Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU mở rộng

CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LIÊN KẾT, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG EU 1.1 KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ HÌNH THỨC LIÊN KẾT HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế đang là một xu hướng tất yếu của thời đại ngày nay. Xu thế này mang đến cho các quốc gia rất nhiều cơ hội phát triển song cũng đưa lại không ít khó khăn mà các quốc gia phải đối mặt và giải quyết. 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của liên kết kinh tế quốc tế 1.1.1.1 Khái niệm Liên kết ki

doc115 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU mở rộng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế quốc tế là quá trình hợp nhất các nền kinh tế của các quốc gia trong một hệ thống kinh tế thống nhất với các mối quan hệ kinh tế được sắp xếp trong một trật tự nhất định trên cơ sở thỏa thuận giữa các nước thành viên. Liên kết kinh tế quốc tế làm tăng cường quá trình phối hợp và điều chỉnh lợi ích và lợi thế của các thành viên, giảm thiểu những chênh lệch về trình độ phát triển và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả về khối lượng và cường độ, cả về chiều rộng và chiều sâu. 1.1.1.2 Đặc trưng của liên kết kinh tế quốc tế Thứ nhất, liên kết kinh tế quốc tế hình thành và phát triển là do sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Quá trình này có nguồn gốc từ sự phân công lao động quốc tế theo chiều sâu trên cơ sở việc ứng dụng nhanh chóng và có hiệu quả những tiến bộ khoa học công nghệ. Thứ hai, liên kết kinh tế quốc tế là một hoạt động tự giác của các Chính phủ trên cơ sở nhận thức được những lợi ích do quá trình này mang lại. Liên kết kinh tế quốc tế tạo ra khuôn khổ lớn hơn về mặt kinh tế và pháp lý cho cuộc cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể thuộc nền kinh tế của các nước thành viên và tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế quốc tế. Thứ ba, liên kết kinh tế quốc tế là một giải pháp hợp lý để xử lý mối quan hệ có tính chất đối nghịch nhau giữa các xu hướng tự do hóa thương mại và bảo hộ mậu dịch trong chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia, tạo điều kiện cho các quốc gia khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế phát triển trong khu vực, nâng cao hiệu quả của từng nền kinh tế và của cả liên kết kinh tế. Thứ tư, liên kết kinh tế quốc tế góp phần loại bỏ tính biệt lập của nền kinh tế và chủ nghĩa cục bộ của từng quốc gia trong nền kinh tế thế giới. Đây là quá trình mở rộng giao lưu về mọi mặt giữa các cộng đồng người và làm cho các quốc gia trở nên gần gũi nhau hơn trong các mối quan hệ, giảm bớt những cuộc xung đột cục bộ và góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới. 1.1.2 Bản chất và tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.2.1 Khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ đã xuất hiện trong vài thập kỷ gần đây, nhưng cho đến nay vẫn đang tồn tại các cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương đối phổ biến được nhiều nước chấp nhận về hội nhập như sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy định chung của khối. Nói một cách khái quát nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Hội nhập kinh tế quốc tế nhằm giải quyết 6 vấn đề chủ yếu: Một là đàm phán cắt giảm thuế quan; Hai là giảm, loại bỏ hàng rào phi thuế quan; Ba là giảm bớt các trở ngại đối với đầu tư quốc tế; Bốn là điều chỉnh các chính sách thương mại khác; Năm là triển khai các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế…có tính chất toàn cầu. Về bản chất, hội nhập kinh tế quốc tế được thể hiện chủ yếu ở một số mặt sau: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự đan xen, gắn bó và phụ htuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho việc thực hiện các công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện đại của lực lượng sản xuất. Hội nhập kinh tế quốc tế chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo điều kiện mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. 1.1.2.2. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng khách quan. Ngày nay, một mặt do trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất làm cho tính chất xã hội hóa của chính nó càng vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia, lan tỏa sang các quốc gia khu vực và thế giới nói chung và mặt khác, tự do hóa thương mại cũng đang trở thành xu hướng tất yếu và được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của mọi quốc gia. Chính vì vậy, hầu hết các quốc gia trên thế giới theo định hướng phát triển của mình đều điều chỉnh các chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các hàng rào thương mại, tạo điều kiện cho việc lưu chuyển các nguồn lực và hàng hóa tiêu dùng giữa các quốc gia ngày càng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn. Như vậy, mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập để phát triển, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt đều phải chú ý đến các quan hệ trong và ngoài khu vực. Về lâu dài, cũng như trước mắt, việc giải quyết các vấn đề của quốc gia đều phải tính đến và cân nhắc với xu hướng hội nhập toàn cầu để đảm bảo lợi ích phát triển tối ưu của mỗi quốc gia. Việt Nam cũng không nằm ngoài quá trình này. Trong điều kiện hội nhập, các quốc gia dù giàu có hoặc phát triển đến đâu cũng không thể tự mình đáp ứng được tất cả các nhu cầu của chính mình. Trình độ phát triển càng cao càng phụ thuộc với mức đọ nhiều hơn vào thị trường thế giới. Đó là một vấn đề có tính quy luật. Những quốc gia chậm trễ trong hội nhập kinh tế quốc tế thường phải trả giá bằng chính sự tụt hậu của mình, ngược lại với những nước vội vã không phát huy nội lực, không chủ động hội nhập cũng đã bị trả giá. 1.1.3 Các tác động của liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.3.1 Những tác động tích cực Liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động tích cực đến các nước thành viên thể hiện ở các khía cạnh sau đây: Một là khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các nước thành viên, hình thành cơ cấu kinh tế khu vực phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi và tăng cường phát triển các quan hệ thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu. Hai là tạo nên sự ổn định trong quan hệ giữa các nước nhằm đạt đến các mục tiêu của quá trình liên kết. Ba là hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô và nguồn lực phát triển, tạo việc làm cho dân cư và gia tăng phúc lợi của toàn thể cộng đồng. Bốn là hình thành cơ cấu kinh tế quốc tế mới với những ưu thế về quy mô và nguồn lực phát triển, tạo việc làm cho dân cư và gia tăng phúc lợi của toàn thể cộng đồng. Năm là tạo động lực cạnh tranh, kích thích việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ mới ở các quốc gia và doanh nghiệp. Sáu là điều chỉnh chính sách phát triển của các quốc gia để tương thích và phù hợp với chính sách phát triển của toàn thể liên kết. Bảy là tiết kiệm được các loại chi phí quản lý, chi phí hải quan cửa khẩu và các loại chi phí giao dịch khác. 1.1.3.2 Những tác động tiêu cực Các tác động chủ yếu của liên kết và hội nhập kinh tế quốc tế tới từng quốc gia thành viên và đối với nền kinh tế thế giới chủ yêu thể hiện ở những điểm sau: Một là tạo ra sự cạnh tranh giữa các nước thành viên khi hình thành một thị trường thống nhất, gây xáo trộn các quan hệ kinh tế đã được hình thành trong từng nền kinh tế của từng nước, làm phá sản doanh nghiệp và có thể ảnh hưởng đến công ăn việc làm của dân cư trong các nước thành viên. Hai là gây ra tình trạng chia cắt thị trường thế giới, hình thành các nhóm lợi ích cục bộ và làm chậm tiến trình toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới. 1.1.4 Các loại hình liên kết, hội nhập kinh tế quốc tế Liên kết hội nhập kinh tế quốc tế được xem xét theo các góc độ khác nhau. Tương ứng với mỗi góc độ xem xét có những hình thức liên kết nhất định. Thứ nhất, theo góc độ chủ thể có liên kết nhỏ và liên kết lớn. Liên kết nhỏ là loại hình liên kết giữa các công ty hoặc giữa các doanh nghiệp. Hình thức này được thực hiện ở từng khâu của quá trình sản xuất bao gồm nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm chế tạo sản phẩm mới, chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất các sản phẩm và chi tiết sản phẩm, liên kết trong tiêu thụ, quảng cáo, vận tải và thực hiện các dịch vụ sau bán hàng. Liên kết lớn là liên kết giữa các chính phủ giữa các nước thành viên thông qua việc ký kết các Hiệp định quốc tế. Hình thức liên kết lớn gồm có liên kết giữa các quốc gia và liên kết siêu quốc gia. Liên kết giữa các quốc gia là loại hình liên kết trong đó cơ quan lãnh đạo liên kết là đại biểu của các quốc gia thành viên tham gia với các quyền hạn chế. Các quyết định của liên kết chỉ có tính chất tham khảo đối với các nước thành viên còn quyết định cuối cùng do từng chính phủ quyết định. Liên kết siêu quốc gia là liên kết trong đó cơ quan lãnh đạo là đại diện của các quốc gia có những quyền rộng lớn. Thứ hai, căn cứ vào các cấp độ của liên kết có khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, đồng minh kinh tế và liên minh tiền tệ. Khu vực mậu dịch tự do (Free Trade Area): Đây là một hình thức liên kết trong đó các nước thành viên thỏa thuận hạ thấp hoạc loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan để hàng hóa và dịch vụ được di chuyển tự do giữa các nước. Mức thuế quan nhập khẩu thường được hạ thấp xuống còn 0 – 5%. Tuy nhiên, các nước thành viên vẫn duy trì chính sách thương mại quốc tế độc lập với các nước không phải là thành viên. Đồng minh thuế quan (Custom Union): Đây là một liên minh trong đó những nội dung về các thỏa thuận được đưa ra trong Khu vực mậu dịch tự do tức là các rào cản thương mại giữa các nước thành viên được loại bỏ. Tuy nhiên, một đặc điểm nổi bật trong loại hình này là các nước thành viên cùng thống nhất chính sách thuế quan với các nước không phải là thành viên. Hình thức liên kết này cao hơn so với khu vực mậu dịch tự do. Thị trường chung (Common Market): Thị trường chung là một hình thức liên kết cao hơn so với các hình thức liên kết trên đây. Nó có những nội dung giống với khu vực mậu dịch tự do là loại bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đồng thời, nó có đặc điểm tương tự với hình thức đồng minh thuế quan. Tuy nhiên, nội dung liên kết của nó rộng hơn so với các hình thức trên thể hiện ở việc các hàng hóa sức lao động và vốn đầu tư được di chuyển tự do giữa các thành viên. thị trường chung Châu Âu (EEC) trước đây là một ví dụ cho hình thức liên kết này. Liên minh tiền tệ (Monetary Union): Liên minh tiền tệ là một hình thức liên kết trong đó các nước thành viên cùng phối hợp và thống nhất các chính sách tiền tệ, giao dịch tiền tệ quốc tế, dự trữ tiền tệ, phát hành đồng tiền tập thể. Đồng thời các quốc gia thống nhất chính sách tỷ giá hối đoái, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái được điều tiết trong một giới hạn nhất định để ổn định các quan hệ tiền tệ trong liên kết. Đây là hình thức liên kết cao hơn so với các hình thức liên kết trên đây. Liên minh tiền tệ Châu Âu là một ví dụ điển hình của loại hình liên kết này. Liên minh kinh tế (Economic Union): Liên minh kinh tế là một hình thức phát triển cao trong liên kết kinh tế khu vực. Đặc trưng của hình thức liên kết này là các thành viên có thể là hai hoặc nhiều hơn thành lập thị trường chung, nghĩa là các hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và