Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn Hà Tĩnh

Lời nói đầu Bắc Trung Bộ kéo dài từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên Huế, xưa nay nổi tiếng là vùng đất không được thiên nhiên ưu đãi, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, bão lụt, hạn hán thường xuyên xảy ra. Dân số trong vùng tăng nhanh, gần 88% dân cư sống ở nông thôn và hơn 80% trong số đó sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, việc làm thiếu, mức sống thấp, số hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ cao. Đó thực sự là thách thức lớn đối với các cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân vùng Bắc Trung Bộ trong quá trình C

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ nhiều năm qua, ngay trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách và thực hiện nhiều giải pháp nhằm giải quyết tình trạng thiếu việc làm, xoá đói, giảm nghèo trên phạm vi cả nước, đặc biệt là ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Năm 1999, Chính phủ đã dành trên 600 tỷ đồng cho chương trình xoá đói, giảm nghèo và đã mang lại hiệu quả thiết thực, đuợc các tổ chức quốc tế thừa nhận. Đến nay, ở tất cả 61 tỉnh, thành phố, 603 quận, huyện và 9200 phường, xã đều có Ban chỉ đạo xoá đói, giảm nghèo. Mặc dầu vậy, công tác xoá đói, giảm nghèo vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Tỷ lệ hộ nghèo, người nghèo có giảm nhưng chậm và chưa ổn định, một bộ phận dân cư có nguy cơ trở lại đói nghèo. ở một số vùng, một số địa phương, người dân chưa thực sự cảm nhận được sự chuyển biến tích cực của chính sách đổi mới, đời sống vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn. Hà Tĩnh là một trong số các tỉnh còn gặp nhiều khó khăn trong đời sống và sản xuất ở vùng Bắc Trung Bộ. Đây là một tỉnh thuộc diện đói nghèo nhất khu vực này. Để góp phần xoá đói, giảm nghèo chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm cải thiện mức sống cho người dân, đưa dân cư nông thôn thoát ra khỏi đói nghèo. Sau đây là những nghiên cứu sơ bộ về các giải pháp giúp xoá đói nghèo cho tỉnh Hã Tĩnh nói riêng và khu vực Bắc Trung Bộ nói chung. I. Một số vấn đề về lí luận 1, Khái niệm về nghèo đói. a, Quan niệm chung về đói nghèo Có nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói, song quan niệm chung nhất cho rằng: nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, ở, mặc, vệ sinh, y tế, giáo dục…. Tình trạng nghèo đói ở mỗi quốc gia có khác nhau về mức độ và số lượng, thay đổi theo thời gian và không gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống trung bình hoặc khá so với quốc gia khác. Nghèo đói mang nghĩa tương đối. Có thể xem xét nghèo đói trên 4 khía cạnh: theo thời gian, không gian, giới và môi trường. Về thời gian: Người nghèo là những người có mức sống dưới mức được xem như là tối thiểu có thể chấp nhận được trong một thời gian dài. Tuy nhiên có những người nghèo trong một khoảng thời gian nhất định như những người thất nghiệp hoặc những người mới nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên nhiên hay do con người sinh ra. Về không gian: Nghèo đói chủ yếu là ở khu vực nông thôn, nơi có 3/4 dân cư sinh sống. Tuy nhiên, tình trạng nghèo đói ở thành thị cũng là vấn đề đáng quan tâm. Về giới: Đa số người nghèo là phụ nữ. Phần lớn các gia đình do nữ làm chủ đều là những gia đình nghèo. Về môi trường: Hầu hết người nghèo đều sống ở các vùng sinh thái khắc nghiệt, tình trạng nghèo và xuống cấp của môi trường làm trầm trọng thêm tình trạng này. Nghèo đói tuyệt đối là tình trạng mà những người nghèo không đạt được một mức sống tối thiểu quy định. Còn nghèo đói tương đối để chỉ mức nghèo trong mối quan hệ so sánh giữa người nghèo với cư dân khác trong xã hội. Nghèo sơ cấp hay còn gọi là nghèo hữu hình là tình trạng mức sống của người được nghiên cứu thấp đến mức họ không tự đảm bảo được sự tồn tại có tính hữu hình của họ. Nghèo thứ cấp là nghèo về tinh thần, là sự thiếu thốn trong lĩnh vực tâm lý xã hội. Tóm lại, những quan niệm về nghèo đói do cách tiếp cận khác nhau nên có những kiến giải khác nhau. Sự nghèo khổ là một khái niệm tương đối và có tính biến đổi. Điều quan trọng về mặt nhận thức khoa học khái niệm này là định được giới hạn của sự nghèo khổ, từ đó lượng hoá bằng các chỉ số có giá trị xác định. Các chỉ số đó cũng lại phản ánh sự nghèo khổ không phải một cách cứng nhắc, bất biến mà biến đổi một cách tương ứng theo độ chênh lệch, khác biệt giữa các vùng. b, Quan niệm đói nghèo của Việt Nam Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, có thể xác lập các chỉ tiêu đánh giá về đói nghèo theo mấy chỉ tiêu chính sau đây: Thu nhập; Nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu sản xuất và vốn liếng để dành. Trong 4 chỉ tiêu này cần đặc biệt chú ý chỉ tiêu về thu nhập và nhà ở. Hai chỉ tiêu này phản ánh trực tiếp mức sống hay mức độ thực hiện các nhu cầu cơ bản tối thiểu của đời sống. Hai chỉ tiêu tiếp theo: tư liệu sản xuất và vốn liếng để dành cũng có ý nghĩa không nhỏ. Nó cho thấy rõ thêm tình cảnh thật sự của người nghèo và các hộ đói nghèo, nhất là ở nông thôn. trong thực tế đã lâm vào cảnh đói nghèo thì thường tư liệu sản xuất hết sức ít ỏi, nghèo nàn, kém giá trị sử dụng và khai thác để làm ra của cải. Dưới đây ta xem xét nội dung các chỉ tiêu đó. - Chỉ tiêu về thu nhập và các nguồn thu nhập. Đó là tổng thu V+M từ tất cả các nguồn chính tính bình quân theo đầu người trên tháng. Các loại đối tượng khác nhau thì có các nguồn thu nhập khác nhau. Công nhân viên chức ở cơ quan và doanh nghiệp có nguồn thu từ lương và các nguồn thu ngoài lương nhưng vẫn thuộc các cơ quan, doanh nghiệp, cộng với thu từ các hoạt động khác( kinh tế gia đình, làm thêm ngoài giờ). Nông dân có nguồn thu nhập từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp và thu từ các hoạt động không kết cấu( bao gồm phần phi nông nghiệp của VAC, nghề phụ, chạy chợ…). Cơ cấu sử dụng thu nhập cho các nhu cầu tối thiểu là 15,1 đến 16,2 kg gạo/người/tháng, bao gồm: + Ăn : 13 kg/người/tháng + Mặc + ở ( chi phí sửa chữa nhà cửa) : 2,1 kg + Văn hoá + y tế + Giáo dục + Đi lại : 1,1 kg Như vậy, theo số liệu như thì nghèo tuyệt đối là tình trạng dân cư chỉ có thu nhập đảm bảo mức sống dưới mức tối thiểu, tức dưới 15kg gạo/người/tháng. Người nghèo tuyệt đối và hộ nghèo tuyệt đối đương nhiên là không có điều kiện để thực hiện các nhu cầu về văn hoá, giáo dục, y tế và đời sống tinh thần nói chung. Còn nghèo tương đối được xác định cho tình trạng dân cư có mức thu nhập dưới mức trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét. Cũng theo số liệu này, nếu thu nhập dưới ngưỡng của nghèo là đói. Mức dưới ngưỡng càng xa thì đói càng gay gắt. Do đó, có thể phân biệt hai mức độ của đói là: thiếu đói và đói gay gắt. Thiếu đói là tình trạng dân cư có thu nhập dưới 12 kg gạo/người/tháng. Còn đói gay gắt là tình trạng dân cư có mức thu nhập dưới 8 kg gạo/người/tháng. Về mặt thu nhập tính theo giá trị đồng tiền thì thiếu đói có nghĩa là bộ phận dân cư ở nông thôn có thu nhập dưới mức 20.400đ/người/tháng hoặc 245.000đ/người/năm. Tương ứng như vậy ở thành thị là dưới mức 24.500đ/người/tháng hoặc 294.000đ/người/năm. Đói gay gắt: bộ phận dân cư ở nông thôn có thu nhập dưới mức 13.600đ/người/tháng hoặc 163.000đ/người/năm. Bộ phận dân cư ở đô thị dưới mức 16.300đ./nguời/tháng hoặc 196.000đ/người/năm. - Chỉ tiêu về nhà ở và tiện nghi sinh hoạt. Những người nghèo đói thường sống trong những căn hộ tồi tàn, nhà tranh vách đất( miền Bắc), nhà lá dừa nước, lợp tôn( miền Nam). Đồ dùng sinh hoạt không có gì ngoài giường gỗ, tre, phản, chõng và vài thứ khác, ở dưới mức trung bình về chất lượng và tồi tàn về thể chất. Tuy nhiên, có một số người tuy nghèo đói vẫn có thể ở nhà xây, có vài đồ dùng khá, đó là tài sản do cha ông để lại hoặc đó là dấu tích của thời khá giả