Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu lao động của Công ty Traenco

Lời mở đầu Sau thời gian học tập tại nhà trường, em được đi thực tập tại Công ty xây dựng và thương mại TRAENCO với biết bao sự hồi hộp lo lắng về môi trường mới. Thời gian thực tập không chỉ là cơ hội để cho em được thực hành gắn liền giữa lý thuyết và thực tiễn, mà còn giúp em hiểu rằng để làm người cán bộ cần phải có rất nhiều yếu tố không chỉ riêng lý thuyết học ở trường; qua gian thực tập cũng đã giúp cho em có nhận thức sâu sắc hơn về nền kinh tế của nước nhà. Sau gần 20 năm đổi mới ki

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu lao động của Công ty Traenco, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước. Nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập chung với nền kinh tế của thế giới nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu xã hội, đặc biệt nhu cầu về lao động và việc làm, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, cùng với sự bùng nổ dân số vấn đề về việc làm ngày càng có nhiều khó khăn hơn. Đứng trước tình hình thực tế này, Việt Nam đã đồng thời đón nhận và không ngừng tìm kiếm giải pháp tháo gỡ mọi khó khăn để phù hợp hơn với tình hình chung của trào lưu nền kinh tế toàn cầu hoá này. Thực trạng nền “ kinh tế mở ” đã mở ra nhiều hướng đi mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trong những năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế nước nhà, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh những mặt đạt được vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, thách thức và cũng mở ra nhiều cơ hội mới cho nền kinh tế. Vậy làm thế nào để đưa lĩnh vực xuất khẩu lao động lên tầm cao mới xứng đáng với vị trí và tầm quan trọng của nó. Trải qua thời gian thực tập và nghiên cứu, em luôn băn khoăn về vấn đề này và đã đi sâu nghiên cứu hơn nữa tông qua đề tài: “ Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu lao động của công ty Traenco” để viết thành luận văn tốt nghiệp của mình, mong được góp phần giúp cho hoạt động xuất khẩu lao động ngày được tốt hơn, có hiệu quả cao hơn. Cơ cấu của bài luận văn như sau: Phần I: Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu lao động Phần II: Thực trạng xuất khẩu lao động của Công ty Phần III: Những giải pháp và kiến nghị Qua đây em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các Thầy cô giáo - những người đã dìu dắt em trong suốt quãng đường học tập tại nhà trường; đặc biệt là Thầy giáo - PGS.TS Trần Ngọc Chương đã theo sát từng bước hướng dẫn, chỉ bảo cho em được hoàn thiện hơn trong suốt thời gian thực tập và viết luận văn . Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới tập thể CBCNV Công ty TRAENCO, đặc biệt là Chú Trần Văn Gia- người đã giúp em định hướng đề tài và tìm nguồn tài liệu để viết luận văn. Xin cảm ơn các bạn đã quan tâm góp ý kiến, động viên trong suốt thời gian thực tập và viết luận văn. Em xin chân thành cảm ơn! phần I Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu lao động I. Hàng hoá Sức lao động và thị trường hàng hoá sức lao động Hàng hoá sức lao động Khái niệm sức lao động Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người, nó được vận dụng và quá trình lao động sản xuất b) Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá Một là; người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng chi phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản thân con người có sức lao động đưa ra bán. Hai là; người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất không thể tự tiến hành lao động sản xuất. Chỉ có trong điều kiện ấy, người lao động mới buộc phải bán sức lao động của mình, vì không còn cách nào khác để sinh sống. 2. Thị trường hàng hoá sức lao động a) Khái niệm thị trường hàng hoá sức lao động (thị trường lao động) Thị trường hàng hoá sức lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị trường. ở đó diễn ra quá trình thoả thuận, trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên sử dụng và bên bán sức lao động. b) Phân loại thị trường lao động - Thị trường lao động trong nước là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong phạm vi biên giới của một quốc gia. - Thị trường lao động quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó lao động từ nước này có thể di chuyển từ nước này sang nước khác thông qua Hiệp định, các Thoả thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới. 3. Sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hoá sức lao động quốc tế. Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, cũng như sự phân bố không đồng đều về tài nguyên, dân cư, khoa học công nghệ giữa các vùng, khu vực và giữa các quốc gia, dẫn đến không một quốc gia nào lại có thể có đầy đủ, đồng bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế. Để giải quyết tình trạng bất cân đối trên, tất yếu sẽ dẫn đến việc các quốc gia phải tìm kiếm và sử dụng những nguồn lực từ bên ngoài để bù đắp một phần thiếu hụt các yếu tố cần thiết cho sản xuất và phát triển kinh tế của đất nước mình. Thông hường, các nước xuất khẩu lao động đều là những quốc gia kém hoặc đang phát triển, dân số đông, thiếu việc làm ở trong nước hoặc có thu nhập thấp, không đủ để đảm bảo cho cuộc sống của gia đình và cho chính bản thân người lao động. Nhằm khắc phục tình trạng khó khăn này, buộc các nước trên phải tìm kiếm việc làm cho người lao động của nước mình từ bên ngoài. Trong khi đó, ở những nước có nền kinh tế phát triển thường lại có ít dân, thậm chí có những nước đông dân nhưng vẫn không đủ nhân lực để đáp ứng nhu cầu sản xuất do nhiều nguyên nhân: Công việc nặng nhọc, nguy hiểm và độc hại… nên không hấp dẫn họ, dẫn tới thiếu hụt lao động cho sản xuất. Để có thể duy trì và phát triển sản xuất, bắt buộc các nước này phải đi thuê lao động từ các nước kém phát triển hơn, có nhiều lao động dôi dư và đang có khả năng cung ứng lao động làm thuê. Vậy là đã xuất hiện nhu cầu trao đổi giữa một bên là những quốc gia có nguồn lao động dôi dư với một bên là các nước có nhiều việc làm, cần thiết phải có đủ số lượng lao động để sản xuất. Do đó vô hình chung đã làm xuất hiện ( Cung - Cầu): Cung, đại diện cho bên có nguồn lao động, còn Cầu đại diện cho bên các nước có nhiều việc làm, đi thuê lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc đã hình thành lên một loại thị trường, đó là thị trường hàng hoá lao động quốc tế. Khi lao động được hai bên mang ra thoả thuận, trao đổi, thuê mướn, lúc này sức lao động trở thành một loại hàng hoá như những loại hàng hoá hữu hình bình thường khác. Như vậy, sức lao động cũng là một loại hàng hoá khi nó được đem ra trao đổi, mua bán, thuê mướn và khi đã là một loại hàng hoá thì hàng hoá sức lao động cũng phải tuân theo những quy luật khách quan của thị trường: Quy luật cung - cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh… như những loại hàng hoá hữu hình khác. Như đã phân tích ở trên, cho thấy: Để có thể hình thành thị trường lao động xuất khẩu trước hết phải xuất phát từ những nhu cầu trao đổi hoặc thuê mướn lao động giữa bên cho thuê lao động và bên đi thuê lao động. Thực chất, khi xuất hiện nhu cầu trao đổi, thuê mướn lao động giữa quốc gia này với quốc gia khác, là đã hình thành lên hai yếu tố cơ bản của thị trường, đó là cung và cầu về lao động. Như vậy là thị trường hàng hoá sức lao động quốc tế đã được hình thành từ đây. Trong điều kiện hội nhập phát triển đời sống kinh tế như hiện nay, quan hệ cung - cầu không còn bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, biên giới của một nước chỉ còn ý nghĩa hành chính, còn quan hệ này ngày càng diễn ra trên phạm vi quốc tế, mà trong đó bên Cung đóng vai trò là bên xuất khẩu và Cầu sẽ đại diện cho bên nhập khẩu lao động. 4. Xuất khẩu lao động. a) Khái niệm Xuất khẩu lao động: (Export of Labour), được hiểu như là công việc đưa người lao động từ nước sở tại đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn lao động. Lao động xuất khẩu: (Labour Export), là bản thân người lao động, có những độ tuổi khác nhau, sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau, đáp ứng được những yêu cầu của nước nhập khẩu lao động. Việc các nước đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo nghĩa rộng tức là tham gia vào quá trình di dân quốc tế và nó phải tuân theo hoặc là Hiệp định giữa hai quốc gia, hoặc là phải tuân theo Công ước quốc tế, hoặc thông lệ quốc tế, tùy theo từng trường hợp khác nhau mà nó nằm ở trong giới hạn nào. Như vậy, việc di chuyển lao động trong phạm vi toàn cầu bản thân nó cũng có những biến dạng khác nhau. Nó vừa mang ý nghĩa xuất khẩu lao động, vừa mang ý nghĩa của di chuyển lao động. Do đó, đã phát sinh ra nhiều vấn đề. b) Đặc điểm thị trường xuất khẩu lao động Khác với các ngành khác, kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao động không phải là đưa hàng hoá, tiền tệ ra nước ngoài kinh doanh mà thực chất là đưa người lao động ra nước ngoài nhằm giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Vì lý do khách quan thị trường lao động thế giới vẫn còn tồn tại trong một thời gian dài. Thị trường sức lao động thế giới có những biến động phức tạp do sự thay đổi cơ cấu của nền kinh tế thế giới, việc di chuyển vốn đầu tư và chính sách xuất - nhập khẩu sức lao động của các nước. Thị trường sức lao động thế giới là một loại thị trường hàng hoá đặc biệt - hàng hoá sức lao động. Đây là một loại hàng hoá mà khi sử dụng nó, người sử dụng không phải chỉ trả đúng giá cả của nó mà còn phải tôn trọng nhu cầu, nhân cách của con người. Đối với các nước công nghiệp như Mỹ, Nhật Bản, Canada, Tây âu...do việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế mới với sự gia tăng của các ngành sử dụng công nghệ cao và vốn đầu tư lớn cho nên nhu cầu về lao động giản đơn giảm xuống. Cơ cấu lao động của các ngành này có sự chuyển đổi cơ bản. Tỷ lệ lao động chất lượng cao tăng lên, tỷ lệ lao động giản đơn giảm xuống. Các nước này chỉ chú trọng nhập khẩu các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học cơ bản như tin học, y tế, giáo dục... Đối với Liên Bang Nga và các nước Đông Âu, do chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quan lý, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế thị trường, các nước này có hiện tượng dư dồi về lao động do đó nhu cầu về nhập khẩu lao động giảm xuống. Đối với các nước đang phát triển, do năng xuất lao động thấp, lực lượng lao động chưa được đào tạo chiếm tỷ trọng rất lớn do các nước công nghiệp giảm nhu cầu nập khẩu lao động cho nên các nước này sẽ chú trọng nhiều hơn đến hoạt động xuất khẩu lao động tại chỗ thông qua việc thu hút vốn và công nghệ nước ngoài. Các hình thức xuất khẩu lao động tại chỗ là thành lập các khu chế biến xuất khẩu, gia công thuê cho nước ngoài (gia công lắp giáp, may mặc, phần mềm…). Thành lập các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế như Du lịch, Tài chính - Ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn... Các nước thường xuất khẩu lao động với khối lượng lớn là Trung Quốc, Thái lan, Philipin, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Việt Nam và một số nước châu Phi. Đây là những nước có lao động dồi dào nhưng khả năng tạo công ăn việc làm trong nước khó khăn. Các nước nhập khẩu sức lao động chủ yếu là các nước ở Trung Đông và các nước Châu á ( Xin-ga-po, Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hông Kông). Theo số liệu của tổ chức lao động Quốc tế (ILO), thị trường khu vực Châu á Thái Bình Dương hàng năm cần hàng chục ngàn lao động từ các nước trong khu vực, các nước Trung Đông hàng năm tiếp cận khoảng 7- 8 triệu lao động. Đài Loan cần 11 vạn lao động, trong đó khoảng 9 vạn lao động công nghiệp còn lại là lao động trong xây dựng và dịch vụ. Hàn Quốc cần 6 vạn lao động, Li Băng cần khoảng 10 vạn. Các nước