Thực trạng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Lời mở đầu Chiến lược mở cửa dần nền kinh tế để đưa nước ta theo kịp với sự phát triển chung của thế giới là một trong những chính sách được Đảng và nhà nứơc ta vô cùng coi trọng. Một trong những nội dung quan trọng của chiến lược này đó là chủ chương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên là để giải quyết nạn khan hiếm về vốn đầu tư cho sự phát triển xã hội. Một đất nước không thể nào phát triển được nếu không có vốn đầu tư để phát triển k

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế. Hơn nữa đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nguồn vốn trong nứơc còn hạn chế vì vậy chúng ta lại càng cần đến sự giúp đỡ về vốn của các nhà đầu tư nứơc ngoài. Ngoài việc giải quyết nạn khan hiếm về vốn thì nó còn nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Trong thời đại hiện nay, nước ta kém các nước khác về máy móc, khoa học công nghệ một khoảng cách khá xa, có nứơc ta còn kém họ đến hàng trăm năm. Vì vậy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cung cấp cho nền kinh tế nứơc nhà máy móc, quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất nhiều mặt hàng có chất lượng kỹ thuật cao, góp phần phát triển nền kinh tế đất nước, tạo nền tảng để nước ta có thể tiến nhanh quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá, và có đủ khả năng, sức mạnh để vươn xa khẳng định mình trên trường quốc tế. Thực hiện chủ trương trên, tháng 12 năm 1987 nhà nước ta đã chính thức ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Trong suốt thời gian từ đó đến nay thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đáp ứng được một số mục tiêu mà chúng ta đề ra song nó lại đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Do vậy chúng ta cần thiết phải đánh giá và nhìn nhận lại thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để từ đó tìm ra hướng giải quyết có hiệu quả nhất để thúc đẩy việc thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn đầu tư. Em chọn đề tài “ Thực trạng và một số giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” nhằm để cho chính bản thân em cũng như mọi người hiểu hơn về thực trạng của nước ta hiện nay để có những hành động cho phù hợp với yêu cầu của đất nước. 1.Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài: -Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. -Tổ chức thương mại quốc tế đưa ra định nghĩa sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước ( nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác( nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong trường hợp đó nhà đầu tư được gọi là “ công ty mẹ” và các tài sản được gọi là công ty con hay chi nhánh công ty 2.Vai trò của FDI đối với Việt Nam Thực tiễn hoạt động đầu tư quốc tế cũng như ở Việt Nam cho thấy nguồn FDI có vai trò hết sức quan trọng đối với nước tiếp nhận đầu tư chủ yếu là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Một đặc điểm phổ biến của các nứơc đang phát triển là tỷ lệ tiết kiệm ngoại tệ thấp và thiếu ngoại tệ. Do vậy các nước không chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá mà phải tìm kiếm sự bổ sung từ bên ngoài. Hàng năm FDI cung cấp một lượng vốn đáng kể cho các nước đang phát triển. Việt Nam cũng là một trong những nước nhận được nguồn đầu tư đáng kể này. FDI hấp dẫn các quốc gia đang phát triển vì các nước này có thể tiếp nhận công nghệ tiên tiến hiện đại. Điều này rất quan trọng trong việc hiện đại hoá công nghệ của đất nước.Thêm vào đó, FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm mới cho các nước nhận đầu tư, nâng cao mức sống cho người lao động. Mặt khác, các dự án của FDI cũng có những yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động do đó buộc chúng ta phải nâng cao trình độ lao động để