vốn đầu tư được di chuyển một cách tự do. Các nước có biểu thuế quan chung với các nước không phải là thành viên. 1.2 Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của EU 1.2.1 Sự ra đời của Cộng đồng châu Âu Cộng đồng than thép châu Âu, tổ chức tiền thân của EU: Ngày 18/2/1951, Hiệp ước thành lập cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) được 5 nước Đức, Bỉ, Hà-Lan, Lúc-xem-bua, và I-ta-lia cùng Pháp ký tại Paris, và ngày 23/7/1952, Cộng đồng Than Thép Châu Âu chính thức ra đời. Sự ra đời tiếp theo của EEC và Euratom: Hội nghị liên chính phủ tại Venise ngày 29/5/1956 chấp thuận tiến hành đàm phán để đi đến thành lập Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (Euratom). Ngày 25/3/1957, Hiệp ước thành lập hai Cộng đồng nói trên được ký kết, và ngày 1/1/1958 hai Cộng đồng này chính thức ra đời. 1.2.2 Sự hình thành liên minh tiền tệ châu Âu Trong lĩnh vực tiền tệ, cuối năm 1958, Hiệp định về Tiền tệ Châu Âu đã bắt đầu có hiệu lực. Đến đầu năm 1972, cùng với kinh tế, giai đoạn đầu của một liên minh tiền tệ đã được chuẩn bị những điều kiện cần thiết. Tháng 5/1998, Hội đồng đặc biệt của Liên minh Châu Âu đã đưa ra quyết nghị rằng 11 nước thuộc EU đã thoả mãn các điều kiện phát hành một đồng tiền chung. Trải qua bao năm thăng trầm nhưng đúng theo kế hoạch, từ 1/1/1999, 11 trong số 15 thành viên EU là Áo, Bỉ, Luc-xem-bua, Phần-lan, Pháp, Ai-len, Đức, I-ta-lia, Hà-Lan, Bồ-đào-nha và Tây-ba-nha đã thông qua đồng tiền chính thức được lưu hành trên toàn lãnh thổ 12 nước được gọi là khu vực EURO, đánh dấu một thắng lợi vĩ đại về những nỗ lực của Liên minh tiền tệ Châu Âu. 1.2.3 Thể chế của liên minh Châu Âu Nghị viện Châu Âu: Nghị viện Châu Âu là cơ quan lập pháp của EU, gồm 626 nghị sĩ của các nước thành viên và được chia thành 18 ủy ban. Nghị viện châu Âu có chức năng thông qua nhân sách, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, cùng hội đồng châu Âu quyết định trong một số lĩnh vực. Nghị viện cũng có quyền bãi miễn ủy viên Uỷ ban châu Âu. Hội đồng liên minh châu Âu: Hội đồng Liên minh châu Âu có trách nhiệm cơ bản là thực hiện quyền lập pháp cùng với Nghị viện châu Âu; Phối hợp để ban hành chính sách kinh tế lớncủa các nước thành viên; Thay mặt Liên minh ký kết các hiệp định quốc tế song hoặc đa biên hay với các tổ chức quốc tế; cùng tham gia quản lý ngân sách với Nghị viện; Ra những quyết định cần thiết để thực hiện chính sách đối ngoại và an ninh. Uỷ ban châu Âu: Uỷ ban châu Âu là lực lượng chỉ huy của Liên minh. Uỷ ban có quyền dự thảo pháp luật trình Nghị viện và Hội đồng Liên minh châu Âu. Là cơ quan hành pháp, Uỷ ban có trách nhiệm thực thi pháp luật, thực hiện các chương trình ngân sách đã được Nghị viện và Hội đồng thông qua; Theo dõi việc thực thi các Hiệp ước và cùng Tòa tư pháp đảm bảo luật pháp Cộng đồng được thực thi nghiêm chỉnh; Thay mặt Liên minh trên trường quốc tế và đàm phán các thỏa thuận quốc tế, chủ yếu trong lĩnh vực thương mại và hợp tác kinh tế. Trên đây là “bộ ba” lập pháp và hành pháp quan trọng và chủ yếu của Liên minh Châu Âu. Ngoài ra, còn có hai cơ quan khá quan trọng đó là Toà án và Viện Kiểm Kế Châu Âu. Tòa án châu Âu: đặt trụ sở tại Luxemborg, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sư do các chính phủ thỏa thuận bổ nhiệm. Tòa án có vai trò độc lập, có quyền bác bỏ những quy định của các tổ chức của Uỷ ban châu Âu, văn phòng chính phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU. Tòa kiểm toán châu Âu: có chức năng kiểm tra các khoản tài chính của EU để đảm bảo tính hợp pháp của các khỏan thu chi, đồng thời phối hợp với các cơ quan thể chế khác của EU để thực hiện các hoạt động có liên quan đến tài chính của mình. Ngoài các thể chế trên, EU còn có hệ thống các ủy ban khu vực hay ủy ban kinh tế xã hội đại diện cho quan điểm và quyền lợi của các tổ chức xã hội. Các ủy ban này sẽ tham vấn về những vấn đề liên quan đến chính sách kinh tế xã hội. Các ủy ban này cũng có thể đưa ra quan điểm riêng của mình về những vấn đề mà ủy ban cho là quan trọng. 1.2.4 Mục đích mở rộng của EU Kể từ khi thành lập, EU liên tục được củng cố và mở rộng. Cho tới nay, xét về mặt thời gian, Liên minh châu Âu đã 5 lần mở rộng thông qua việc kết nạp các nước thành viên mới. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, và ngay cả các nhà lãnh đạo EU cũng thừa nhận là mục đích đầu tiên, trước mắt và bao trùm lên chiến lược mở rộng lần này là mục tiêu chính trị. Việc mở rộng lần này là một cơ hội lịch sử nhằm thống nhất Châu Âu sau nhiều thế hệ chia rẽ và đối đầu, nó còn có ý nghĩa hàn gắn một Châu Âu bị chia rẽ và tạo ra một khối đoàn kết hơn của các công dân Châu Âu. Sau sự kiện 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, một Châu Âu mạnh và đoàn kết là vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết để củng cố an ninh khu vực, và khi đó sẽ tăng cường được uy tín chính trị của EU trên trường quốc tế, để có thể làm đối trọng với Hoa Kỳ trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Về mục đích kinh tế, trong những năm đầu khi mở rộng, các nhà lãnh đạo EU không tham vọng nhiều trong việc cải thiện tình trạng kinh tế trì trệ của họ, vì các thành viên cũ phải tập trung nguồn lực để cải cách thể chế của Liên minh vốn đang rất quan liêu và cồng kềnh, cho phù hợp với một Liên minh gồm 25 đến 28 thành viên. Hơn nữa các thành viên cũ phải tập trung nguồn lực để cải cách cơ cấu kinh tế của các thành viên mới cho đồng nhất với cơ cấu kinh tế của các thành viên cũ, đồng thời để nâng mức sống của cộng đồng dân cư khu vực các thành viên mới chỉ bằng 24% mức GDP đầu người trung bình ở các thành viên cũ. Tuy nhiên, khi lượng người tiêu dùng tăng lên, thị trường được mở rộng sẽ kích thích kinh tế phát triển. Việc Châu Âu liên minh lại với nhau sẽ đưa đến một châu lục mạnh hơn và ổn định hơn, bổ sung cho nhau về nhiều lĩnh vực như thị trường tiêu thụ sản phẩm, lao động, đầu tư,.v.v., như vậy có thể giúp Châu Âu tận dụng được những lợi thế trong một thị trường nội địa thống nhất. Một thị trường lớn như vậy sẽ tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư và tạo thêm nhiều việc làm cho công dân trong khối, tăng cường sự thịnh vượng cho cả thành viên cũ và mới. Khi vai trò vị trí của EU trong nền kinh tế thế giới được tăng cường và cải thiện hơn thì sẽ có tác động rất lớn đến tiếng nói chính trị, an ninh, thương mại và các lĩnh vực quản lý toàn cầu khác của EU trên trường quốc tế. Hộp 1: Niên biểu của EU 9-5-1950: trong diễn văn lấy cảm hứng từ Jean Monnet, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Robert Schuman đề xuất rằng Pháp, Đức và bất kỳ quốc gia châu Âu nào muốn tham gia hãy cùng liên kết quản lý chung về than và thép (“Tuyên bố Schuman”). 18-4-1951: Sáu ưnớc (Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Lucxămbua, Hà Lan) Ký Hhiệp ươc Paris về thành lập Cộng đồng than và thép Châu Âu (ECSC). 25-3-1957: Các hiệp ước thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) và Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) được 6 nước ký kết (Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Lúcxămbua, Hà Lan) tại Rome, và hiện nay vẫn được nhắc tới với tên gọi Các hiệp ước Rome. 1-7-1967: Hiệp ước sáp nhập để gắn kết các cộng đồng châu Âu lại (ECSC, EEC, EURATOM) bắt đầu có hiệu lực. Kể từ đó, các cộng đồng châu Âu sẽ có duy nhất một Uỷ ban và một Hội đồng. 13-3-1979: Hội đồng châu Âu họp tại Paris đã cho ra đời Hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) 7-10-1979: Bầu cử Quốc hội châu Âu lần đầu tiên theo chế độ phổ thông đầu phiếu trực tiếp. 17-2-1986: Đạo luật về một châu Âu đơn nhất sửa đổi Hiệp ước Rome được ký kết. 1-7-1990: Giai đoạn đầu tiên của Liên minh kinh tế và tiền tệ châu Âu (EMU) được thực hiện. Bốn nước thành viên (Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và Ailen) được dành cho quy chế ngoại lệ. 16-12-1991: “Các thoả ước châu Âu” được ký kết với Ba Lan, Hunggari và Tiệp Khắc. Một Hiệp ước dự thảo được ký kết tại Maastricht sau khi kết thúc Hội nghị liên chính phủ về Liên minh kinh tế và tiền tệ. 7-2-1992: Hiệp ước về Liên minh Châu Âu được Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Tài chính các nước ký kết tại Maastricht. 22-6-1993: Hội đồng Châu Âu họp tại Copenhagen cam kết rằng các nước Trung và Đông Âu sẽ trở thành thành viên chính thức ngay khi họ thoả mãn được các điều kiện tiền đề về kinh tế và chính trị. 1-1-1994: Giai đoạn II của Liên minh kinh tế và tiền tệ bắt đầu và Viện Tiền tệ châu Âu (EMI) được thành lập. 17-6-1997: Hội đồng châu Âu họp tại Amsterdam và đưa ra dự thảo Hiệp ước mới. 30-3-1998: Một cuộc gặp cấp bộ trưởng đã khởi động cho quá trình gia nhập của 10 nước Trung và Đông Âu, Síp và Manta. 3-5-1998: một Hội đồng đặc biệt quyết định rằng 11 nước thành viên đã đáp ứng được yêu cầu về sử dụng đồng tiền chung kể từ ngày 1-1-1999. Chủ tịch của Ngân hàng Trung ương châu Âu được bổ nhiệm. 1-1-1999: Đồng Euro chính thức ra đời tại các quốc gia: Áo, Bỉ, Phần Lan, Đức, Ailen, Italia, Lucxămbua, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. 7-8-12-2000: Một Hiệp ước mới được ký kết tại Nice, ngay sau khi kết thúc Hội nghị liên chính phủ (IGC). 15-12-2001: Tuyên bố Laeken khởi động cho quá trình cải cách Hiến pháp. 28-2-2002: Các đồng nội tệ quốc gia hết giá trị pháp lý tại EMU. Hội nghị về cải cách thể chế được bắt đầu tại Brussels (Brucxen). 9-10-2002: Uỷ ban tuyên bố rằng 8 nước Trung và Đông Âu (Ba Lan, Cộng hoà Séc, Hunggari, Xlôvakia, Xlôvenia, Extônia, Lýtva, Látvia) cộng với Síp và Manta sẽ đáp ứng được tiêu chuẩn Copenhagen vào năm 2002. 25-10-2002: Một Hội đồng châu Âu đặc biệt được triệu tập tại Brussels đã thông qua đề xuất của Uỷ ban châu Âu. 28-10-2002: Một khuôn khổ đầu tiên của Hiến pháp Châu Âu được Chủ tịch Hội nghị Châu Âu Valery Giscar d’Estaing đưa ra. 12-13-12-2002: Hội đồng châu Âu họp tại Copenhagen chính thức kết thúc các cuộc đàm phán xin gia nhập đối với 8 nước Trung và Đông Âu +Manta và Síp; một khoản tài chính trọn gón được nhất trí dành cho mỗi nước trong các năm 2004 – 2005 – 2006. 1-2-2003: Hiệp ước Nice bắt đầu có hiệu lực. 16-4-2003: Các hiệp ước kết nạp thành viên mới được ký kết tại Athens. 