ASEAN cũng cần tới hàng chục vạn lao động nước ngoài hàng năm. II. sự cần thiết khách quan và vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam 1. Sự cần thiết khách quan phát triển hoạt động xuất khẩu lao động. Thực tế cho thấy, nước ta là một quốc gia đông dân khoảng hơn 80 triệu người. Theo số liệu thống kê năm 1998 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nước ta có khoảng 40 triệu người đang ở độ tuổi lao động, hàng năm tăng thêm 1,1 triệu lao động và hiện nay là 1,2 triệu lao động/năm, chiếm 3% trong tổng số lực lượng lao động. Riêng lao động kỹ thuật cao chúng ta có khoảng 5 triệu chiếm khoảng 12,5%, trong đó lao động có trình độ Đại học, Cao đẳng là 23% khoảng 1.150.000 người. Bên cạnh đó, hiện có khoảng 9,4 triệu lao động thiếu việc làm, chiếm 23,5% lực lượng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực đô thị đã giảm liên tục từ 10% năm 1991 xuống còn 5,88% năm 1996 nhưng đến năm 1998 tỷ lệ này lại nhích lên 6,85% và lại tiếp tục giảm nhẹ xuống còn 6,28% vào năm 2001. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn cũng có xu hướng tăng lên từ 72,1% năm 1996 lên 74,4% vào năm 2001. Với tình trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn giữa lao động và việc làm ngày càng trở nên gay gắt đối với nền kinh tế. Nếu không giải quyết một cách hài hoà và có những bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và xã hội sẽ dẫn tới mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã hội. Cùng với hướng giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một định hướng chiến lược tích cực quan trọng, lâu dài, cần phải được phát triển lên một tầm cao mới, phù hợp với vai trò của nó. Đó cũng là xu hướng chung mà nhiều nước xuất khẩu lao động đã quan tâm phát triển từ nhiều thập kỷ trước đây. Để giải quyết được vấn đề này, xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực cứu cánh cho bài toán giải quyết việc làm không những của Việt Nam mà còn đối với cả hầu hết các nước xuất khẩu lao động trong khu vực và trên thế giới, vì đây là lĩnh vực đạt được liền lúc cả hai mục tiêu kinh tế - xã hội: vừa đảm bảo mục tiêu giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh để phát triển kinh tế xã hội trong nước. 2. Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển Kinh tế - Xã hội của Việt Nam. Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, cần phải được xem xét, đánh giá các mặt hiệu quả tích cực mà xuất khẩu lao động đã mang lại. Một khi nhận thức đúng đắn về hiệu quả của xuất khẩu lao động, cùng với việc vạch ra các chỉ tiêu, xác định nó là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá hiện trạng và chỉ ra các phương hướng cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Thông thường, hiệu quả nói chung, thường được biểu hiện qua hiệu số giữa kết quả đạt được và chi phí. Tuy nhiên, trong nền kinh tế xã hội, mỗi kết quả thường có đồng thời cả hai mặt đó là mặt kinh tế và mặt xã hội. Hiệu quả kinh tế được tính theo công thức trên, còn hiệu quả xã hội lại được hiểu như những kết quả tích cực so với mục tiêu. Khi đánh giá về vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong những năm trước đây và hiện tại, không một ai có thể phủ nhận những gì mà xuất khẩu lao động Việt Nam đã đóng góp. Xuất khẩu lao động không những vừa đạt được mục tiêu về kinh tế, mà còn đạt được cả mục tiêu về xã hội. Về mục tiêu Kinh tế. Trong khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế chưa lâu, kinh tế nước ta còn gặp vô vàn những khó khăn, mọi nguồn lực còn eo hẹp, thì việc hàng năm chúng ta đưa hàng vạn lao động ra nước ngoài làm việc, đã mang về cho đất nước hàng tỷ USD/năm từ hoạt động xuất khẩu lao động. Đây quả là một số tiền không nhỏ đối với những quốc gia đang phát triển như chúng ta. Về mục tiêu xã hội. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định so với tiềm năng, song xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm qua, bước đầu đã đạt được những thành công nhất định về mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trước hàng loạt những khó khăn và gánh nặng thất nghiệp và thu nhập của người lao động trong nước, cùng với các biện pháp tìm kiếm và tạo công ăn, việc làm trong nước là chủ yếu thì xuất khẩu lao động đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng vạn lao động mỗi năm, đồng thời làm giảm sức ép về việc làm và tạo sự ổn định xã hội ở trong nước. III. Quy trình xuất khẩu lao động và các nhân tố ảnh hưởng tới việc xuất khẩu lao động. 1. Quy trình xuất khẩu lao động. Trong mỗi một giai đoạn, xuất khẩu lao động đều có một quy trình xuất khẩu riêng, phù hợp với tính chất của từng giai đoạn. Trong thời kỳ đầu (1980 - 1990), quy trình xuất khẩu lao động được thực hiện chủ yếu trêu cơ sở Hiệp Định được ký kết giữa hai Chính phủ, thoả thuận ngành với ngành. Cơ chế xuất khẩu lao động dựa trên mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức thực hiện đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp không trực tiếp tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng, đồng thời các công đoạn cũng ít phức tạp hơn… Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay quy trình xuất khẩu lao động Việt Nam đã có nhiều thay đổi, các doanh nghiệp phải tự vận động tìm kiếm và xúc tiến xuất khẩu lao động. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong việc đàm phán cấp cao chứ không đóng vai trò chủ đạo như trước kia. Do vậy, xuất khẩu lao động Việt Nam hiện tại chủ yếu được thực hiện theo các bước sau đây: Về phía Nhà nước. Nhà nước chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc hướng dẫn, tư vấn và đưa hợp tác lao động vào các chương trình làm việc, đàm phán cấp cao giữa hai chính phủ với các quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới có khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam. Về phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Chủ động tìm kiếm thị trường. Đàm phán ký thoả thuận (hợp đồng). Tuyển chọn lao động. Đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động. + Ngoại ngữ, kỷ luật lao động. + Phong tục, tập quán nước đến. + Nội dung hợp đồng. + Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động. Tổ chức khám tuyển. Đưa lao động đi. Quản lý lao động ở nước ngoài. Tiếp nhận lao động trở về và thanh lý hợp đồng. Tái xuất (nếu pháp luật của nước tiếp nhận cho phép và doanh nghiệp đó yêu cầu). 2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu lao động a) Vai trò của Nhà nước. Để có thể tồn tại và phát triển phù hợp với những xu hướng vận động của nề kinh tế thế giới và quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, xuất khẩu lao động càng phải nhận được sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo đặc biệt từ phía Nhà nước. Cho nên muốn hay không muốn thì vai trò của nhà nước trong bối cảnh hiện nay và kể cả trong tương lai vẫn đóng một vai trò quan trọng và cần thiết trong việc hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu lao động, nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp thiết trong tình hình mới. Thực tế đã chứng minh, càng ngày xuất khẩu lao động càng được các chuyên gia đưa vào hoạch định chính sách phát triển kinh tế, coi xuất khẩu lao động là một trong các ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng của đất nước trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nước mình. b) Công tác đào tạo cho lao động xuất khẩu. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu lao động cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là nhân tố quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển quy mô lao động trên thị trường lao động quốc tế. Qua thực tế, công ty nào nắm được nguồn lao động và nguồn lao động đó được đào tạo bài bản thì công ty đó sẽ giành được hợp đồng. Đào tạo để đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất, kinh doanh có công nghệ sản xuất tiên tiến trong hệ thống sản xuất linh hoạt; Đào tạo để tạo ra một môi truờng làm việc lành mạnh cho lao động xuất khẩu; Đào tạo nhằm giảm thiểu tối đa những rủi ro mà người lao động dễ gặp phải như: tai nạn nghề nghiệp, kém hiểu biết về công việc...; Cần coi đào tạo là đầu tư ban đầu không tính lợi nhuận. c) Thị trường lao động quốc tế. Những thập kỉ gần đây, sự liên kết và vốn đã diễn ra mạnh mẽ cùng với việc quốc tế hoá thị trường lao động. Theo đánh giá của tổ chức lao động quốc tế (ILO) số lượng những người di cư lao động trong thời gian sống ngoài biên giới nước mình đã lên tới 120 triệu người (khoảng 60 nước cung ứng lao động). ở một số nước một loạt ngành kinh tế quốc dân phụ thuộc vào việc nhập khẩu công nhân nước ngoài. Như ở Pháp, công nhân nước ngoài chiếm 25% trong tổng số công nhân xây dựng và 33% trong ngành chế tạo ô tô. ở Bỉ 50% lao động ngành mỏ là công nhân nước ngoài. Thuỵ Sĩ, công nhân nước ngoài chiếm 40% tổng số công nhân xây dựng. Những khu vực chủ yếu có sức thu hút lao động nước ngoài tập trung chủ yếu ở các nước phát triển (khoảng 1/3 ở châu Âu, 20% ở Bấc Mĩ,15% châu Phi,12% ở các nước ả Rập tất cả các nước khu vực Đông Bắc á, Đông và Nam á, Trung và Nam Mĩ cộng lại chưa đến 10%). Mặc dù Việt Nam đã nắm bắt được sự vận động của thị trường lao động quốc tế nhưng đến nay, nếu so với các nước xuất khẩu lao động khác ở châu á như Trung Quốc, ấn Độ, Thái Lan, Philippin, Inđônêsia thì cơ cấu và quy mô thị trường của ta còn rất khiêm tốn về số lượng và thị trường, ngành nghề ít đa dạng. Trung bình mỗi năm ta chỉ đưa được khoảng trên 30.000 lao động.Trong khi đó Philippin hiện có khoảng 7,5 triệu lao động và mỗi năm thu về khoảng 6 - 8 tỷ USD, Inđônêsia từ 1999 - 2000 đưa được 809.972 lao động trung bình mỗi năm thu 4,67 tỷ USD. ấn độ mỗi năm đưa trên 50.000 lao động (30% là lập trình viên vào Mĩ ) thu về cho đất nước gần 11 tỷ USD ( theo nguồn từ Cục Quản lí lao động với nước ngoài). Trong xu thế toàn cầu hoá tự do luân chuyển lao động, sự xuất hiện và phát triển các ngành nghề mới dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng mở cửa cho lao động nước ngoài của các nước nhập khẩu lao động và chủ trương khuyến khích lao động đi ra nước ngoài làm việc của nhiều nước trên thế giới đã khiến cho thị trường lao động quốc tế trở lên sôi động. phần II: Thực trạng xuất khẩu lao động của công ty traenco I. đặc điểm, tình hình chung của doanh nghiệp 1. Quá trình thành lập và phát triển Công ty xây dựng và thương mại TRAENCO được thành lập ngày 23/2/1991, với tiền thân là đào tạo và sản xuất Giao thông vận tải trực thuộc trường kỹ thuật và nghiệp vụ Giao thông vận tải, sau đó đổi tên thành xí nghiệp thi công cơ giới công trình giao thông và thành lập doanh nghiệp Nhà nước theo nghị định 338/CP của Chính Phủ tại Quyết định số 694QĐ/ TCCB - LĐ ngày 13/4/1993 của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải. Ngày 13/9/1996, đổi tên thành Công ty xây dựng và dịch vụ tổng hợp và chuyển về trực thuộc Bộ giao thông vận tải tại quyết định số 2422QĐ/ TCCB - LĐ của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải. Tiếp theo, ngày 24/6/1998 Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải ra quyết định số1561/1998/ QĐ - TCCB - LĐ đổi tên “ Công ty xây dựng và thương mại tổng hợp” thành “ Công ty xây dựng và thương mại”, tên tiếng anh là: Transport Engineering Contruction and Trading Corporation, tên viết tắt là: TRAENCO. Công ty có các chức năng hoạt động sau: - Xây dựng công trình giao thông - Sản xuất vật liệu xây dựng, cấu kiện bê tông đúc sẵn - Xây dựng công trình dân dụng và dịch vụ về nhà khách - Xuất nhập khẩu vật tư, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, thiết bị trang trí nội ngoại thất, hàng tiêu dùng - Xuất khẩu lao động - Lắp ráp xe gắn máy hai bánh, sửa chữa, tân trang máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, dịch vụ hàng hoá. - Bóc