còn lại trước khi rơi vào nghèo khổ. - Chỉ tiêu về tư liệu sản xuất. Những người nghèo đói có ít tư liệu sản xuất, phần lớn thô sơ, đất đai, vườn ao hầu như không có, một bộ phận thiếu ruộng đất để sản xuất. - Chỉ tiêu về vốn. Những người nghèo không có vốn để dành. Họ thường phải vay nợ và những người đói gay gắt lại thường phải vay nợ để mua lương thực cứu đói. ở một số nơi cho vay nặng lãi, người nghèo không trả nợ được, nợ nần ngày càng chồng chất. Đã không ít trường hợp phải gán ruộng vườn, bán sản phẩm chưa kịp thu hoạch hoặc làm thuê trả nợ… Từ những chỉ tiêu đánh giá trên, chúng ta càng thấy rõ thêm những đặc trưng kinh tế - xã hội của hiện tượng đói nghèo, nổi bật nhất là về mặt kinh tế. Các hậu quả tiêu cực của đói nghèo, xét từ bình diện xã hội, đều bắt nguồn và phát sinh trực tiếp từ căn nguyên kinh tế. Do đó, vấn đề bức xúc nhất là phải xoá đói, giảm nghèo về kinh tế. Các biện pháp xoá đói, giảm nghèo trước hết và căn bản là các biện pháp kinh tế,các chính sách đầu tư phát triển kinh tế,đồng thời không xem nhẹ lĩnh vực xã hội và các chính sách xã hội. Tạo thêm việc làm mới, ngành nghề mới, thu hút sức lao động của người nghèo vào các chỗ làm mới, chính sách cho vay và hỗ trợ kinh tế- sản xuất của nông dân nghèo, ngân hàng phục vụ người nghèo… là những biện pháp và chính sách góp phần thực hiện Chương trình xoá đói, giảm nghèo ở nước ta . 2, Xác định mức nghèo đói Khi đánh giá về vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau đã lựa chọn phương pháp đánh giá và chỉ tiêu cơ bản giống nhau. Song cách xác định và mức cụ thể có những khía cạnh khác nhau. Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng( hoặc năm) được đo lường bằng chỉ tiêu giá trị hoặc hiện vật quy đổi. Chỉ tiêu phụ: Dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại. Để đưa ra một giới hạn nghèo đói đòi hỏi phải xác định các thành phần khác nhau của mức sống như: lương thực, y tế, giáo dục, điều kiện nhà ở… Theo quan niệm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có mức thu nhập dưới 1/3 mức trung bình xã hội. Tuy nhiên, do đặc điểm kinh tế xã hội và lối sống khác nhau, ngưỡng nghèo đói theo thu nhập cũng khác nhau ở từng quốc gia. Xác định ranh giới nghèo đói còn dựa trên cơ sởmức tiêu dùng bao gồm 2 yếu tố: lương thực, thực phẩm và các nhu cầu cần thiết khác. Trong các nhu cầu cơ bản, ăn là quan trọng nhất cho nên có một số nước dùng lượng calo làm chỉ tiêu phân loại. Thành thị: Nghèo < 30 Nghèo tuyệt đối < 22 Đói < 12 Như vậy, nếu chúng ta tính toán theo phương pháp chung của quốc tế thì tỷ lệ nghèo khổ cao nhất là Khu IV cũ( 73,1%), tiếp đến là Tây Nguyên (65,6%), miền núi và trung du Bắc Bộ (63,7%), đồng bằng sông Hồng (44,4%), Đông Nam Bộ (41,2%), thấp nhất là ở thành thị (32%). Từ căn cứ trên, nhìn nhận một cách có cơ sở tình trạng nghèo đói để có biện pháp thích hợp chống đói là một vấn đề có ý nghĩa. 3, Nguyên nhân nghèo đói. Nguyên nhân của nghèo đói rất đa dạng, nó chịu tác động của nhiều nguyên nhân khác nhau, thường không phải chỉ 1-2 nguyên nhân mà làtổng hợp của nhiều nguyên nhân. ở đây nguyên nhân của tình trạng nghèo đói là có sự đan xen, thâm nhập vào nhau cả cái tất yếu lẫn ngẫu nhiên, cả cái cơ bản va tức thời, cả nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp, cả khách quan lẫn chủ quan, tự nhiên lẫn kinh tế- xã hội. Ta có thể đưa ra các nhóm nguyên nhân, trong mỗi nhóm lại bao gồm các nguyên nhân cụ thể sau: Nhóm 1: Do bản thân người nghèo: không biết làm ăn, thiếu hoặc không có vốn, đông con, neo đơn, thiếu lao động, ăn tiêu lãng phí, lười lao động, mắc vào tệ nạn xã hội. Nhóm 2: Do điều kiện tự nhiên và môi trường: đất canh tác ít và xấu, thời tiết không thuận lợi, bất lợi về địa lý. Nhóm 3: Do thể chế, chính sách và cơ chế lạc hậu: không đồng bộ, không phù hợp với thực tiễn, không có sự quan tâm và khuyến khích phát triển sản xuất, hoặc áp dụng chính sách cứng