Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại tỉnh miền núi Cao Bằng

LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế - chính trị - xã hội. Đảng và Nhà Nước đã hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong do có chính sách về BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước trong từng thời kì. Chính sách BHXH từ chỗ chỉ thực hiện BHXH bắt buộc cho những người lao động làm công ăn lương cho đến nay đã thực hiện BHYT tự nguyện, dần tiến đến thực hiện BHXH tự nguyện cho mọi người dân trong xã hội. Việc sáp nhập BHYT vào BHXH đã

doc148 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1195 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại tỉnh miền núi Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm cho số đối tượng tham gia tăng lên nhanh chóng,chính vì vậy việc quản lý đối tượng tham gia BHXH, BHYT là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và phức tạp. Để thực hiện được cần có một hệ thống công cụ quản lý đồng bộ, từ khâu quản lý đối tượng đăng ký tham gia BHXH, quản lý theo dõi trong suốt quá trình thu nộp BHXH đến việc giải quyết và chi trả quyền lợi BHXH cho các đối tượng tham gia có đủ điều kiện hưởng BHXH. Từ những đòi hỏi bức bách trên cần phải có một chiến lược tổng thể trong việc xây dựng chính sách BHXH thích hợp nhằm mở rộng phạm vi đối tượng tham gia BHXH đến mọi người dân, khắc phục những hạn chế trong quản lý đối tượng tham gia BHXH, từng bước đảm bảo sự bình đẳng trong phạm vi toàn xã hội. Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, là công việc có ý nghĩa quyết định đến chất lượng hoạt động, đến sự chính xác trong thu chi Quỹ BHXH, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các đối tượng tham gia BHXH. Vì vậy chúng ta cần phải có những biện pháp để quản lý đối tượng tham gia một cách phù hợp nhất nhằm đưa Bảo hiểm xã hội Việt Nam phát triển lên một tầm cao hơn hướng tới mục tiêu BHXH toàn dân. Qua thời gian thực tập tại cơ quan BHXH Tỉnh Cao Bằng em nhận thấy công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH được thực hiện khá tốt, tuy nhiên vẫn còn có những vướng mắc nhất định. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội tại tỉnh miền núi Cao Bằng”. Mục đích của đề tài là nghiên cứu, xem xét đánh giá quá trình thực hiện công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại cơ quan Bảo hiểm xã hội Tỉnh Cao Bằng. Từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện BHXH nói chung và trong công tác quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội nói riêng. Để phục vụ mục đích đó, chuyên đề được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương I: Một số vấn đề lý luận về BHXH và Quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm Xã hội. Chương II: Thực trạng quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm Xã hội ở tỉnh miền núi Cao Bằng. Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác Quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm Xã hội. Trong quá trình viết chuyên đề và luận văn do còn hạn chế về lý luận và thực tiễn nên không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, đặc biệt là của Giáo viên hướng dẫn: Th.s Tô Thị Thiên Hương. Trong thời gian thực tập tại cơ quan BHXH tỉnh Cao Bằng em đã được sự tạo điều kiện thuận lợi của Ban giám đốc BHXH tỉnh Cao Bằng; sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú và các anh, chị trong cơ quan để có thể hoàn thành chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên: Lâm Thị Minh Hồng NỘI DUNG Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHXH VÀ QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH 1. Sự cần thiết khách quan của BHXH. BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm và cho đến nay đã được triển khai ở tất cả các nước trên thế giới. Đó là cơ chế bảo vệ hiệu quả nhất đối với những người lao động và nó được coi là quốc sách hàng đầu của mỗi quốc gia, không ai có thể phủ nhận được vai trò của BHXH. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm hoàn toàn thống nhất về BHXH. Với những cách tiếp cận khác nhau ta lại có những khái niệm khác nhau về BHXH. Nhưng suy cho cùng thì mục đích của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng trong xã hội. Sau đây là một trong những khái niệm phản ánh khá rõ nét về mục tiêu, bản chất, chức năng của BHXH: “BHXH là quá trình tổ chức sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được dồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước nhằm đảm bảo thay thế hoạc bù đắp một phần thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiêt yếu của người lao động và gia đình họ khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoạc mất thu nhập theo người lao động”, ở Việt Nam ta hiện nay đang tiến tới thực hiện BHXH toàn dân do đó khái niệm mà Bảo hiểm xã hội Việt Nam đưa ra là: BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà Nước ta, thể hiện tinh thần nhân đạo và nhân văn cao cả…. Như vậy, khái niệm BHXH dù thể hiện dưới hình thức nào cũng vẫn phải toát lên được vai trò, ý nghĩa to lớn của BHXH đối với người lao động nói riêng và xã hội nói chung. Đối với người lao động: Khi những rủi ro ốm đau,thai sản,tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, già yếu rồi chết…xảy ra đối với người lao động thì sẽ gây cho họ những khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần, gây ra mất hoặc giảm thu nhập từ đó gây ra những ảnh hưởng lớn không chỉ cho chính anh ta, gia đình anh ta mà còn cho cả cộng đồng xã hội loài người.Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế - xã hội của Nhà Nước, BHXH sẽ góp phần trợ giúp cho những người lao động gặp rủi ro, bất hạnh, khắc phục những khó khăn bằng cách tạo cho họ những thu nhập thay thế, tạo cho họ những điều kiện thuận lợi…giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm trong công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng công việc cho xí nghiệp, cơ quan họ đang làm nói riêng và cho toàn bộ xã hội nói chung. Đối với xã hội: Trước tiên, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ do đó giá trị của những sản phẩm dịch vụ này cũng được tính trực tiếp vào tổng sản phẩm xã hội. Thứ hai, với tư cách là một chính sách kinh tế - xã hội của Nhà Nước bằng việc thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động đã tác động đến chính sách tiêu dùng của quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội. Thứ ba, với tư cách là một quỹ tiền tệ, BHXH tác động mạnh mẽ tới hệ thống tài chính Ngân sách Nhà Nước, tới hệ thống tín dụng Ngân hàng. Do vậy đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH phải tự bảo tồn và phát triển Quỹ BHXH bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có hình thức đầu tư phần nhàn rỗi của Quỹ BHXH. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển kinh tế của đất nước, góp phần tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, việc làm mới, góp phần quan trọng trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, từ đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp. Thứ tư, BHXH góp phần vào thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH, sự phân phối lại thu nhập này được tiến hành qua hai cách: phân phối lại theo chiều ngang giữa những người khoẻ và người già, người đang làm việc và người đã về nghỉ hưu, giữa nam và nữ, người đang hưởng trợ cấp và người chưa được hưởng trợ cấp; phân phối lại theo chiều dọc là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế - xã hội, giữa người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp. BHXH không bao hàm ý phân phối bình quân, cũng không hàm ý lấy của người giàu chia cho người nghèo. Ý tưởng của BHXH là nhiễu điều phủ lấy giá gương, là đoàn kết tương trợ phát huy tính tự thân, sống hoà nhập có tình nghĩa giữa các nhóm trong cùng cộng đồng với nhau. Trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, mà cũng có những lúc gặp phải rủi ro bất ngờ làm cho con người bị giảm hoặc mất thu nhập, hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn như bất ngờ bị ốm đau, tai nạn, mất người nuôi dưỡng, hoặc khi tuổi già khả năng lao động khả năng tự phục vụ đều bị suy giảm. Khi có những biến cố này xảy ra, các nhu cầu của cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại còn tăng lên, phát sinh thêm các nhu cầu mới…Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết như dựa vào sự giúp đỡ của họ hàng và người thân; đi vay; đi xin…nhưng những cách này đều rất thụ động, không chắc chắn, chưa phải là những biện pháp tối ưu. Từ khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, xuất hiện việc thuê mướn nhân công, những người làm công phải sống dựa hoàn toàn vào tiền lương, do vậy khi gặp rủi ro bất ngờ như ốm đau, tai nạn…thì người lao động sẽ bị giảm hoặc mất đi một phần thu nhập của mình. Chính vì vậy họ đã đấu tranh đòi giới chủ phải cam kết đảm bảo một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi họ gặp phải những rủi ro bất ngờ đó. Trong thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra nên người chủ không phải chi ra một đồng tiền nào, nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập buộc người chủ phải bỏ ra những khoản tiền lớn mà họ không muốn, vì thế giới thợ đã phải liên kết với nhau để đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện những cam kết. cuộc tranh chấp này diễn ra ngày càng rộng lớn và tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Dần dần trong cơ chế thị trường đã xuất hiện một bên thứ ba đóng vai trò trung gian giúp thực hiện cam kết giữa giới chủ và giới thợ bằng việc hình thành một quỹ tiền tệ tập trung do cả giới chủ và giới thợ đóng góp, Nhà Nước hỗ trợ khi cần thiết. Khi người lao động bị ốm đau, tai nạn thì cứ theo cam kết chi trả không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay không. Làm như thế một mặt giới chủ đỡ bị thiệt hại về kinh tế do không phải cùng một lúc chi trả những khoản tiền lớn, mặt khác người lao động làm thuê được bảo đảm chắc chắn một phần thu nhập khi bị rủi ro bất ngờ. Như vậy qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của chủ và thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cùng với trình độ chuyên môn nhận biết về BHXH của người lao động ngày càng được nâng cao, cách chủ động khắc phục khi không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi BHXH ra đời thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả. Vậy sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết khi tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một trong những quyền lợi của con người mà trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng liên hợp quốc đã nêu: “ Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. 2. Bản chất và chức năng của BHXH 2.1 Bản chất: BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời và phát triển. Vì vậy các nhà kinh tế cho rằng sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, hoàn thiện, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa nghĩa vụ trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH bao gồm 3 bên: Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. Đối với các quốc gia BHXH được triển khai một cách rộng rãi thì bên tham gia BHXH là tất cả mọi người dân trong xã hội. Bên BHXH đó là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan, công ty…) do Nhà nước lập ra, ở một số nước phát triển thì có thể do tư nhân lập ra, nhận sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động (các đối tượng tham gia BHXH ) tạo thành Quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho Quỹ BHXH tăng trưởng và phát triển. Bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và thân nhân của họ theo quy định của pháp luật, bên được BHXH được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh các nhu cầu BHXH để bù đắp thiếu hụt về thu nhập. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong kinh tế thị trường bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (chẳng hạn như người lao động). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí để bảo hiểm cho chính họ. BHXH là sự đền bù hậu quả của những “rủi ro xã hội”. Sự đền bù này được thực hiện thông qua việc tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Như vậy BHXH cũng chính là quá trình phân phối lại thu nhập xét trên phạm vi toàn xã hội, thực hiện BHXH chính là thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho các đối tượng tham gia BHXH và gia đình họ. Chúng ta cần phải xem xét BHXH Dưới các góc độ khác nhau để thấy rõ hơn bản chất của nó: Dưới giác độ pháp lý: BHXH là một loại chế độ pháp định nhằm bảo vệ người lao động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự tài trợ của Nhà nước trợ cấp cho các trường hợp người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập theo các quy định của pháp luật. Dưới góc độ kinh tế, bản chất của BHXH chính là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH. Dưới góc độ chính trị, bản chất của BHXH là sự liên kết của những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của họ. Dưới góc độ xã hội, BHXH là một chính sách xã hội nhằm bảo đảm đời sống cho các thành viên trong xã hội khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động, ổn định trật tự xã hội. Tóm lại, chính sách BHXH gắn liền với một thể chế chính trị nhất định và phải dựa trên nền tảng kinh tế cụ thể. Một đất nước muốn có hệ thống BHXH hoạt động hiệu quả thì phải có một nền kinh tế đủ mạnh và một nền chính trị tiến bộ ổn định. Vì vậy việc tổ chức và vận hành một hệ thống BHXH phải dựa trên quan điểm toàn diện, tổng thể. BHXH xuất phát từ lợi ích của mỗi người và cũng vì mục đích chung của cả cộng đồng. Hiểu được bản chất của BHXH sẽ thấy được vai trò và tác dụng to lớn của nó. Chính vì lẽ đó quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội càng phải chặt chẽ để bản chất của BHXH bộc lộ rõ nét, có thể thực hiện được các chức năng của BHXH. 2.2 Chức năng: Cũng như các thành phần khác của kinh tế bảo hiểm, BHXH có hai chức năng cơ bản là chức năng phân phối và giám đốc. * Chức năng phân phối: Chức năng này được thể hiện thông qua việc phân phối lại một phần thu nhập của xã hội cho các thành viên của mình. Đối với người lao động khi có nhu cầu bảo hiểm thì sẽ được bù đắp từ phần đóng góp của mình qua hình thức phân phối trực tiếp từ quỹ BHXH. Đối với người sử dụng lao động, các cơ quan, đơn vị, chức năng này mang tính gián tiếp, có tác dụng góp phần đảm bảo sự ổn định đội ngũ lao động, nguồn nhân lực mà các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đang sử dụng. Điều này góp phần làm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Đây cũng là một sự đầu tư cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của chính bản thân cơ quan đơn vị này. * Chức năng giám đốc: BHXH là một ngành thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội, chức năng giám đốc của BHXH được thể hiện rõ nét trong việc kiểm soát, giám sát việc tham gia vào BHXH để đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động theo những quy định của pháp luật. Qua đó tạo điều kiện để người lao động yên tâm làm việc còn người sử dụng lao động chủ động hơn trong việc quản lý sử dụng lao động trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên do tính đặc thù của BHXH đó là: BHXH không những có tính kinh tế mà còn có tính xã hội rất cao. Vì vậy về tổng quát BHXH có những chức năng sau: Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động được bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm theo những điều kiện nhất định. Đây là chức năng cơ bản nhất, mang tính đặc thù của BHXH. Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Không phải tất cả những người tham gia đóng góp vào Quỹ BHXH đều sẽ được hưởng trợ cấp BHXH mà chỉ những người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập trong những trường hợp xác định và có đủ các điều kiện cần thiết mới được hưởng trợ cấp từ Quỹ BHXH. Số lượng người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp vào quỹ. Như vậy BHXH đã lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang giữa những người lao động có thu nhập cao hơn và thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc và khái quát hơn là giữa số đông những người đóng góp vào Quỹ BHXH với số ít người hưởng trợ cấp theo những chế độ xác định. Điều đó cũng góp phần vào thực hiện công bằng xã hội. Khuyến khích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất, ngày càng tạo ra nhiều của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội. Người lao động khi khoẻ mạnh làm việc bình thường sẽ có tiền lương, tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hoặc không may bị chết đã có BHXH bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan trọng đó đời sống của bản thân và gia đình họ luôn luôn có chỗ dựa, luôn luôn được đảm bảo. Chính vì thế họ sẽ gắn bó với công việc và nơi làm việc, yên tâm tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động. Nói cách khác tiền lương và BHXH là những động lực thúc đẩy hoạt động lao động. Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động với xã hội. BHXH đã phát huy tiềm năng của số đông và ưu điểm của nhiều phương thức hoạt động trong kinh tế thị trường để bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động cũng như cho xã hội. Đồng thời BHXH cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ về lợi ích, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của các bên tham gia BHXH. Vấn đề cần thiết nhất ở đây là phải làm sao cho chức năng của BHXH được thực hiện một cách đầy đủ. Do vậy, yếu tố quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đóng một vai trò quan trọng đặc biệt là trong cơ chế thị trường như hiện nay. 3. Quan điểm về BHXH Khi thực hiện BHXH, các nước đều phải lựa chọn hình thức các chế độ sao cho thỏa mãn, phù hợp với tập quán, khả năng và định hướng phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Đồng thời cũng phải nhận thức rõ những quan điểm cơ bản về BHXH sau: 3.1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng nhất trong chính sách xã hội: với mục đích cơ bản là đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động bị giảm hoặc mất khả năng thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước, là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội. Thực chất đây là một trong những loại chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn về xã hội. Bảo hiểm xã hội còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực, sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia, thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH nó sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 3.2. Nhà nước và Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ, trách nhiệm BHXH cho người lao động, đồng thời người lao động cũng phải tự BHXH cho mình. Đây là mối quan hệ 3 bên trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước. Chính vì vậy khi trong xã hội xuất hiện BHXH - một dạng bảo đảm xã hội cho người lao động và gia đình họ thì Nhà nước phải có trách nhiệm tổ chức và tham gia vào hoạt động đó. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến thì còn phải chăm lo tay nghề và đời sống của người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả công thoả đáng cho họ, khi họ gặp phải rủi ro bị ốm đau, tai nạn lao động thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy thì người lao động mới yên tâm tích cực lao động sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp. 3.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp. Có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội có tham gia BHXH đều được hưởng BHXH khi gặp rủi ro, bởi quyền được BHXH là biểu hiện cụ thể của quyền con người. 3.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố sau: Tình trạng sức khoẻ thương tật của người lao động. Mức đóng góp và thời gian đóng góp vào Quỹ BHXH Thời gian công tác và ngành nghề công tác của người lao động Tiền lương lúc đang đi làm. Tuổi thọ bình quân của người lao động. Điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. 3.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH. Hệ thống BHXH của mỗi nước bao gồm nhiều bộ phận cấu thành. Để BHXH hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải đảm bảo tính thống nhất giữa các bộ phận. Đồng thời cũng phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể linh hoạt trong hoạt động. Vì BHXH là một bộ phận của chính sách xã hội nên nó vừa là nhân tố ổn định vừa là nhân tố phát triển kinh tế xã hội cho nên vai trò của Nhà nước ở đây là rất quan trọng. Để quản lý Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp. 4. Quỹ BHXH 4.1. Khái niệm: Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập chung để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị mất việc làm. Như vậy, quỹ BHXH vừa là một quỹ tiêu dùng, vừa là một quỹ dự phòng. Quỹ tiêu dùng thể hiện ở mục đích chi của quỹ BHXH là cho những người hưởng BHXH, là một quỹ dự phòng thể hiện quỹ BHXH chỉ chi trả trợ cấp khi có rủi ro xảy ra và người lao động có thể được hưởng trợ cấp ở một thời điểm rất xa so với thời điểm đóng góp. Đồng thời quỹ BHXH còn mang tính chất kinh tế và mang tính chất xã hội cao, là điều kiện và cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. 4.