có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của công việc. Khi người lao động được làm việc trong một môi trường đòi hỏi sự cố gắng cao cũng sẽ giúp cho người lao động trở lên năng động và sáng tạo hơn trong công việc.Hơn thế nữa, các dự án FDI cũng thu hút một lực lượng lao động lớn , góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. ở Việt Nam, kể từ khi luật đầu tư nước ngoài đựơc ban hành và thực hiện, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài được Đảng và nhà nước ta khẳng định là một bộ phận cấu thành quan trọng của nên kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần thúc đẩy sự phát triển các nguồn lực trong nứơc Có rất nhiều nhân tố thúc đẩy đầu trực tiếp nước ngoài: +Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước + Chu kỳ sản phẩm + Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia + Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại + Khai thác về chuyên gia và công nghệ + Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên 3. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: 3.1: Tình hình thu hút FDI: Kể từ khi luật đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành(1980) đến hết ngày 28/2/2006 Việt Nam đã thu hút trên 6090 dự án( còn hiệu lực với mức vốn đăng ký đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD). Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân. Khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp 27% kim ngạch xuất khẩu ( không kể dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội và hơn 14% GDP cả nứơc, tạo thêm việc làm cho hơn 80 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác. Khu vực FDI đã làm tăng khả năng cung ứng hàng hoá cho thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu hàng hoá thiết yếu, góp phần làm bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xã hội. Mức đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thu ngân sách nhà nước ngày càng tăng về giá trị tuyệt đối và giá trị tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Trong thời gian vừa qua, dòng ngoại tệ vào Việt Nam thông qua FDI vẫn cao hơn rất nhiều so với ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI ( qua khách tham quan, tìm hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư nước ngoài…) đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước. Mặc dù phần lớn doanh nghiệp FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực FDI liên tục tăng, tính bình quân chiếm từ 7-8% nguồn ngân sách( nếu tính cả dầu thì chiếm 30%). Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây(2001-2005), các dự án đầu tư nước ngoài đã đạt doanh thu khoảng 74,061 tỷ USD. Xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân trên 20%/năm, đã làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu của cả nước tăng liên tục trong các năm qua. So sánh giá trị xuất khẩu và đóng góp GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy hết hiệu quả của khu vực kinh tế có vốn đầu nước ngoài. Chính vì vậy cần phải khuyến khích các dự án đầu tư nước ngoài hoàn thành và đưa vào sử dụng vì những dự án này sẽ mang lại lợi ích lớn về kinh tế cho đất nước,đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Hiện nay các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đang hoạt động rất có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Chỉ trong năm 2005 đã đạt được tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD( không kể dầu khí), ngang năm 2004. Hơn nữa cả vốn và lao động đều được bổ sung đáng kể. Năm 2005, khu vực kinh tế đầu tư nước ngoài đã thực hiện 6,338 tỷ USD vốn đầu tư, tăng trên 50% so với năm 2004. Nhờ hiệu quả trong sản xuất kinh doanh được phát triển cao hơn mà trong năm 2005 chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực đầu tư nước ngoài đã đề nghị và