư nhân và các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, Chi nhánh cần phải có biện pháp nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ qua đó tạo lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trong cùng lĩnh vực hoạt động. Một số biện pháp thông dụng mà Chi nhánh có thể triển khai như sau: + Cung cấp đa dạng các loại tín dụng với sự đa dạng về phương thức, thời hạn cho vay trong đó chú trọng tới cho vay tiêu dùng( vay kinh doanh BĐS, cho vay kinh doanh chứng khoán..) và cho vay thuê mua.. đồng thời cần tìm kiếm và nhanh chóng hợp tác dịch vụ giữa chi nhánh với các nhà kinh doanh dịch vụ thương mại khác: như dịch vụ thẻ ATM hợp tác thanh toán với các nhà cung cấp dịch vụ điện, nước, bưu chính viễn thông…Thiết kế mô hình hợp tác trả góp với các nhà kinh doanh BĐS, nhà ở, ô tô, máy tính, thiết bị đắt tiền khác. Liên kết dịch vụ ngân hàng về du học với các nhà cung cấp dịch vụ du học, tín dụng với dịch vụ lao động xuất khẩu, tín dụng với dịch vụ kinh doanh chứng khoán. Các dịch vụ chuyển tiền, nghiệp vụ thanh toán quốc tế… để hình thành sản phẩm trọn gói cho một khách hàng hoặc một nhóm khách hàng qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh về mặt mạng lưới, khả năng tiếp cận, hiểu biết và chăm sóc khách hàng, nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng. Các hoạt động kinh doanh BĐS và kinh doanh chứng khoán mặc dù mang độ rủi ro cao, tuy nhiên không nên quá hạn chế không cho vay như hiện nay mà cần có sự đầu tư có trọng điểm, ưu tiên các dự án có hiệu quả bởi vì đây cũng là một lĩnh vực nhằm đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ và sinh lời cho Chi nhánh, không những thế đây cũng là một giải pháp góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. + Đẩy mạnh đầu tư và nghiên cứu, ứng dụng các công cụ thanh toán mới theo tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm tiền điện tử, thẻ thanh toán nội địa, thẻ thanh toán quốc tế, thẻ đa năng, thẻ thông minh và séc. Tập trung đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản, trước hết là tài khoản cá nhân với các thủ tục thuận lợi, an toàn và các tiện ích kèm theo, góp phần phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Ngoài các sản phẩm trên hiện nay trên thị trường còn xuất hiện một hình thức cấp tín dụng mới đó là nghiệp vụ Factoring hay còn gọi là nghiệp vụ Bao thanh toán. Nghiệp vụ bao thanh toán được định nghĩa "là một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa". Nghiệp vụ bao thanh toán là một hình thức mới đối với các NHTM ở Việt Nam nhưng lại có sự phát triển lâu dài, mạnh mẽ trên nhiều nước. Áp dụng nghiệp vụ bao thanh toán có thể là một hướng đi mới góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng No& PTNT trong xu thế hội nhập. * Giải pháp về phát triển công nghệ ngân hàng: Trong những năm gần đây, với tốc độ phát triển nhanh như hiện nay của công nghệ điện tử - tin học, đòi hỏi các ngân hàng cần phải tập trung đầu tư cho phát triển công nghệ để tạo lập cơ sở cần thiết cho phát triển các sản phẩm, dịch vụ hiện đại, thực thi có hiệu quả các định hướng mục tiêu phát triển của hệ thống ngân hàng, chủ động đối mặt với điều kiện khó khăn của quá trình hội nhập. Do đó, Chi nhánh NHNo & PTNT Thanh Trì cần lựa chọn các bước đi thích hợp, lựa chon công nghệ hợp lý, đúng hướng dảm bảo phù hợp với điều kiện của chi nhánh, vừa đảm bảo phù hợp với trình độ phát triển, và phải mang tính đột phá ( đi tắt đón đầu). Thực hiện tốt giải pháp này sẽ cho phép Chi nhánh đầu tư có hiệu quả, tăng cường khả năng quản trị, cho phép thực hiện các hoạt động được nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch. Mặt khác, tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống CNTT tạo điều kiện tốt nhất để khai thác tốt hệ thống thanh toán điện tử trong toàn bộ Chi nhánh. NHNo & PTNT Việt Nam luôn chú trọng đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng phục vụ đắc lực cho công tác quản trị kinh doanh và phát triển mạng lưới ngân hàng tiên tiến. Là một thành viên của NHNo& PTNT Việt Nam, Chi nhánh đã hoàn thành giai đoạn 1 dự án hiện đại hóa hệ thống thanh toán và và kế toán khách hàng( IPCAS) do ngân hàng thế giới tài trợ. Hiện tại, Chi nhánh Thanh Trì đã vi tính hóa hoạt động kinh doanh từ trụ sở chính đến các chi nhánh phu thuộc và các PGD ở địa phương. Đến nay, đã có đủ năng lực cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tiên tiến và tiện ích. Bên cạnh đó, thì hệ thống các dịch vụ hiện đại chưa thực sự được triển khai tại chi nhánh do nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân về trình độ công nghệ như: nền tảng công nghệ và khả năng ứng dụng công nghệ mới còn hạn chế, vấn đề bảo mật thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu là một trong những nguyên nhân chính đã làm hạn chế phát triển các hoạt động của ngân hàng. Hiện đại hóa hệ thống CNTT ngân hàng là một trong những chiến lược hành động quan trọng của Chi nhánh trong thời gian tới. Qua quá trình tìm hiểu về hiện đại hóa hệ thống ngân hàng tôi có đề xuất một số các giải pháp nâng cao về trình độ công nghệ của chi nhánh như sau: + Đẩy mạnh đầu tư hiện đại hóa công nghệ, ứng dụng hiệu quả nhiều công nghệ mới trong hoạt động quản lý và kinh doanh ngân hàng. Tích cực mở rộng các chi nhánh cấp 1,2 và các PGD trực thuộc với mô hình gọn nhẹ. Coi trọng xây dựng các chi nhánh ngân hàng bán lẻ ở địa phương, tiếp cận nhanh với hoạt động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ cao như các dịch vụ ngân hàng điện tử( hay còn gọi là e banking), phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến và triển khai mô hình giao dịch một cửa. + Đa dạng hóa các kênh phân phối và thực hiện phân phối có hiệu quả: - Tiếp tục triển khai rộng rãi các dịch vụ thanh toán điện tử và các hệ thống giao dịch điện tử, tự động. Tăng cường liên kết với các ngân hàng, TCTD khác để mở rộng khả năng sử dụng thẻ và phát huy tính năng của thẻ ATM, tiết kiệm chi phí và tạo thuận lợi cho khách hàng. Trong đó hình thức liên kết phát hành thẻ ATM trong thanh toán là mô hình có tính hiện đại và mang tính hiện quả cao cần được phát triển. - Song song với quá trình này Chi nhánh cần quan tâm xây dựng “hàng rào lửa” bảo mật dữ liệu đảm bảo an toàn tuyệt đối trong các hoạt động và trên hết là đảm bảo lợi ích khách hàng và cho chính Chi nhánh. - Bên cạnh đó Chi nhánh cần xây dựng quy trình giao dịch thuận tiện rất thu hút khách hàng và hệ thống quản lý hiện đại phù hợp với xu hướng phát triển chung. * Tăng cường bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên. Như đã đề cập ở trên, chất lượng của đội ngũ cán bộ công nhân viên (CBCNV) có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Nâng cao chất lượng của đội ngũ CBCNV là biện pháp tối ưu để phát huy tối đa tiềm lực sẵn có về vốn và công nghệ, nhằm tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng so với các đối thủ khác trên thị trường. Vì vậy, nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ CBCNV là nhiệm vụ mang tính chiến lược và cấp bách không chỉ đáp ứng cho nhu cầu hiện tại mà còn nhằm đáp ứng cho chiến lược phát triển lâu dài. Để công tác củng cố và phát triển nguồn nhân lực được thực hiện liên tục và nhất quán, ngân hàng cần phải xây dựng được một chiến lược về quản trị nguồn nhân lực và thiết lập cơ chế thực thi chiến lược đó một cách hiệu quả. Nội dung quan trọng nhất trong mỗi chiến lược phát