nhắc… Tổng hợp các nguyên nhân trên chúng ta thấy: nhóm 1 có nguyên nhân chủ yếu là do đối tượng, nhóm 2 và 3 có tính khách quan. Cả ba nhóm này có tác động vào đối tượng trong không gian và thời gian, dẫn đến tình trạng đói nghèo. Kết quả điều tra xã hội học về nguyên nhân đói nghèo của các hộ gia đình nông dân cho thấy: + Thiếu vốn: chiếm 70- 90% tổng số hộ được điều tra + Đông con: chiếm 50- 60% + Thiếu kinh nghiệm làm ăn: 40- 50% + Rủi ro, đau ốm nặng: 10- 15% + Neo đơn, thiếu lao động: 6- 15% + Lười lao động, ăn tiêu lãng phí: 5- 6% + Mắc các tệ nạn xã hội: 2- 3% Kết quả thu được đã xác nhận giả thiết nghiên cứu cho rằng thiếu vốn và đông con cũng như thiếu kinh nghiệm làm ăn là những nguyên nhân quan trọng và phổ biến nhất của đói nghèo. Dùng phương pháp điều tra xã hội học để kiểm chứng trên thực tế cho thấy cách phân loại theo ba nhóm nguyên nhân trên là hợp lý và có sức thuyết phục. 4, Tình trạng nghèo đói trên thế giới và kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo của các nước trong khu vực a, Tình hình nghèo đói trên thế giới. Để có chiến lược chống nghèo đói trên toàn cầu, năm 1996 các tổ chức Liên hiệp quốc đã tiến hành khảo sát tình hình nghèo khổ của các nước đang phát triển. Mức xác định nghèo đói được dựa vào sức mua tính theo USD trên đầu người/năm. Năm 1985 là 378 USD. Ranh giới để xác định người cực nghèo là 275 USD/người/năm. Tỷ số nghèo đói được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa số người nghèo đói với tổng số dân. Khoảng cách nghèo đói được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa thiếu hụt trong thu nhập của người nghèo với tổng tiêu dùng. Theo Ravallion, Datt và Chen năm 1992, mức nghèo khổ của các nước đang phát triển thời kỳ 1985-2000 như ở biểu sau: Bảng: Tình trạng nghèo khổ ở các nước đang phát triển thời kỳ 1985 - 2000 Châu lục Tỷ lệ dân số dưới ngưỡng nghèo(%) Số người nghèo (triệu người) 1985 1990 2000 1985 1990 2000 Bình quân chung của các nước đang phát triển 30,5 29,7 24,1 1.051 1.133 1.107 Trong đó -Nam á 51,8 49,0 36,9 532 562 511 -Đông á 13,2 11,3 4,2 182 169 73 -Châu Phi cận Sahara 47,6 47,8 49,7 184 216 304 -Trung Đông và Bắc Phi 30,6 33,1 30,6 60 73 89 -Đông Âu 7,1 7,1 5,8 5 5 4 -Châu Mỹ la tinh và Caribê 22,7 25,5 24,9 87 108 126 Vùng Đông á, Châu Phi( sa mạc Sahara) là nơi tập trung đông người nghèo đói của thế giới. Mức độ nghèo đói tỷ lệ nghịch với sự phát triển của sản xuất, tỷ lệ thuận cới sự thất học và tỷ lệ tử vong. Khoảng cách nghèo đói ở những nước đông người nghèo càng cao tức là mức độ đáp ứng nhu cầu ở đó càng thấp. Theo tài liệu của WB( Ngân hàng Thế giới) năm 1993 trong số 185 nước thì có 46 nước thuộc diện thu nhập thấp dưới 500 USD/người/năm với số dân 2915 triệu người chiếm 56,1% dân số thế giới. Trong đó có 9 nước với khoảng 245 triệu dân có mức GNP thấp dưới 200 USD sống trong tình trạng nghèo khổ nhất. Để giảm nghèo khổ, Chính phủ nhiều nước đã đề ra các chính sách, biện pháp như: giảm gia tăng dân số, an toàn xã hội có mục tiêu, tăng trưởng kinh tế, môi trường, cải cách ruộng đất, tín dụng. b, Kinh nghiệm các nước trên thế giới về giải quyết tình trạng nghèo đói Kinh nghiệm chung Các giải pháp chống nghèo đói rất đa dạng và có liên quan mật thiết với nhau. Nhiều nước đã kiến nghị các nước có công nghiệp phát triển xoá bỏ hoặc giảm nợ nần cho các nước kém phát triển ở Châu Phi. Các nước có công nghiệp phát triển đã viện trợ cho các nước nghèo đói nhưng với tỷ lệ rất thấp khoảng 0.36% tổng sản lượng quốc dân. Nhiều nước cũng đã dùng biện pháp hỗ trợ trực tiếp nhưng chỉ được một lượng nhỏ. Đối với các nước đang phát triển Chính phủ có những chính sách và biện pháp cụ thể sau: Làm giảm sự giao động giá cả theo mùa vụ như giá lương thực, thực phẩm…. Biện pháp này đã có tác dụng ổn định đời sống người nông dân, thúc đẩy sản xuất phát triển và đặc biệt có tác động thiết thực với người nghèo, vì họ không