Thực trạng và và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Thực trạng và và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Lời mở đầu Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán là một xu thế tất yếu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Và Việt Nam không thể tách rời xu thế đó. Thị trường chứng khoán hình thành và phát triển sẽ cùng thị trường tiền tệ tạo ra một thị trường tài chính vận hành có hiệu quả hơn, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển đó của thị trường chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào một lực lượng trung gian quan trọng tr... Ebook Thực trạng và và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng và và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên thị trường - đó là các định chế tài chính. Qua hơn bẩy năm hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam cho thấy, nhờ có vai trò của các định chế tài chính mà thị trường chứng khoán đã hoạt động sôi động và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong quá trình đó, các định chế tài chính cũng bộc lộ những mặt còn hạn chế, tác động tới sự phát triển chung của thị trường. Đặc biệt trong năm 2006 và 2007, thị trường chứng khoán có những bước phát triển mới, khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng có nhiều thay đổi, tác động mạnh tới vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, người viết đã lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là “Thực trạng và và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. Khóa luận nhằm tìm hiểu những vai trò của các định chế tài chính trên TTCK. Thông qua đó, khóa luận sẽ phân tích, đánh giá thực trạng những vai trò chủ yếu và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên TTCK Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với mục tiêu này, cấu trúc của khóa luận gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về định chế tài chính và vai trò của chúng trên thị trường chứng khoán. Chương II: Thực trạng vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Khóa luận này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo PGS - TS. Nguyễn Thị Quy. Xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Hà Thị Huế DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TTCK : Thị trường chứng khoán TTGDCK : Trung tâm giao dịch chứng khoán SGDCK : Sở giao dịch chứng khoán ĐMTN : Định mức tín nhiệm ĐCTC : Định chế tài chính UBCKNN : Uỷ ban chứng khoán Nhà nước NHTM : Ngân hàng thương mại CTCK : Công ty chứng khoán CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH VÀ VAI TRÒ CỦA CHÚNG TRÊN TTCK Tổng quan về các định chế tài chính Khái niệm Thị trường tài chính là một bộ phận quan trọng, chi phối hoạt động của nền kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của nó sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Thị trường tài chính là thị trường mà trong đó vốn được chuyển từ những người hiện có dư thừa sang những người thiếu vốn, tức là đưa vốn từ những người không thể sử dụng nó một cách sinh lợi cho mình, sang những người có thể sử dụng nó một cách sinh lợi, nhờ vậy đưa đến hiệu quả kinh tế cao hơn. Và một trong những nhân tố giúp cho thị trường tài chính phát huy được vai trò của mình đối với nền kinh tế là các ĐCTC - một trung gian quan trọng giúp thỏa mãn nhu cầu của cả những người có vốn lẫn những người thiếu vốn. Định chế tài chính là một doanh nghiệp mà tài sản chủ yếu của nó là các tài sản tài chính hay còn gọi là các hình thức trái quyền (như cổ phiếu, trái phiếu và các khoản cho vay); hay là một tổ chức nắm giữ các chứng khoán, các giấy nhận nợ được phát hành bởi những người đi vay (chứng khoán sơ cấp) và đồng thời bán các giấy nhận nợ của chính nó (chứng khoán thứ cấp) cho những người tiết kiệm. Điều này có nghĩa, các tổ chức này huy động vốn từ những người tiết kiệm và chuyển nó tới các nhà đầu tư bằng cách cho vay, mua các chứng khoán, đồng thời cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng như dịch vụ thanh toán, bảo quản tài sản, tư vấn đầu tư, môi giới, bảo hiểm… Như vậy, các ĐCTC là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, khác với các loại hình doanh nghiệp khác vì tài sản chủ yếu của các tổ chức này là các tài sản tài chính, trong khi tài sản chủ yếu của các doanh nghiệp khác là các tài sản hiện vật như nhà cửa, công cụ, nguyên liệu… Chức năng và vai trò của các ĐCTC Chức năng của các ĐCTC Chức năng cơ bản nhất của các ĐCTC là chức năng dẫn vốn từ những người có thu nhập nhiều hơn chi tiêu đến những người có nhu cầu sử dụng vốn nhiều hơn thu nhập. Các ĐCTC đóng vai trò là người trung gian hay người thứ 3 giữa người cho vay và người đi vay vốn, và giúp cho vốn được luân chuyển từ người này sang người kia. Các ĐCTC có các chức năng chủ yếu sau: Chức năng tạo vốn Để có thể cho vay hoặc đầu tư, các ĐCTC tiến hành huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế hình thành các quỹ tiền tệ tập trung. Với chức năng này, các ĐCTC đã đem lại lợi ích cho chính mình và cho phần lớn những người có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất huy động vốn. Chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế Tiền vốn được huy động từ những người có vốn tạm thời nhàn rỗi là để thực hiện mục tiêu cung ứng vốn cho những người tạm thời thiếu vốn. Trong nền kinh tế thị trường, những người cần vốn là các doanh nghiệp, Chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Với chức năng này, các ĐCTC đã cung cấp đầy đủ, chính xác và kịp thời nhu cầu tài trợ vốn cho những người cần vốn. Chức năng kiểm soát Các ĐCTC thực hiện chức năng kiểm soát nhằm giảm tới mức tối thiểu vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức do thông tin không cân xứng gây ra. Chức năng này giúp cho các chủ thể thuộc mọi vị trí khác nhau trong nền kinh tế có thể đưa ra những quyết định hợp lý nhất đối với việc cho vay và đi vay vốn. Vai trò của các định chế tài chính Ngày nay, các ĐCTC càng ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới. Nó thực sự đem lại lợi ích cho cả người có vốn, những người cần vốn, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, bằng việc thỏa mãn nhu cầu về vốn của cả hai bên, một việc rất khó đối với mỗi cá nhân tham gia trên thị trường. Hoạt động của các ĐCTC làm giảm bớt những chi phí thông tin và giao dịch lớn cho mỗi cá nhân, tổ chức và cho nền kinh tế. Do chuyên môn hóa và thành thạo trong nghề nghiệp, các ĐCTC đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời yêu cầu giữa người có vốn và người cần vốn. Bôi trơn các mối quan hệ tài chính thông qua việc thực hiện có hiệu quả các dịch vụ như môi giới, tư vấn, tài trợ, trợ cấp và phòng ngừa rủi ro. Hệ thống các định chế tài chính Có rất nhiều cách khác nhau để phân loại các ĐCTC trên thị trường. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc nghiên cứu của các phần tiếp theo, người viết xin dựa vào cách phân loại các ĐCTC của Frederic S.Mishkin. Theo Mishkin, các ĐCTC có thể được phân thành ba loại: các tổ chức nhận tiền gửi; các tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm theo hợp đồng; các trung gian tài chính đầu tư. 3.1. Các tổ chức nhận tiền gửi Các tổ chức nhận tiền gửi là những trung gian tài chính nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức và cho vay. Nguồn vốn chủ yếu phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của các trung gian tài chính này là nhận tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức, và nguồn thu nhập chủ yếu là chênh lệch giữa các khoản đi vay và các khoản cho vay. Nhóm các ĐCTC này bao gồm: NHTM; các hiệp hội tiết kiệm và cho vay; các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng. Các ngân hàng thương mại Phần lớn người dân khi có nhu cầu về các giao dịch tài chính, họ thường nghĩ tới các NHTM đầu tiên. Đây là trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, chủ yếu hoạt động bằng cách