được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng thêm vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt động với tổng vốn đầu tư tăng thêm 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước. Điều đó cho thấy nhiều nhà đầu tư nứơc ngoài muốn làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Theo báo cáo của bộ kế hoạch và đầu tư, trong tháng 5/2007, cả nước đã thu hút thêm hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung dự án cũ. Trong đó riêng phần mới cấp giấy phép có 281 dự án, tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD, tăng 8,5% về số dự án, 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trứơc. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng vốn đăng ký cấp mới. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 21,1% và 33,4%, phần còn lại thuộc lĩnh vực nông, lâm, thuỷ hải sản. Trong số các dự án mới cấp phép, không chỉ có một số dự án có quy mô đầu tư lớn mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ cao như tập đoàn Intel 605 triệu USD, công ty Tây Hồ Tây 314 triệu USD, Winvest Investment 300 triệu USD…FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước ( so với năm 1994) tăng từ 28,9% lên gần 30,3%. Đồng thời tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nứơc tăng từ 32,76% lên 35,77%. Mặt khác tổng số lao động trực tiếp trong khu vực FDI tăng từ 819.000 người( cuối tháng 5/2005) đến 1.057.000 người hiện nay. Năm 2006 đánh dấu bước phát triển ngoạn mục của FDI vào Việt Nam. Cả nước có 833 dự án FDI mới với tổng vốn đăng ký là 7838 triệu USD và 486 dự án tăng vốn đầu tư 2362 triệu USD, gộp lại là 10,2 tỷ USD. Đây là năm có vốn đầu tư cao nhất trong gần 2 thập kỷ vừa qua Ta có bảng sau: Năm Số dự ỏn Vốn đăng ký triệu USD 1998 275 3897,0 1999 311 1568,0 2000 371 2012,4 2001 2002 2003 2004 2005 798 2006 833 7838 Bảng 1: Số dự án FDI được cấp giấy phép từ 1998-2006 Qua bảng số liệu trên ta thấy nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tăng rất nhanh cả số dự án lẫn số vốn đăng ký. Điều này cho ta thấy đựơc các nhà đầu tư nước ngoài đang rất tin tưởng vào môi trường đầu tư ở Việt Nam và chúng ta cũng rất tin tưởng rằng nước Việt Nam sẽ vững bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2 Xu thế đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đây 3.2.1 Sức hút của các vùng kinh tế trọng điểm ở nứơc ta: Kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 1997, xu hướng dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là đầu tàu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực phát triển kinh tế của nước ta, tạo sức lan toả của đầu tư nước ngoài sang các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Riêng năm 2005(20/12/2005) trong tổng số 798 dự án được cấp giấy phép (ngoại trừ một dự án dầu khí ngoài khơi) thì được thực hiện ở trên 40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Dẫn đầu Hồ Chí Minh với 243 dự án; Bình Dương 140 dự án; Đồng Nai có 87 dự án; Tây Ninh với 26 dự án. Tại khu vực phía Bắc có Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên trong đó Hà Nội có 103 dự án; Vĩnh Phúc: 24 dự án; Hải Phòng: 21 dự án. Các tỉnh khó khăn cũng thu hút được các dự án đầu tư như Lào Cai 5 dự án; Cao Bằng 3 dự án; Đắc Nông 2 dự án; ;Yên Bái 2 dự án. Với môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, thể hiện ở các chỉ tiêu vốn thực hiện, doanh thu, xuất khẩu, nộp chính sách nhà nước tăng. Chất lượng các dự án và các dự án phát triển vốn năm 2005 có chuyển biến tích cực, thu hút được một số dự án có quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến như xây dựng hệ thống điện thoại di động CDMA, dự án đầu tư phát triển như nghiên cứu phát triển và sản xuất mô tơ chính xác cao của tập đoàn NIDEC. Ngày càng có nhiều dự án của tập đoàn đa quốc gia quay trở lại mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Đến nay 95 công ty đa quốc gia đầu tư vào hơn 230 dự án FDI tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký ( kể cả phát triển vốn) là 10,6 tỷ USD. Hầu hết các công ty nói trên đều đầu tư vào dự án có quy mô lớn ( trên 45 triệu USD/ 1 dự án). Hoa Kỳ là nước có nguồn vốn đầu tư thực hiện ở Việt Nam nhiều nhất. Năm 2000 là 196 triệu USD; năm 2001 là 258 triệu USD; năm 2002 là 169 triệu USD; năm 2003 là 449 triệu USD; năm 2004 là 531 triệu USD. Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Tuy vậy cho đến nay vốn nước ngoài vẫn được đầu tư chủ yếu vào các địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế xã hội. Ngoài ra việc thu hút FDI theo vùng lãnh thổ nhằm kết hợp với việc khai thác các tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Đây cũng là một vấn đề cần được Đảng và nhà nước ta quan tâm hơn nữa. Sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo ngành Cơ cấu đầu tư ở nước ta trong những năm gần đây có sự chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng trong lĩnh vực dịch vụ. Riêng năm 2005, số dự án đầu tư nước ngoài vào ngành dịch vụ cấp mới là 193 dự án chiếm 24,19% với tổng vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD và 50 dự án tăng vốn chiếm 9,77% với tổng vốn tăng thêm gần 228 triệu USD. Tỷ trọng đầu tư vào ngành công nghiệp vẫn cao. Các ngành nông, lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn thấp hơn chứng tỏ quy mô dự án ở các lĩnh vực này tương đối nhỏ. Nguyên nhân của xu hướng chững lại trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông- lâm nghiệp là do đây là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro, thời gian thu hồi vốn dài, trình độ quản lý dự án còn nhiều hạn chế.Cũng trong lĩnh vực này các dự án nước ngoài lại tập trung ở các vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó 15 tỉnh thuộc trung du và miền núi phía Bắc, tuy vẫn là những địa bàn có nhiều tiềm năng mở rộng và phát triển nông- lâm nghiệp và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư, nhưng do điều kiện khó khăn nên hầu như có rất ít các dự án đầu tư nước ngoài nào vào lĩnh vực nông- lâm nghiệp ở các vùng này. Vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành như trên là tương đối phù hợp với chỉ số cơ cấu hiện đại, công nghiệp hoá: Công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp. Tuy vậy trong điều kiện của nước ta hiện nay, với đặc trưng của một nền kinh tế trong đó nông nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh thì tình hình thu hút FDI vào Việt Nam vào lĩnh vực này như hiện nay còn chưa tương xứng so với mong muốn và mục tiêu mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ như vậy là vì nông nghiệp là một trong những lĩnh vực mà đang có nhiều tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện khai thác. Và từ đặc điểm phân bố dân cư lao động, việc làm, nông nghiệp là một trong những mục tiêu căn bản để đánh giá mức độ thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo ra việc làm và thu nhập cho số đông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số người Việt Nam. 3.2.3 Dự báo tình hình FDI ở Việt Nam trong năm 2007: Vốn thực hiện đạt 4,2-4,5 tỷ USD, tăng 24% so với năm 2006 Cơ cấu ngành công nghiệp, xây dựng chiếm 60%, ngành nông-lâm- ngư nghiệp chiếm 6%, ngành dịch vụ chiếm 34%. Doanh thu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ( không kể dầu khí) là 17 tỷ USD ( tăng 23%so với năm 2006), nhập khẩu là 19 tỷ USD ( tăng 16,5% so với năm 2006) Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuyển thêm 24 vạn lao động trực tiếp, đưa tổng số lao động trong khu vực đầu tư nước ngoài đến cuối năm 2007 lên 1,4 triệu người. Vốn cấp mới đạt 6,8 tỷ USD ( tăng 5% so với năm 2006), trong đó vốn đầu tư cấp mới đạt khoảng 