đất đá, san lấp mặt bằng, xây dựng cong trình thuỷ lợi. - Kinh doanh than. - Đại lý hàng hải. 2. Đặc điểm quản lý và tổ chức sản xuất của công ty. 2.1 Về tổ chức bộ máy quản lý a) Ban Giám đốc Công ty Đứng đầu là Tổng Giám Đốc, người chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước cơ quan chủ quản trực tiếp về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức, đời sống cán bộ công nhân viên và các hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước đã ban hành, có trách nhiệm điều hành sản xuất kinh doanh có lãi, bảo toàn và phát triển nguồn vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp. Bảo đảm việc làm thường xuyên cho người lao động, ổn định thu nhập cho người lao động trong Công ty. Tổng Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty, chỉ đạo và chịu trách nhiệm toàn bộ mọi hoạt động của công ty trước pháp luật Nhà nước. Các Phó Tổng Giám đốc giúp Tổng Giám đốc trong điều hành sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm trước Tổng Giám đốc và pháp luật những công việc được Tổng Giám đốc giao phụ trách và uỷ quyền, thực hiện đúng quyền hạn và trách nhiệm được phân công. b) Phòng Kế hoạch - Kỹ thuật - Có nhiệm vụ xây dựng và quản lý kinh tế kế hoạch trong toàn Công ty, có trách nhiệm tham mưu cho Tổng Giám đốc về kế hoạch sản xuất kinh doanh từng tháng, quí, năm; quản lý các văn bản pháp qui về sản xuất kinh doanh của Công ty. - Tham mưu công tác mở rộng địa bàn hoạt động, ngành nghề sản xuất kinh doanh, về đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ, về đầu tư máy móc thiết bị. - Có trách nhiệm soạn thảo và kiểm tra nội dung hợp đồng kinh tế, các biên bản thanh lý hợp đồng ... giữa Công ty với khách hàng theo đúng pháp luật hiện hành. - Tổng hợp, thống kê, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh thường kỳ và đột xuất cho Tổng Giám đốc và các cơ quan có liên quan. - Quản lý các hồ sơ kỹ thuật (công trình, máy móc, thiết bị ... ) trong toàn Công ty. - Kiểm tra đánh giá các hồ sơ kỹ thuật trình Ban Giám đốc. - Lập và chỉ đạo các biện pháp xử lý các tình huống kỹ thuật phát sinh trong quá trình sản xuất của các đơn vị trong Công ty. - Lập và chỉ đạo các biện pháp xử lý tình trạng máy móc, thiết bị do công ty quản lý. - Lập và chỉ đạo các định mức vật tư, kỹ thuật cho các máy móc thiết bị do Công ty quản lý các định mức, chi phí sản xuất kinh doanh. - Quản lý các mặt hoạt động sau: Xây dựng Công trình giao thông, thuỷ lợi, dân dụng, công nghiệp, sản xuất cấu kiện bê tông đúc sẵn, sản xuất vật liệu xây dựng, bóc đất đá san lấp mặt bằng. - Kiểm tra hướng dẫn và chỉ đạo nghiệp vụ cho các đơn vị thành viên Công ty. - Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Tổng Giám đốc. c) Phòng Dự án - Phòng Dự án có chức năng tham mưu giúp việc Tổng Giám đốc thống nhất quản lý và điều hành công tác khai thác tìm kiếm việc làm trong phạm vi toàn Công ty; quản lý các dự án đầu tư của Công ty. - Quản lý hệ thống các văn bản pháp quy của Nhà nước, các văn bản quản lý của Ngành, địa phương và của Công ty có liên quan để phục vụ cho công tác đấu thầu công trình. - Quản lý và xử lý thông tin về các dự án đầu tư của Nhà nước, các ngành, các địa phương và các tổ chức khác có liên quan đến các lĩnh vực kinh doanh của Công ty ( từ bước lập kế hoạch đầu tư, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư ) để báo cáo Tổng Giám đốc. - Phối hợp với các phòng ban đơn vị có liên quan giúp viêc cho Tổng Giám đốc trong quá trình lập kế hoạch đấu thầu và tham gia tổ chức đấu thầu các dự án đầu tư. - Tham mưu cho Tổng Giám đốc về cơ chế tìm việc làm của Công ty nhằm nâng cao hiệu quả công tác này, khuyến khích cho mọi người trong và ngoài Công ty cùng tham gia tìm việc làm về cho Công ty. - Quản lý các mặt hoạt động: Dịch vụ nhà khách và môi giới, kinh doanh bất động sản. - Kiểm tra, hướng dẫn và chỉ đạo nghiệp vụ cho các đơn vị thành viên Công