thu hút vốn thông qua các khoản tiền gửi phát séc, tiền gửi tiết kiệm và các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Sau đó, ngân hàng sử dụng nguồn vốn này để cho vay, như cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, cho vay thế chấp... Điểm đặc biệt của các ngân hàng là khả năng tạo tiền cho nền kinh tế. Khi ngân hàng nhận được thêm một khoản tiền gửi, nó được lợi thêm một khoản tiền dự trữ như thế; và ngược lại, khi nó mất đi một khoản tiền gửi nó mất một khoản tiền dự trữ như thế. Lợi nhuận của ngân hàng được tạo ra từ tổng thể các hoạt động chuyển đổi tài sản đi vay và cho vay. Đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, NHTM là một nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế. Các hiệp hội tiết kiệm và cho vay Nguồn vốn huy động chủ yếu của loại ĐCTC này là các khoản tiền gửi tiết kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các tiền gửi phát séc được. Các khoản tiền vốn huy động được chủ yếu dùng để cho vay thế chấp. Đây là điểm khác biệt giữ các ĐCTC này với các NHTM. Các khoản vay thế chấp thường là các khoản vay dài hạn, vì vậy mà các tổ chức này bị rằng buộc nhiều hơn so với các NHTM. Khi luật pháp cho phép các tổ chức này có thể mở rộng phạm vi và đối tượng cho vay thì nó sẽ trở thành một đối thủ cạnh tranh với các NHTM. Các ngân hàng tiết kiệm tương trợ Định chế tài chính này giống như các hiệp hội cho vay và tiết kiệm, nhưng khác ở chỗ họ luôn được tổ chức như có sự “tương trợ”, tức là họ hoạt động như một hợp tác xã, trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ ngân hàng. Các liên hiệp tín dụng Đây là tổ chức cho vay rất nhỏ có tính chất hợp tác xã được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt: Các thành viên trong một liên hiệp là những người làm công ăn lương của một công ty hay một tổ chức nào đó…Liên hiệp tín dụng sẽ nhận các khoản tiền gửi rồi tiến hành cho vay thế chấp hoặc cho vay tiêu dùng. 3.2. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng Các ĐCTC này có nguồn thu vốn một cách định kỳ trên cơ sở hợp đồng. Họ có thể dự tính được tương đối chính xác khoản tiền phải thanh toán trong thời gian tới nên họ có thể sử dụng một phần nguồn vốn của mình để đem đầu tư vào các mục đích khác như trái phiếu công ty, các khoản cho vay thế chấp…Các ĐCTC thuộc loại này bao gồm công ty bảo hiểm và quỹ trợ cấp. Công ty bảo hiểm Bảo hiểm về bản chất là sự chia nhỏ rủi ro, là hoạt động thể hiện người bảo hiểm đứng ra cam kết hợp đồng bồi thường theo quy luật thống kê cho người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua phí bảo hiểm. Công ty bảo hiểm là người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nhận trách nhiệm về rủi ro, được hưởng phí bảo hiểm và bồi thường khi có tổ thất xảy ra. Cùng với sự phát triển của xã hội, bảo hiểm có nhiều loại khác nhau, trong đó có bảo hiểm thương mại và bảo hiểm xã hội. So với bảo hiểm xã hội thì bảo hiểm thương mại có khả năng mất vốn hơn nếu tai họa xảy ra nên công ty bảo hiểm thương mại thường nắm giữ các tài sản có tính lỏng hơn tài sản của công ty bảo hiểm xã hội. Quỹ trợ cấp Là các ĐCTC cung cấp thu nhập hưu trí dưới dạng các món nợ trợ cấp hàng năm cho những người làm công thuộc phạm vi một chương trình trợ cấp. Vốn nhận được từ sự đóng góp của những người thuê nhân công hoặc từ người làm thuê. Tài sản có của quỹ chủ yếu là trái khoán công ty và cổ phiếu. 3.3. Các trung gian đầu tư Nhóm ĐCTC này bao gồm công ty tài chính, quỹ đầu tư và các công ty chứng khoán. Công ty tài chính Đây là các ĐCTC mà nguồn vốn là các khoản vay trung và dài hạn bằng cách phát hành các trái khoán hoặc cổ phiếu nhưng lại cho vay những món tiền nhỏ, ngược lại với hoạt động của các NHTM là huy động các món tiền nhỏ và cho vay trung và dài hạn. Các công ty tài chính có một số đặc điểm khác với các NHTM như: không nhận tiền gửi ngắn hạn và dưới hình thức mở tài khoản của các cá nhân và tổ chức; không thực hiện các dịch vụ thanh toán và tiền mặt, không sử dụng vốn vay của dân để làm phương tiện thanh toán; và không bị kiểm soát chặt chẽ như các NHTM. Quỹ đầu tư Quỹ đầu tư là một ĐCTC thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ hay các loại tài sản khác. Tất cả các khoản đầu tư này đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát và các cơ quan có thẩm quyền khác. Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều cách phân loại quỹ đầu tư. Căn cứ vào nguồn vốn huy động: có quỹ công chúng và quỹ thành viên. Quỹ công chúng là quỹ huy động bằng cách phát hành rộng rãi ra công chúng. Nhà đầu tư có thể là cá nhân hoặc pháp nhân nhưng đa phần là nhà đầu tư riêng lẻ. Quỹ thành viên là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành riêng lẻ cho một nhóm nhỏ các nhà đầu tư (có thể lựa chọn trước) là các cá nhân hay các ĐCTC hoặc các tập đoàn kinh tế lớn, do vậy tính thanh khoản của quỹ sẽ thấp hơn quỹ công chúng. Các nhà đầu tư vào các quỹ này thường có lượng vốn lớn, và đổi lại họ có thể tham gia vào kiểm soát đầu tư của quỹ. Căn cứ vào cấu trúc huy động vốn: có quỹ đóng và quỹ mở. Quỹ đóng là hình thức quỹ phát hành chứng chỉ một lần duy nhất khi tiến hành huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện mua lại cổ phiếu/chứng chỉ quỹ khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo ra tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ này sẽ được niêm yết trên TTGDCK. Tổng số vốn huy động của quỹ sẽ không thay đổi trong suốt thời gian hoạt động của quỹ. Khác với quỹ đóng, tổng số vốn huy động của quỹ mở biến động theo từng ngày giao dịch do tính chất đặc thù của quỹ là nhà đầu tư được quyền bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ quỹ đầu tư theo giá trị thuần vào thời điểm giao dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên TTGDCK. Do đòi hỏi tính thanh khoản cao nên quỹ dạng này chỉ tồn tại ở những nước có nền kinh tế và TTCK phát triển như Mỹ, châu Âu, Canada… Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của quỹ : có quỹ đầu tư dạng công ty và quỹ đầu tư dạng hợp đồng. Quỹ đầu tư dạng công ty là một pháp nhân, tức là một công ty được hình thành theo quy định của pháp luật của từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ là hội đồng quản trị do các cổ đông (nhà đầu tư) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý toàn bộ hoạt động của qũy, lựa chọn công ty quản lý quỹ, giám sát hoạt động của công ty quản lý quỹ và có quyền thay đổi công ty quản lý qũy. Quỹ đầu tư dạng hợp đồng là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Trong mô hình này, quỹ đầu tư không phải là một pháp nhân. Công ty quản lý quỹ đứng ra thành lập, tiến hành việc huy động vốn, thực hiện việc đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Nhà đầu tư là những người góp vốn vào quỹ (nhưng không phải là cổ đông của quỹ) và ủy thác cho công ty quản lý quỹ để đảm bảo khả năng sinh lời cao nhất từ khoản vốn đóng góp. Công ty chứng khoán CTCK là một tổ chức ở thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua một số nghiệp vụ như: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn chứng khoán …Nhờ có các tổ chức này trên thị trường chứng khoán mà các chứng khoán được buôn bán tập nập trên thị trường, qua đó, một lượng vốn lớn từ các nguồn lẻ tẻ, phân tán trong dân được tập hợp lại. Các định chế tài chính tham gia trên TTCK Một số vấn đề cơ bản về TTCK 1.1. Khái niệm và bản chất của TTCK Trong nền kinh tế thị trường, dòng vốn luân chuyển từ người cho vay – người tiết kiệm tới người đi vay thông qua hai con đường chính là tài chính trực tiếp và tài chính gián tiếp. Trong tài chính gián tiếp, vốn được chuyển từ người cho vay tới người đi vay thông qua trung gian tài chính, chủ yếu là các NHTM. Còn trong tài chính gián tiếp, người đi vay vay vốn trực tiếp của người cho vay bằng cách phát hành chứng khoán trên TTCK. Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với vốn hay tài sản của tổ chức phát hành. Chứng khoán bao gồm: Cổ phiếu Trái phiếu Chứng chỉ quỹ đầu tTTCK Các loại chứng khoán khác (quyền mua, chứng quyền, options, futures, các chỉ số chứng khoán, nhóm chứng khoán). Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Hoạt động mua bán chứng khoán được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các chứng khoán, qua đó làm thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp hay thứ cấp; tại sở giao dịch hay thị trường chứng khoán phi tập trung; ở thị trường giao ngay hay thị trường có kỳ hạn. Quan hệ mua bán, trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu chứng khoán, và như vậy, đây thực chất là quá trình vận chuyển tư bản, chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.. Xét về bản chất, TTCK là thị trường thể hiện mối quan hệ cung cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán không giống như các thị trường hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá trên thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. 1.2. Cấu trúc của TTCK Có rất nhiều cách để phân chia TTCK theo các tiêu chí khác nhau. Sau đây là một số cách phân chia phổ biến: Phân loại theo sự luân chuyển của các nguồn vốn Theo tiêu thức này, có thể chia TTCK thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 Là nơi phát hành chứng khoán hoặc nơi chứng khoán mua bán lần đầu tiên. Thông qua thị trường sơ cấp, các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu hay trái phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp; Chính phủ có thể phát hành trái phiếu để huy động tiền từ tất cả các thành phần của nền kinh tế. Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất đem lại vốn cho người phát hành. Hàng hóa trên thị trường sơ cấp có thể là các chứng khoán mới phát hành, cả chứng khoán phát hành lần đầu và phát hành bổ sung, hoặc chứng khoán do cổ phần hóa các công ty phát hành. Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do người phát hành quyết định. Những người bán trên thị trường sơ cấp có thể là kho bạc, ngân hàng trung ương, công ty phát hành, công ty bảo lãnh phát hành… Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Trên thị trường này, các chứng khoán được mua bán tiếp theo nhiều lần sau đợt phát hành đầu tiên trên thị trường sơ cấp. Chứng khoán được mua bán tự do giữa các nhà đầu tư và giá cả chứng khoán lên hay xuống do cung cầu chứng khoán trên thị trường (định giá cao hay thấp giá trị cổ phần của công ty phát hành). Các nhà đầu tư sẽ kiếm được lợi nhuận dựa vào chênh lệch giá do bán cổ phiếu với giá cao hơn so với mức mua vào nên nhà đầu tư cần phải nghĩ đến khả năng tính toán và chịu đựng rủi ro. Do đó, thị trường thứ cấp không đem lại vốn cho nhà phát hành như trên thị trường sơ cấp. 1.2.2. Phân loại theo hàng hoá Theo các loại hàng hoá mua bán trên thị trường, có thể chia TTCK thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường chứng khoán phái sinh. Thị trường trái phiếu Là thị trường mà tại đó các hàng hóa được mua bán trên đó là các trái phiếu. Trái phiếu là công cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức có hoàn trả cả lãi lẫn gốc. Người cho vay sẽ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người đi vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải có trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo các cam kết đã được xác định trong hợp đồng cho vay. Trái phiếu thường có thời hạn xác định, có thể là trung hạn hoặc dài hạn. Thị trường cổ phiếu Là nơi giao dịch mua bán, trao đổi các giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông. Cổ đông là chủ sở hữu của công ty và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Với việc nắm giữ cổ phiếu của công ty, cổ đông có quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của công ty cũng như đối với tài sản của công ty khi tài sản này được thanh lý khi công ty phá sản. Cổ phiếu thường có thời hạn bằng thời hạn tồn tại của công ty cổ phần. Thị trường phái sinh Là nơi các chứng khoán phái sinh được giao dịch, mua bán. Các chứng khoán phái sinh như: hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, quyền mua và chứng quyền. Phân loại theo hình phương thức hoạt động. Theo tiêu chí này, TTCK có thể được chia thành thị trường tập trung và thị trường phi tập trung (hay còn gọi là thị trường OTC) Thị trường tập trung (hay sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán): Là một địa điểm nhất định để người mua và người bán (hoặc đại lý hoặc môi giới của họ) tiến hành các giao dịch, mua bán chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia. Các giao dịch trên sở giao dịch chịu sự điều tiết của Luật về chứng khoán và TTCK. Muốn tham gia vào thị trường tập trung cần phải đăng ký làm thành viên, và các chứng khoán muốn được giao dịch trên thị trường cũng cần phải được đăng ký chính thức tại sở giao dịch. Các giao dịch tại Sàn giao dịch được thực hiện thông qua một chủ thể đặc biệt, chuyên hoạt động trên thị trường này, đó là môi giới chứng khoán. Thị trường phi tập trung (hay còn gọi là thị trường OTC) Là nơi mua bán các chứng khoán chưa hoặc không đủ điều kiện để niêm yết tại thị trường tập trung theo quy định về chứng khoán và TTCK của từng quốc gia. Thị trường OTC là thị trường tài chính không có địa điểm giao dịch hiện hữu, mọi hoạt động giao dịch được thực hiện thông qua hệ thống mạng máy tính tại quầy, sàn giao dịch của các thành viên. Do đó, thị trường này còn được gọi là thị trường không chính thức. Giá cả trên thị trường phi tập trung được hình thành dựa trên nguyên tắc thỏa thuận giữa các bên. Với việc không cần phải tập trung và không cần phải đăng ký chính thức, số lượng các thành viên của thị trường OTC khá đông đảo, và do đó các giao dịch được thực hiện thông qua thị trường này cũng lớn hơn rất nhiều so với các giao dịch được thực hiện thông qua thị trường chính thức. 1.3. Chức năng của TTCK TTCK là một kênh huy động vốn trực tiếp, cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. TTCK là bù đắp cho những khuyết điểm trên thị trường vốn gián tiếp. TTCK có các chức năng chủ yếu sau: Huy động vốn cho nền kinh tế Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần vào hoạt động mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ cho nhu cầu chung của xã hội. Cung cấp một môi trường đầu tư cho công chúng TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán Nhờ có TTCK mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư khi đưa ra các quyết định đầu tư của mình. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, mức độ an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp Thông qua chứng khoán, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chỉ báo trên TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là “Phong vũ biểu” của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 1.4. Các chủ thể tham gia trên TTCK TTCK là một thực thể phức tạp mà ở đó có sự tham gia của rất nhiều chủ thể khác nhau. Các chủ thể này tham gia với các mục đích rất đa dạng như: huy động vốn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, hay quản lý Nhà nước…Các chủ thể trên TTCK có thể bao gồm các nhóm sau: Chủ thể phát hành: Là người cung cấp hàng hóa - các chứng khoán - cho TTCK. Các chủ thể phát hành có thể là Chính phủ và các chính quyền địa phương (phát hành các trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương, tín phiếu kho bạc); công ty (phát hành trái phiếu công ty, cổ phiếu); quỹ đầu tư (phát hành chứng chỉ quỹ…) Nhà đầu tư Là những người có tiền, thực hiện việc mua bán, trao đổi chứng khoán trên TTCK để tìm kiếm lợi nhuận. Nhà đầu tư bao gồm nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân và hộ gia đình, những người có vốn tạm thời nhàn rỗi, tham gia đầu tư vào TTCK với nhiều mục đích khác nhau như: mua chứng khoán để hưởng lợi tức hàng năm, bán lại chứng khoán của mình để rút vốn ra trước hạn hoặc để nhận được khoản chênh lệch giá thặng dư. Họ tham gia vào TTCK bằng hai cách trực tiếp hoặc gián tiếp qua các quỹ tương hỗ, các quỹ đầu tư… Trong đầu tư, lợi nhuận luôn tỷ lệ thuận với rủi ro, lợi nhuận càng cao thì mức độ chấp nhận rủi ro của các nhà đầu tư càng cao và ngược lại. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cá nhân luôn phải tìm kiếm danh mục đầu tư phù hợp với khả năng tài chính và mức độ chấp nhận rủi ro của mình. Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán chứng khoán trên thị trường với khối lượng lớn. Các nhà đầu tư có tổ chức tiêu biểu trên TTCK như: NHTM, CTCK, quỹ tương hỗ, các công ty bảo hiểm... Các nhà đầu tư có tổ chức thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư, vì vậy có thể giảm được rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Trong số các nhà đầu tư có tổ chức, các NHTM đóng vai trò quan trọng nhất, ảnh hưởng đến việc hình thành và phát triển TTCK cả đối với thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Các tổ chức có liên quan đến TTCK. Trên TTCK, ngoài các nhà phát hành và các nhà đầu tư còn có các tổ chức có liên quan khác. Nhờ có các tổ chức này mà TTCK mới có thể hoạt động một cách có hiệu quả, phát huy được vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với thị trường tài chính nói riêng. Các tổ chức liên quan tới TTCK bao gồm: 2.3. Các định chế tài chính tham gia trên TTCK Sự hình thành và phát triển của TTCK đã thu hút được sự tham gia của hầu hết các ĐCTC, như NHTM, quỹ tín dụng, hiệp hội cho vay và tiết kiệm, công ty bảo hiểm, quỹ tương trợ, công ty tài chính, CTCK và quỹ đầu tư. Trong đó, Có những ĐCTC vốn là các chủ thể quan trọng trên các thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm, như NHTM, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, nhưng khi tham gia trên TTCK thì như được “chắp thêm cánh” với công cụ hoạt động mới là chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán. Thông thường, các NHTM, những nhà kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tiền tệ với tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới hoạt động, công nghệ,… là một trung gian đóng vai trò quan trọng nhất trên TTCK. Hoặc các ĐCTC, như CTCK, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức ĐMTN, mà sự tồn tại và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của TTCK. Vai trò của các ĐCTC này chủ yếu được hiện thông qua các hoạt động trên TTCK. Tùy theo tính chất riêng và quy định của mỗi quốc gia, mức độ tham gia của các ĐCTC trên TTCK sẽ khác nhau, những nhìn chung bao gồm các hoạt động: Hoạt động phát hành chứng khoán Hoạt động kinh doanh chứng khoán Bảo lãnh phát hành Môi giới chứng khoán Tư vấn chứng khoán Quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu tư Thanh toán và lưu ký chứng khoán Các dịch vụ phụ trợ khác như ngân hàng giám sát; cấp tín dụng; ĐMTN; kiểm toán công ty niêm yết, tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh chứng khoán… Những hoạt động này cũng như vai trò của các ĐCTC trên thị trường chứng khoán sẽ được phân tích rõ ở những phần tiếp theo. 2.4. Nội dung hoạt động của các định chế tài chính trên TTCK Các ĐCTC có thể tham gia vào TTCK nhằm huy động vốn cho chính họ và thực hiện mua bán chứng khoán với tư cách là nhà đầu tư chứng khoán có tổ chức, hoặc tham gia thị trường thông qua việc cung cấp các dịch vụ cho TTCK như: đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán; tư vấn, môi giới chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư, quản lý quỹ đầu tư; thanh toán, lưu ký chứng khoán, cấp tín dụng …. Hoạt động của các ĐCTC trên TTCK có thể được tổ chức dưới các mô hình sau: Mô hình ngân hàng đa năng Theo mô hình này thì các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này được biểu hiện dưới hai hình thức sau: Loại đa năng một phần Theo mô hình này, các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm thì phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ. Mô