5 tỷ USD, số vốn còn lại là vốn tăng thêm. Những vấn đề còn mắc phải trong quá trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong những năm gần đây, thu hút đầu tư nước ngoài đã có sự chuyển hướng đúng đắn. Vốn đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam quý I năm 2005 tăng gần gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái, đạt hơn 1,56 tỷ USD. Trong đó tổng vốn đầu tư vào các dự án mới đạt hơn 1,2 tỷ USD. Một số dự án lớn được cấp giấy phép là khai thác điện thoại di động CDMA tại Hà Nội với tổng số vốn đầu tư gần 656 triệu USD; xây dựng tổ hợp toà nhà 65 tầng tại Hà Nội của công ty SA Coralis với tổng vốn đầu tư 114 triệu USD, sản xuất giầy ở công ty Pousung Việt Nam với tổng vốn 190 triệu USD ( theo nguồn của Bộ Kế hoạch đầu tư). Song để dòng vốn tiếp tục đổ vào Việt Nam, cải cách, thực thi pháp luật và nâng cấp cơ sở hạ tầng là điều kiện tiên quyết. Thứ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư Nguyễn Bích Đạt cho hay: xúc tiến đầu tư phải thực hiện có trọng điểm chứ không chung chung, đại trà như trước. Thực tế cho thấy, các tập đoàn lớn thường có mức đầu tư rất cao, trên 20 triệu USD trên 1 dự án, gấp 7 lần so với suất đầu tư trung bình hiện nay. Những tập đoàn như vậy có công nghệ và kỹ thuật cao có thể chuyển giao mà Việt Nam đang rất cần cho phát triển. Tuy nhiên để thu hút một tập đoàn xuyên quốc gia không phải là một điều đơn giản. Các nước nhận đầu tư phải nắm bắt chính xác định hướng đầu tư của họ, khu vực nào định xây nhà máy, đầu tư nghiên cứu và phát triển vào đâu…để tiếp thị phù hợp. Tổng giám đốc Canon Việt Nam Sachia kageyama cho biết, trước khi quyết định đầu tư 50 triệu USD xây dựng nhà máy sản xuất máy in laze lớn nhất thế giới tại Việt Nam, tập đoàn phải tiến hành nhiều cuộc khảo sát điều kiện đầu tư tại Việt Nam và các nước lân cận. Quyết định cuối cùng đựơc đưa ra một phần do Canon đầu tư nhà máy ở Việt Nam nên họ thông hiểu các chính sách. Tuy nhiên với một tập đoàn lạ nước, lạ cái thì quyết định đầu tư vào Việt Nam có thể rất khó khăn. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng Hợp tác Nhật Bản (IBIC), Việt Nam đứng thứ 4 trong số 10 quốc gia có triển vọng đầu tư nhất nhờ những lý do có liên quan đến sản xuất như chi phí lao động thấp, nguồn nhân lực chất lượng cao. Vấn đề chính các tập đoàn Nhật Bản lo ngại là hệ thống pháp luật ở nước ta còn kém, vận hành pháp luật không rõ ràng và cơ sở hạ tầng yếu. ông Tony Foster đại diện phòng thương mại Mỹ cho rằng Việt Nam cần tăng năng lực bốc xếp tại cảng để xử lý container. Hầu hết các cảng hiện nay đều quá đông, tình trạng duy tu và quản lý kém, thiết bị lạc hậu, hệ thống hạ tầng ra cảng không đáp ứng đựơc nhu cầu sử dụng ngày càng tăng. Vì vậy chi phí cao hơn cho các hãng tàu và nhà xuất nhập khẩu. Hạ tầng về điện nước cũng trong tình trạng tương tự trong khi đó rất nhiều dự án nước ngoài xin cấp giấy phép đầu tư đều thất bại như trường hợp của tập đoàn Suez Lyonnaise Pe Eaux, Thames,Anglicm. Nhiều dự án được cấp giấy phép nhưng lại khó khăn về đàm phán thực hiện khiến nhà đầu tư bỏ cuộc. Ví dụ dự án cấp nước BOT Thủ Đức được cấp phép năm 1997 nhưng không thực hiện cho đến khi nhà tài trợ chính thay đổi chiến lược toàn cầu và rời bỏ thị trường.Thiệt hại cho phía Việt Nam là150 triệu USD. Hay một hợp đồng hợp tác kinh doanh xây dựng hệ thống đường dây điện thoại và không dây được cấp giấy phép nhưng không thực hiện. Khi nhà tài trợ thay đổi thì thiệt hại cho Việt Nam là200 triệu USD. Quy định về bảo hộ sở hữu trí tuệ cũng khiến nhiều nhà đầu tư lo ngại. ở Hồng Kông, Singapo, không có các công ty trùng tên. Còn ở Việt Nam vẫn còn nhiều công ty sở hữu cùng một tên mà lại kinh doanh nhiều nghề khác nhau. Những cái tên công ty TNHH Hoà Bình, công ty thương mại Hoà Bình, công ty quảng cáo Hoà