20-6-2003: Bản dự thảo Hiến pháp được đệ trình ra cuộc họp tại Saloniki của người đứng đầu nhà nước và chính phủ các nước thành viên. 5-2004: Mười quốc gia thành viên mới gia nhập EU. 1.3. SỰ CẦN THIẾT ĐẨY MẠNH QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU 1.3.1 Về phía EU Theo đánh giá một cách khách quan và đầy đủ về tiềm năng và vai trò của Việt Nam đối với EU thì Việt Nam trước hết có vị trí địa lý, chính trị thuận lợi cho giao lưu quốc tế. Với vị trí trung tâm của Đông Nam Á, Việt Nam được như “ngã sáu mặt tiền của bán đảo Đông Dương, là cửa ngõ nhìn ra Thái Bình Dương của bán đảo này. Trong con mắt của châu Âu, Việt Nam là một thị trường đầy hấp dẫn với tiềm năng to lớn về kinh tế, tài nguyên và con người. Ngoài ra, Việt Nam còn là nguồn cung cấp nguyên liệu khá dồi dào cho các nhà đầu tư từ châu Âu, mặc dù tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam tính trên đầu người không phải giàu. Những đánh giá cao của các nước châu Âu về Việt Nam được khẳng định trong lời nói của Chủ Tịch Uỷ ban châu Âu, ông Jacques Delors, khi Thủ tướng võ Văn Kiệt tới thăm các nước EU tháng 6/1995: “Liên minh châu Âu không thể có mặt ở khắp nơi trên thế giới, nhưng Việt Nam là nước phải được ưu tiên. Cộng đồng sẽ dành cho Việt Nam tình cảm xứng đáng, sự giúp đỡ và hợp tác cần thiết”. Qua đó, có thể nói việc thúc đẩy hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và thương mại nói riêng của Việt Nam với EU là hết sức cần thiết và quan trọng, nó giúp cho EU khai thác những lợi thế của Việt Nam ngày càng thuận lợi, tăng cường vị thế của Việt Nam trên thị trường này. 1.3.2 Về phía Việt Nam Việc tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với các quốc gia châu Âu có ý nghĩa to lớn, tác động tích cực đến việc triển khai chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần ổn định để xây dựng đất nước, tạo một thị trường tiềm năng to lớn hơn cho nền kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau để cùng nhau phát triển. Vì vậy việc thiết lập và tăng cường quan hệ hợp tác thương mại với EU là phù hợp với xu thế chung đó. Trong khu vực châu Âu, EU là một trung tâm kinh tế mạnh, có vai trò lớn trong nền kinh tế và thương mại thế giới. EU cũng là đơn vị giao dịch thống nhất lớn nhất thế giới, chiếm tới 20% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa toàn cầu. Vai trò quan trọng của EU trong mậu dịch toàn cầu sẽ còn lớn hơn với kế hoạch mở rộng và phát triển trong 5-10 năm tới, trong đó có việc đón nhận các thành viên mới ở Đông Âu. EU với tư cách là một Liên minh kinh tế và tiền tệ lớn, một trong ba trung tâm kinh tế của thế giới, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế thương mại của Việt Nam trong thập kỷ 90 thế kỷ 20. Những tác động tích cực của EU đối với kinh tế Việt Nam sẽ góp phần củng cố và hoàn thiện hơn mối quan hệ thương mại Việt Nam- EU nói riêng và cũng như ASEAN- EU nói chung trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21. Bên cạnh đó, trên cơ sở lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh tương đối thì cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước châu Âu hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau. Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà thị trường châu Âu có nhu cầu nhập khẩu lớn và ngược lại. Quan hệ thương mại Việt Nam- EU được phát triển, mở rộng, Việt Nam có điều kiện đẩy mạnh xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hóa với nước ngoài, góp phần cân bằng cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu, hạn chế và phân tán rủi ro thương mại, tránh bị phụ thuộc vào một thị trường. Đồng thời, thị trường Việt Nam sẽ trở nên phong phú hơn, đa dạng và nhộn nhịp hơn các hàng hóa nhập khẩu từ châu Âu, người tiêu dùng có nhiều cơ hội chọn lựa các mặt hàng nhập khẩu từ châu Âu. Ngoài ra, Việt Nam cũng có điều kiện tham gia vào phân công lao động quốc tế qua các chương trình hợp tác liên doanh, tạo điều kiện đầu tư, phát triển chiều sâu theo hướng chuyên môn hóa sản xuất quốc tế. Cụ thể, thị trường Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn hơn và do đó thu hút được nhiều hơn các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và hỗ trợ phát triển chính thức cùng với những công nghệ mới, hiện đại, kỹ năng quản lý đi kèm theo, không những từ các nhà đầu tư châu Âu mà cả các nhà đầu tư nước ngoài khác trên thế giới và trong khu vực. Với sự gia tăng về bổ sung tài chính như vậy, Việt Nam sẽ có điều kiện để tăng cường sản lượng công nghiệp của các ngành công nghiệp, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, thúc đẩy quá trình mở rộng dung lượng thị trường trong và ngoài nước, khai thông một số thị trường mà trước đay Việt Nam còn bỏ trống, tạo lợi thế cho hàng Việt Nam thâm nhập ổn định vò các thị trường này. Không những thế, Việt Nam sẽ có cơ hội để trả nợ cũ, cân đối ngân sách, tăng nguồn thu ngoại tệ, mua mới các trang thiết bị, máy móc hiện đại cải tiến các điều kiện sản xuất, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phần tiêu dùng thường xuyên và đáp ứng các nhu cầu phát sinh. Như vậy, sự tăng cường các hoạt động trao đổi thương mại giữa Việt Nam và EU cho phép các yếu tố sản xuất đang được sử dụng ở trong nước được phân bổ lại một cách hiệu quả hơn; đồng thời tối đa hóa giá trị sử dụng, khai thác, tăng mức độ mở rộng quy mô chuyên môn hóa sản xuất, tận dụng đợc quy luật hiệu quả tăng dần theo quy mô sản xuất, đem lại lợi ích cao về mặt kinh tế. Thêm vào đó, Việt Nam có cơ hội thuận lợi để đối chiếu, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về quản lý, kỹ thuật sản xuất.., đào tạo được một nguồn nhân lực dồi dào và có chất lượng, đáp ứng nhu cầu kỹ thuật công nghệ trong thời gian mới, đồng thời cung cấp công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động, góp phần phát triển xã hội. 1.4 THỊ TRƯỜNG EU 1.4.1 Đặc điểm của thị trường EU EU là một thị trường rộng lớn với khoảng 490 triệu dân của 25 nước thành viên, mỗi nước thành viên lại có đặc điểm tiêu dùng riêng. Do đo, có thể thấy rằng, thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về chủng loại hàng hóa. Có những loại hàng rất dược ưa chuộng ở thị trường Pháp, Italia hay Bỉ nhưng lại không được người tiêu dùng Anh, Ailen, Đan Mạch hoặc Đức thích dùng. Tuy có những khác biệt nhất định về tập quán, thị hiếu tiêu dùng giữa các thị trường của từng quốc gia trong khối EU, nhưng 15 nước thành viên cũ đều là những quốc gia nằm ở khu vực Tây Bắc Âu nên có những điểm tương đồng về kinh tế và văn hóa. Ngày nay, những tập quán, tâm lý xã hội, văn hoá đặc thù của dân tộc không phải là rào cản quá khó khăn để vượt qua. Hơn nữa, do xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá mạnh mẽ nên trong kinh doanh có những yếu tố văn hoá ngày càng gần với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Mặt khác, thị trường EU thống nhất cho phép tự do lưu chuyển sức lao động, hàng hoá và vốn giữa các nước thành viên. Do đó, thị trường EU có tính đa dạng trong sự thống nhất. 1.4.1.1 Tập quán, thị hiếu tiêu dùng và kênh phân phối Tập quán và thị hiếu tiêu dùng Do trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các nước thành viên khá đồng đều và có những điểm tương đồng về địa lý, văn hoá, cho nên người dân thuộc khối EU có những điểm chung về sở thích và thói quen tiêu dùng. Đối với hàng may mặc và giầy dép: Người dân Áo, Đức và Hà Lan chỉ mua hàng may mặc và giầy dép không chứa chất nhuộm có nguồn gốc hữu cơ (Azo - dyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang lại có tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đối với nhóm hàng giầy dép: Người tiêu dùng EU đang có xu hướng đi giày vải. Đối với hai mặt hàng này nhu cầu thay đổi nhanh chóng, đặc biệt về mẫu mốt. Đối với thuỷ hải sản: Một điểm đáng lưu ý là EU đang có xu hướng giảm tiêu dùng súc sản, gia cầm và tăng tiêu dùng thủy hải sản. Tuy nhiên, người tiêu dùng EU không mua những sản phẩm thuỷ hải sản nhập khẩu bị nhiễm độc do tác động của môi trường hoặc do chất phụ gia không được phép sử dụng. Với sản phẩm thuỷ hải sản đã qua chế biến, người Châu Âu chỉ dùng những sản phẩm đóng gói có ghi rõ tên sản phẩm nơi sản xuất, các điều kiện bảo quản và sử dụng, mã số và mã vạch. Họ tẩy chay các loại thuỷ hải sản nhập khẩu có chứa khuẩn salmonella, độc tố lustamine, nhiễm V.Parahaemoliticus, nhiễm V.cholesae. Người Châu Âu ngày càng ăn nhiều thuỷ hải sản vì họ cho rằng sẽ giảm được béo mà vẫn khoẻ mạnh. Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thế giới. Họ cho rằng, những nhãn hiệu này gắn liền với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên dùng những sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an toàn về chất lượng và an toàn cho người sử dụng. Nhiều trường hợp, những sản phẩm này giá rất đắt nhưng họ vẫn mua và không thích thay đổi sang các sản phẩm không nổi tiếng khác cho dù giá rẻ hơn nhiều. Đặc biệt đối với những sản phẩm của nhà sản xuất không có danh tiếng ._.thì rất khó tiêu thụ vì họ cho rằng mua những sản phẩm như vậy sẽ không đảm bảo chất lượng về vệ sinh thực phẩm và an toàn cho người sử dụng, do đó không an toàn đối với sức khoẻ và cuộc sống của họ. EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới cũng như Mỹ, nhưng khác với thị trường Mỹ ở chỗ EU là một cộng đồng kinh tế mạnh, trung tâm văn minh lâu đời của nhân loại, do đó sở thích của người tiêu dùng Châu Âu rất cao sang. Họ có thu nhập, mức sống cao và khá đồng đều, yêu cầu khắt khe về chất lượng và độ an toàn của sản phẩm nói chung, còn đối với thực phẩm thì chất lượng và vệ sinh là hàng đầu. Yếu tố quyết định tiêu dùng ở thị trường này là chất lượng hàng hoá chứ không phải là giá cả đối với đại đa số các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Thị trường EU về cơ bản cũng giống như một thị trường quốc gia, do vậy có 3 nhóm người tiêu dùng khác nhau: Một là, nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm gần 20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng tốt nhất và giá cả cũng đắt nhất hoặc những mặt hàng hiếm và độc đáo; Hai là, nhóm có khả năng thanh toán ở mức trung bình, chiếm 68% dân số, sử dụng chủng loại hàng có chất lượng kém hơn một chút so với nhóm 1 và giá cả cũng rẻ hơn; Ba là, nhóm có khả năng thanh toán ở mức thấp hơn so với hàng của nhóm 2. Hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường này gồm cả hàng cao cấp lẫn hàng bình dân phục vụ cho mọi đối tượng. Đối tượng tiêu dùng hàng Việt Nam là nhóm hai và ba. Các đối thủ cạnh tranh chính của hàng Việt Nam là hàng Trung Quốc và hàng của các nước ASEAN khác. Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi như: không thích sử dụng đồ nhựa mà thích dùng đồ gỗ, thích ăn thuỷ hải sản hơn ăn thịt, yêu cầu về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với những mặt hàng thời trang như giầy dép, quần áo. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sở thích và thói quen tiêu dùng của người Châu Âu đang có xu hướng chuyển từ những sản phẩm chất lượng cao, giá đắt, vòng đời sản phẩm dài sang những sản phẩm có chu trình sống ngắn hơn, giá rẻ hơn và phương thức dịch vụ tốt hơn. Tuy vậy, chất lượng hàng hoá vẫn là yếu tố quyết định đối với phần lớn các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này. Kênh phân phối Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia, gồm mạng lới bán buôn và mạng lới bán lẻ. Hiện nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở Tây Âu đã dẫn tới sự thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế, kéo theo sự biến đổi về cơ cấu ngành kinh tế, kéo theo là trào lưu “Nhất thể hoá” và “Tổ chức lại” các công ty xuyên quốc gia. “Nhất thể hoá” hay là sự sát nhập hợp nhất của các công ty xuyên quốc gia. Quá trình này đang diễn ra sôi động trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất đến lu thông, và biểu hiện đậm nét ở các ngành: hàng không, sản xuất ôtô, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm. Trào lưu “Tổ chức lại” cũng không kém phần sôi động thông qua việc tìm nguồn cung ứng từ nước ngoài, tập trung vào việc phát triển những sản phẩm công nghệ cao ở trong nước và hoạt động tiếp thị. Các công ty xuyên quốc gia EU thường phát triển theo mô hình gồm: ngân hàng hoặc công ty tài chính, nhà máy, công ty thương mại, siêu thị, cửa hàng .v.v… Các công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng của mình rất chặt chẽ, họ chú trọng từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng đến khâu phân phối hàng cho mạng lới bán lẻ. Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là các nhà sản xuất và nhà nhập khẩu cả một tập đoàn chỉ cung cấp cho các hệ thống cửa hàng siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn hay gọi là kênh phân phối tự do gồm các nhà sản xuất và nhập khẩu của tập đoàn này, ngoài việc cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn mình còn cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác và các công ty bán lẻ độc lập. Hệ thống phân phối của EU đã hình thành lên một tổ hợp rất chặt chẽ và có nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là việc dễ đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, vì các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng của các nhà cung cấp không quen biết cho dù giá hàng có rẻ hơn nhiều bởi uy tín kinh doanh với khách hàng của họ được đặt lên hàng đầu. Muốn giữ được điều này thì hàng phải đảm bảo chất lượng và nguồn cung cấp ổn định. Vì vậy, các nhà xuất khẩu của ta muốn tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường EU thì phải tiếp cận được với các nhà nhập khẩu EU. Thực hiện điều này có thể bằng cách xuất khẩu trực tiếp hoặc liên doanh với các công ty xuyên quốc gia EU để trở thành công ty con. 1.4.2 Chính sách ngoại thương của EU Đặc điểm cơ bản nhất trong chính sách ngoại thương EU là tất cả các thành viên của EU đều áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với các nước ngoài khối. Chính sách ngoại thương của EU bao gồm: Chính sách thương mại tự trị và chính sách thương mại dựa trên nguyên tắc: không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về số lượng hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu. 1.4.2.1 Biểu thuế quan thống nhất (CCT – Common Custom Tariff) EU áp dụng biểu thuế quan chung (CCT) đối với các mặt hàng công nghiệp. Đây là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại của liên minh. Các thành phần của CCT bao gồm danh mục các mặt hàng tính thuế, các qui định về cách tính thuế, miễn hoặc giảm thuế, xuất xứ hàng hoá. Hiệp ước Roma có quy định điều khoản theo đó các thành viên EC luôn sẵn sàng đàm phán nhằm cắt giảm các mức thuế quan chung. Khi CCT đã được xây dựng ở các mức thì các thành viên phải có nghĩa vụ áp dụng chúng theo một cách thống nhất. Điều này liên quan đến danh mục các mặt hàng, thủ tục tính thuế và các quy định về xuất xứ hàng hoá kết hợp với việc thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP). Muốn nắm được các đặc điểm trong chính sách ngoại thương EU, cần phải nghiên cứu biểu thế quan có liên quan đến xuất xứ của hàng hoá. Xuất xứ hàng hoá của EU được quy định như sau: - Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lãnh thổ nước hưởng GSP như: khoáng sản, động thực vật, thuỷ sản đánh bắt trong lãnh hải và các hàng hoá sản xuất từ sản phẩm đó được xem là có xuất xứ và được hưởng GSP. - Đối với các sản phẩm sản xuất tại nước hưởng GSP (tính theo giá xuất xưởng) phải đạt 60% tổng trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm hàng thì hàm lượng này thấp hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia công đối với một số nhóm hàng mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60%. EU còn quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của một nước có thành phần xuất xứ từ một nước cùng một tổ chức khu vực cũng được GSP thì các thành phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Đây là đặc điểm về xuất xứ của EU mà các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức lưu ý và vận dụng. 1.4.2.2 Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EU Chế độ GSP là một biện pháp đẩy mạnh thương mại của EU đối với các nước đang và chậm phát triển (trong đó có Việt Nam) với mục đích giúp cho hàng hóa của nước này tăng khả năng thâm nhập vào thị trường EU thông qua một số ưu đãi thuế quan nhất định, từ đó thúc đẩy kinh tế của các nước này phát triển. Chế độ GSP được xây dựng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, không đòi hỏi có đi có lại, đơn phương quyết định. Chương trình này trong những năm gần đây được cụ thể hoá ở một số văn bản sau: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập sửa đổi bắt đầu áp dụng cho giai đoạn 1/1/2002 đến 31/12/2004 (đã gia hạn hết năm 2005). Hệ thống mới này đã kết hợp với sáng kiến “Mọi sản phẩm trừ vũ khí _ EBA” dành cho các nước kém phát triển nhất có hiệu lực từ 5/3/2001. Tuy nhiên, có 3 mặt hàng có lộ trình tự do hoá riêng tự do hoá hoàn toàn. Gạo sẽ giảm 20% vào ngày 1/9/2006, 50% vào 1/9/2007, 80% vào ngày 1/7/2006, 50% vào ngày 1/7/2007, 80% vào 1/7/2008 và tự do hoá hoàn toàn vào 1/7/2009. Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập dành cho 143 nước độc lập và 36 nước và khu vực lãnh thổ thuộc địa. Hệ thống GSP mới đã đơn giản hoá việc phân loại sản phẩm hàng hoá từ 4 loại là không nhạy cảm, rất nhạy cảm, nhạy cảm và bán nhạy cảm thành 2 loại là không nhạy cảm và nhạy cảm. Nhóm 1- sản phẩm rất nhạy cảm bao gồm: phần lớn là nông sản và một số ít sản phẩm công nghệp tiêu dùng như chuối tươi, chuối khô, dứa tươi, dứa hộp (lượng đường không quá 17% trọng lượng), quần áo may sẵn, nguyên liệu thuốc lá, lụa tơ tằm… được hưởng mức thuế GSP bằng 85% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng mà EU hạn chế nhập khẩu. Nhóm 2 – sản phẩm nhạy cảm: chủ yếu là thực phẩm, đồ uống, hóa chất, nguyên liệu, hàng thủ công (gạch lát nền, đồ sứ), giày dép, hàng điện tử dân dụng, xe đạp, ô tô, đồ chơi trẻ em được hưởng mức thuế GPS bằng 70% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng mà EU không khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 3 – sản phẩm bán nhạy cảm: bao gồm phần lớn thủy sản đông lạnh (tôm, cua, mực đông lạnh, cá tươi ướp lạnh), một số nguyên liệu và hóa chất, hàng công nghiệp dân dụng (máy điều hòa, máy giặt, tủ lạnh)…được hưởng mức thuế GSP bằng 35% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU khuyến khích nhập khẩu. Nhóm 4 – sản phẩm không nhạy cảm: chủ yếu là một số loại thực phẩm, đồ uống (nước khoáng, bia, rượu) nguyên liệu (than đá, dầu thô, cao su,…), nông sản (dừa cả vỏ, hạt điều)…được hưởng mức thuế GSP bằng 0% đến 10% thuế suất MFN. Đây là nhóm mặt hàng EU đặc biệt khuyến khích nhập khẩu. Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU so với ưu đãi mà các nước và khu vực dành cho các nước đang phát triển vào loại thấp nhất. Theo GSP của EU bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/7/1999 thì những trường hợp sau được hưởng ưu đãi thêm: + Bảo vệ quyền lợi của người lao động: nước hưởng GSP cần chứng minh trong các văn bản pháp quy của mình có các quy định về các tiêu chuẩn áp dụng các nguyên tắc về tổ chức, đàm phán tập thể và tuổi lao động tối thiểu. + Bảo vệ môi trường: các văn bản pháp quy của nước hưởng GSP phải có các quy định áp dụng các tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường. Uỷ ban châu Âu đề xuất hệ thống ưu đãi thương mại cho giai đoạn 2006-2008 dành cho các nước hưởng lợi có nhu cầu nhất, đơn giản hơn và khuyến khích phát triển bền vững: Ngày 20/10/2004, Uỷ ban châu Âu đã thông qua một đề xuất bao gồm những chi tiết về hệ thống ưu đãi thương mại EU (Hệ thống Ưu đãi Phổ cập – GSP) cho giai đoạn 2006-2008. Đề xuất này được xây dựng trên hướng dẫn của Uỷ ban châu Âu ban hành trong tháng 7/2004.   GSP là một công cụ chính để giúp các nước đang phát triển giảm nghèo đói bằng cách khuyến khích xuất khẩu sang châu Âu. Đề xuất của Uỷ ban là nhằm cải thiện hệ thống hiện tại trong một số lĩnh vực: đơn giản hoá (cắt giảm từ 5 xuống 3 thoả thuận); mở rộng diện sản phẩm; tập trung lợi ích vào những mặt hàng mà các nước đang phát triển đang cần nhất; thiết lập các lợi ích GSP bổ sung (GSP +) nhằm khuyến khích phát triển bền vững. Văn bản này sẽ được gửi đến các thành viên EU, Nghị viện châu Âu và Uỷ ban Kinh tế và Xã hội để thông qua và đi vào thực hiện ngày 1/7/2005. Nội dung chủ yếu của đề xuất: Một GSP mới đơn giản hơn: Năm nhóm GSP hiện tại được giảm xuống còn 3 nhóm gồm: - Giảm 3,5% trong tổng thuế quan thông thường cho các sản phẩm nhạy cảm, giảm thuế quan xuống 0 cho các sản phẩm không nhạy cảm), - Được xuất khẩu “Mọi thứ trừ vũ khí” đem lại tiếp cận không thuế quan và không hạn ngạch cho tất cả các sản phẩm cho 50 nước nghèo nhất thế giới; - Cơ chế mới về “GSP +” nhằm dành ưu đãi thuế quan cho những nước dễ bị tổn thương, những nước đáp ứng các tiêu chuẩn mới về phát triển bền vững và quản lý tốt (giảm xuống thuế suất 0 cho tổng số 7200 sản phẩm); Cơ chế này thay thế ba cơ chế khuyến khích cũ (thuốc; xã hội và các thoả thuận môi trường) GSP mới sẽ được áp dụng trong suốt 3 năm mà không có thay đổi nào. GSP mới sẽ mở rộng thêm gần 300 sản phẩm được hưởng ưu đãi. GSP sẽ chỉ được rút bỏ khỏi các nhóm sản phẩm của một hoặc một vài nước – khi mà những sản phẩm này đã đạt mức cạnh tranh trên thị trường Cộng đồng và không còn cần tới GSP. Việc xem xét sẽ dựa trên một tiêu chí đơn giản: khi một nhóm sản phẩm (“phần” của mã hải quan) từ một nước cụ thể vượt quá 15% tổng nhập khẩu EU cho cùng một loại sản phẩm theo GSP trong 3 năm liên tục. Việc xem xét loại bỏ này không phải là một khoản phạt, mà là một dấu hiệu rằng GSP đã thực hiện thành công chức năng tạo nên luồng xuất khẩu; và do vậy GSP sẽ mang lại lợi ích tốt hơn cho các nước yếu nhất và dễ tổn thương nhất. GSP mới sẽ linh hoạt hơn về quy tắc xuất xứ: Sự tích lũy khu vực cần được tăng cường để cho phép các thành viên của một nhóm khu vực (ASEAN, …) sử dụng tốt hơn những ưu đãi, do vậy thúc đẩy hợp tác khu vực. Đặc biệt, tích lũy khu vực sẽ được thông qua việc loại bỏ các tiêu chuẩn nguyên tắc giá trị gia tăng. Hơn nữa, sẽ có tích lũy giữa các khu vực nếu các quốc gia quan tâm yêu cầu nó. Hệ thống GSP+ được đưa ra dựa trên các tiêu chí rõ ràng, minh bạch và không phân biệt đối xử, hoàn toàn tuân thủ phán quyết của Cơ quan Phúc thẩm WTO. 1.4.2.3 Chính sách chống bán phá giá Các quy định về chống bán phá giá của EU được xây dựng trên cơ sở điều khoản của WTO về lĩnh vực này. Theo nguyên tắc của WTO, EC chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá trong trường hợp các ngành công nghệ của EU bị tổn hại do việc nhập khẩu các sản phẩm phá giá. Đây là những sản phẩm được bán trên thị trường nội địa với múc giá “thông thường”. Tuy nhiên, việc so sánh các mức giá này thường gặp khó khăn. Cách tính giá “thông thường” của EU dựa vào chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận cận biên. Vấn đề là mức lợi nhuận như thế nào mới được coi là thích hợp. Xu hướng của EU là tính mức lợi nhuận cao, có khi tới 30%. Bán phá giá thường liên quan tới hàng nhập khẩu bán giá rẻ hoặc với giá thấp hơn chi phí, nhưng thực tế vấn đề này phức tạp hơn nhiều. Quy chế chống bán phá giá năm 1996 quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá, nhưng chỉ được áp dụng thuế này trong những điều kiện sau: - Có phát hiện bán phá giá: Giá xuất khẩu của sản phẩm bán trên thị trường cộng đồng Châu Âu thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước của nhà xuất khẩu. - Có tổn hại vật chất cho doanh nghiệp của cộng đồng: Hàng nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây tổn thất cho phần lớn ngành kinh doanh trong cộng đồng Châu Âu, chẳng hạn như mất thị phần, buộc các nhà sản xuất phải giảm giá và gây sức ép đối với sản xuất, bán hàng, lợi nhuận, năng suất… - Lợi ích của Cộng đồng: Chi phí mà cộng đồng bỏ ra để thực hiện các biện pháp không được tỷ lệ nghịch với lợi ích thu được. Uỷ Ban Châu Âu chịu trách nhiệm điều tra những khiếu nại và đánh giá liệu những khiếu nại này có hợp lý hay không. Uỷ Ban cũng có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời và chỉ được áp dụng biện pháp chống bán phá giá chính thức đối với sản phẩm than và thép. Hội đồng Bộ trưởng là nơi quyết định biện pháp chống bán phá giá chính thức trong mọi trường hợp. Khi mức bán phá