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH là một yếu tố mang tính chất sống còn đối với chính sách BHXH do đó nguồn hình thành quỹ bao giờ cũng được quan tâm đúng mức nhằm đảm bảo việc chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH và đảm bảo cho hệ thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả. 4.2.1 Sự đóng góp của người lao động Người tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ mới được hưởng chế độ chợ cấp BHXH người lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH để bảo hiểm cho mình, vừa làm nghĩa vụ cao đẹp với cộng đồng. Thực chất ở đây người lao động đã dàn trải rủi ro theo thời gian. 4.2.2 Sự đóng góp của người sử dụng lao động Người sử dụng lao động góp cho quỹ BHXH để bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê muớn. Sự đóng góp này thể hiện trách nhiệm của họ đối với người lao động. Ở đây người sử dụng lao động đã san sẻ rủi ro cho nhau để khi rủi ro xảy ra đối với người lao động thì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để bồi thường. Vì vậy quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng khi người lao động có nhu cầu BHXH. 4.2.3 Nhà nước đồng và hỗ trợ Sự tham gia của Nhà nước thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với các thành viên trong xã hội.Trong hệ thống BHXH Nhà nước có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp. Sự tham gia của Nhà nước ở đây chủ yếu dưới hình thức bảo đảm giá trị đồng vốn cho quỹ, đồng thời Nhà nước có thể hỗ trợ trực tiếp cho quỹ trong trường hợp như bù lỗ những khoản thiếu hụt... 4.2.4 Các nguồn khác. Bao gồm các nguồn chủ yếu sau: Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu tư nhằm bảo tồn và phát triển quỹ BHXH. Các nguồn tài trợ, viện trợ khác ở trong nước và cộng đồng quốc tế, kể cả tổ chức phi chính phủ hoặc các cá nhân hảo tâm… Tuy nhiên nguồn này không ổn định và không nhiều. Nguồn thu khác: Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian quy định, tiền try thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ BHXH được hưởng thụ. Thông thường sự đóng góp của 3 bên: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước tạo ra nguồn quỹ cơ bản nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã qua nhiều lần sửa đổi và bổ sung. NĐ12/CP (26/01/1995) đã quy định: Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập tập trung ngoài ngân sách hình thành từ 3 nguồn: - Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia bảo hiểm trong đơn vị; - Người lao động đóng bằng 5% tiền lương hàng tháng; - Ngân sách Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để bảo đảm thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động. Nguyên tắc hoạt động của quỹ là cân đối thu chi. 4.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết rủi ro cho người tham gia, đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ, giảm tối thiểu kinh tế thiệt hại cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình. Theo kiến nghị của Tổ chức lao động quốc tế ILO thì quỹ BHXH được sử dụng để chi trả cho các chế độ sau: - Chăm sóc y tế. - Trợ cấp ốm đau. - Trợ cấp thất nghiệp. - Trợ cấp tuổi già. - Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. - Trợ cấp gia đình. - Trợ cấp thai sản. - Trợ cấp tàn tật. - Trợ cấp tử tuất (trợ cấp cho người còn sống). Ở Việt Nam theo Nghị định 12/NĐ- CP ban hành ngày 26/01/1995 kèm theo điều lệ về BHXH và Nghị định 01/ 2003/ NĐ- CP ngày 09/01/2003 sửa đổi bổ sung một số điều của NĐ 12/CP, quỹ BHXH được dùng để chi trả trợ cấp cho 5 chế độ: Trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp hưu trí, trợ cấp tử tuất. Sau khi có Quyết định số 20/2002/QĐ - TTg ngày 24/ 01/ 2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc sáp nhập BHYT vào BHXH thì ngoài chi cho các chế độ trên còn chi cho các đối tượng tham gia BHYT (bắt buộc và tự nguyện). Bên cạnh đó quỹ BHXH được trích một phần cho chi phí quản lý. Hiện nay Chính phủ quy định các cơ quan BHXH được sử dụng 6% tổng thu BHXH để trang trải các chi phí quản lý. Ngoài ra quỹ BHXH còn dành một phần để chi cho hoạt động đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH. 5. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của BHXH trên thế giới và ở Việt Nam. 5.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của BHXH trên thế giới. Khi xã hội ngày càng phát triển con người đối mặt với những tiến bộ của ngành công nghiệp hoá, một tầng lớp lao động mới ra đời. Đó là tầng lớp lao động làm công ăn lương, lấy tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Khi tiền lương giảm sút hoặc không còn là do những nguyên nhân như bị ốm đau, TNLĐ. Trước những rủi ro như trên, bản thân từng người phải chống đỡ chật vật nhất là những người có thu nhập thấp thì càng khó khăn. Mặt khác, truyền thống nhân ái đã sẵn có đang khơi dậy tình đoàn kết tương trợ giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa những người lao động làm công ăn lương với nhau. Tuy nhiên những người làm công khi gặp rủi ro thì người sử dụng lao động cũng đã bị thiệt hại về vật chất và do đó dẫn đến việc phải tìm người thay thế để đảm bảo sản xuất vận hành bình thường hoặc do đã mất dần những lao động thành thạo tay nghề hoặc do phải chăm sóc người làm công bị tai nạn. Chính vì vậy, Bảo hiểm xã hội có từ lâu và thực sự trở thành hoạt động mang tính xã hội đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm được hình thành ở Anh vào năm 1819 với tên gọi là “Luật nhà máy" và tập trung vào bảo hiểm cho lao động làm việc trong các xưởng thợ. Vào năm 1883 ra đời “Luật bảo hiểm ốm đau”; Năm 1884 xuất hiện tiếp chế độ bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp (TNLĐ-BNN) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý; Và “Luật bảo hiểm cho người già và tàn tật do lao động" được hình thành năm 1889 . Như vậy, từ năm 1883 đến năm 1889, một hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời ở Đức với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương theo nguyên tắc người được bảo hiểm phải đóng phí BHXH và là thành viên xã hội: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều có vị trí trong việc quản lý hệ thống. Tiếp theo nước Cộng hoà Liên bang Đức là một loạt các nước Châu Âu và các nước khác, năm 1930 BHXH đã xuất hiện ở Châu Mỹ La Tinh, nước Mỹ và Canada. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và sau ngày độc lập, rất nhiều nước ở Châu Phi, Châu Á và vùng Caribê cũng đã xây dựng cho mình một hệ thống BHXH. Trong một điều của Bộ luật Mỹ năm 1935, khái niệm BHXH được sử dụng chính thức đầu tiên. Khái niệm này lại được tái xuất hiện vào năm 1938 trong một đạo luật của Tây Ban Nha. Năm 1944, khái niệm này được sử dụng trong một tài liệu chiến tranh có tên là “Hiến chương Đại Tây Dơng” và khái niệm này đã được tổ chức lao động quốc tế ILO chấp nhận. Từ đó rất nhiều nước đã sử dụng khái niệm này. Và đến nay Bảo hiểm xã hội đã trở nên phổ biến và trở thành bộ phận quan trọng trong hoạt động của Liên hợp quốc . Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948 có ghi “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng Bảo hiểm xã hội. Quyền đó đặt trên cơ sở thoả mãn các quyền về kinh tế xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. Để thể chế hoá tinh thần đó, tổ chức lao động quốc tế ILO đã thông qua công ước 102, quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của Bảo hiểm xã hội và những khuyến nghị các nước thành viên về thực hiện các tiêu chuẩn này. Dựa trên công ước đó một số nước đã triển khai thực hiện BHXH, mới đầu chỉ thực hiện từng phần với một số chế độ, sau đó tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu thực tế phát sinh mà mở thêm các chế độ BHXH khác…Chính vì vậy mỗi nước có điều kiện khác nhau sẽ có các chế độ BHXH khác nhau, không nước nào có thể ngay từ đầu thực hiện tất cả các chế độ BHXH. Ở nhiều nước hiện nay các nguồn thu về Bảo hiểm xã hội chiếm đến 10% GDP và chi cho các chế độ Bảo hiểm xã hội chiếm tỷ trọng đến 60%-70% tổng chi cho các hoạt động bảo đảm ._.xã hội của toàn quốc gia. Do vậy Bảo hiểm xã hội được coi là có vị trí quan trọng nhất trong Bảo đảm xã hội ở các nước trên thế giới. 5.2. Quá trình thực hiện BHXH ở Việt Nam. BHXH là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được thực hiện ở nước ta ngay từ những ngày đầu tư thành lập nước. Ngày 1/11/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 54/SL quy định điều kiện cho công chức, viên chức Nhà nước hưởng chế độ hưu trí. Từ đó đến nay, chính sách BHXH không ngừng được sửa đổi, bổ sung phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước. Có thể khái quát là từ năm 1994 trở về trước BHXH nước ta thực hiện đối với cán bộ công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước và những người phục vụ trong lực lượng vũ trang; kinh phí chi các chế độ BHXH chủ yếu là do Ngân sách Nhà nước đảm bảo, phần do các cơ quan đơn vị đóng góp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Về tổ chức bộ máy quản lý hoạt động BHXH do các Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, cùng Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam quản lý thực hiện. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, thực hiện đường lối đổi mới nền kinh tế, hầu hết các chính sách đều được thay đổi, trong đó có chính sách BHXH, BHYT. Ngày 30/6/1994 Quốc hội thông qua Bộ Luật Lao động trong đó có quy định về BHXH. Có thể nói đây là điểm mốc đánh dấu sự đổi mới của chính sách pháp luật BHXH ở nước ta phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH theo cơ chế mới, ngày 16/2/1995 chính phủ ban hành Nghị định 19/CP thành lập BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc chính phủ trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống Lao động - Thương binh và xã hội, và liên đoàn lao động, với chức năng, nhiệm vụ chính là giải quyết chế độ chính sách, tổ chức thu chi BHXH, bảo toàn đầu tư và tăng trưởng quỹ. Đến tháng 1 năm 2002 thực hiện tiến trình cải cách bộ máy của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có quyết định số 20/2002/QĐ- TTg chuyển BHYT Việt Nam trực thuộc Bộ Y Tế sang BHXH Việt Nam, và ngày 6/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ- CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Như vậy, từ thời điểm này, ngoài việc đảm bảo các chế độ BHXH cho người lao động, BHXH Việt Nam còn được giao thêm nhiệm vụ quản lý thực hiện chế độ BHYT cho cán bộ, công chức và các đối tượng khác trong xã hội. Căn cứ vào những đổi mới của chính sách và chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao, 10 năm qua hoạt động của BHXH Việt Nam luôn hướng vào các mục tiêu chủ yếu sau đây: Một là: Từng bước mở rộng, tăng nhanh số đối tượng tham gia và thụ hưởng BHXH, BHYT ở mọi thành phần kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phấn đấu thực hiện các mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và IX đề ra trong lĩnh vực BHXH, BHYT là “từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân” và “đổi mới cơ chế, chính sách viện phí, tiến tới BHYT toàn dân” Hai là: Đảm bảo cho mọi người được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc tham gia và thụ hưởng BHXH, BHYT. Từng bước cải thiện lương hưu, các chế độ trợ cấp BHXH và quyền lợi BHYT cho đối tượng. Ba là: Tổ chức thu BHXH, BHYT hình thành Quỹ BHXH tập trung thống nhất, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước; đảm bảo chi trả các chế độ BHXH, BHYT kịp thời, đúng chế độ, đúng đối tượng; quản lý chặt chẽ và sử dụng quỹ có hiệu quả; thực hiện đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Bốn là: Vừa thực hiện nhiệm vụ vừa xây dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy chuyên trách của nghành. Không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ chính trị, ý thức trách nhiệm phục vụ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngành BHXH. Đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hoá phương tiện làm việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tăng và hoà nhập nhanh với các nước trong khu vực và trên thế giới về lĩnh vực BHXH, BHYT. Đặt các mục tiêu trên làm đích phấn đấu, trong 10 năm qua, BHXH Việt Nam đã đạt được các kết quả và thành tích chủ yếu sau: Giải quyết kịp thời, đúng chế độ chính sách cho người lao động và các đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Ngay từ khi thành lập, mọi vấn đề về tổ chức, cán bộ, cơ sở vật chất của ngành còn rất thiếu thốn. Nhưng với trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân; cán bộ công nhân viên chức trong ngành đã nhận thức được muốn thực hiện tốt và có hiệu quả chính sách BHXH, BHYT theo cơ chế mới đòi hỏi phải làm thật tốt công tác giải quyết chế độ chính sách khi người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ theo quy định theo quy định của pháp luật. Làm tốt công tác này một mặt đảm bảo quyền lợi tạo niềm tin cho hàng triệu người đang tham gia và sẽ tham gia BHXH, BHYT; mặt khác đảm bảo quản lý quỹ chặt chẽ theo đúng quy định của pháp luật. Tóm lại, cùng với quá trình hoàn thiện đổi mới chính sách BHXH đối với người lao động, công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng trở thành một yếu tố trọng tâm đáp ứng những đòi hỏi bức thiết của người lao động cũng như xã hội. Hoàn thiện công tác này cũng chính là hoàn thiện chính sách BHXH đối với mọi người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế của đất nước. II. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH. 1. Đối tượng tham gia BHXH. Theo quyết định số 20/2002/QĐ- TTg ngày 24/01/2002 của Thủ tướng chính phủ về việc chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Như vậy thì sau khi các đối tượng tham gia BHXH bao gồm cả các đối tượng tham gia BHYT, và có thể gọi chung là đối tượng tham gia BHXH. * Đối tượng tham gia BHXH: Đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: đó là những người lao động và người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia đóng góp vào Quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là họ thường nằm trong khu vực có tổ chức tốt và ổn định; các yếu tố liên quan đến người lao động như việc làm, điều kiện làm việc, thu nhập nhìn chung là ổn định rõ ràng và tương đối chính xác cho phép cơ quan BHXH xác định được mức đóng góp và mức trợ cấp hợp lý đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài của Quỹ BHXH; các thông tin về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thường sẵn có được tổ chức có hệ thống và dễ thu thập, giúp cơ quan BHXH tổ chức thực hiện tốt việc quản lý đối tượng. Ở Việt Nam theo nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ thì đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: - Người lao động làm việc cho các doanh nghiệp Nhà Nước. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tưư nước ngoài, các khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. - Người lao động làm việc trong doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc Lực lượng vũ trang - Người giữ chức vụ dân cử, dân bầu làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà Nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện - Công chức viên chức Nhà Nước làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện. (Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc). - Quân nhân, sỹ quan theo quy định tại Điều lệ BHXH đối với lực lượng vũ trang nhân dân ban hành kem theo Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ. - Cán bộ xã phường, thị trấn hưởng sinh hoạt phí theo quy định tại điều 3 Nghị định 09/1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. - Người lao độngViệt Nam đi làm có thời hạn ở nước ngoài theo quy định theo quy định tại điều 2, điều 7 Nghị định 152/1999/NĐ- CP ngày 20/9/1999 quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. - Người lao động làm việc trong các cơ sở ngoài công lập trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao theo quy định tại Nghị định số 73/1999/NĐ- CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ. - Người lao động là đội viên đội tri thức trẻ tình nguyện tham gia phát triển nông thôn, miền núi theo quyết định số 149/2000/QĐ- TTg ngày 28/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ trong thời gian làm nhiệm vụ. Ngoài các đối tượng tham gia như trên Chính phủ đã điều chỉnh phạm vi đối tượng tham gia BHXH cho phù hợp với tình hình mới. Trong Nghị định số 01/2003/NĐ- CP ngày 09/1/2003 của Chính phủ thì đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm những đối tượng theo Nghị định 12/CP và bổ sung thêm các đối tượng là người lao động có thời hạn đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các HTX thành lập và hoạt động theo Luật HTX; Người lao động làm việc trong các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; Người lao động làm việc trong các trạm y tế xã phường, thị trấn và người lao động trong các tổ chức khác có sử dụng lao động. Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện: phạm vi đối tượng tham gia BHXH tự nguyện rất rộng, theo đúng nghĩa thì đối tượng tham gia BHXH tự nguyện phải bao gồm người lao động thuộc mọi tầng lợp nhân dân không thuộc diện tham gia BHXH bắt tự nguyện đóng góp vào Quỹ BHXBHXH. Đối tượng có thể vận động tham gia BHXH tự nguyện được chia thành 2 nhóm chủ yếu sau: - Nhóm 1: người lao động đang trong độ tuổi lao động, có hoặc không có việc làm, nhưng không thuộc đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc, trừ những người lao động có việc làm theo hợp đồng lao động dưới 3 tháng. Đây là nhóm có nhiều lao động chưa được tham gia BHXH nhất và có nhu cầu lớn được tham gia BHXH tự nguyện gồm: Những người thợ tiểu, thủ công nghiệp; những người lao động làm nghề buôn bán dịch vụ, xây dựng; người lao động và xã viên làm việc trong các HTX; người lao động làm việc trong ngành nông, lâm, ngư và diêm nghiệp; những người lao động tự lao động cho chính mình; những người làm việc ở nhà mà không có tiền lương... Đặc điểm của đối tượng này thường là làm việc trong khu vực lao động phi chính thức, công việc thường không ổn định, thu nhập thất thường; vì không có người lao động quản lý nên đóng góp BHXH hoàn toàn dựa vào chính bản thân người lao động. Vì vậy khi xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động thuộc nhóm này cần có các phương thức thực hiện, quản lý phù hợp mới có thể khuyến khích được họ tham gia vào loại hình BHXH tự nguyện và đảm bảo tính cân bằng thu chi Quỹ BHXH tự nguyện. - Nhóm 2: Người lao động có việc làm theo hợp đồng dưới 3 tháng. Thuộc nhóm này bao gồm tất cả những người lao động trong các thành phần kinh tế có việc làm (thường xuyên hoặc không thường xuyên) theo hợp đồng dưới 3 tháng và họ thường có điều kiện để chuyển từ hợp đồng 3 tháng sang tiếp tục hợp đồng 3 tháng tiếp theo, khi đó sẽ chuyển sang loại hình BHXH bắt buộc. Nhìn chung, số lượng lao động này thường biến động phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tạo việc làm của Nhà Nước, tình hình phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu lao động của xã hội. Đặc điểm cơ bản của nhóm này là: họ có quan hệ lao động với người sử dụng lao động thông qua hợp đồng lao động kể cả hợp đồng miệng. Nhưng người sử dụng lao động không trực tiếp đóng BHXH cho họ, khoản tiền BHXH này được trả cùng với tiền lương hoặc tiền công để người lao động tự lo BHXH cho mình. Do đó, nhu cầu tham gia BHXH của nhóm lao động này có điều kiện và có khả năng để thực hiện tuy còn hạn chế bởi vì thu nhập của họ cũng thấp, chỉ đủ mức sống trung bình, lại thường không ổn định. Hiện nay chưa có một văn bản chính thức nào quy định cụ thể về BHXH tự nguyện, việc triển khai BHXH tự nguyện chỉ được thực hiện thí điểm ở một số nơi với đối tượng tham gia là người nông dân nhưng chưa thu được kết quả khả quan nên chưa được mở rộng ra cho các đối tượng khác. * Đối tượng tham gia BHYT: Đối tượng tham gia BHYT được Nhà Nước điều chỉnh trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đối ượng tham gia BHYT được bổ sung ngày càng đông, ngày càng đa dạng. Cụ thể như sau: Đối tượng tham gia BHYT bắt buộc: Trong điều lệ BHYT ban hành kèm theo Nghị định 58/1998/NĐ- CP của Chính phủ quy định các đối tượng sau đây thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc: - Tất cả các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc như trên đã nêu. - Đại biểu HĐND đương nhiệm các cấp không thuộc biên chế Nhà Nước hoặc không hưởng chế độ BHXH hàng tháng. - Người có công với cách mạng theo quy định tại Nghị định số 28/CP ngày 29/4/1995 của Chính phủ. - Học sinh sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh, học viên bồi dưỡng nâng cao là người nước ngoài học tại các trường của Việt Nam (gọi tắt là Lưu học sinh) thuộc diện hiệp định do Bộ GD- ĐT ký kết với các nước hoặc được Chính phủ Việt Nam đồng ý cho vào học tại Việt Nam sẽ được hưởng chế độ phục vụ y tế không phải trả tiền theo quy định tại Thông tư Liên tịch số 13/1999/TTLT/GDĐT- TC- YT ngày 16/3/1999 của Bộ GDĐT- Tài chính- Y tế. - Thân nhân sỹ quan tại ngũ theo quy định tại Nghị định 63/2002/NĐ- CP ngày 18/6/2002 của Chính phủ. - Người nghèo, người cao tuổi từ đủ 90 tuổi trở lên theo Nghị định 120/2003/NĐ- CP ngày 20/10/2003 của chính phủ được hưởng chế độ KCB theo quy định tại Quyết định 139/2002/QĐ- TTg ngày 15/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ. - Người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam theo Quyết định số 26/2000/QĐ- TTg ngày 23/2/2000 của Thủ tướng Chính phủ. - Người đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng (hưu trí, mất sức lao động, tai nạn lao động…) Đối tượng tham gia BHYT tự nguyện được quy định tại điều 22 Điều lệ BHYT ban hành kèm theo nghị định 58/1998/NĐ- CP của Chính phủ và thông tư liên tịch số 22/2005/TTLT- BYT- BTC ngày 24/8/2005 của Liên Bộ Y tế- Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện bao gồm các nhóm đối tượng sau đây: - Thành viên hộ gia đình. - Học sinh sinh viên (HSSV) đang theo học tại các cơ sở giáo dục, đào tạo thuộc hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân. - Thành viên hội viên các đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội quần chúng, hội nghề nghiệp, tôn giáo…(gọi chung là hội, đoàn thể). - Thân nhân của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động đang tham gia BHYT bắt buộc; Thân nhân của hội viên hội, đoàn thể đang tham gia BHYT tự nguyện (sau đây gọi chung là thân nhân người lao động) Như vậy, từ chỗ chỉ thực hiện BHXH cho các đối tượng là công nhân viên chức Nhà Nước. BHXH, BHYT hiện nay đã mở ra sự bảo vệ cho người lao động làm công ăn lương ở tất cả các thành phần kinh tế, kể cả khu vực có yếu tố nước ngoài. Điều đó thể hiện chính sách BHXH, BHYT đã thực sự đi vào đời sống của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. 2. Sự cần thiết phải quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Bất kỳ một hệ thống nào cũng phải đặt dưới sự quản lý để hệ thống đó hoạt động có hiệu quả hơn. Hệ thống BHXH cũng vậy, để nó hoạt động một cách có tổ chức, đi theo đúng bản chất, vai trò chức năng của nó thì cần phải tổ chức tiến hành hoạt động quản lý trong đó quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là một nội dung quản lý quan trọng nhất. Bởi vì hoạt động này liên quan mật thiết tới tất cả các mặt hoạt động khác trong hệ thống BHXH. Quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là một trong những lĩnh vực quản lý con người, đó là quá trình tác động gián tiếp vào đối tượng chịu quản lý. Nó không nằm ngoài mục đích cuối cùng là dung hoà mâu thuẫn giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, bảo vệ lợi ích cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố rủi ro. Tổ chức quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội vì thế là một yêu cầu thực tế khách quan và vô cùng quan trọng. có tổ chức quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tốt thì mới thực hiện được chính sách BHXH- một chính sách xã hội mang tính bảo vệ quyền lợi nhất cho người lao động trong hệ thống các chính sách an sinh xã hội. Trong thực tế người sử dụng lao động luôn muốn trốn tránh đóng BHXH hoặc tước đoạt tiền đóng của người lao động để sử dụng cho các mục đích khác, điều này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động. Do đó quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội sẽ đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Quá trình thực hiện chính sách BHXH là một quá trình phức tạp do đó có tổ chức quản lý đối tượng tham gia BHXH tốt thì mới thực hiện được một cách đầy đủ, đúng đắn chính sách BHXH- một chính sách xã hội mang tính bảo vệ quyền lợi nhất cho người lao động trong hệ thống các chính sách an sinh xã hội. Xu thế phát triển của BHXH chính là mở rộng đối tượng tham gia BHXH đến mọi người dân, việc sáp nhập BHYT vào BHXH đã làm cho số đối tượng tham gia tăng lên nhanh chóng. Chính vì vậy quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là việc làm cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người lao động tham gia BHXH, BHYT. Như vậy, quản lý đối tượng tham gia BHXH là cần thiết đối với mỗi quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam, đây là một tiến trình hợp lý , phù hợp với quy luật bảo tồn và phát triển của mọi thời đại, nó mang lại sự đầy đủ nhất trong hoạt động BHXH của ngành. Đồng thời đây cũng là một quá trình tất yếu khách quan. Chúng ta càng nhận thức đúng đắn ý nghĩa của công tác này càng thấy được vai trò to lớn của BHXH. 3. Nội dung quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 3.1. Quản lý đăng ký tham gia BHXH. Đối với đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: Yêu cầu pháp lý đầu tưiên trong quá trình quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là chủ sử dụng lao động trong diện tham gia bắt buộc phải đăng ký tham gia bảo hiểm với tổ chức BHXH. Đăng ký là một quy trình xác định chủ sử dụng lao động và người lao động thuộc diện bảo hiểm nhằm mục đích thiết lập các hồ sơ quản lý đầy đủ về họ. Đăng ký của đơn vị sử dụng lao động: Việc đăng ký tất cả các chủ sử dụng lao động thuộc diện tham gia bắt buộc quy định trong các văn bản pháp luật là vấn đề tiên quyết trong quản lý hoạt động BHXH. Chủ sử dụng lao động không đăng ký sẽ không được cơ quan bảo hiểm quản lý và do vậy việc tuân thủ hay không tuân thủ của họ sẽ không được theo dõi. Tại thời điểm đầu tưiên của việc thực hiện chế độ chính sách BHXH, một số lượng lớn chủ sử dụng lao động do nhiều nguyên nhân sẽ không tự nguyện đăng ký vào hệ thống BHXH và điều này dẫn đến hậu quả là quyền lợi của người lao động không được đảm bảo. Do vậy cơ quan BHXH phải sử dụng tất cả các nỗ lực có thể nhằm nhận diện, xác định, đăng ký tất cả các chủ sử dụng lao động thuộc diện phải tham gia. Quy trình đăng ký vào hệ thống BHXH của đơn vị sử dụng lao động bao gồm các bước sau: - Tổ chức BHXH tiến hành nhận dạng các đơn vị sử dụng lao động còn chưa đăng ký tham gia vào hệ thống, đó là các đơn vị mới thành lập đơn vị đã có thời gian thành lập lâu rồi nhưng chưa từng đăng ký tham gia vào hệ thống. Việc nhận dạng này được tiến hành có sự phối hợp của các cơ quan quản lý liên quan như cấp phép hoạt động, thuế, thanh tra lao động, tổ chức công đoàn… - Tổ chức BHXH tiếp cận với đơn vị sử dụng lao động (có văn bản thông báo) - Thu thập các thông tin cơ bản về đơn vị sử dụng lao động cần được đăng ký, việc thu thập thông tin này cần được tiến hành thông qua các mẫu tờ khai. - Thiết kế mã số cho đơn vị sử dụng lao động - Cấp giấy chứng nhận đăng ký tham gia BHXH cho đơn vị. Yêu cầu cho quy trình đăng ký đơn vị sử dụng lao động là phải nhanh chóng chính xác và khoa học. Số đăng ký tham gia BHXH của chủ sử dụng lao động phải là duy nhất, không để xẩy ra trường hợp hai chủ sử dụng lao động có cùng một số đăng ký. Chủ sử dụng lao động phải được yêu cầu xuất trình số đăng ký mỗi lần làm việc với cơ quan BHXH để dễ dàng xác định chính xác trong nhiều các hoạt động hành chính liên quan đến việc nộp các khoản đóng góp, báo cáo hồ sơ, các hoạt động kiểm tra, kiểm soát… Có hai phương pháp cơ bản để lập mã số (số đăng ký): thứ nhất là phương pháp lập mã số đơn giản, theo thứ tự. Thứ hai là phương pháp thiết lập hệ thống phức tạp hơn, là phương pháp dãy số theo thứ tự và các chữ cái đứng đằng trước hay sau. Mã chữ cái có thể được sử dụng để mã hoá vùng hoặc khu vực địa lý, loại hình lao động: công nghiệp, dịch vụ, hoạt động kinh tế v.v…Những thành phần này có thể bao gồm các chỉ số được sử dụng trong hệ thống hoặc quá trình quản lý của hệ thống. Đăng ký của người lao động: Trong các văn bản pháp luật về BHXH luôn chỉ rõ nhwxng đối tượng người lao động nào thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Mục đích của việc đăng ký người lao động là đảm bảo tất cả những người lao động thuộc diện tham gia theo quy định được xác định và tất cả các đóng góp của họ được ghi chép và lưu giữ, do đó các chế độ được chi trả đúng đối tượng. Việc đăng ký người lao động thường được thực hiện thông qua các đơn vị sử dụng lao động. Nhưng đối với hệ thống mà diện bảo vệ được phổ cập, mở rộng thì việc đăng ký tiến hành trực tiếp giữa người lao động và cơ quan BHXH. Số đăng ký của đối tượng tham gia BHXH cũng phải đáp ứng yêu cầu là mỗi đối tượng được đăng ký bằng một số và chỉ một số mà thôi, cần tránh tình trạng trùng lặp đối với các đối tượng tham gia hệ thống BHXH. Một hệ thống có hiệu quả đòi hỏi tất cả mọi người có việc làm đều được đăng ký tham gia BHXH và giữ số đăng ký BHXH trong suốt cả cuộc đời. Điều quan trọng là phải thiết lập số đăng ký càng ngắn gọn càng dễ nhớ. Bởi vì làm như vậy sẽ tiết kiệm thời gian cho nhân viên khi viết các số đăng ký vào các hồ sơ hoặc chuyển từ hồ sơ này sang hồ sơ kia. Thế hệ người lao động mới cũng sẽ tham gia hệ thống và cũng cần phải đăng ký, mỗi người trong số họ phải có một số đăng ký mới và cũng là số duy nhất về BHXH. Thủ tục đăng ký: - Cơ quan BHXH cung cấp mẫu tờ khai đăng ký cho đơn vị sử dụng lao động với số lượng cần thiết. - Người lao động cung cấp thông tin theo mẫu tờ khai, trong trường hợp cần thiết thông tin cá nhân về người lao động phải được thay đổi và bổ sung. - Người sử dụng lao động xác nhận bản khai và gửi lên cơ quan BHXH - Cơ quan BHXH kiểm tra thông tin về người lao động, việc kiểm tra này được hỗ trợ bởi các cơ quan khác có liên quan. - Kiểm tra việc đăng ký của người lao động trong hệ thống. - Thiết kế mã số BHXH. - Cấp sổ BHXH cho người lao động. Phân cấp quản lý đăng ký người lao động đó là: cơ quan BHXH địa phương tiến hành các thủ tục đăng ký theo quy định; cơ quan BHXH trung ương có trách nhiệm cơ bản thiết kế mã số, cấp phát mã số cho từng khu vực, quản lý mã số trên phạm vi toàn quốc, cấp sổ BHXH cho người lao động. Đối với đối tượng tham gia BHXH tự nguyện: Người lao động lập hồ sơ đăng ký tham gia BHXH tự nguyện (đơn đề nghị tham gia BHXH ) chuyển đến tổ chức BHXH, sau đó nhận thông tin về đóng BHXH từ cơ quan BHXH và thực hiện đóng BHXH theo quy định. Tổ chức BHXH tiếp nhận hồ sơ, thông báo kết quả và hướng dẫn việc tham gia BHXH cho người lao động. Ở Việt Nam chỉ mới thực hiện được BHYT tự nguyện cho các đối tượng còn lại ngoài các đối tượng đã tham gia BHXH, BHYT bắt buộc trừ trẻ em dưới 6 tuổi và được chia thành 4 nhóm: Hộ gia đình; Hội đoàn thể; thân nhân của người lao động và hội viên hội đoàn thể; Học sinh sinh viên. Mỗi nhóm có những điều kiện tham gia nhất định. Cụ thể: - Hộ gia đình: thực hiện theo địa bàn phường xã, phải có 100% thành viên trong gia đình đăng ký tham gia và 10% số hộ trở lên đăng ký tham gia. - Hội đoàn thể như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội người cao tuổi... triển khai theo từng hội, các hội sẽ là những người đứng ra lập danh sách và thu tiền, điều kiện là phải có tối thiểu 30% số hội viên tham gia. - Thân nhân người lao động, thân nhân của hội viên hội đoàn thể: được triển khai theo cơ quan đơn vị, nơi hội viên sinh hoạt. Điều kiện là phải có 100 % thân nhân tham gia thì mới triển khai. - Học sinh sinh viên: triển khai theo từng nhà trường, điều kiện là tối thiểu phải có 10 % số học sinh sinh viên đăng ký tham gia. 3.2 Quản lý thu nộp BHXH Trách nhiệm của các bên liên quan trong quy trình thu BHXH: - Đơn vị sử dụng lao động: có trách nhiệm định kỳ lập và nộp danh sách người lao động và mức phí BHXH phải đóng góp. - Cơ quan BHXH có trách nhiệm: + Kiểm tra tính sát thực của các thông tin trong bảng danh sách người lao động do đơn vị sử dụng lao động cung cấp căn cứ vào tài liệu gốc và phối hợp với các cơ quan quản lý lao động, lưu ý đến thông tin về số lượng lao động và số tiền đóng góp của người lao động. + Kiểm tra độ chính xác của việc tính toán được thực hiện trong bảng danh sách + Cập nhật những thông tin được kiểm tra vào hồ sơ gốc của người lao động và người sử dụng lao động. Trong trường hợp có sai sót phải yêu cầu đơn vị sử dụng lao động khẳng định hoặc bổ sung lại thông tin. + Nhận và chuyển các khoản đóng góp BHXH vào tài khoản trung tâm của BHXH Việt Nam. Các nguyên tắc quản lý thu: - Nguyên tắc thống nhất: bộ máy quản lý thu được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương và hoàn toàn độc lập với các bộ phận quản lý khác. - Nguyên tắc phân cấp trong quản lý thu: Tuy được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương nhưng trách nhiệm phải được xác định rõ cho từng cấp quản lý. - Nguyên tắc chuyên môn hoá: theo nguyên tắc này mỗi cán bộ thuộc bộ phận quản lý thu phải chịu trách nhiệm nhất định trong quy trình quản lý thu, nguyên tắc chuyên môn hoá bảo đảm tăng năng suất lao động, giảm chi phí quản lý và dễ dàng xác định trách nhiệm khi xảy ra sai phạm. Các phương thức thu phí BHXH: Phí BHXH được thu theo ba phương thức cơ bản sau: - Thu phí trực tiếp từ người lao động tham gia BHXH, phương thức này áp dụng đối với những hệ thống BHXH mang tính chất phổ cập (không yêu cầu các điều kiện trung gian, phạm vi đối tượng rất rộng đó là mọi người lao động). Tuy nhiên phương thức này đòi hỏi một số điều kiện nhất định, trong đó quan trọng nhất là việc sử dụng rộng rãi các tài khoản cá nhân. - Thu phí gián tiếp qua các cơ quan thuế: phương thức này thường thực hiện thu phí đồng thời với với thuế thu nhập cá nhân, vì vậy khả năng hoàn thành kế hoạch thu là rất lớn. Tuy nhiên phương thức này cũng đòi hỏi một số điều kiện nhất định như thuế thu nhập cá nhân phải được áp dụng phổ cập, phạm vi đối tượng tham gia BHXH cũng mang tính chất phổ cập (đối tượng tham gia cũng chính là đối tượng đóng hoặc nộp thuế thu nhập) điều đó dễ gây hiểu nhầm trong đối tượng tham gia BHXH và làm sai lệch bản chất của việc nộp phí BHXH. - Phí BHXH được thu gián tiếp thông qua người sử dụng lao động. Theo phương thức này thì người sử dụng lao động đóng vai trò trung gian, là cầu nối giữa cơ quan BHXH và người lao động thực hiện việc chuyển phí BHXH của người lao động cho cơ quan BHXH. Phương thức này được áp dụng rộng rãi trong nhiều hệ thống BHXH trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên phương thức này có nhiều hạn chế như hiệu quả thu phí phụ thuộc phần lớn vào các đơn vị sử dụng lao động mà các đơn vị sử dụng lao động thường không muốn tham gia