Bình…rất dễ gây nhầm lẫn, kiện tụng. Mong muốn lớn nhất của Việt Nam khi cấp phép cho các dự án lớn là sau thời gian nhất định được chuyển giao công nghệ hiện đại. Nhưng thực tế lại không diễn ra như vậy. Trong khoảng 12 năm qua chỉ có khoảng 150 hợp đồng chuyển giao khoa học công nghệ do bộ khoa học công nghệ chấp thuận và rất ít sản phẩm xuất khẩu từ Việt Nam dựa trên công nghệ mới. Luật đầu tư và luật doanh nghiệp năm 2005 đnghs dấu sự tiến bộ về môi trường pháp lý đối với đầu tư nứơc ngoài. Tuy nhiên việc triển khai 2 luật này trong giai đoạn đầu khó tránh khỏi khó khăn và vướng mắc do có nhiều quy định mới đòi hỏi cần phải có hướng giải quyết cụ thể. Trong thời gian qua, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được đầu tư nâng cấp nhưng không được bảo dưỡng, duy trì nên vẫn thuộc diện kém phát triển, còn nhiều bất cập, kém hấp dẫn so với nhiều nước trong khu vực, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh của nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tình trạng quá tải gây ách tắc giao thông, nguy cơ quá tải hệ thống mạng thông tin viễn thông, cảng biển…gây cản trở hoạt động sản xuất kinh doanh. Cải cách hành chính được đẩy mạnh song chưa đạt kết quả như mong muốn. Khâu quy hoạch, xây dựng và công bố danh mục dự án thu hút đầu tư nước ngoài chậm và còn nhiều bất cập. Tình trạng khan hiếm lao động có tay nghề cao và cán bộ quản lý đang có chiều hướng gia tăng gây cản trở việc thu hút các dự án có quy mô lớn, sản xuất sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật cao. Chi phí sản xuất gia tăng do giá cả một số mặt hàng nhất là nhiên liệu tăng đáng kể, chi phí tiền lương lớn sau khi tăng mức lương tối thiểu. Nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về luật lao động chưa tốt tiềm ẩn tình trạng đình công bất hợp pháp ở một số doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến môi trường đầu tư ở Việt Nam. Đó là những hạn chế mà Việt Nam còn mắc phải trong quá trình thực hiện. Vì vậy muốn phát triển toàn diện nền kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài thì chúng ta cần phải giải quyết triệt để và nhanh chóng những yếu kém về mọi mặt trong qúa trình thực hiện. Có như vậy nước ta mới có thể đứng vững được trên thị trường cạnh tranh khốc liệt này. 4. Một số giải pháp nhằm thu hút FDI tại Việt Nam Trước nhiều bức xúc và tồn tại, ngày 20/4/2205 Thủ tướng sẽ đến gặp gỡ cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để lắng nghe đề xuất của họ và tìm cách tháo gỡ. Sau đây là một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: 4.1: Phải có quan điểm và nhận thức đúng đắn về FDI Chúng ta phải nhận thức được rằng khu vực FDI là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế và ngày càng phát triển cùng với tiến trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, đó là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hóa , hoàn toàn không phải là giải pháp nhất thời để bù đắp tình trạng thiếu hụt vốn hiện tại. Chúng ta phải nhận thức rõ sự cần thiết và vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam để từ đó tạo nên sự ổn định, nhất quán trong xây dựng luật pháp, chính sách, chỉ đạo điều hành hoạt động FDI. 4.2: Kêu gọi đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài. Để kêu gọi đầu tư nước ngoài, chúng ta cần phải lập ra danh mục các dự án quốc gia kêu gọi đầu tư của nứơc ngoài. Đây chính là kim chỉ nan cho mọi hoạt động xúc tiến đầu tư đồng thời cũng là gợi ý cho các nhà đầu tư. Các dự án mà chúng ta kêu gọi cũng phải có tính khả thi. Vì vậy, trước khi đưa ra một dự án chúng ta cần phải xem xét, nghiên cứu, đánh giá để có quy hoạch phát triển mang tính khả thi tức là phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương và vùng lãnh thổ. Trước hết là cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật- xã hội và thu hút vốn đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp đã phê duyệt. 