giá đã được tính toán thì bước tiếp theo là xác định liệu các mặt hàng bán phá giá đó có tổn hại đến ngành sản xuất nội địa hay không. Mức độ gây tổn hại thường được đo bằng các chỉ số như lợi nhuận, công suất hoạt động và thị phần. Quá trình này cần đến việc thu thập và xử lý một lượng thông tin lớn về kinh tế, tài chính và thương mại. Sau khi xác định được mức bán phá giá và mức độ tổn hại đối với các ngành sản xuất nội địa, EU sẽ áp dụng các mức thuế chống bán phá giá hoặc chấp nhận đề nghị từ phía người xuất khẩu là họ sẽ giảm lượng bán hoặc nâng mức giá xuất khẩu lên. 1.4.2.4 Các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng của Liên minh châu Âu Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi người tiêu dùng rất được bảo vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU ban hành một hệ thống quy định bảo vệ người tiêu dùng như quy định các thành phần của sản phẩm, cách bảo quản và khi có hiện tượng độc hại thì kịp thời báo động; kể cả việc làm sai quy cách như : đóng gói bao bì, nhãn mác, các sản phẩm nhập lậu, đánh cắp bản quyền …Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định chuẩn Quốc gia hoặc châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường này với điều kiện phải đảm bảo tiêu chuẩn an toàn chung của EU, các luật và định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản phẩm được sản xuất ra từ các nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt mức an toàn ngang với tiêu chuẩn của EU. Tóm lại: Chính sách và chế độ quản lý xuất nhập khẩu của EU rất phức tạp, do đó cần phải có đầy đủ thông tin cập nhật và có bộ phận theo dõi phân tích. Trong thực tế, các nước đang phát triển chỉ sử dụng được 48% các ưu đãi của EU theo chế độ GSP. EU là thị trường rất khó tính và luôn đòi hỏi chất lượng cao. 1.4.3 Các yêu cầu của thị trường EU đối với hàng xuất khẩu Hiện nay, EU là một trong những đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam, là khu vực thị trường xuất khẩu lớn thứ hai sau ASEAN, đồng thời EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, nhu cầu nhập khẩu hàng năm rất lớn. Hàng năm EU nhập khẩu rất nhiều các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như giày dép, dệt may, thuỷ sản, nông sản…Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU tăng nhanh. Hiện nay, EU vẫn là một thị trường bảo hộ rất chặt chẽ với rào cản kỹ thuật rất nghiêm ngặt, mặc dù thuế quan của EU thấp hơn các cường quốc kinh tế lớn và đang có xu hướng giảm. Hàng xuất khẩu Việt Nam muốn vào được thị trường này thì phải vượt qua được rào cản kỹ thuật của EU. Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU, được cụ thể hoá ở 5 tiêu chuẩn của sản phẩm: chất lượng, vệ sinh thực phẩm, an toàn cho người sử dụng, bảo vệ môi trường và lao động. 1.4.3.1 Thứ nhất là tiêu chuẩn chất lượng Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc các nước đang phát triển. Thực tế cho thấy ở các nước đang phát triển Châu Á và Việt Nam, hàng của những doanh nghiệp có giấy chứng nhận ISO 9000 thâm nhập vào thị trường EU dễ dàng hơn nhiều so với hàng hoá của các doanh nghiệp không có giấy chứng nhận này. Đây là Hệ thống quản lý chất lượng do Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế đặt ra để giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, duy trì sự đồng nhất và phù hợp giữa chất lượng và giá thành. Có thể coi ISO 9000 như một ngôn ngữ xác định chữ tín giữa doanh nghiệp và khách hàng, giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp, là sự khẳng định cam kết cung ứng sản phẩm có chất lượng đáng tin cậy cũng như “phương tiện thâm nhập” vào thị trường EU mà các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và thực hiện. 1.4.3.2 Thứ hai là tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm Các công ty chế biến thực phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Đặc biệt việc áp dụng hệ thống HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point) trong các xí nghiệp chế biến hải sản là một yêu cầu không thể thiếu. HACCP là Hệ thống phân tích nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu áp dụng cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm, được thiết kế riêng cho công nghiệp thực phẩm và các ngành có liên quan (chăn nuôi, trồng trọt…). Hệ thống này có tính bắt buộc với các công ty thực phẩm của EU và trên danh nghĩa là không bắt buộc với các công ty nước ngoài. Nhưng từ ngày 1/1/1993, EU đã ra một văn bản hướng dẫn nhập khẩu hàng thủy sản nêu rõ: “Các điều khoản áp dụng cho nhập khẩu thủy sản từ nước thứ ba phải tương đương với hàng lưu thông trong EU”. Như vậy, một cách gián tiếp cơ chế này đã bắt buộc các nhà xuất khẩu nước ngoài phải tuân thủ các nguyên tắc HACCP khi muốn thâm nhập vảo thị trường EU. Các công ty chế biến thực phẩm của Việt Nam phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ. Về phương diện này, việc áp dụng hệ thống HACCP là rất quan trọng và gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các xí nghiệp chế biến thuỷ hải sản của các nước đang phát triển muốn xuất khẩu sản phẩm vào thị trường EU. 1.4.3.3 Thứ ba là tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng Ký mã hiệu trở nên quan trọng số 1 trong việc lưu thông hàng hoá trên thị trường EU. Các sản phẩm có liên quan tới sức khoẻ của người tiêu dùng phải có ký mã hiệu theo quy định của EU. Ví dụ, ký mã hiệu CE bắt buộc đối với đồ chơi, thiết bị điện áp thấp, thiết bị y tế, nguyên vật liệu xây dựng.v.v. Hiện nay, ở EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ ban châu Âu về định chuẩn, Uỷ ban châu Âu về định chuẩn điện tử, Viện định chuẩn viến thông của châu Âu chịu trách nhiệm đưa ra các quy chế định chuẩn. Theo hệ thống quy chế này, ký mã hiệu là quan trọng số một trong lưu thông hàng hóa trên thị trường EU và được quy định rất nghiêm ngặt. 1.4.3.4 Thứ tư là tiêu chuẩn bảo vệ môi trường Thị trường EU yêu cầu hàng hoá có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận. Đây là bộ tiêu chuẩn được xây dựng trên cơ sở các thỏa thuận quốc tế, đem đến cách tiếp cận hệ thống cho việc quản lý môi trường và cung cấp các công cụ hỗ trợ có liên quan như đánh giá môi trường, phân tích chu kỳ sống của sản phẩm … nhằm cải thiện môi trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở. Như vậy, thị trường EU yêu cầu hàng hóa có liên quan đến môi trường phải dán nhãn theo quy định (nhãn sinh thái, nhãn tái sinh) và có chứng chỉ được quốc tế công nhận, nên các doanh nghiệp Việt Nam cần có ý thức tôn trọng. Ví dụ, tiêu chuẩn GAP (Good agricultural Practice) và các nhãn hiệu sinh thái (Ecolabels) đang ngày càng được phổ biến, chứng tỏ các cấp độ khác nhau về môi trường tốt. Ngoài ra, các công ty ngày càng được yêu cầu phải tuân thủ hệ thống quản lý môi trường (các tiêu chuẩn ISO 14000) và các bộ luật mang tính xã hội và đạo đức-Tiêu chuẩn The Social Accountability 8000 (SA8000) sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong những năm tới. 1.4.3.5 Thứ năm là tiêu chuẩn về lao động Uỷ Ban Châu Âu (EC) đình chỉ hoạt động của các xí nghiệp sản xuất nội địa ngay khi phát hiện ra những xí nghiệp này sử dụng lao động cưỡng bức và cấm nhập khẩu những hàng hoá mà quá trình sản xuất sử dụng bất kỳ một hình thức lao động cưỡng bức nào như được xác định trong các Hiệp ước Geneva ngày 25/9/1926 và 7/9/1956 và các Hiệp ước Lao động Quốc tế số 29 và 105. Ví dụ, các hình thức lao động cưỡng bức như: lao động tù nhân, lao động trẻ em.v.v. Ngoài ra, EU còn sử dụng các công cụ hành chính khác nhằm quản lý nhập khẩu. Hiện nay, để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại và để khắc phục với những trở ngại trong buôn bán với thế giới thứ ba, EU còn ban hành chính sách chống bán phá giá như đã trình bày trong phần trước, chống trợ cấp xuất khẩu và áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán phá giá”. Bên cạnh đó, trong việc quản lý nhập khẩu, EU còn phân biệt hai nhóm nước: nhóm áp dụng cơ chế kinh tế thị trường (nhóm 1) và nhóm có nền thương nghiệp quốc doanh (nhóm 2). Hàng hóa xuất khẩu sang EU từ các nước thuộc nhóm 2, trong đó có Việt Nam, chịu sự quản lý chặt và thường phải xin phép trước khi nhập khẩu vào EU. EU là thị trường đòi hỏi yêu cầu chất lượng rất cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đặc biệt. Các khách hàng EU nổi tiếng là khó tính về mẫu mốt thị hiếu. Khác với Việt Nam nơi giá cả có vai trò quyết định trong việc mua hàng, đối với phần lớn người Châu Âu thì “thời trang” là một trong những yếu tố quyết định. Chỉ khi các yếu tố chất lượng, thời trang và giá cả hấp dẫn thì khi đó sản phẩm mới có cơ hội bán được ở Châu Âu. Việc nhiều nước Châu Á khác, đặc biệt là Trung Quốc với tiềm năng xuất khẩu lớn và đã có kinh nghiệm có mặt ở thị trường EU là một khó khăn lớn đối với Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường này. Ngày nay, EU là một thị trường mở có quy mô lớn đối với các nhà đầu tư và các sản phẩm nước ngoài, đặc biệt là sự kiện ngày 1/5/2004 đánh dấu bước mở rộng lịch sử của EU15 thành một EU25. Do đó, EU là một thị trường hết sức cạnh tranh vì lượng hàng nhập khẩu rất lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường này đang bị sức ép rất mạnh của hàng Trung Quốc (giày dép, dệt may, hàng điện tử, đồ chơi, thủ công mỹ nghệ), hàng Thái Lan (thuỷ sản, rau quả, ngũ cốc chế biến), hàng Indonesia (dệt may, giày dép,.v.v..). Phần lớn hàng của các đối thủ cạnh tranh có ưu thế hơn hàng của ta về chất lượng, giá cả và nguồn cung cấp ổn định. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU thì không còn cách nào khác là chúng ta phải chiến thắng trong cạnh tranh, vượt trội các đối thủ và chiếm lĩnh thị trường. Để làm được điều đó thì hàng xuất khẩu Việt Nam phải đáp ứng được các yêu cầu trên của sản phẩm và phải phù hợp với thị hiếu tiêu dùng. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU MỞ RỘNG 2.1 KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU GIAI ĐOẠN 2000 – NAY Theo thống kê của Bộ Thương mại, năm 2005 với kim ngạch xuất khẩu là 32,2 tỷ USD (tăng 22%) Việt Nam đã đạt được kỷ lục mới về xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt nam đó là EU, Mỹ, Nhật bản và Trung Quốc. Cũng theo theo Bộ Thương mại, xuất khẩu hàng hóa của cả nước sáu tháng đầu năm 2006 đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2005. Tính đến cuối tháng 6 năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt được là 18,7 tỉ đô la Mỹ, xấp xỉ 50% kế hoạch cả năm (37,75 tỉ đô la Mỹ) và tăng đến 25,7% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu sáu tháng đầu năm tăng cao chủ yếu do gia tăng khối lượng của nhiều mặt hàng xuất khẩu. Trong đó, hàng dệt may xuất khẩu được 2,74 tỉ đô la Mỹ, tăng tới 32,7% so với cùng kỳ năm 2005. Tương tự, xuất khẩu giày dép đạt 1,7 tỉ đô la Mỹ, tăng 20,3%, chủ yếu tăng ở thị trường Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada và Hồng Kông. Riêng xuất khẩu sang các nước EU tăng ít hơn. Hàng thủy sản cũng có sự tăng trưởng khá cao, với kim ngạch 1,4 tỉ đô la Mỹ, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm 2005. Xuất khẩu thủy sản sang EU, Hàn Quốc và Nga tăng nhanh, còn thị trường lớn nhất là Mỹ lại tăng chậm. Riêng thị trường Đài Loan, Nhật Bản và Hồng Kông lại giảm sút so với cùng kỳ năm 2005. Năm 2005, kinh tế EU tăng trưởng thấp do tác động của các bất ổn về kinh tế và chính trị toàn cầu, đặc biệt tác động của giá dầu tăng cao khác thường, thảm họa về thiên tai và dịch bệnh liên tiếp, biến động khó lường về giá vàng và USD, sức ép về nguy cơ khủng bố hiện diện khấp nơi. Thương mại của EU cũng tăng thấp so với các khu vực khác trên thế giới. Trong bối cảnh như vậy, buôn bán giữa Việt Nam và EU tăng khá trong năm 2005, trong đó xuất khẩu của Việt Nam tăng 14,6% thể hiện rõ tính hiệu quả trong điều hành hoạt động xuất nhập khẩu của Chính phủ, của Bộ Thương mại và sự nỗ lực của các doanh nghiệp Việt Nam. 2.1.1 Về kim ngạch Theo thống kê của Bộ thương mại, tỷ trọng xuất khẩu sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng, mức tăng trưởng lớn hơn so với các thị trường Trung Quốc, Mỹ, ASEAN, Nhật Bản. Tổng giá trị xuất nhập khẩu hai chiều Việt Nam – EU năm 2005 đạt 8,1 tỷ USD gấp 27 lần năm 1990 và hai lần năm 2000 trong đó Việt Nam xuất khẩu đạt 5,4 tỷ USD, gấp đôi năm 2000, nhập khẩu đạt khoảng 2,7 tỷ USD, tăng 200% so với năm 2000. Việt Nam liên tục xuất siêu hơn 2 tỷ USD/năm. Bảng 1: Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu chính trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2000-2005 Đơn vị: % Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 ASEAN 18,2 17,4 17,4 14,7 14,9 18,0 EU 19,5 19,98 19,4 19,9 24,9 25,1 Nhật 18,8 15,3 14,2 14,34 13,7 13,69 Trung Quốc 11,0 10,2 8,99 8,03 10,32 - Úc 9,1 8,6 7,98 7,03 6,79 7,98 Mỹ 5,3 9,7 14,7 19,6 18,4 18,84 Nguồn: Các báo cáo thống kê từ 2000-2005 của Bộ Thương mại Bảng trên cho thấy một xu hướng nổi bật là tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng vượt các thị trường khác như Nhật Bản, ASEAN. Do đó, có thể khẳng định rằng, thị trường EU ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Biểu 1: Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu chính trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2000-2005 Nguồn: Các báo cáo thống kê từ 2000-2005 của Bộ Thương mại Qua bảng số liệu trên cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU có gia tăng khá đều đặn trong giai đoạn 2000 – 2004. Tuy nhiên, 2004-2005 tỷ trọng này có phần chững lại do Việt Nam phân tán thị trường, xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh. Bên cạnh đó, một phần nguyên nhân của xu hướng này là do xuất khẩu Việt Nam gần đây đang tập trung và chuyển hướng xuất khẩu sang thị trường châu Á, Châu Phi nhiều hơn. Bộ Thương mại dự kiến kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – EU năm 2006 sẽ đạt 9,2 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam đạt 6,05 tỷ USD. Biểu 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2000 – 4T/2006 Nguồn: Báo cáo của Bộ Thương mại 2000-2005 2.1.2 Về cơ cấu thị trường Xét theo thị trường thành viên EU thì các nước Đức, Anh, Pháp và Hà Lan luôn là thị trường có sức mua lớn nhất những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Những nước như Thuỵ Điển, Áo, Ai len, Bồ Đào Nha là những thị trường nhỏ có sức tiêu thụ hàng hoá của ta thấp. Những nước như Tây Ba Nha, Hy Lạp là những thị trường mới đối với hàng của ta nhưng là thị trường có nhiều hứa hẹn vì mức tăng trưởng hàng năm rất cao. Và 10 thành viên mới của EU có dấu hiệu gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên vẫn còn nhỏ bé, thậm chí còn giảm so với trước khi gia nhập khối EU. Có thể xem xét tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường từng nước thành viên của EU25 qua bảng số liệu sau đây: Đơn vị : Triệu USD Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu củ._. trước hết đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. - Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ việc làm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường giúp các doanh nghiệp tiếp cận trự ctiếp thị trường, trực tiếp tìm hiểu nhu cầu thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu chính của thị trường EU. - Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường. - Đẩy mạnh công tác trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức thưởng xuất khẩu. * Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường EU. - Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nâng cao năng lực tiếp thị tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU. - Chủ động tìm kiếm đối tác chào hàng thông qua việc tham gia hội chợ, triển lãm và hội thảo chuyên đề tổ chức tại Việt Nam hoặc EU, qua tham tán thương mại các nước thành viên EU và qua văn phòng EU tại Việt Nam. - Tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU trực tiếp hoặc thông qua phòng thương mại EU tại Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Cục Xúc tiến thương mại Bộ Thương mại, tham tán thương mại Việt Nam tại các nước EU, Trung tâm thông tin thương mại Bộ Thương mại… - Các doanh nghiệp cần nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện nhiều mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ tại thị trường EU. Tổ chức các hoạt động dịch vụ trước và sau bán hàng để duy trì củng cố uy tín của hàng hóa Việt Nam đối với người tiêu dùng EU. Hai là phát triển nguồn nhân lực cho đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Con người là yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và đáp ứng tốt nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. Ngoài việc đầu tư trang bị máy móc thiết bị hiện đại phải có những cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề. Hiện nay, nước ta nói chung và doanh nghiệp nói riêng, rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Do đó khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hóa rất thấp. Bởi vậy để khắc phục tình trạng này Nhà nước và doanh nghiệp cần tổ chức nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các lĩnh vực để tạo ra đội ngũ công nhân lành nghề trong các ngành chế tạo, sản xuất chế biến. Đồng thời nên phối hợp với các nước để gửi cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật trẻ, có triển vọng ra đào tạo ở nước ngoài. Ngoài vấn đề chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật, Chính phủ và doanh nghiệp cần phải quan tâm, phối kết hợp đào tạo để có đội ngũ cán bộ thương mại giỏi thì mới có thể đưa sản phẩm có chất lượng cao tới được thị trường EU. 3.5.2 Giải pháp cho hàng giày dép 3.5.2.1 Giải pháp từ phía Nhà nước Thứ nhất, Nhà nước cần giải quyết khó khăn vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị; đảm bảo bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng trên cơ sở pháp luật giữa các thành viên kinh tế; mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ...thực hiện lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, sản xuất được các sản phẩm mới. Phải coi công nghệ là mục tiêu số một để đưa sản phẩm giày dép thành một trong những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào EU; thực hiện hiện đại hoá từng bước về công nghiệp và trang thiết bị trong ngành công nghiệp da giày, hạn chế tối đa việc nhập các thiết bị đã cũ kỹ và lạc hậu; tiếp tục cải tiến công nghệ và trang thiết bị trong đầu tư chiều sâu, mở rộng và phát triển các cơ sở hiện có đối với những sản phẩm giày vải, giày thể thao, giày nữ và các loại hài ...Xây dựng một số công trình mới cần thiết đáp ứng cho nhu cầu phát triển các năm sau như giày da, giày bảo hộ lao động có chất lượng cao, là những sản phẩm có chất lượng và giá trị hàm lượng chế biến cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho công nghiệp giày dép. Thứ hai, khuyến cáo các doanh nghiệp xuất khẩu phải hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu để nắm bắt được kích cỡ, đòi hỏi về môi trường, kỹ thuật, thiết kế và phát triển thị trường, trong đó nên hợp tác chặt chẽ dưới dạng liên doanh và hợp đồng gia công với các đối tác có thương hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng. Thứ ba, khuyến cáo các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu lưu ý đến xu hướng thời trang hiện nay đang chuyển từ hình thức sang sự tiện dụng. Cần chú ý đến nhu cầu của giới trẻ hiện nay đòi hỏi thời trang thể hiện được phong cách cá nhân, nhất là trong lĩnh vực giày thể thao. Thứ tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển sang phương thức xuất khẩu trực tiếp, giảm dần phương thức gia công, khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước nhằm tăng hiệu quả kinh tế đồng thời tạo thêm việc làm. Hiện nay, có rất nhiều cơ sở sản xuất được mũi, đế giày có chất lượng tốt không kém nhập ngoại. Chú trọng sản xuất sản phẩm có giá trị cao và lưu ý hiệu quả sản xuất thay vì chạy theo số lượng. Biết kết hợp giữa giá cả, chất lượng với uy tín sản phẩm và thời gian giao hàng ổn định và mở rộng kênh tiêu thụ sản phẩm. Thứ năm, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường và mở rộng quan hệ trực tiếp với các đối tác nhập khẩu giày dép tại khu vực thị trường CEEC, tạo chỗ dựa mở rộng thị phần, giảm dần xuất khẩu giày dép qua khâu trung gian. Tiếp tục củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, ổn định đầu ra cho sản phẩm giày dép trên thị trường EU, giữ tỷ lệ giày dép xuất khẩu của Việt Nam dưới 25% để tránh khả năng bị áp dụng hạn ngạch. Xây dựng các trung tâm xúc tiến thương mại của nhà nước làm cầu nối cho doanh nghiệp ký kết hợp đồng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm sang thị trường EU. Hộp 10: Đề xuất của tác giả về biện pháp cho ngành da-giày Một là mở rộng thị trường xuất khẩu không chỉ trong EU15 hay EU25 mà cả những nước ngoài EU: Việc tìm kiếm và mở rộng thị trường là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp, do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phát huy mọi khả năng và ngành da giày phải định hướng từng bước tổ chức sản xuất, đầu tư hợp lý; Hiệp hội Da-Giày cần tăng cường quan hệ với các tổ chức của EU nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong ngànhđể có thể xuất khẩu trực tiếp, giành khâu trung gian với mục tiêu đạt hiệu quả kinh doanh tối đa; Bên cạnh đó, phối hợp tổ chức tham gia các hội trợ triển lãm chuyên ngành do Hiệp hội giầy châu Á tổ chức. Hai là chuyển từng bước gia công sang xuất khẩu trực tiếp: Quy hoạch tổng thể phát triển ngành da giày đến 2010. Tổng công ty Da-Giày lên kế hoạch hình thành trung tâm mẫu mốt giầy dép; Coi việc đào tạo, tuyển dụng, bố trí sử dụng lực lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật, thiết kế sáng tác và triển khai mẫu mốt; Tổ chức tiếp cận thị trường thông qua các hội trợ triển lãm trong nước và quốc tế, chú trọng khâu quảng cáo tiếp thị. Ba là đào tạo kỹ sư công nghệ ngành da giày: Để nhằm giải quyết những bất cập trong sử dụng lao động trong 2 khâu chính là thiết kế và công nghệ. Bốn là tích cực cổ phẩn hóa các doanh nghiệp da giày: nhằm tăng cường vốn đầu tư để cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3.5.