BHXH cho người lao động, thậm chí phí BHXH còn bị chiếm dụng hoặc sử dụng sai mục đích. Trên đây là các phương thức thu phí cho BHXH, BHYT bắt buộc. Còn đối với BHYT tự nguyện thì chủ yếu thông qua các đại lý thu tại các đơn vị, cơ sở có đăng ký tham gia BHYT tự nguyện. Các hình thức sai phạm và cách xử lý: - Khước từ đăng ký hoặc có đăng ký nhưng không nộp các khoản đóng góp cho cơ quan BHXH. - Báo cáo không đầy đủ tổng số người lao động tham gia BHXH - Khai giảm thu nhập được BHXH của người lao động so với thu nhập thực tế - Chậm nộp phí BHXH và nộp không đủ phí BHXH hoặc không nộp phí. - Giảm số lượng người lao động Dưới con số tối thiểu mà các văn bản pháp luật quy định đối với một chủ sử dụng lao động phải tham gia vào chương trình. - Chậm nộp danh sách người lao động Để có thể nhận diện các trường hợp vi phạm ta thường dựa vào các dấu hiệu sau: nộp chậm danh sách người lao động, thường xuyên có sự thay đổi sửa chữa hoặc có lịch sử nợ đọng BHXH. Việc xử lý vi phạm bao gồm các biện pháp từ thấp đến cao: Gửi công văn nhắc nhở đơn vị có sai phạm Cử cán bộ quản lý thu trực tiếp làm việc tại đơn vị: kiểm tra lại các thông tin và đối chiếu với các tài liệu gốc do đơn vị quản lý. Trường hợp phát hiện có sai trái từ phía đơn vị sử dụng lao động thì cơ quan BHXH có thể phạt tiền đơn vị theo quy định. Phát đơn kiện đơn vị sử dụng lao động có vi phạm. 3.3. Quản lý di biến động đối tượng Trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH thì quản lý di biến động đối tượng là một khâu khá quan trọng, quản lý được sự tăng giảm đối tượng sẽ giúp cho công tác thu BHXH đạt hiệu quả cao nhất, xác định được kế hoạch thu cho từng giai đoạn thời kỳ một cách hợp lý. Những nguyên nhân chuyển đi có thể là chuyển sang đơn vị khác, vi phạm pháp luật nên mất quyền tham gia BHXH hoặc chết, bị đuổi việc, sa thải, về hưu, mất sức lao động... Nguyên nhân chuyển đến: Người lao động mới tuyển dụng vào đơn vị, người lao động được khôi phục các quyền lợi BHXH 4. Công cụ quản lý 4.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ pháp luật. Một trong những công cụ quản lý của Nhà nước về BHXH là các chế định pháp luật đối với đối tượng tham gia BHXH. Chính sách về BHXH là một chính sách mở cả về nội dung và phương thức thực hiện, không phải ngay một lúc một thời điểm các chế định pháp luật về đối tượng tham gia BHXH đã được quy định một cách đầy đủ, bao hàm được toàn bộ cộng đồng dân cư có nhu cầu về BHXH, mà các chế định đó được bổ sung, sửa đổi hoàn chỉnh dần dần. Do vậy đối tượng tham gia BHXH được Nhà nước điều chỉnh trong mỗi giai đoạn mỗi thời kỳ phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng được nhu cầu và khả năng tài chính của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Thông ._.ó độ chính xác cao, hỗn độn, mất nhiều thời gian và dễ bị sửa đổi và làm sai lệch. + Cơ quan BHXH cũng phải tổ chức một đội thanh tra với mục đích viếng thăm các chủ sử dụng lao động có vấn đề với việc nộp BHXH. Sự thanh kiểm tra được bắt đầu bằng một yêu cầu của hệ thống giám sát, bởi các thắc mắc nhận được từ người lao động, các tổ chức cônng đoàn, ý kiến của công chúng hoặc từ sự nghi ngờ của đội thanh tra. Thông qua sự thanh tra cơ sở kinh doanh và thẩm địnhh hồ sơ của chủ sử dụng lao động, phát hiện ra chính xác số tiền mà chủ sử dụng lao động không đóng góp, thanh tra viên có nhiệm vụ yêu cầu chủ sử dụng lao động phải thanh toán số tiền chưa đóng. Nếu các chủ sử dụng lao động không thực hiện như đã được yêu cầu trong một khoảng thời gian quy định, các thanh tra viên sẽ làm một báo cáo trong đó bao gồm các phát hiện của họ để đưa ra các biện pháp pháp lý phù hợp. Thủ tục thanh tra hợp lý cần được các cơ quan BHXH lập ra để hướng dẫn các thanh tra viên. Cần phải nhấn mạnh rằng với chức năng và quyền hạn của mình các thành viên của đội thanh tra rất dễ bị cám dỗ để thoả hiệp các quyết định của họ, do đó họ cần phải được tuyển chọn kỹ lưỡng, được định hướng và giám sát thường xuyên, tại chỗ bởi các thanh tra cấp cao hơn. Đồng thời cần có sự thuyên chuyển các thanh tra viên hàng năm nhằm đảm bảo các chế tài được thực hiện và tuân thủ chặt chẽ, không thiên vị là điều vô cùng cần thiết. + Biện pháp pháp lý: Việc truy tố các chủ sử dụng lao động vi phạm pháp luật phải được coi là biện pháp cuối cùng, việc này có thể có tác dụng răn đe đối với các đối tượng đang có ý định vi phạm, sự thất bại trong việc truy tố hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc trong việc đưa ra các hình phạt đối với các chủ sử dụng lao động vi phạm sẽ làm cho chương trình BHXH bị mất uy tín và càng tăng cường nhận thức rằng luật có thể bị vi phạm mà không bị trừng phạt. Hậu quả là sẽ kéo theo hàng loạt các chủ sử dụng lao động vi phạm. Như vậy cần phải có một toà án đặc biệt như trên đã đề cập để giải quyết các vụ vi phạm của chủ sử dụng lao động, toà này sẽ giúp giải quyết các vụ việc một cách nhanh chóng, đồng thời cảnh báo nghiêm khắc đối với các đối tượng vi phạm tiềm tàng và chứng tỏ sự quyết tâm của Chính phủ trong việc bắt buộc tuân thủ pháp luật. + Cơ quan BHXH cũng cần phải có các hoạt động hỗ trợ như: Đơn giản hoá các thủ tục thanh toán để tạo điều kiện cho các chủ sử dụng đóng BHXH dễ dàng và thuận tiện nhất; Cung cấp các bản báo cáo đóng BHXH định kỳ cho từng người lao động để họ có thể giám sát chủ sử dụng lao động nộp BHXH cho mình; Thường xuyên tiến hành các chiến dịch thông tin công cộng hướng vào các quy định về chính sách BHXH và những hậu quả nếu vi phạm các quy định đó... Có thể nói rằng những thách thức mà các cơ quan BHXH phải đối mặt để có thể thành công trong công tác thu BHXH là không dễ vượt qua. Nhưng nếu có sự quyết tâm cao của cán bộ công chức tận tụy trung thực và có năng lực của ngành BHXH, sự phối kết hợp của các sở ban ngành cũng như sự hỗ trợ từ phía Chính phủ thì có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách dễ dàng. 1.2.3 Nâng cao vai trò của công đoàn cơ sở trong việc thực hiện chính sách BHXH. Công đoàn cơ sở là nơi trực tiếp tuyên truyền, vận động, triển khai thực hiện các chế độ chính sách BHXH gắn liền với công tác kiểm tra, giám sát bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Là lực lượng đông đảo, đi đầu tưrong việc thực thi các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà Nước. Tuy nhiên trong thời gian qua việc phối hợp thực hiện chức năng kiểm tra giám sát, bảo vệ quyền lợi của người lao động đối với tổ chức công đoàn mới chỉ dừng lại ở cấp Trung ương, Liên đoàn lao động cấp Tỉnh và một số công đoàn cấp huyện, còn lại các công đoàn cơ sở ở các cơ quan đơn vị đặc biệt là công đoàn cơ sở ở các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế chưa có tiếng nói đích thực trong chức năng vai trò nhiệm vụ của công đoàn theo pháp luật quy định, có chăng cũng chỉ là hình thức. Đặc biệt là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì thậm chí chưa thành lập công đoàn. Do đó các đơn vị sử dụng lao động cố ý né tránh đăng ký tham gia, trốn đóng BHXH cho người lao động, quyền lợi của người lao động bị cắt xén, thậm chí còn chiếm dụng 5% của người lao động nộp BHXH hàng tháng mà các ngành chức năng chưa có biện pháp xử lý. Ở những nơi đó, một số công đoàn không dám đấu tranh, đòi hỏi quyền lợi chính đáng cho người lao động và cho cả chính mình với nhiều lý do khác nhau. Cán bộ công đoàn cũng là những người làm công ăn lương tại đó nên thiên về công tác chuyên môn hơn là công tác công đoàn, lệ thuộc chủ sử dụng lao động. Bên cạnh đó sự lãnh đạo của Đảng bộ ở các doanh nghiệp chưa tạo điều kiện để công đoàn cơ sở hoạt động đúng chức năng của mình, sự chỉ đạo của công đoàn cấp trên với công đoàn cơ sở chưa kịp thời chưa cụ thể dẫn đến chức năng hoạt động công đoàn trong việc thực thi chính sách BHXH đối với người lao động còn lúng túng. Trình độ, năng lực ban chấp hành công đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy để có thể nâng cao được vai trò của công đoàn cơ sở thì cần phải thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: Trước hết, cần có một ban chấp hành có năng lực, phải am hiểu luật pháp, có trình độ chuyên môn giỏi, nhiệt tình trong công tác, biết sống vì mọi người, có tiếng nói thuyết phục được chủ sử dụng lao động. Thứ hai là các cấp Uỷ Đảng, các chi Đảng bộ cơ sở và công đoàn cấp trên thường xuyên tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn phát huy tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong thời kỳ đổi mới, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của giai cấp, lợi ích của người lao động đúng pháp luật, đó cũng chính là bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền. Thứ ba, chú trọng chăm lo đào tạo bồi dưỡng để cán bộ công đoàn có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn, đủ sức đảm đương nhiệm vụ được giao. Thứ tư, Liên đoàn lao động tỉnh cần sớm củng cố các công đoàn cơ sở, phủ kín tổ chức công đoàn cơ sở ngoài quốc doanh, để họ thực sự là chân rết trong việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà Nước. Đặc biệt là đưa chính sách BHXH sớm đi vào cuộc sống, vì đây là nghĩa vụ và quyền lợi của họ. Như vậy, có thể thấy rằng công đoàn đóng một vai trò không nhỏ trong việc thực hiện chính sách BHXH đối với người lao động, có nâng cao được vai trò của công đoàn ở cơ sở thì công tác quản lý đối tượng tham gia mới được thực thi một cách có hiệu quả và BHXH mới thực sự đến được với người lao động. 1.2.4 Hoàn thiện khâu lưu trữ hồ sơ; cấp, quản lý, sử dụng sổ BHXH. * Khâu lưu trữ hồ sơ tài liệu: Hoạt động BHXH liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ và quyền lợi của hàng triệu lao động tham gia BHXH. Vì vậy trong quá trình hoạt động của ngành cũng có hàng triệu hồ sơ của người lao động được cơ quan BHXH các cấp lập, quản lý, khai thác sử dụng ở mức độ và thời gian khác nhau. Những hồ sơ này thường tồn tại trong một thời gian dài, bao gồm từ khi người lao động bắt đầu tưham gia BHXH đến khi đủ điều kiện hưởng BHXH và cả sau khi người lao động bị chết. Nếu chỉ tính riêng hồ sơ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH của người lao động, cơ quan BHXH đã phải lập, quản lý và lưu giữ trên 40 năm (trường hợp người lao động đi làm từ năm 18 tuổi và nghỉ hưu khi 60 tuổi). Hồ sơ này là căn cứ chủ yếu và tiến tới là căn cứ duy nhất để xác định mức hưởng lương hưu hoặc trợ cấp BHXH khi người lao động đủ điều kiện theo quy định. Vì vậy việc bảo quản lưu giữ hồ sơ của người lao động là hết sức quan trọng và là một đòi hỏi khách quan trong công tác quản lý của ngành nói chung và quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng. Chính vì vậy chúng ta cần phải có những giải pháp cụ thể đối với công tác quản lý hồ sơ như sau: - Cần phải xác định được loại hồ sơ tài liệu cũng như thời gian lưu trữ ở cơ quan BHXH các cấp, hồ sơ tài liệu phải được tập trung vào một đầu mối để dễ dàng trong công tác bảo quản, khai thác sử dụng khi cần thiết. bên cạnh đó cần phải phân loại được hồ sơ tài liệu đã hết giá trị sử dụng hoặc hết thời hạn lưu trữ để tiêu huỷ nhằm giảm tải số lượng hồ sơ tài liệu đang ngày càng tăng lên nhanh chóng. - BHXH tỉnh phải thành lập một phòng quản lý lưu trữ hồ sơ để phục vụ cho mục đích khai thác sử dụng thông tin một cách nhanh chóng, chính xác. Cũng cần phải đưa CNTT vào quản lý và