có khả năng dự trữ lương thực, thực phẩm từ vụ này sang vụ khác. Thông qua các dự án phát triển nông nghiệp trực tiếp phân phối những nhu yếu phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản nhất cho người nghèo để có thể vượt qua những thời điểm khó khăn nhất. Trực tiếp tạo việc làm cho người nghèo phù hợp với năng lực và trình độ lao động của họ. Trợ giúp người nghèo thông qua các chương trình xã hội có cơ hội tìm kiếm việc làm, xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển ngành nghề nổi bật, hướng vàô các nhóm nghèo khổ đặc thù nhằm giúp họ nhanh chóng giảm bớt nghèo đói. Hình thành các loại quỹ hỗ trợ cho người nghèo thông qua tín dụng với lãi suất phù hợp nhằm tăng năng lực sản xuất tạo việc làm, tăng thu nhập, có tiết kiệm, tăng đầu tư tái sản xuất. Tổ chức tập hợp người nghèo thành từng nhóm, tổ hội trong cộng đồng để tạo điều kiện và giúp họ phát triển sản xuất, giải quyết khó khăn…. Tóm lại, đối với người nghèo tài sản duy nhất của họ là sức lao động, nhưng sức lao động thấp, kém khả năng cạnh tranh, vì vậy trước hết cần quan tâm năng lực làm việc của ngươig nghèo giúp họ có khả năng tiếp nhận cơ hội việc làm đểtạo ra thu nhập và nâng cao đời sống của họ và gia đình họ. Đồng thời Nhà nước và xã hội bảo đảm một phần cho người nghèo những dịch vụ xã hội tối thiểu như chăm sóc sức khoẻ ban đầu, kế hoạch hoá sinh đẻ, phổ cập giáo dục… Kinh nghiệm một số nước trong khu vực Từ những thập kỷ 50 của thế kỷ này, các nước Đông Nam á đã có chính sách chống đói nghèo, tuỳ theo mỗi thời kỳ họ đã có những mục tiêu và hướng giải quyết thích hợp. Thập kỷ 50-60: Lấy tăng trưởng là biện pháp chủ yếu để giảm bớt đói nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống. Thập kỷ 70: Coi trọng sự tác động trực tiếp vào lĩnh vực y tế, dinh dưỡng và giáo dục. Thập kỷ 80: Kết hợp việc sử dụng sức lao động của người nghèo bằng kích thích thị trường, chú ý cơ sở hạ tầng, công nghệ, tổ chức xã hội, tạo cho họ cơ hội trực tiếp tham gia vào lao động sản xuất với việc đảm bảo dịch vụ cho người nghèo như bảo hiểm xã hội, y tế, dinh dưỡng, giáo dục…. Thập kỷ 90: Thực hiện công bằng xã hội trong tăng trưởng kinh tế tức là làm cho mọi người dân thoát khỏi giới hạn của nghèo khổ, từng bước được cải thiện tương ứng với sự tăng trưởng kinh tế, làm cho mọi người dân đều được hưởng thành quả của sự phát triển kinh tế xã hội, đều được cung cấp tư liệu sinh hoạt và tư liệu sản xuất để tồn tại và phát triển. Sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ bằng các chính sách có tầm quan trọng đặc biệt ở tầm chiến lược vĩ mô trong việc thực hiện giảm bớt đói nghèo. Chẳng hạn như các chương trình phát triển nông thôn tổng hợp, chương trình phát triển vùng, đặc biệt đối với các vùng nghèo khổ, gặp khó khăn trong sản xuất, đời sống, các chương trình tín dụng, đặc biệt là dành cho từng nhóm đối tượng( chủ trang trại nhỏ, phụ nữ nông thôn, dân nghèo không có ruộng…), thực hiện cải cách ruộng đất nhằm phân phối lại số ruộng đất dư thừa so với tối đa đã quy định, phụ nữ nông thôn, dân nghèo không có ruộng…), thực hiện cải cách ruộng đất nhằm phân phối lại số ruộng đất dư thừa so với tối đa đã quy định; đảm bảo các nhu cầu cơ bản để cải thiện phúc lợi xã hội và tiêu dùng cho người nghèo như chăm sóc sức khoẻ ban đầu, giáo dục, trợ cấp lương thực, thực phẩm; cung cấp hoặc trợ cấp không hoàn laị đặc biệt là sau khi xảy ra thiên tai. Kinh nghiệm của các nước Đông Nam á cho thấy, tăng trưởng kinh tế là cần thiết song không thể chỉ dựa hoàn toàn vào tăng truởng kinh tế để xoá đói giảm nghèo. Thành công của Trung Quốc trong vấn đề này không chỉ do tăng trưởng kinh tế, mà còn do những biệm pháp giải quyết việc làm ở nông thôn, mở rộng hệ thống dạy nghề, tăng kỹ thuật mới, giảm nhẹ điều kiện làm việc, cải thiện điều kiện sống. Kinh nghiệm của Trung Quốc trong cải cách với phát triển công nghiệp nông thôn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế, cải tạo kinh tế thuần nông “Ly nông bất ly hương”. Chính vì vậy, tuy là một nước đông dân nhất thế giới nhưng Trung Quốc lại là nước có tỷ lệ số người sống ở mức nghèo khổ thấp nhất (năm 1991 còn 87 triệu người sống dưới mức nghèo khổ, 27triệu người là bần cùng).