4.3: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về FDI 4.3.1: Về hệ thống pháp luật Việt Nam Pháp luật là một yếu tố vô cùng quan trọng để mọi hoạt động kinh tế xã hội có thể diễn ra một cách ổn định và có thể giám sát được. Vì vậy nếu một quốc gia mà không có một nền hiến pháp và pháp luật ổn định thì khó mà có thể đứng vững được. Trong sản xuất kinh doanh thì mọi hoạt động đều phải diễn ra theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng, điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng như hệ thống pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài, tạo điều kiện cho hoạt động FDI phát triển theo đúng định hướng phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với yêu cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Chỉ có như vậy thì các doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam mới có thể yên tâm để đầu tư những dự án lớn mà không còn phải lo về chính sách pháp luật không rõ ràng trước đây. Pháp luật Việt Nam phải rõ ràng, chi tiết, dễ hiểu, không gây sự hiểu nhầm cho mọi người. Không nên thường xuyên thay đổi các điều luật vì nó sẽ làm cho các doanh nghiệp trong nước cũng như các nhà đầu tư vào nước ta khó có thể nắm bắt được hết các điều luật mà nhà nứơc quy định. Từ đó sẽ dẫn tới sự tranh chấp, kiện tụng rất phức tạp và gây tổn thất cho cả hai bên. 4.3.2: Phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc đa dạng hoá các loại hình đầu tư nhằm khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới. Chúng ta nên nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư mới như công ty hợp doanh, công ty quản lý vốn, sửa đổi các điều luật của chính phủ về giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước theo hướng cho phép nhà đầu tư FDI mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê các doanh nghiệp trong nước. Tất cả những điều trên nhằm tạo cho các nhà đầu tư FDI nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung có được môi trường đầu tư rộng lớn hơn. Đồng thời để nước ta nhanh chóng bắt kịp với trình độ khoa học kỹ thuật, tiếp cận sâu rộng hơn với khu vực và thế giới, nhà nước ta cần khuyến khích đầu tư trong các lĩnh vực dịch vụ, khoa học công nghệ, dịch vụ thông tin, chuyển giao khoa học kỹ thuật hiện đại, phát triển nguồn nhân lực; từng bước mở rộng khả năng hợp tác trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, du lịch- những lĩnh vực mà nước ta còn nhiều tiềm năng. 4.3.3: Thực hiện giảm chi phí đầu tư. Nhà nước ta phải tiếp tục thực hiện giảm chi phí đầu tư và tiến tới một chế độ gia áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư FDI. 4.3.4: Tiếp tục cải cách hệ thống thuế: Chúng ta cần phải cải cách hệ thống thuế sao cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và cam kết quốc tế theo hứơng đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng thị trường ở Việt Nam để từ đó có khả năng nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm. Việc bảo hộ sản phẩm trong nước cũng cần được quan tâm nhất là trong xu thế hiện nay nước ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Đây vừa là thời cơ, điều kiện cho nước ta có thể phát triển kinh tế nhanh chóng nhưng nó cũng đặt ra vô vàn những thách thức và khó khăn yêu cầu chúng ta phải vượt qua. Do đó bảo họ sản xuất không chỉ là riêng cho doanh nghiệp Việt Nam mà cả những doanh nghiệp FDI trên đất nước Việt Nam vì nó là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng kiên quyết không bảo hộ những cung cách làm ăn không có hiệu quả gây cản bước cho tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam. 4.3.5 : Giải quyết các vấn đề về đất đai: Việc giải phóng mặt bằng đang là vấn đề gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong tiến trình thực hiện các dự án đầu tư ở Việt Nam hiện nay. Có rất nhiều các dự án đã được phê duyệt nhưng tình trạng giải phóng mặt bằng để thi công xây dựng diễn ra vô cùng chậm chạp, gây tổn thất nhiều tiền của và công sức.Vì vậy, mỗi khi một dự án đầu tư đã được cấp giấy phép hoạt động mà cần đến việc giải phóng mặt bằng thì nhà nước ta phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để công việc được diễn ra một cách nhanh chóng nhất. Ngoài ra đối với các dự án cần thuê đất thì nhà nứơc ta nên tạo mọi điều kiện để các nhà đầu tư có thể thuê đất trong thời gian dài và tiếp tục thuê trong thời gian sau đó nhằm tạo cho các nhà đầu tư có thể yên tâm mở rộng qui mô đầu tư. 4.4 : Hoàn thiện hệ thống giao thông vận tải. Giao thông vận tải đóng vai trò rất quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nứơc ngoài. Một đất nứơc mà có hệ thống giao thông vận tải kém phát triển thì khó có thể kéo các nhà đầu tư về phía mình vì mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần tới sự tham gia của hoạt động giao thông vận tải. Chính vì vậy để thu hút các nguồn vốn đầu tư cũng như để tăng tiềm lực kinh tế của đất nứơc thì chúng ta phải hoàn thiện thêm hệ thống giao thông vận tải và vận hành nó hoạt động một cách thông suốt. Đồng thời với việc xây dựng mạng lưới giao thông vận tải là quá trình bảo dưỡng và duy trì hệ thống vì nếu chỉ chú trọng xây dựng mà không quan tâm đến vấn đề tu bổ thì chẳng mấy chốc các công trình sẽ bị hỏng hóc, gây nhiều thiệt hại về tiền bạc cho nhà nước. 4.5: Nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nứơc đối với các hoạt động FDI Nhà nứơc, các bộ, các ngành, uỷ ban nhân dân các cấp cần nâng cao trách nhiệm của mình trong việc quản lý các doanh nghiệp FDI theo luật định, đảm bảo hiệu quả của việc xử lý các tình huống xảy ra trong quá trình hoạt động. Chúng ta phải luôn luôn tìm hiểu các vấn đề khó khăn vướng mắc của họ để có thể kịp thời khắc phục, tạo cho các nhà đầu tư một niềm tin để họ luôn yên tâm khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó nhà nứơc, các Bộ, ngành trung ương phải chú trọng quản lý đối với các hoạt động sau khi đựơc cấp giấy phép của các dự án FDI. Có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, quy định về đầu tư nứơc ngoài theo đúng luật định, phải chấm dứt ngay hiệu lực của các giấy phép đầu tư cấp sai quy định. Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải thường xuyên rà soát, phân loại các dự án FDI đã được cấp giấy phép đầu tư để có những biện pháp thích hợp, kịp thời tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp FDI. Đối với các dự án đã đi vào hoạt động thì nhà nước ta cần tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư của mình. Đối với các dự án chưa triển khai hoặc không có triển vọng thực hiện thì cần kiên quyết thu hồi giấy phép đầu tư và dành địa điểm cho nhà đầu tư khác. 4.6: Cải tiến các thủ tục hành chính Về thủ tục hành chính nhất thiết phải minh bạch hoá qui trình, nhất là thủ tục hành chính đối với đằu tư nước ngoài. Tăng cường thực hiện cơ chế một cửa trong giải quyết thủ tục đầu tư, rà soát các vướng mắc trong mọi lĩnh vực nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp giấy phép đầu tư mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư. Muốn vậy chúng ta cần phải: -Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương. Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh. - Cải tiến các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá các thủ tục cấp giấy phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án cấp giấy phép đầu tư, bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động FDI. -Kiên quyết xử lý các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cự._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32053.doc