khai thác, sử dụng hồ sơ tài liệu đang lưu trữ. - Nên chăng Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần có một văn bản quy định thống nhất và chi tiết về công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu trong toàn ngành chứ không phải chỉ trong phạm vi từng đơn vị chuyên môn như hiện nay. * Khâu cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH: Để có thể hoàn thiện khâu này thì BHXH Tỉnh Cao Bằng cần phải tổ chức hướng dẫn cho các đơn vị sử dụng lao động về công tác cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH, trong đó đặc biệt chú ý đến những người trực tiếp làm công tác này ở đơn vị sử dụng lao động; Trong khi xác nhận quá trình tham gia BHXH trên sổ, cán bộ chuyên quản phải tiến hành rà soát để phát hiện các trường hợp sai sót một cách kịp thời để thực hiện cấp, đổi sổ theo quy định; Tiếp tục đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động có số lao động chưa được cấp sổ còn thiếu hồ sơ lý lịch và những sổ BHXH tạm cấp, quy định rõ thời hạn, thông báo đến cơ quan quản lý cấp trên và cấp ủy Đảng để tiến hành phối kết hợp giải quyết những tồn tại vướng mắc; Hàng năm tiến hành kiểm tra, rà soát việc cấp, ghi, quản lý, sử dụng sổ theo quy định của BHXH Việt Nam, kịp thời uốn nắn, sửa chữa những sổ ghi sai và tổ chức hủy bỏ sổ hỏng, sổ bị nhòe, mối xông theo quy định, đổi những sổ BHXH do chất lượng giấy nhòe, do đơn vị sử dụng ghi sai không đúng quy định, yêu cầu đơn vị sử dụng lao động bổ sung đầy đủ các yếu tố, tiêu thức còn thiếu như chữ ký của người lao động, số chứng minh nhân dân, nơi sinh, ngày sinh...; Xử lý dứt điểm những đơn vị chưa triển khai cấp sổ cho người lao động sau 3 tháng kí hợp đồng lao động; Cải tiến thủ tục hành chính trong việc cấp sổ BHXH cho người lao động; Xây dựng quy trình quản lý sổ BHXH tại các đơn vị sử dụng lao động để tiện tra cứu theo dõi quản lý; Nghiên cứu các giải pháp khắc phục tình trạng chưa kiểm soát được sổ BHXH từ nơi khác chuyển đến; Bên cạnh đó phải đề cao vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chuyên quản đáp ứng được yêu cầu là những tuyên truyền viên tích cực trong công tác tuyên truyền về chính sách BHXH. Với những giải pháp mới trong khâu cấp, quản lý, sử dụng sổ BHXH, tin tưởng rằng trong thời gian tới BHXH tỉnh Cao Bằng sẽ giải quyết được những khó khăn vướng mắc, đưa công tác này đi vào nền nếp. 1.2.5 Hoàn thiện các công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH. Như chúng ta thấy sổ BHXH, Thẻ BHYT- Phiếu KCB hiện nay chỉ là công cụ quản lý, theo dõi về một mặt, một phạm vi nhất định đối với đối tượng tham gia BHXH hoặc BHYT; nó chưa bao quát được toàn bộ quá trình làm việc, tham gia BHXH, đến việc giải quyết các chế độ, chính sách cho người lao động do vậy chưa thực sự là công cụ hữu hiệu trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH. Chính vì vậy cần phải hoàn thiện hơn nữa các công cụ này để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động trong quá trình tham gia BHXH, BHYT cả về mặt nội dung cũng như hình thức của sổ BHXH, Thẻ BHYT- Phiếu KCB. Đối với sổ BHXH: Hiện nay sổ BHXH chỉ dùng để ghi chép, cập nhật một số thông tin liên quan đến người lao động, đơn vị làm việc, ngành nghề, cấp bậc, công việc, tiền lương, phụ cấp làm căn cứ đóng BHXH, mức đóng BHXH hành tháng...những yếu tố đó chưa đầy đủ hoặc được ghi chép không kịp thời, thiếu chính xác; việc ghi sổ cho người lao động khi có yếu tố thay đổi cũng không được thường xuyên; Trong quy trình cấp sổ, quản lý và sử dụng sổ BHXH thì người lao động chỉ quản lý một tờ khai cấp sổ BHXH, cơ quan BHXH tỉnh thành phố trực thuộc trung ương quản lý một tờ khai của người lao động và danh sách đăng ký cấp sổ BHXH do đơn vị sử dụng lao động lập còn việc quản lý và ghi sổ BHXH do đơn vị sử dụng lao động tiến hành, do vậy việc ghi sổ BHXH có đúng hay không, có kịp thời không nhiều khi chúng ta không thể biết được. Mặt khác, tờ khai cấp sổ BHXH chỉ kê khai được thời gian ban đầu tưừ khi người lao động đi làm việc có tham gia BHXH đến khi được duyệt cấp sổ BHXH, các thời gian làm việc có đóng BHXH tiếp theo chỉ có duy nhất sổ BHXH thể hiện. Do vậy khi xảy ra trường hợp mất sổ BHXH phải kiểm tra, đối chiếu, rà soát nhiều hồ sơ liên quan như tờ khai ban đầu, hồ sơ của người lao động, các quyết định, hợp đồng lao động giấy tờ liên quan tiếp theo do đơn vị sử dụng lao động quản lý, các bản danh sách đăng ký khi nộp BHXH, danh sách tăng giảm lao động- tiền lương của các năm các thời kỳ, các chứng từ, bản đối chiếu thu nộp BHXH...rất mất thời gian và nếu rà soát đối chiếu không khỏi có những sai sót xảy ra. Do vậy phải hoàn thiện công cụ sổ BHXH về phương thức quản lý cũng như đổi mới và hoàn thiện hệ thống các tiêu thức liên quan đến người lao động trong suốt quá trình tham gia BHXH, nó được tập trung lại và do một cơ quan tổng hợp theo dõi và được cập nhật trong một công cụ quản lý duy nhất. Còn đối với việc quản lý phiếu KCB: Hiện nay đối tượng tham gia BHYT được cấp phiếu KCB có thời hạn chỉ một năm, trừ trường hợp nghỉ hưu kinh phí chi trả do BHXH Việt Nam cấp thì phiếu KCB mói có thời hạn dài là 3 năm. Mặt khác những phân tích về tồn tại và hạn chế của phiếu KCB như đã nói ở phần thực trạng cho thấy công cụ quản lý là phiếu KCB còn nhiều hạn chế, nó không theo dõi được quá trình tham gia BHYT của đối tượng bắt đầu tưừ thời gian nào, có những bệnh tật mãn tính, bệnh di truyền hay không ...điều đó có liên quan đến việc chi trả thanh toán cho các cơ sở KCB cũng như việc cân đối quỹ KCB. Vì những lý do đó cần phải đổi mới và hoàn thiện hơn nữa để có thể theo dõi cả quá trình tham gia BHYT cũng như quá trình KCB của đối tượng tham gia. Hiện nay ở nước ta cũng như nhiều nước khác trên thế giới đã và đang sử dụng thẻ điện tử trong rất nhiều lĩnh vực như Thẻ tín dụng trong hoạt động Ngân hàng; Card điện thoại, internet; Thẻ mã vạch dùng để ra vào cơ quan công sở...cho nên chúng ta cũng có thể áp dụng Thẻ điện tử trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Như vậy chúng ta có thể thay thế sổ BHXH, phiếu KCB bằng một loại thẻ thông minh (card điện tử) gọi là "Thẻ BHXH, BHYT". Thẻ này được thiết kế, lập trình sử dụng để quản lý toàn bộ quá trình tham gia BHXH từ khâu đăng ký tham gia vào hệ thống, quá trình đóng góp BHXH, quản lý hưởng khi đã ngừng đóng góp... Đồng thời cũng có thể sử dụng trong việc đi KCB- BHYT sẽ rất thuận tiện cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT. Để người lao động tham gia BHXH, đối tượng tham gia BHYT có được công cụ sử dụng thuận tiện, đồng thời cơ quan BHXH các cấp sử dụng công cụ đó để quản lý một cách hiệu quả nhất thì cần phải tập trung vào một số công việc sau: - Đối tượng tham gia BHXH, BHYT hoặc chỉ tham gia BHYT đều được cấp một Thẻ BHXH, BHYT. Thẻ này có thể sử dụng trong tất cả các trường hợp cập nhật thông tin cá nhân, gia đình, sức khỏe, quá trình đóng BHXH, BHYT; các thông tin về các chế độ đã hưởng BHXH,BHYT. Người được cấp thẻ này có thể sử dụng nó để thanh toán cũng như nhận trợ cấp từ cơ quan BHXH, cơ sở KCB ở bất cứ nơi nào họ muốn và thuận tiện cho họ nhất. - Cơ quan BHXH khi quản lý đối tượng bằng thẻ BHXH, BHYT thì cần phải cập nhật liên tục các thông tin luôn luôn biến động về đối tượng tham gia BHXH, BHYT liên quan đến thời gian đóng, mức đóng BHXH, BHYT của đối tượng trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Các thông tin đó được đưa vào lưu trữ, đồng thời sẵn sàng cung cấp cho các cơ quan BHXH trong quá trình quản lý, rà soát, đối chiếu và phục vụ cho công tác tổng hợp thông qua một hệ điều hành quản trị mạng theo chiều ngang và chiều dọc, đảm bảo phục vụ và đáp ứng được yêu cầu quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam trong từng giai đoạn, thời kỳ. Bên cạnh đó khi sử dụng Thẻ điện tử thì phải có một mạng lưới máy tính nối mạng từ các cơ quan quản lý Nhà nước, BHXH Việt Nam đến BHXH cấp quận huyện, thị xã... để có thể lấy dữ liệu, khai thác thông tin phục vụ cho hoạt động quản lý BHXH, đồng thời có thể kiểm tra rà soát một cách dễ dàng và có hiệu quả nhất. 2. Kiến nghị 2.1 Đối với Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội - Cần sớm thông qua và nhanh chóng ban hành Luật BHXH, đồng thời phải tạo được sự tương thích giữa Luật BHXH và các Luật khác có liên quan như Luật Lao động, Luật doanh nghiệp, Luật HTX... Đây là chính sách rất lớn, nhạy cảm, có ảnh hưởng lâu dài, vì vậy trước khi thông qua dự án Luật BHXH cần phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của cử tri nhất là những người đang tham gia BHXH. - Đề nghị đoàn Đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện pháp luật về BHXH ở địa phương. 2.2 Đối với Chính phủ: - Tổ chức tổng kết đánh giá toàn diện việc tổ chức thực hiện BHXH từ năm 1995 đến nay đẩy nhanh tiến độ soạn thảo dự án Luật trình Quốc hội phê chuẩn. - Chỉ đạo các bộ ngành chức năng, các tỉnh, thành phố để tăng cường công tác quản lý nhà nước về BHXH ở địa phương, ắn trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan và chính quyền các cấp với cơ quan BHXH trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, tăng cường số lượng, chất lượng thanh tra viên và tổ chức thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm việc thực hiện chính sách BHXH. - Chỉ đạo BHXH Việt Nam và các cơ quan liên quan tăng cường tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về chính sách BHXH; Củng cố tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cho cán bộ, viên chức; Cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai việc đóng- hưởng BHXH ở cơ sở, thông báo định kỳ cho người lao động để tạo thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động trong việc tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH; Xác định, phân loại đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, phân cấp đến xã phường để quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tham gia BHXH theo quy định, trên cơ sở đó định kỳ thông báo cho cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra xử lý việc vi phạm theo luật pháp. - Chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về BHXH, khắc phục sớm những bất cập trong thực hiện chính sách BHXH, đồng thời xem xét tính khả thi của các văn bản pháp quy mà chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành. 2.3 Đối với BHXH Việt Nam - Đề nghị BHXH Việt Nam tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy, của đội ngũ cán bộ, BHXH Việt Nam phải tập trung vào việc kiện toàn cơ cấu tổ chức từ Trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp yêu cầu nhiệm vụ; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lề lối làm việc; Xử lý nghiêm khắc mọi biểu hiện quan liêu cửa quyền, phiền hà sách nhiễu cho người tham gia BHXH; Đồng thời cũng cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, nâng cao nhận thức trình độ phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức. - Khi có các chế độ chính sách BHXH, BHYT và các quy định mới bổ sung, sửa đổi, các bộ ngành Trung ương và BHXH Việt Nam cần có các văn bản chỉ đạo sớm để BHXH các tỉnh tổ chức triển khai thực hiện kịp thời. - Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần phải có kế hoạch phổ biến kiến thức tin học cho cán bộ công chức toàn ngành; trang bị đồng bộ hệ thống máy tính với