triển bao gồm: + Xây dựng được hệ thống phương pháp luận và các công cụ, phương tiện đánh giá và tuyển dụng nhân viên minh bạch và khoa học. + Xây dựng cơ chế đãi ngộ minh bạch có tác dụng khuyến khích nhân tài giảm thiểu rủi ro. + Xây dựng chiến lược đào tạo và đào tạo lại nhân viên thường xuyên liên tục và cập nhật. + Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động của từng cán bộ tín dụng. Trong quá trình phát triển của chi nhánh Thanh Trì đã từng xảy ra một số vụ việc liên quan đến tư cách phẩm chất của cán bộ tín dụng (CBTD) gây thiệt hại không nhỏ về uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Càng cho thấy sự cần thiết phải quan tâm đến công tác bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của các CBTD. Bên cạnh đó không ngừng nâng cao bản lĩnh, trình độ chuyên môn nghiệp của CBTD và năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo ngân hàng. + Đối với đội ngũ lãnh đạo ngân hàng: Yêu cầu đầu tiên đối với người lãnh đạo đó chính là trình độ chuyên môn, khả năng quyết đoán và kinh nghiệm làm việc. Vì vậy, đội ngũ lãnh đạo ngân hàng cầm phải thường xuyên bồi dưỡng các kiến thức về kinh tế thi trường, về luật pháp và về nghệ thuật lãnh đạo. Người quản lý cần phải đặc biệt quan tâm đến xu thế mới phát triển trong lĩnh vực ngân hàng, hướng tới các dịch vụ, công cụ phái sinh và vấn đề gia tăng rủi ro thị trường các ngân hàng. Để nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo ngân hàng có thể thực hiện một số biện pháp cụ thể như sau: - Ngân hàng có thể tổ chức những khóa đào tạo riêng biệt cho cán bộ quản lý. Trong đó cần thường xuyên tổ chức các lớp trau dồi bồi dưỡng đạo đức cho đội ngũ cán bộ. - Thực hiện việc cử các cán bộ đi tham dự các buổi tham luận của các nhà quản trị nước ngoài, hoặc tham gia học tập các khóa học về quản lý, nghệ thuật lãnh đạo. - Tổ chức giao lưu hợp tác giữa các ngân hàng để tham gia học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. - Tổ chức các buổi thảo luận lấy ý kiến của các nhân viên trong ngành, trong ngân hàng về các CSTD, phương hướng thực hiện, phương thức lãnh đạo, công tác kiểm soát, kiểm tra chỗ nào đạt hay không đạt từ đó tiến hành các điều chỉnh cho hợp lý với điều kiện của ngân hàng. + Đối với cán bộ nghiệp vụ tín dụng: CBTD là người trực tiếp thực thi các hoạt động tín dụng cho nên trình độ của các nhân viên lại càng có ý nghĩa quan trọng. Một số giải pháp có thể thực hiện nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ CBTD như sau: - CBTD cũng cần được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nhằm thực thi có hiệu quả các chính sách của ngân hàng đề ra. Tổ chức các cuộc hội thảo về kỹ năng lắng nghe và phỏng vấn khách hàng để giúp cán bộ có những công cụ quý báu nhằm tăng cường khả năng đánh giá, thẩm định sâu sát với món vay hơn. + Nâng cao trình độ kỹ thuật về kinh tế trang trại, kiến thức về nông lâm ngư nghiệp về thị trường nông sản phẩm và các ngành dịch vụ ở địa phương để các nhân viên có những nhận xét, đánh giá đúng dự án SXKD. Từ đó đầu tư tín dụng với mức độ quản lý không thừa cho SXKD. + Nâng cao hiểu biết của CBTD về kiến thức pháp luật nhất là bộ luật dân sự, luật đất đai, luật phá sản và đặc biệt là luật ngân hàng để thực hiện xử lý công việc chặt chẽ không để khách hàng lợi dụng. + Tổ chức các cuộc thi sát hạch nhằm đánh giá trình độ CBTD để có chiến lược đào tạo hợp lý. + Định kỳ hay đột xuất phải thay đổi địa bàn phụ trách cho vay để phòng ngừa trường hợp thông đồng giữa cán bộ ngân hàng với khách hàng đảo nợ, tự ý gia hạn nợ, thu nợ, thu lãi nhưng không nộp vào ngân hàng hoặc nhờ khách hàng vay hộ hay vay ghi vào khế ước của khách hàng. + Coi trọng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ và bên ngoài là khâu hoạt động thường xuyên giúp ích cho ban lãnh đạo, các CBTD khắc phục những thiếu sót kịp thời. + Thực hiện công tác đánh giá giữa các cán bộ tín dụng với nhau qua đó để nâng cao tính cạnh tranh trong việc hoàn thành chỉ tiêu đề ra của các cán bộ tín dụng. Thông tin là yếu tố quyết định giúp cho chi nhánh ra các quyết định có hay không cấp tín dụng. Các thông tin từ phía khách hàng cung cấp nhiều khi lại thiếu đầy đủ, chính xác, do vậy cán bộ tín dụng không thể chỉ dựa vào luồng thông tin do khách hàng cung cấp trong dự án mà phải nắm bắt, xử lý các thông tin về mọi vấn đề liên quan đến phương án, dự án nhiều nguồn khác nhau. Mặt khác, tổ lưu trữ các thông tin về khách hàng, thông tin thị trường, thông tin công nghệ, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin chấm điểm và xếp hạng tín dụng khách hàng… dựa trên phần mềm tin học. Đây là căn cứ để đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn và nâng cao khả năng, tốc độ xử lý, ra quyết định cho vay và đầu tư. * Tăng cường công tác quản lí nợ và giải quyết nợ quá hạn. Công tác quản lý nợ và giải quyết nợ quá hạn góp phần lành mạnh hóa tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và phòng chống rủi ro. Thực trạng NQH của Chi nhánh hiện nay ở tỷ lệ khá thấp tuy nhiên Chi nhánh cũng cần có biện pháp nhằm duy trì tỷ lệ nợ quá hạn thuộc tỷ lệ hợp lý giảm bớt tốc độ gia tăng mạnh mẽ như thời gian qua. Bởi vậy, Chi nhánh cần có biện pháp tăng cường công tác quản lý nợ và thực hiện hiệu quả công tác xử lý nợ. - Tăng cường mối quan hệ giữa CBTD với khách hàng, thường xuyên, định kỳ kiểm tra hiệu quả của dự án mà khách hàng thực hiện để có các biện pháp xử lý kịp thời. - Khi khách hàng gặp rủi ro mà chưa cần mời đến cơ quan pháp luật xử lý. Ngân hàng tư vấn cho khách hàng đưa ra các biện pháp tháo gỡ dần khó khăn, chuyển hướng sản xuất, tích cực thu hồi nợ, tiết kiệm chi phí, giải quyết hàng tồn đọng. - Vận dụng xử lí phù hợp với khách hàng: có thể giảm nợ hoặc cho vay liên vụ, thêm thời hạn hoặc có thể hạ lãi suất, tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ. Cũng có thể cho vay thêm để khách hàng có điều kiện trả nợ ngân hàng. - Thực hiện việc trích lập rủi ro phù hợp với quy định của NHNN. - Hàng tháng cán bộ tín dụng phải tiến hành phân tích tình hình nợ quá hạn ở địa bàn phụ trách, từ đó có cách xử lí các với từng món nợ quá hạn. Phân kì trả nợ ngân hàng bám theo những kì đã định trước đó cán bộ tín dụng tiến hành đôn đốc khách hàng tập trung mọi nguồn thu nhập để thanh toán. + Các khoản nợ xấu cần được phân tích, đánh giá rõ trách nhiệm của cán bộ có liên quan. Tích cực đôn đốc các khoản nợ quá hạn, các khoản nợ đã điều chỉnh kì hạn trả nợ và các khoản nợ xấu khác.Tiếp tục giao nhiệm vụ thu hồi nợ xấu đến từng cán bộ tín dụng và coi đây là chỉ tiêu xét lương, thưởng. Phấn đấu hạn chế mức thấp nhất khả năng phát sinh nợ xấu, nợ phải xử lý rủi ro do nguyên nhân chủ quan. + Bố trí và điều động nhân sự phù hợp với khả năng và trình độ năng lực của mỗi người. Đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu công tác và sự phát triển của ngành. - Cần đẩy mạnh công tác kiểm toán nội bộ với mục tiêu quan trọng xây dựng được hệ thống tìm kiếm những xu hướng tiêu cực, bất ổn và thiếu sót trong hoạt động của chi nhánh để đưa ra biện pháp chấn chỉnh. Bên cạnh đó, hiện nay trên thế giới đã phổ biến một số hình thức xử lý các khoản nợ tiềm ẩn rủi ro, hay nợ xấu mà đã bắt đầu được triển khai áp dụng ở Việt Nam. Tuy các phương pháp này chưa thực sự phổ biến nhưng trong tương lai sẽ là các biện pháp rất hiệu quả trong công tác quản trị các khoản nợ đến hạn mà Chi nhánh có thể áp dụng: * Thực