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp Một là,các doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp nhằm tăng nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp. Một trong những giải pháp hữu hiệu cho việc tăng nguồn hàng trực tiếp hiện nay là các doanh nghiệp giầy nên liên kết lại với nhau để đáp ứng những đơn đặt hàng của EU, cũng như hỗ trợ nhau nâng cao chất lượng, mẫu mã, giảm giá thành. Năm 2004 có một đơn đặt hàng xuất khẩu 1 triệu đôi giầy trực tiếp sang EU nhưng đã không thành vì không có doanh nghiệp nào trong nước đáp ứng nổi. Mặt khác để tăng nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp của các nhà sản xuất Việt Nam nên thường xuyên quan hệ với các văn phòng đại diện của EU tại Việt Nam. Các văn phòng này có mạng lưới phân phối rộng ở EU và có thể mang lại nhiều đơn đặt hàng cho các nhà sản xuất khi sản phẩm đáp ứng đủ nhu cầu tìm nguồn hàng của họ. Hộp 11: Đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp vào EU cho da giày Trong buổi hội thảo “Đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp vào EU cho ngành da giày” được tổ chức tại Plaza Giày Việt đầu năm 2006, ông Vũ Văn Minh, Tổng giám đốc Vina Giày đưa ra giải pháp là các doanh nghiệp nên tăng cường xuất khẩu trực tiếp, nhất là vào thị trường EU, vì hiện trong gần 2,6 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu của ngành, chỉ có khoảng 10-15% là từ xuất khẩu trực tiếp. Để tăng kim ngạch tự xuất khẩu sang EU, ông Nguyễn Thanh Lâm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Việt châu Âu, một công ty chuyên xuất khẩu nhiều mặt hàng Việt Nam sang EU cho rằng, các doanh nghiệp da giày nên liên kết lại với nhau để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn của EU, cũng như hỗ trợ nhau nâng cao chất lượng, mẫu mã, giảm giá thành. Ông cho biết đã phải từ chối một đơn đặt hàng 1 triệu đôi giày xuất khẩu trực tiếp sang EU vì không doanh nghiệp nào trong nước đáp ứng nổi. Nguồn: Hiệp hội Da – Giầy Việt Nam Hai là, bên cạnh xuất khẩu trực tiếp, để tăng kim ngạch xuất khẩu giầy da Việt Nam sang EU, các doanh nghiệp cũng cần phải biết chọn cho mình một phân khúc thị trường hợp lý. Việc chọn phân khúc thị trường là để tránh đối đầu với những hàng sản xuất ồ ạt của Trung Quốc, tránh cạnh tranh với những sản phẩm có chất lượng cao của các nước nội khối EU. Phân khúc thị trường Việt Nam được xem là hiệu quả nhất và tránh được các đối thủ kể trên là những sản phẩm có chất lượng tốt nhưng phải mang tính độc đáo, phong cách và kiểu dáng riêng biệt. Có thể đó là những sản phẩm công nghệ cao kết hợp với những chi tiết phức tạp nhờ vào trình độ thủ công. Ba là, để tăng kim ngạch xuất khẩu giầy vào EU thì khâu tìm hiểu và thăm dò thị trường là không thể thiếu. Do doanh nghiệp Việt Nam ít tham gia trưng bày sản phẩm tại các hội chợ về da giày tại EU, hoặc nếu có chỉ là tham quan, khảo sát thị trường. Hơn nữa, khi tham gia hội chợ, gian hàng trưng bày của Việt Nam thường nghèo nàn hình thức, rời rạc, nhỏ lẻ, mang tính cá nhân, không tập trung vào một khu vực để có thể làm nổi bật thương hiệu. Nhiều doanh nghiệp phải tham dự 2, 3 hội chợ mới ký được vài hợp đồng nhỏ rồi ngưng. Vì thế hiệu quả tham dự hội chợ về da giày ở EU của các doanh nghiệp Việt Nam thường không cao. Cách tốt nhất là các doanh nghiệp tham dự các hội chợ giầy dép tại EU, qua đó để thị trường biết được sản phẩm của mình và mình cũng có thể nhận biết thị hiếu chung của từng nước cụ thể, qua đó cải tiến chất lượng, mẫu mã, công nghệ. Trong một hội chợ triển lãm có hàng trăm ngàn đôi giầy, chỉ cần vài đôi có kiểu dáng độc đáo là có thể thu hút sự chú ý của các nhà thu mua hàng của các hãng nhập khẩu lớn ở EU. Bốn là, khi có sản phẩm xuất khẩu trực tiếp sang EU, các doanh nghiệp nên lưu ý đến hệ thống phân phối và nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm làm từ da của từng quốc gia trong khối này. Xu hướng ở EU đang phát triển ngày càng nhiều các cửa hàng bán lẻ giày dép kèm thêm dịch vụ ăn uống, là nơi đọc báo, tạp chí, hoặc bán giày dép kèm quà tặng như bán giày trẻ em tặng thêm búp bê... Các doanh nghiệp cũng nên tranh thủ lượng người Việt đang sinh sống ở Đông Âu, vì họ sẽ vừa là khách hàng tiêu thụ, vừa là đối tác phân phối sản phẩm cho hàng Việt Nam. Theo thống kê của các chuyên gia về thị trường EU, người Việt ở Đông Âu giỏi buôn bán hơn người Việt sống ở Tây Âu. Năm là, các doanh nghiệp nên tận dụng các trung tâm xúc tiến thương mại cần có một cứ điểm ở EU cho doanh nghiệp trong nước làm nơi trao đổi, bàn bạc và tiếp xúc với đối tác. Khi xúc tiến thương mại ở EU, bước đầu doanh nghiệp nên tập trung vào khuếch trương thương hiệu chung là hàng Việt Nam, sau đó mới xây dựng thương hiệu riêng cho doanh nghiệp. 200 doanh nghiệp trong lĩnh vực da giày trong nước nếu tập hợp lại sẽ là một đối thủ mạnh khi xây dựng được thương hiệu chung trên thị trường EU. Sáu là, còn một nguồn nhận hàng xuất khẩu trực tiếp sang EU khác là các công ty thương mại EU có văn phòng đại diện tại Việt Nam. các nhà sản xuất nên thường xuyên liên hệ với các văn phòng đại diện này vì họ có mạng lưới phân phối rộng ở EU và có thể mang lại nhiều đơn hàng cho nhà sản xuất khi sản phẩm đáp ứng nhu cầu tìm nguồn hàng của họ. Hộp 12: Những lời khuyên cho các nhà xuất khẩu giày dép sang EU Xu hướng thời trang Theo Trung tâm thông tin Thương mại châu Âu (EBIC), trên toàn Châu Âu, việc tiêu dùng giày dép gần đây đã chuyển biến mạnh từ hình thức sang sự tiện lợi. Giầy dép vải bạt và giày thể thao, giày chống nước và giày không thấm nước trở nên phổ biến với mọi lứa tuổi. Dép lê thường dùng trong nhà giờ bị thay thế một phần bởi giày sục, giày vải bạt hoặc giày thể thao. Thời trang giày không do nhà thiết kế đề xuất nữa mà sẽ do nhu cầu tiện dụng và đặc tính cá nhân quyết định. "Thời trang chính là sự tiện dụng", xu hướng này sẽ tiếp tục suốt thế kỷ 21. Khi lựa chọn, người ta chú trọng hơn vào nhãn hiệu, nhất là giới trẻ. Các chu kỳ thời trang ngắn hơn và thị trường của lớp trẻ đòi hỏi thời trang thể hiện được phong cách cá nhân, trong đó họ đặc biệt quan tâm tới giày thể thao. Giày thể thao chuyên nghiệp sẽ do các nhãn hiệu nổi tiếng thống lĩnh như Adidas, Nike, Reebok... và Viễn Đông là khu vực sản xuất chủ yếu. Mỗi thị trường, mỗi cơ hội Dự đoán, nhu cầu giày dép tại EU sẽ tiếp tục tăng và lượng giày dép bình quân đầu người cũng tăng. Đáng chú ý là nhu cầu sẽ tập trung vào các loại giày dép thông thường và nhẹ nhàng. ở Anh, giá cả giày dép đã giảm nhiều so với các thị trường EU khác. Dự báo, thị trường giày dép Pháp sẽ tăng ở mức trung bình của EU, trong khi thị trường Italy sẽ tăng mạnh, đặc biệt trong mấy năm tới. Thị trường Hà Lan chậm chạp trong hai thập kỷ vừa qua, nhưng đã có dấu hiệu phục hồi trong mấy năm gần đây. EBIC đưa ra những lời khuyên Các nhà xuất khẩu Việt Nam nên tạo nhiều sản phẩm có chất lượng cao và "thân thiện" hơn với môi trường, thách thức này sẽ đơn giản hơn nếu doanh nghiệp có chiến lược đúng và chuẩn bị kỹ càng cho kế hoạch phát triển. Thời gian giao dịch giữa các nhà nhập khẩu và các hãng bán buôn, bán lẻ cần ngắn lại, cũng nên am hiểu sự phát triển của các thị trường mục tiêu. Các chuyên gia khuyên rằng, những nước đang phát triển nên chú trọng sản xuất sản phẩm có giá trị cao thay vì nâng số lượng xuất khẩu, đồng thời vẫn lưu ý hiệu quả sản xuất. Giai đoạn đầu, phương án ít rủi ro là cố gắng giành được các đơn hàng cố định cho các sản phẩm do khách hàng yêu cầu, giai đoạn sau là tìm hiểu và nắm bắt thị trường nội địa. Bên cạnh đó, sự hợp tác chặt chẽ giữa các nhà xuất khẩu và nhập khẩu là rất cần thiết bởi doanh nghiệp xuất khẩu phải đối mặt với nhiều vấn đề như kích cỡ, đòi hỏi về môi trường, kỹ thuật, thiết kế và phát triển thị trường, trong đó nên hợp tác chặt chẽ dưới dạng liên doanh và các hợp đồng gia công. Điều quan trọng nữa là phải biết kết hợp giữa giá cả, chất lượng sản phẩm với uy tín trong thời gian giao hàng. Ngoài ra, doanh nghiệp xuất khẩu da giày cần liên tục ứng dụng công nghệ mới và giảm chi phí sản xuất, đồng thời phát huy những thuận lợi khác của các nước đang phát triển là sự ổn định về kinh tế và chính trị. 3.5.3 Giải pháp cho hàng thủy sản 3.5.3.1 Giải pháp từ phía Nhà nước Thuỷ sản Việt Nam đang được lên ngôi và chiếm được cảm tình của người tiêu dùng EU. Tuy nhiên từ năm 2000, EU đã cảnh báo rất nhiều lô tôm đông lạnh xuất khẩu của một số nước Đông Nam Á xuất khẩu vào EU có dư lượng kháng sinh cao trong đó có Việt Nam. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do máy móc thiết bị của phần lớn các nhà máy chế biến thuỷ sản đã lạc hậu. Công nghệ chế biến đơn giản, lao động thủ công nhiều. Các yêu cầu vệ sinh thực phẩm cũng chưa được đảm bảo. Vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến bàn ăn là yêu cầu trong sách trắng của EU đưa ra đối với thực phẩm chế biến nhập khẩu vào lãnh thổ EU. Nhiều người cho rằng yêu cầu dư lượng kháng sinh dưới 0,3ppb chính là hàng rào phi thuế quan mà EU dựng lên thay thế cho hàng rào quan thuế dần dần được rỡ bỏ. Việc xem xét có phải là hàng rào hay không chính là xem khả năng sản xuất trong Cộng đồng có đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong Cộng đồng hay chưa, yêu cầu về dư lượng kháng sinh đó có vượt quá những quy định trong luật EU và trong WTO hay không. Thực tế, EU chỉ đáp ứng được chưa đầy 40% nhu cầu, trên 60% phải nhập khẩu. Để đối phó với tình hình trên đây nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU mở rộng, Nhà nước cần phải thực hiện một số biện pháp sau đây: Thứ nhất, là các Bộ, Ngành liên quan cần phối hợp với các nước trong khu vực có thuỷ sản xuất khẩu vào EU cùng đấu tranh với EU về tỷ trọng dư lượng kháng sinh trong thực phẩm nói chung và trong thuỷ sản nói riêng, với mức độ nào là an toàn cho người sử dụng, bằng các hình thức như hội thảo của các nhà khoa học, hội nghị quốc tế về y tế và an toàn thực phẩm, trong các diễn đàn ASEM, APEC… Tăng cường đàm phán thương mại cấp chính phủ giữa Việt Nam và liên minh Châu Âu để tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường thâm nhập vào thị trường EU. Việc đàm phán cần nhằm vào các mục tiêu: (1) Đảm bảo có sự thừa nhận lẫn nhau về các chứng chỉ văn bằng do các cơ quan có thẩm quyền của hai chính phủ cấp để dỡ bỏ các rào cản kỹ thuật đối với xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường EU; (2) Đảm bảo mức thuế quan ưu đãi cho hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang EU. Để đạt được kết quả này, Chính phủ phải có các biện pháp cải cách mạnh mẽ hơn nữa để xây dựng cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam nhằm gây ấn tượng tốt cho các nhà hoạch định chính sách EU. Việc tham khảo và giới thiệu chính sách lẫn nhau giữa hai Chính phủ cũng cần được tăng cường. Đồng thời Chính phủ hai bên nên phối hợp chặt chẽ và tăng cường tổ chức các đoàn quan chức Chính phủ tham quan khảo sát thị trường của nhau để có căn cứ thực tế của sự hợp tác. Thứ hai, là Bộ Thuỷ sản phối hợp chặt chẽ với Bộ Y Tế, Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn và Bộ Thương mại có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu, sản xuất, buôn bán và sử dụng 16 loại kháng sinh tương đương với EU cấm trong nông nghiệp và thuỷ sản. Yêu cầu ngành y tế quản lý chặt chẽ và chỉ sử dụng để chữa bệnh cho người khi chưa có giải pháp thay thế. Thứ ba, là có chế độ thu mua nguyên liệu cũng như kiểm soát chặt chẽ quy trình bảo quản và chế biến thuỷ sản, thưởng phạt rõ ràng đối với những doanh nghiệp không thực hiện nghiêm túc yêu cầu này. Thứ tư, là cần tổ chức tuyên truyền rộng rãi kiến thức về an toàn vệ sinh thực phẩm cho ngư dân, nông dân, tổ chức các khoá đào tạo kiểm tra, kiểm soát và đầu tư các thiết bị kiểm tra cho các cơ quan chuyên ngành. Chính phủ cần dành một khoản ngân sách thích đáng cho các cơ quan kiểm tra thực hiện các hoạt động tuyên truyền, huấn luyện và thực hành kiểm tra từ khâu nuôi trồng đến khâu bảo quản và chế biến xuất khẩu. Thứ năm, là miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản. Ngoài việc không đánh thuế xuất khẩu đối với hàng thuỷ sản thì Chính phủ cũng cần có những chính sách miễn giảm những loại thuế khác để khuyến khích sản xuất xuất khẩu hàng thuỷ sản như thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp đề nghị nhà nước áp dụng mức thuế ưu đãi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng thuỷ sản. Việc áp dụng các chính sách thuế ưu đãi sẽ tác động tích cực tới khả năng cạnh tranh xuất khẩu của hàng thuỷ sản Việt Nam, khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Thứ sáu, là tăng cường hoạt động đầu tư, khoa học và công nghệ, nghiên cứu triển khai ở cả tầm vĩ mô và vi mô để phát triển sản phẩm mới cho xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU. Việc phát triển sản phẩm thuỷ sản mới phụ thuộc nhiều vào đầu vào của đầu tư và phát triển khoa học công nghệ, xu hướng tiêu thụ thuỷ sản của thế giới mà đặc biệt là các nước phát triển như EU đang hướng mạnh vào việc tiêu thụ các sản phẩm chế biến sâu để ăn liền và các sản phẩm còn sống, nếu Việt Nam phát triển được những sản phẩm loại này sẽ có khả năng đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa vào thị trường EU. Thực hiện tốt các biện pháp trên đây chúng ta sẽ lấy lại được uy tín hàng thuỷ sản Việt Nam và đẩy mạnh được kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào khu vực thị trường EU trong thời gian tới. 3.5.3.