Để có thể tác động đến một bộ phận dân cư đang ở tình trạng nghèo khổ, ngoài sự tăng trưởng kinh tế, các quốc gia phải hình thành những chương trình xoá đói, giảm nghèo. Việc xác định này là phù hợp vơi điều kiện để loại trừ tính chủ quan, nóng vội và đơn giản hoá vấn đề đói nghèo vốn là một vấn đề hết sức phức tạp, lâu dài. Ngoài những kinh nghiệm của Trung Quốc, còn phải nói tới mô hình của Inđônêsia, Malaysia và Thái Lan. Indonesia và Thái Lan áp dụng việc loại trừ đói nghèo ở từng vùng trọng điểm thông qua chính sách phát triển. Từ những năm 70, Chính phủ Indonesia đã dùng phần lớn số tiền từ khai thác dầu để phát triển kinh tế và tập trung loại trừ nghèo đói ở vùng Java. Hiện nay đất nước nừy lại tiếp tục hướng về giải quyết đói nghèo ở các vùng khác. Kết quả thu được là khả quan. Đã giảm từ 70 triệu người nghèo khổ (60% dân số) trong thập niên 70 xuống con 27 triệu người nghèo đói( 15% dân số) vào đầu thập niên 90. Malaysia: Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế với các biện pháp để thực hiện chính sách là: tăng cường vai trò kinh tế quốc doanh; chương trình chống nghèo đói hướng về nông thôn, chương trình phát triển nông nghiệp nhằm vào việc trợ giúp nông dân canh tác trên những mảnh đất nhỏ và bổ sung ruộng đất cho họ và giúp đỡ nông dân trong quá trình sản xuất; Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ, tạo công ăn việc làm, thu hút lực lượng lao động nông thôn; Cải tiến điều kiện sống của người lao động như cung cấp nhà ở, điện nước, chăm sóc sức khoẻ, kế hoạch hoá gia đình; Tăng cường đầu tư…Malaysia giảm từ 20,7% nghèo đói năm 1986 xuống còn 17,1% năm 1990. Bangladesh là một trong những nước có tỷ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ lớn nhất thế giới. Nhiều hộ nông dân nghèo không có vốn sản xuất, trong khi đó Ngân hàng nông nghiệp có vốn nhàn rỗi không dám cho người nghèo vay vì không có tài sản thế chấp, tình trạng tư nhân cho vay nặng lãi gây khó khăn cho người nghèo. Ngân hàng đã cho người nghèo vay vốn mà không đòi hỏi tài sản thế chấp; Cho vay đến tận tay người nghèo, hình thành các nhóm nhỏ 5-6 người (hoặc hộ) tại thôn xóm và hình thành các trung tâm tại các xóm, làng với thủ tục đơn giản, hướng dẫn chu đáo. Như vậy với kinh nghiệm của Bangladesh thông qua tín dụng trực tiếp đối với người nghèo, giúp họ có vốn sản xuất, tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Từ những năm 80 và hiện nay, Thái Lan áp dụng mô hình gắn liền chính sách phát triển quốc gia với chính sách phát triển nông thôn thông qua hình thành phát triển xí nghiệp ở làng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp nhỏ, mở rộng các trung tâm dạy nghề ở nông thôn để giảm bớt nghèo khổ. Nhờ hoạt động của Ban phát triển nông thôn (IBI RD) và tổ chức Hiệp hội dân số và phát triển cộng đồng(PDA) theo mô hình trên, tỷ lệ người nghèo ở Thái Lan từ 30% dân số trong thập niên 80 đã giảm xuống còn 23% dân số năm 1990( 13 triệu người). Nghiên cứu kinh nghiệm giảm bớt đói nghèo của các nước trong khu vực, nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh tới yêu cầu công bàng và giảm nghèo, coi đó là những chuẩn mực, những tiêu chí hướng đích mà các chính sách phát triển xã hội phải đạt tới, nhất là sự kết hợp giữa các chính sách dài hạn và các chính sách ngắn hạn phục vụ trực tiếp cho chiến lược xoá đói, giảm nghèo. Có thể tóm tắt chính sách xoá đói, giảm nghèo của các nước quanh vùng gần giống điều kiện nước ta như sau: Đẩy mạnh việc phát triển nông nghiệp và nông thôn, coi đây là khu vực và đối tượng ưu tiên trọng điểm. Tạo việc làm và tăng thu nhập ở thành