những phần mềm quản lý chuyên dụng và được nối mạng với nhau nhằm dễ dàng trong công tác quản lý, kiểm tra, báo cáo. Bên cạnh đó đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam tạo điều kiện về biên chế để mỗi tỉnh có thể tiếp nhận một số chuyên viên kỹ thuật giỏi về vi tính để xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng CNTT vào quản lý nhiệp vụ BHXH. - Cần nghiên cứu bổ sung sửa đổi chế độ chính sách BHXH. Đặc biệt là phải có chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa điều kiện đặc biệt khó khăn phù hợp với từng vùng, miền của Tổ quốc; 2.4 Đối với Tỉnh Ủy, UBND Tỉnh Cao Bằng: - Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các Huyện, Thị, các Sở, Ban, Ngành đoàn thể và các cơ quan thông tin tuyên truyền địa phương phối hợp với BHXH Tỉnh Cao Bằng tuyên truyền sâu rộng về các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước về chế độ chính sách BHXH, BHYT đi đôi với việc chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp kiểm tra thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh. - Cần đầu tưư hơn nữa cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý BHXH, đặc biệt là đầu tưư vào các cơ sở KCB trong tỉnh, nhất là các trạm y tế xã, phường để nhân dân và các đối tượng có thẻ BHYT ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn có điều kiện để chăm sóc sức khỏe và KCB tại nơi cư trú. 2.5 Đối với BHXH tỉnh Cao Bằng - Cần thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo chương trình kế hoạch của BHXH Việt Nam đã đề ra, quan tâm hơn nữa đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết chế độ, quyền lợi cho cán bộ công chức viên chức kịp thời, đúng quy định. Đánh giá công tác từng cán bộ khách quan, công bằng tạo bầu không khí dân chủ đoàn kết động viên cán bộ công chức phát huy trí tuệ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao. - Phối hợp với các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị để thực hiện tốt chính sách BHXH. Tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT. - Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công chức, các đơn vị sử dụng lao động triển khai thực hiện tốt các Nghị định của Chính phủ, đưa chính sách BHXH, BHYT đến với mọi người dân. Với các giải pháp như trên hy vọng rằng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng và việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT nói chung sẽ đạt được hiệu quả cao nhất để đưa BHXH, BHYT đến với mọi người dân trong xã hội như trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến năm 2010 đã đề ra. KẾT LUẬN Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của Đảng và Nhà Nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành nhu cầu cấp thiết và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bảo vệ, che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp của những hạn chế trong cơ chế mớin và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Cùng với việc đổi mới chính sách BHXH thì việc thực hiện BHXH gặp không ít khó khăn. Những khó khăn trong công tác BHXH có nguyên nhân từ phía người lao động, người sử dụng lao động và cả nguyên nhân chủ quantừ phía cơ quan BHXH. Đó là sự thiếu hụt trong nhận thức của khá nhiều người lao động, chủ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này dẫn đến những thiệt thòi cho người lao động khi có rủi ro xảy ra. Nhiều chủ doanh nghiệp không thực sự tuân thủ các quy định trong việc thực hiện nghĩa vụ về BHXH đối với người lao động mà họ sử dụng. chính vì vậy việc quản lý đối tượng tham gia BHXH là một khâu không thể thiếu trong việc thực hiện chính sách BHXH nhất là ở một địa phương vùng sâu, vùng xa như tỉnh Cao Bằng nhận thức về BHXH chưa được sâu sắc, gây khó khăn cho hoạt động BHXH. Bước sang giai đoạn phát triển mới hy vọng rằng BHXH sẽ phát triển toàn diện hơn để đáp ứng nhu cầu của người lao động trong nền kinh tế quốc dân. Muốn làm được điều đó thì phải dựa trên những tính toán chính xác, cân nhắc thận trọng và phải được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước cũng như các bộ ngành liên quan và các bên tham gia BHXH. Có như vậy công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH mới có những bước đi đúng đắn phù hợp với tình hình hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai./. Thời gian thực tập vừa qua đã giúp em tìm hiểu về công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại Tỉnh Cao Bằng, tuy đã cố gắng nỗ lực rất nhiều nhưng không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của Giáo viên hướng dẫn Th.s Tô Thị Thiên Hương và toàn thể các thầy cô giáo trong bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm. Trường Đại học KTQD – NXB Thống kê, Hà Nội - 2004 2. Các quy định pháp luật về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội – 2003 3. Giáo trình Bảo hiểm xã hội – NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội – 2004 4. Những điều cần biết về BHXH - Hệ thống các văn bản về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2000 5. Niên giám thống kê 2003, 2004, 2005 6. Bảo hiểm xã hội những điều cần biết - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 1999 7. Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam từ năm 1997 – 2005 8. Một số Công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Hà Nội – 2000 9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2001 MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BHXH VÀ QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH 3 I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BHXH 3 1. Sự cần thiết khách quan của BHXH. 3 2. Bản chất và chức năng của BHXH 7 2.1 Bản chất: 7 2.2 Chức năng: 9 3. Quan điểm về BHXH 11 3.1. Chính sách BHXH. 12 3.2. Nhà nước và Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ, trách nhiệm BHXH cho người lao động, đồng thời người lao động cũng phải tự BHXH cho mình.. 12 3.3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp. . 13 3.4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố sau 13 3.5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH.. 13 4. Quỹ BHXH 13 4.1. Khái niệm: 13 4.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH 14 4.2.1 Sự đóng góp của người lao động 14 4.2.2 Sự đóng góp của người sử dụng lao động 14 4.2.3 Nhà nước đồng và hỗ trợ 14 4.2.4 Các ngồn thu khác. 15 4.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH. 16 5. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của BHXH trên thế giới và ở Việt Nam. 17 5.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của BHXH trên thế giới. 17 5.2. Quá trình thực hiện BHXH ở Việt Nam. 18 II. QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH, BHYT 22 1. Đối tượng tham gia BHXH, BHYT 22 2. Sự cần thiết phải quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 28 3. Nội dung quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 29 3.1. Quản lý đăng ký tham gia BHXH. 29 3.2 Quản lý thu nộp BHXH 33 3.3. Quản lý di biến động đối tượng 36 4. Công cụ quản lý 36 4.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ pháp luật. 36 4.1.1. Đối tượng tham gia BHXH: 37 4.1.2 Đối tượng tham gia BHYT: 39 4.2 Quản lý đối tượng tham gia BHXH thông qua công cụ quản lý tác nghiệp 41 4.2.1 Sổ đăng ký đối tượng tham gia BHXH 41 4.2.2 Bản kê khai danh sách người lao động tham gia BHXH: 42 4.2.3 Sổ BHXH. 44 4.2.4 Phiếu khám chữa bệnh, thẻ BHYT 50 4.2.5 Các tài liệu hồ sơ giấy tờ khác: 53 4.2.6 Hệ thống máy tính: 54 4.2.7 Công tác thanh tra, kiểm tra trong quản lý đối tượng tham gia BHXH 54 5. Trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. 55 5.1 Nhà Nước 55 5.2 Cơ quan BHXH 56 5.3 Đơn vị sử dụng lao động 56 5.4 Người lao động 56 6. Nguyên tắc trong quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội 56 7. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong quản lý đối tượng tham gia BHXH 58 7.1 Sử dụng thẻ BHXH để quản lý người lao động ở Mỹ 58 7.2 Sử dụng tài khoản cá nhân ở Malaysia: 60 7.3 Ở một số nước khác: 60 7.4 Tham luận về vấn đề đăng ký tham gia và thu BHXH cùng các chế tài bắt buộc đóng BHXH của ông Hector Inductivo. 62 7.4.1 Về vấn đề đăng ký tham gia chương trình BHXH. 62 7.4.2 Về vấn đề thu đóng góp BHXH. 65 Chương II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở TỈNH MIỀN NÚI CAO BẰNG. 66 I. VÀI NÉT VỀ TỈNH CAO BẰNG 66 1. Giới thiệu chung về tỉnh Cao Bằng: 66 2. Vài nét về cơ quan BHXH tỉnh Cao Bằng 66 2.1 Lịch sử hình thành và phát triển. 66 2.2 Chức năng và nhiệm vụ 67 2.3 Hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH Tỉnh Cao Bằng. 69 II. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN BHXH Ở TỈNH CAO BẰNG. 69 1.Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chính sách BHXH ở Tỉnh miền núi Cao Bằng. 69 1.1 Thuận lợi 69 1.2 Khó khăn 70 2. Những kết quả đã đạt được: 71 III. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH Ở TỈNH CAO BẰNG. 72 1. Công tác đăng ký tham gia BHXH: 75 2. Công tác thu BHXH. 95 3. Quản lý di biến động đối tượng tham gia BHXH. 99 4. Đánh giá công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH 105 Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH Ở TỈNH CAO BẰNG 109 I. MỤC TIÊU CỦA NGÀNH BHXH VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020. 109 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TẠI TỈNH CAO BẰNG. 110 1. Giải pháp 110 1.1. Các giải pháp chung cho việc thực hiện chính sách BHXH. 110 1.1.1 Hoàn thiện công cụ quản lý Nhà Nước về BHXH. 110 1.1.2 Tăng cường công tác tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ: 113 1.1.3 Thực hiện tốt ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý BHXH. 117 1.1.4 Nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH. 120 1.1.5 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và công tác pháp chế trong hoạt động quản lý BHXH 123 1.2 Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác Quản lý đối tượng tham gia BHXH. 125 1.2.1 Cần phải có các biện pháp bắt buộc đăng ký tham gia BHXH. 125 1.2.2 Cần phải có các chế tài bắt buộc đóng BHXH: 126 1.2.3 Nâng cao vai trò của công đoàn cơ sở trong việc thực hiện chính sách BHXH. 129 1.2.4 Hoàn thiện khâu lưu trữ hồ sơ; cấp, quản lý, sử dụng sổ BHXH. 131 1.2.5 Hoàn thiện các công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH. 133 2. Kiến nghị 136 2.1 Đối với Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội 136 2.2 Đối với Chính phủ: 136 2.3 Đối với BHXH Việt Nam 137 2.4 Đối với Tỉnh Ủy, UBND Tỉnh Cao Bằng: 138 2.5 Đối với BHXH tỉnh Cao Bằng 139 KẾT LUẬN 140 Tài liệu tham khảo 141 DANH MỤC BIỂU, HÌNH TT Nội dung Trang BIỂU: Biểu 1: Tình hình tham gia BHXH, BHYT bắt buộc tại cơ quan BHXH Tỉnh Cao Bằng (giai đoạn 1996- 2005) 66 Biểu 2: Cơ cấu đối tượng tham gia BHXH, BHYT bắt buộc tại BHXH tỉnh Cao Bằng trong những năm gần đây (2001- 2005) 67 Biểu 3: Tình hình cấp sổ BHXH cho người lao động trên địa bàn tỉnh Cao Bằng (1996- 2005) 72 Biểu 4: Báo cáo tổng hợp tình hình quản lý phiếu KCB, thẻ BHYT Quý IV năm 2005 73 Biểu 5: Tiến độ thu BHXH, BHYT bắt buộc giai đoạn 1996- 2005 75 HÌNH: Hình 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH Tỉnh Cao Bằng. 62 Hình 2: Biểu đồ số người tham gia BHYT tự nguyện qua các năm (1996-2005) 70 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36352.doc
Tài liệu liên quan