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp Để đứng vững và đảm bảo tăng trưởng bền vững trên thị trường này còn là điều rất khó, đòi hỏi các doanh nghiệp chế biến và các khâu hoạt động có liên quan phải không ngừng quan tâm, cảnh giác. Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU cần lưu ý một số vấn đề sau: Một là các doanh nghiệp cũng phải chịu khó tìm hiểu về luật pháp của những nước nhập khẩu, tăng cường hiểu biết về các lực lượng kinh tế và thế lực khác tác động đến thị trường các nước nhập khẩu. Và quan trọng hơn, doanh nghiệp phải biết liên kết với nhau trong quá trình xử lý tranh chấp. Hàng thủy sản Việt Nam xuất sang thị trường thế giới thường gặp các rào cản pháp lý như chống bán phá giá. Song, rào cản về kỹ thuật - tức là những yêu cầu về vệ sinh - ngày càng được áp dụng một cách khắt khe hơn. Càng ngày, bản danh sách các chất kháng sinh bị cấm sử dụng càng dài. Cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng ngày một gay gắt, trong khi khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam còn thấp. Các chuyên gia cho rằng, sản xuất kinh doanh thủy sản đã đến lúc không thể chỉ trông chờ vào khai thác tự nhiên, mà cần có đầu tư đồng bộ mới có thể phát triển với tốc độ cao. Hai là doanh nghiệp Việt Nam cần nắm vững các luật lệ về nhập khẩu, thuế chống phá giá, các quy định về kỹ thuật, về môi trường, về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế và phải thường xuyên nghiên cứu thị trường để đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Ba là các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần phải đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, áp dụng các quy trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế HACCP - tiêu chuẩn của EU, mới mong các sản phẩm thủy sản của mình có chỗ đứng trên thị trường châu Âu. Ngoài ra, các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam cũng cần hợp tác với nhau, thông qua các hiệp hội thủy sản, nhờ sự hỗ trợ của Nhà nước để tăng cường xúc tiến thương mại. Bốn là các nhà xuất khẩu thủy sản Việt Nam nên chú ý là hiện nay cộng đồng người Việt sống ở các nước châu Âu cũng là một nguồn lực cạnh tranh đáng kể. Họ có thế mạnh về bản ngữ, thông thạo địa lý, hiểu được tâm lý tiêu dùng của dân bản xứ, biết rõ phong tục tập quán, am hiểu luật pháp các nước sở tại. Con số hơn 300.000 Việt kiều sống tại Pháp, 100.000 người Việt ở tại các nước Đông Âu, 100.000 tại Đức, khoảng trên 10.000 người sinh sống ở những nước khác tại châu Âu, cũng là một thị trường lớn khác trong khối châu Âu để các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản tranh thủ khai thác. Năm là các doanh nghiệp tuyệt đối không sử dụng nguyên liệu thủy sản không rõ nguồn gốc vào chế biến các lô hàng xuất khẩu sang EU, Canada và những thị trường có yêu cầu tương đương. Từng lô nguyên liệu nhập vào nhà máy phải có phiếu kiểm tra hoá chất, kháng sinh. Trong trường hợp chưa có phiếu kiểm tra, phải được lấy mẫu kiểm tra để biết chắc lô nguyên liệu đó không chứa kháng sinh cấm (đặc biệt là Malachite Green). Hộp 13: Chiến lược thâm nhập thị trường EU Xây dựng quan hệ đối tác Các quốc gia Châu Âu đang tiến dần tới một hệ thống thị trường thống nhất. Để thành công, các nhà xuất khẩu cần phải xây dựng các mối quan hệ đối tác tại thị trường này nhưng cũng phải thận trọng khi lựa chọn đối tác là các nhà nhập khẩu, đại lý và các nhà phân phối vì họ sẽ là người đại diện của doanh nghiệp tại thị trường này. Ngoài ra, mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt do chính sách hạ giá các nhà xuất khẩu và do các rào cản vào thị trường càng ngày càng được giảm bớt. Lựa chọn nhà phân pối hay đại lý hi nhà xuất khẩu muốn đưa sản phẩm của mình thâm nhập thị trường EU, một mối quan tâm thường xuyên đó là nên lựa chọn nhà phân phối hay đại lý làm đối tác của mình tại thị trường này. Có những điểm khác nhau sau cần phải lưu ý: + Nhà phân phối: Là người có quyền quyết định về chính sách giá và cách thức bán hàng. + Đại lý: Là người chịu sự chi phối của nhà xuất khẩu trong việc định giánvà hình thức bán hàng. Vấn đề ở đây là lựa chọn ai? Thông thường, lựa chọn một nhà phân phối là hợp lý hơn đối với các các nhà xuất khẩu mới tiếp cận thị trường hoặc đang tìm cách thâm nhập sâu hơn vào thị trường, lựa chọn đối tác là đại lý thường được áp dụng đối với các nhà sản xuất đã thâm nhập được thị trường. Riêng tại Đức, công ty nên thiếp lập hệ thống phân phối trực tiếp của mình do quy mô của thị trường và do tại đây phải chịu cạnh tranh ngay cả với các sảnphẩm đướcản xuất tại EU Doanh nghiệp EU thường bỏ ra rất nhiều thời gian để xây dựng quan hệ và lòng tin trước khi tiến hành hợp tác lâu dài.Tại EU, nhà phân phối hoặc/và đại lý được coi là đối tác của nhà sản xuất, và luật pháp EU cũng phản ánh tầm quan trọng của quan hệ đối tác hơn chỉ là gây dựng mối quan hệ và điều đó được thể hiện: + Thời gian kết thúc hợp đồng thường kéo dài ít nhất là ba tháng cho tới vài năm tuỳ thuộc vào luật pháp của từng nước. Bởi vậy, việc chấm dứt một mối quan hệ đối tác đối khi cũng trở thành các vấn đề rất phức tạp, ngay cả khi nhà sản xuất nắm quyền kiểm soát đối với quá trình phân phối. + Luật pháp EU đòi hỏi phải bồi thường cho các đại lý ngay cả khi việc chấm dứt hợp đồng hợp tác theo đúng cam kết. (ví dụ như khi thời hạn hợp đồng đã hết hoặc phía đối tác không thực hiện hết nghĩa vụ của mình) + EU có rất nhiều các quy định ngặt nghèo trong quyền sử dụng cơ sở dữ liệu khách hàng. Một vấn đề mà các nhà xuất khẩu cần cân nhắc khi lựa chọn đối tác của mình tại EU đó là làm sao doanh nghiệp có thể được thông báo về tất cả những biến động tại thị trường về các yêu cầu và các thông tin gắn liền với ngành hàng kinh doanh, hoặc doanh nghiệp đang dự định xuất khẩu mặt hàng. Do vẫn còn ảnh hưởng bởi cơ chế thị trường truyền thống, các thị trường quy mô quốc gia và hệ thống phân phối truyền thống, những sự khác biệt về tập quán kinh doanh và hệ thống luật pháp quốc gia riêng vẫn còn tồn tại ở trong tiềm thức của các doanh nhân, lể lối kinh doanh cũ vẫn còn tồn tại trong một số doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có sự tư vấn về luật pháp: Minh bạch trong các vấn đề luật pháp liên quan tới quan hệ đối tác là một cách thức tốt nhất để bảo vệ lợi ích của nhà xuất khẩu trong kinh doanh tại thị trường EU. Cách thức tốt nhất là doanh nghiệp nên có quan hệ mật thiết với các công ty luật có kinh nghiệm về các vấn đề quy định của luật pháp EU, hiểu biết sâu sắc các quy định luật pháp của EU, về xu hướng áp dụng hệ thống luật chung tại từng quốc gia thành viên, nơi mà doanh nghiệp đang có kế hoạch thâm nhập. Ngoài sự phức tạp trong suốt quá trình áp dụng và việc bồi thường cho đối tác khi kết thúc hợp đồng, các vấn đề về tránh cạnh tranh và các vấn đề về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tạo thành những nội dung chính yếu trong hợp đồng hợp tác với đại diện của doanh nghiệp tại thị trường EU. Vấn đề về giao dịch với đối tác: Nhà xuất khẩu cũng phải sẵn sàng đầu tư thời gian trong quá trình xem xét và lựa chọn đối tác phù hợp cho việc đưa sản phẩm của mình vào thị trường EU. Một khi mối quan hệ đối tác được thiết lập, duy trì việc tiếp xúc thường xuyên với đối tác của mình và việc đáp ứng các yêu cầu của đối tác sẽ giúp doanh nghiệp khắc phục được các bất lợi về khoảng cách. EU là một thị trường lớn hứa hẹn những cơ hội kinh doanh. Chính vì vậy mà doanh nghiệp cần phải tính toán kỹ càng để bỏ ra những chi phí cần thiết để có thể tiếp cận và thâm nhập. Thêm vào đó, đồng tiền chung Euro sẽ là phương tiện thanh toán duy nhất trên thị trường và tất cả các khâu trong dây chuyền phân phối hàng hoá. 2. Chuẩn bị cho xuất khẩu sang EU Các nhà xuất khẩu mong muốn thâm nhập thị trường EU sẽ không thể gặt hái được thành công nếu không có các bước chuẩn bị kỹ càng bởi vì EU là một thị truờng lớn và cũng hết sức đa dạng, năng động nhưng cũng đồng thời làmột thị trường có mức độ cạnh tranh gay gắt. Vì vậy, doanh nghiệp muốn tiếp cận thị trường này cần thực hiện trước hết các bước đánh giá và nghiên cứu thị trường mục tiêu, nghiên cứu cấu trúc thương mại và hệ thống phân phối, đánh giá khả năng tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế các thách thức, xác định một chiến lược lựa chọn và chuẩn bị ứng phó trong một môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao. Các điểm được nêu dưới đây sẽ giúp doanh nghiệp trong việc hoạch định kế hoạch phát triển quan hệ kinh doanh và tiếp theo thực hiện thành công cácthương vụ với các đối tác nhập khẩu EU + Để có thể phát triển xuất khẩu sang EU một cách hợp lý: nhà xuất khẩu phải sẵn lòng đầu tư thời gian và tiền bạc cho công tác nghiên cứu thị trường và thiết lập các mối quan hệ hợp tác kinh doanh. + Lựa chọn thị trường tiềm năng dựa trên những đánh giá về thị trường đã đượcthực hiện. + Kết hợp giữa cơ hội và thách thức khi tiếp cận thị trường EU với các thế mạnh và điểm yếu của công ty, việc phân tích và đánh giá ma trận SWOT sẽ là cơ sở hoạch định chiến lược xuất khẩu của doanh nghiệp. Vấn đề quan trọng nhất là việc đánh giá các đặc tính của sản phẩm, điều kiện sản xuất, quá trình sản xuất, khả năng đáp ứng nhu cầu của sản phẩm hiện tại, tính thích ứng của sản phẩm, chất lượng sản phẩm, bao bì... đánh giá về nguồn lực nhân sự, hệ thống quản lý, tiêu chuẩn, khả năng tài chính và kinh nghiệm trong kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. + Việc giao dịch với đối tác tại EU cũng là một vấn đề quan trọng vì họ chính là đại diện của doanh nghiệp tại thị trường EU, tất cả các giao dịch nên thực hiện bằng tiếng Anh. Xem xét khả năng đáp ứng các nhu cầu một cách nhanh chóng bởi vì doanh nghiệp nên tự ý thức rằng không phải chỉ có mình mình trên thị trường, ngoài ra còn có rất nhiều đối thủ cạnh tranh đang nhòm ngó vị trí của doanh nghiệp trên thị truờng. Có thể giao dịch bằng điện thoại, fax, và bằng thư điện tử là hình thức tiện lợi và tiết kiệm chi phí nhất. Tuy nhiên cũng không nên quá lệ thuộc vào việc giao dịch qua email để thiết lập các mối quan hệ đối tác, vì không phải tất cả các email của bạn gửi đi đều sẽ được đọc và trả lời + Nếu chiến dịch gửi thư trực tiếp được tiến hành, nên tiếp tục bằng việc giao dịch qua điện thoại và thực hiện cả những chuyến viếng thăm đối tác tiềm năng của mình. Việc chào giá, hình thức chào giá, đàm phán về phương thức thanh toán cũng cần hết sức lưu ý vì giá cả cũng là một điều kiện để đánh giá tính cạnh tranh tại thị trường EU. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32826.doc
Tài liệu liên quan