thị. Đầu tư vào con người và phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững…. Ngoài các chính sách dài hạn, có tính chiến lược nêu trên, còn có những chính sách ngắn hạn như những biện pháp trước mắt để giảm nghèo. Các nước Đông Nam á đã chú trọng những biện pháp sau đây: Tăng tài sản do người nghèo sở hữu ruộng đất, hạn chế bóc lột bằng cách tổ chức hợp tác xã, trợ giá đầu vào, cho vay tín dụng với lãi suất thấp, đầu tư vào giáo dục, sức khoẻ. Tăng giá hàng hoá và dịch vụ do người nghèo cung cấp, hỗ trợ người nghèo về mặt kỹ thuệt để tăng năng suất, tổ chức hợp tác xã cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra, tạo thị truờng sức lao động để tạo việc làm, tăng thu nhập…. Tăng khối lượng hàng hoá do người nghèo bán ra, thực chất là giúp cho nông dân nghèo đi vào sản xuất hàng hoá. áp dụng các nhóm biện pháp xã hội nhằm phân phối lại thu nhập và bảo hiểm xã hội. Các biện pháp này có tính chất ưu đãi cho đối tượng người nghèo không có khả năng lao động. Trợ giúp lương thực, cung cấp lương thực để làm công trình công cộng( trồng rừng, xây dựng kết cấu hạ tầng), cứu tế trong trường hợp đặc biệt II. Thực trạng nghèo đói ở nông thôn Hà Tĩnh. 1, Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh. a, Điều kiện tự nhiên Hà Tĩnh nằm hoàn toàn trong miền nhiệt đới của bắc cầu. Có các cánh đồng phì nhiêu ở Can Lộc, Đức thọ, có biển ở phía đông và rừng núi ở phía tây. Hà Tĩnh nằm trong vùng khí hậu Bắc Trung Bộ với đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ bình quân năm 22-250C, lượng mưa 2.500 mm, lượng bốc hơi 960 - 1.200 mm, độ ẩm trung bình 85%. Hà Tĩnh có một mạng lưới sông ngòi dày đặc và đều xuất phát từ Đông Trường Sơn chảy ra biển, sông ngắn, độ dốc lớn, sự phân bố mật độ lưới sông tương đối đều, các hạ lưu đều bị ảnh hưởng của thuỷ triều. Là một tỉnh có quy mô diện tích trung bình so với các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, diện tích tự nhiên 605.395 ha( chiếm 11,8% diện tích của vùng). Phía bắc giáp tỉnh Nghệ An, Phía tây giáp Lào, phía nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía đông là bờ biển dài 137 km. Toàn tỉnh có 2 thị xã, 8 huyện. Về địa hình: Có 4 dạng địa hình cơ bản tạo nên 4 vùng kinh tế sinh thái: Vùng núi: Bao gồm các xã thuộc phía tây của huyện Hương Khê và Hương Sơn, thuộc sườn đông cuả dãy Trường Sơn. Nền địa hình là đá trầm tích biến chất và đá macma axit. Xen lẫn giữa địa hình đồi núi cao là các thung lũng nhỏ hẹp, dân cư sinh sống và trồng lúa nước. Vùng đồi trung du: là dạng địa hịnh chuyển tiếp giữa núi cao xuống địa hình đồng bằng, chạy dọc theo đường quốc lộ 15 gồm các xã vùng thấp của huyện Hương Khê,các xã phía tây của huyện Đức Thọ,Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm xuyên và Kỳ Anh. Địa hình có dạng xen lẫn giữa các đồi trung bình và thấp với đất rộng bãi không bằng phẳng. Vùng nội đồng: nằm giữa quốc lộ 15 và quốc lộ 1, bao gồm các xã vùng giữa các huyện Đức Thọ, Can Lộc, thị xã Hồng Lĩnh, Thạch Hà, thị xã Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. Điạ hình tương đối bằng phẳng. Đây là vùng đông dân cư. Sản xuất chủ yếu là cây lúa nước, cây màu, lạc đậu, chăn nuôi gia súc. Có nhiều trung tâm kính tế, có điều kiện giao thông thuận lợi nên sản xuất phát triển, mức độ đầu tư cho sản xuất khá. Vùng ven biển: nằm dưới quốc kộ 1, chạy dọc theo bờ biển, gồm các xã phía đông của huyện Can Lộc, Thạch Hà, thị xã Hà Tĩnh, huyện Cẩm Xuyên, huyện Nghi Xuân và Kỳ Anh. Địa hình được tạo bởi phù sa biển, có nhiều cửa sông,cửa lạch tạo thành nhiều vùng ngập mặn. Mật độ dân cư lớn, làm nghề nông và nghề đánh bắt cá, và nghề nuôi trồng thuỷ sản. Tài nguyên đất: trên lãnh thổ Hà Tĩnh có 8 nhóm đất chính được phân thành 23 loại. Các nhóm đất chính gồm nhóm đất đỏ vàng chiếm 64,9%, phân bố ở các đồi núi của hầu hết các huyện trong tỉnh; nhóm đất phù sa chiếm 15,7% đất tự nhiên, hầu hết đã được