hiện mua bán nợ: Các khoản nợ được mua bán là các khoản nợ mà tổ chức tín dụng cho khách hàng vay đang hạch toán nôi bảng; hoặc các khoản mợ đã được trích lập dự phòng xử lí rủi ro. Một khoản nợ có thể mua bán một phần hay mua bán toàn vộ do các bên mua và bên bán thỏa thuận. Việc thực hiện mua bán nợ này giúp cho các ngân hàng điều chỉnh được cơ cấu các khoản nợ đồng thời giảm thiểu các rủi ro có thể phát sinh trong tương lai. * Ứng dụng công nghệ phái sinh vào hạn chế rủi ro tín dụng nâng cao khả năng quản trị nợ: Từ trước đến nay hệ thống ngân hàng nước ta chủ yếu sử dụng các biện pháp truyền thống để xử lí nợ xấu cũng như nợ tiềm ẩn rủi ro. Mặc dù vậy, trong tương lai ứng dụng các công nghệ phái sinh là một trong những hình thức giúp cho ngân hàng hạn chế được tổn thất từ các khoản nợ tiềm ẩn rủi ro có thể ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng. Ứng dụng công nghệ phái sinh trong quản lý rủi ro tín dụng là thực hiện chuyển giao rủi ro tín dụng từ một ngân hàng sang một đối tác khác bằng cách sử dụng các hợp đồng phái sinh tín dụng. Bao gồm các hình thức như: hoán đổi tổng thu nhập, hoán đổi tín dụng, hợp đồng quyền chọn tín dụng, hợp đồng quyền chọ trái phiếu và hợp đồng quyền chọn tương lai…). Đặc điểm chung của những công cụ quản lí này, chúng giữ nguyên tài sản có trên sổ sách kế toán của các tổ chức tín dụng khởi tạo ra tài sản đó, đồng thời chuyển giao một phần tài sản này sang đối tác khác thông qua đó ngân hàng có thể san sẻ rủi ro đồng thời giữ được mối quan hệ với các khách hàng của mình. PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. Qua nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT huyện Thanh Trì tôi có một số nhận xét như sau: Kết quả hoạt động tín dụng của chi nhánh trong thời gian qua đã đạt kết quả tốt trong đó nguồn vốn huy động, doanh số cho vay và doanh số thu nợ đều có mức tăng trưởng cao. Có được điều đó là nhờ những nỗ lực không ngừng của ban quản lý, và toàn thể cán bộ công nhân viên toàn chi nhánh nỗ lực phấn đấu. Trong thời gian tới chi nhánh cần hướng tới phát triển kinh doanh theo hướng khách hàng và nâng cao chất lượng các sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao. Đánh giá chung về chất lượng tín dụng có thể nhận thấy hoạt động tín dụng của Chi nhánh có hiệu quả cao đạt tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi thấp. Đánh giá cụ thể về chất lượng hoạt động tín dụng của chi nhánh thì hiệu suất sinh lời của một đồng doanh thu của chi nhánh còn thấp và có xu hướng giảm dần. chi phí hoạt động tín dụng gia tăng quá nhanh, chưa phát huy hết khả năng tiềm ẩn của Chi nhánh. Mặc dù chi nhánh có độ rủi ro thấp nhưng cũng đồng nghĩa với mức dư nợ của Chi nhánh còn thấp so với các đồi thủ cạnh tranh, cơ chế cho vay chưa thực sự thông thoáng, sản phẩm, dịch vụ còn mang nặng tính truyền thống và chưa có chính sách thu hút khách hàng triệt để. Từ thực trạng trên của Chi nhánh tôi có đề xuất một số ý kiến như sau: - Đối với Nhà Nước: Cần hoàn thiện chính sách thông thoáng tạo điều kiện cho cho các ngân hàng có cơ sở pháp lý hoạt động. - Đối với chi nhánh: + Cần phải xây dựng chính sách tín dụng hiệu quả, nhất quán phù hợp với điều kiện phát triển của địa phương. +Xây dựng chiến lược khách hàng triệt để nhằm thu hút được khách hàng sử dụng các dịch vụ của chi nhánh. + Triển khai hoàn thiện hệ thống CNTT và đan dạng hóa các sản phẩm dịch vụ cung cấp dựa trên nền tảng công nghệ cao. + Kết hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, nhằm thực hiện có hiệu quả CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn phát triển kinh tế địa phương. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36896.doc
Tài liệu liên quan