ty. -Thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Tổng Giám đốc. d) Phòng kế toán tài vụ - Giúp Tổng Giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán thống kê của Công ty và có nhiệm vụ, quyền hạn theo qui định của pháp luật. - Ghi chép tính toán phản ánh số liệu hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản vật tư, tiền vốn, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng kinh phí của Công ty và các đơn vị thành viên. - Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, kế hoạch thu chi tài chính, kiểm tra việc sử dụng và giữ gìn các loại tài sản, vật tư, tiền vốn, phát hiện và ngăn chặn kịp thời mọi hành vi tham ô, lãng phí, vi phạm chính sách chế độ quản lý kinh tế tài chính Nhà nước. - Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Kiểm tra và phân tích hoạt động kinh tế, tài chính phục vụ cho công tác thống kê và thông tin kinh tế. - Lập kế hoạch, dự án huy động vốn đầu tư, vốn lưu động, cân đối nhu cầu vốn. Tổ chức huy động vốn thiếu, điều chỉnh vốn thừa để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. e) Phòng tổ chức lao động - Tiền lương - Tham mưu tổ chức thực hiện các hợp đồng lao động, tổ chức thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước và của Công ty đối với Người lao động. - Tham mưu và tổ chức thực hiện các quyết định về tổ chức, cán bộ trong công ty. Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với người lao động tiền lương. Duy trì trật tự kỷ cương lao động đối với CBCNV. - Thực hiện các quy định của nhà nước và Công ty về công tác quản trị hành chính trong công ty: quản lý đất đai, trụ sở, thiết bị văn phòng, sử dụng dấu ... - Quản lý các mặt hoạt động: Đào tạo Ngoại ngữ, dạy nghề và giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Bổ túc nâng cao trình độ kỹ năng nghề, bồi dưỡng nghiệp vụ cho người lao động. Liên kết với các trường đào tạo cấp cao hơn phục vụ xuất khẩu lao động và du học nước ngoài. Kinh doanh lữ hành nội địa và quốc tế. f) Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu - Tham mưu cho Tổng Giám đốc trong quản lý điều hành hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, xuất khẩu lao động, quản lý đoàn ra, đoàn vào trong phạm vi Công ty. - Tổng hợp các thông tin về các chính sách điều hành, quản lý Nhà nước trong lĩnh vực XNK, XK lao động; giúp việc cho Tổng Giám đốc kiểm soát hoạt động nghiệp vụ của các đơn vị thành viên làm công tác XNK, XK lao động. - Tham mưu về chính sách quản lý, hướng phát triển thị trường và giải quyết các công việc cụ thể trong lĩnh vực kinh doanh XNK, XK lao động. - Quản lý các mặt hoạt động: XNK vật tư máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, sửa chữa tân trang máy móc thiết bị, phương tiện vận tải. Dịch vụ vận tải hàng hoá. XNK thiết bị trang trí nội thất, hàng tiêu dùng. Xuất khẩu lao động. Lắp ráp đóng mới xe gắn máy, xe ô tô các loại. Sản xuất kinh doanh phụ tùng ô tô xe gắn máy; kinh doanh than; dịch vụ hàng hải; kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ; gốm sứ; nông thuỷ sản; các sản phẩm hóa chất, thuốc diệt muỗi, côn trùng; liên doanh gia công sản xuất hàng dệt may. - Kiểm tra, hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ cho các đơn vị thành viên Công ty. - Thực hiện các nhiệm vụ cụ thể khác do Tổng Giám đốc phân công. 2. Các đơn vị trực thuộc: * Các đơn vị thành viên trực thuộc Công ty ( gồm: các chi nhánh, xí nghiệp, trung tâm, đội công trình, văn phòng đại diện, ban điều hành dự án, Ban chỉ huy công trình ... ) - Là những đơn vị trực tiếp thực hiện nhiệm vụ XSKD do công ty và đơn vị đề ra. - Các đơn vị thành viên thực hiện nhiệm vụ theo đúng hướng dẫn cụ thể của các phòng ban chức năng trong Công ty. Đảm bảo kinh doanh đúng pháp luật, có lãi, bảo đảm việc làm thhường xuyên cho người lao động và đảm bảo thu nhập chính đáng của người lao động. - Hàng năm Công t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28687.doc
Tài liệu liên quan