dùng vào sản xuất nông nghiệp trồng lúa, màu và cây công nghiệp ngắn ngày; nhóm đất cát chiếm 7%, phân bổ dọc bờ biển, phần lớn diện tích này đang bỏ hoang, một số trồng màu nhưng năng suất thấp. b, Điều kiện kinh tế- xã hội. Dân số và lao động Dân số tỉnh Hà Tĩnh năm 1995 là 1.266.148 người. Mật độ dân số là 209 người/km2 trong khi đó mật độ trung bình của vùng Bắc Trung Bộ là 186 người/km2. Trong cơ cấu dân số nữ chiếm xấp xỉ 52%, trong đó nữ ở độ tuổi sinh đẻ chiếm tỷ lệ cao, xấp xỉ 25% tổng dân số của tỉnh. Tốc độ tăng dân số cao năm 1993 là hơn 2,27%, năm 1994 là 1,89% và năm 1995 là 1,76%. Số người trong đọ tuổi lao động năm 1994 xấp xỉ 700 ngàn người, trong đó số co khả năng lao động là trên 600 ngàn người, chiếm khoảng 50% dân số của tỉnh. Lao động nông nghiệp chiếm 85%, lao động công nghiệo chỉ chiếm 8,3%. Theo thống kê sơ bộ tỷ kệ thất nghiệp hiện nay của tỉnh Hà Tĩnh khoảng 15- 16%, nhưng thực tế trong nông nghiệp tỷ lệ bán thất nghiệp lên tới 40%. Hệ thống y tế- giáo dục Hệ thống y tế: Hà Tĩnh có mạng lưới y tế toả khắp tới các xã vơi 263 trạm y tế xã, mỗi xã có 3- 4 cán bộ hoạt động thường xuyên, 70% các thôn xóm của tỉnh có cán bộ y tế phục vụ, 60% số xã có phòng sản đúng quy cách. Bình quân cứ 1.000 dân số có 0,9 y bác sỹ phục vụ( năm 1995). Tuy nhiên tình trạng sức khoẻ của nhân dân và yếu tố môi trường đang ở mức báo động. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn rất cao từ 49- 51%. Cung cấp nguồn nước sạch còn hạn chế, bệnh bướu cổ chiếm tới 20% dân số, ở vùng núi cao tỷ lệ này là 35%. Hệ thống giáo dục: đến tháng 5 năm 1992 Hà Tĩnh được Uỷ ban Quốc gia xoá mù chữ công nhận là tỉnh thứ 7 trong toàn quốc đạt tiêu chuẩn quốc gia về hoàn thành công tác phổ cập giáo dục bậc tiểu học với 100% số xã có trường cấp I. Trong toàn tỉnh có 88,6% số xã có trường cấp II và 6,9% số xã có trường cấp III, 96% dân số của tỉnh biết chữ. Hệ thống giáo dục mầm non trải khắp cac huyện, 77,6% số xã có nhà trẻ, tỷ lệ các cháu tới nhà trẻ đạt 50- 65%, 97% số xã có lớp mẫu giáo. Cả tỉnh có 2 trường trung học chuyên nghiệp và 8 trung tâm dạy nghề. Tuy nhiên chất lượng giáo dục ngày càng giảm sút, cơ sở vật chất của hệ thống giáo dục cong nghèo nàn, xuống cấp, nhiều lớp học còn mang tính chất tạm bợ. Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Hệ thống giao thông: tỉnh Hà Tĩnh có quy hoạch mạng lưới đường bộ khá hợp lý. Có 3 tuyến chạy dọc theo lãnh thổ từ phía bắc vào phía nam đó là quốc lộ 1A, 15A và tỉnh lộ 22. Có mạng lưới tuyến ngang từ đông sang tây nối liền với 3 tuyến dọc như quốc lộ 8A, các tuyến đường tỉnh lộ 1,6,7,9,17…. Nhưng chất lượng đường bộ trên địa bàn tỉnh còn rất kém, mới có 6,1% tổng số đường được trải nhựa. Hà Tĩnh có 110 km đường sắt Bắc- Nam chạy qua, song tuyến đường này chỉ chạy qua vùng phía tây của tỉnh, không có tác dụng đối với vùng phía đông tỉnh kể cả thị xã Hà Tĩnh. Hà Tĩnh có 4 con sông lớn với chiều dài có thể khai thác vận tải là 300 km, có một cảng sông là cảng Xuân Hải có công suất thiết kế 200 tấn/năm. Những năm qua khối lượng vận chuyển bằng đường thuỷ tuy có tăng nhưng không ổn định. Thuỷ lợi: trong toàn tỉnh có 470 công trình tưới với công suất thiết kế là 102.656 ha, thực tế tưới 47.928 ha. Trong các công ttrình tưới có 276 hồ, 5 đập dâng, 135 trạm bơm.Có 2 hệ thống đê: đê La Giang, đê Hội Thống. Hệ thống trạm trại kỹ thuật và dịch vụ kỹ thuật: tỉnh Hà Tĩnh có 1 trạm giống lúa của tỉnh ở huyện Can Lộc, 1 trại giống cây ăn quả ở Hương Khê, 1 trạm thụ tinh nhân tạo ở Đức Long, 1 trại sản xuất giống tôm.ở các huyện đều có trạm vật tư nông nghiệp, trạm bảo vệ thực vật và trạm thú y, trung tâm khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư của tỉnh. Tình hình kinh tế trong những năm qua Tăng trưởng kinh tế: Chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế l._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28128.doc
Tài liệu liên quan