hình này còn được gọi là mô hình ngân hàng kiểu Anh. Loại đa năng toàn phần Các ngân hàng được trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ tài chính khác. Mô hình này còn được gọi là mô hình kiểu Đức. Ưu điểm của mô hình này là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Ngoài ra, nó còn có ưu điểm là tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước những biến động của thị trường tài chính. Mặt khác, khi tuân theo mô hình này, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu rõ về khách hàng cũng như doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế nhất định. Thứ nhất, vì vừa là tổ chức tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán nên khả năng chuyên._. môn không sâu bằng các CTCK chuyên doanh. Thứ hai, do không tách bạch được hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán, đặc biệt đối với các nước đang phát triển với môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thị trường. Trong trường hợp này, các biến động trên TTCK sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ, gây tác động dây chuyền và có thể dẫn tới khủng khoảng thị trường tài chính. Bên cạnh đó, do không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, nên các ngân hàng có thể sử dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư chứng khoán, và khi thị trường chứng khoán có những biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc rút tiền ồ ạt, làm cho các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng chi trả. Mô hình chuyên doanh chứng khoán Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là hạn chế được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các CTCK đi vào chuyên môn hóa sâu trong lĩnh vực chứng khoán để thúc đẩy thị trường phát triển. Tuy nhiên, nhược điểm là không phát huy được các lợi thế của các NHTM. Mô hình này được áp dụng khá phổ biến tại các thị trường như Mỹ, Nhật và các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Thái Lan… 2.4.1. Hoạt động phát hành chứng khoán Các ĐCTC trước hết cũng là các doanh nghiệp, một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với tài sản chủ yếu là các tài sản tài chính. Các doanh nghiệp này cũng có nhu cầu huy động vốn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình, trong đó có hoạt động kinh doanh chứng khoán. Và TTCK cũng trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả cho các doanh nghiệp này. Các ĐCTC huy động vốn trên TTCK bằng cách phát hành các loại chứng khoán khác nhau, phù hợp với đặc điểm riêng của ĐCTC đó. Ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, CTCK phát hành cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ chuyển đổi khác. Quỹ đầu tư, quỹ tương trợ thị trường tiền tệ phát hành cổ phiếu và các chứng chỉ quỹ. Trên TTCK, các ĐCTC được coi là đối tượng huy động vốn quan trọng, đóng góp một lượng hàng hóa có chất lượng cho thị trường. Chứng khoán của các ĐCTC khi phát hành ra thị trường thường có độ hấp nhất cao đối với các nhà đầu tư do uy tín của các ĐCTC này và thường có tính thanh khoản cao hơn so với các loại chứng khoán của các doanh nghiệp khác. Thêm vào đó, với tính chuyên nghiệp và uy tín cao trên thị trường tài chính, hoạt động phát hành của các ĐCTC thường có lợi thế hơn các công ty khác, do đó có thể thu được lượng vốn lớn với chi phí thấp. 2.4.2. Kinh doanh chứng khoán Các ĐCTC được coi là những nhà đầu tư có tổ chức trên TTCK. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của các ĐCTC là yếu tố mang tính dẫn dắt thị trường, trợ giúp cho việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của thị trường vì hoạt động này có tính chuyên nghiệp cao, quy mô thường lớn và tính đa dạng hóa cao hơn nhiều so với hoạt động kinh doanh chứng khoán của các nhà đầu tư cá nhân. Tùy theo đặc điểm trong hoạt động kinh doanh của từng ĐCTC, có thể chia hoạt động kinh doanh chứng khoán thành hai loại: hoạt động ngân quỹ và hoạt động đầu tư chứng khoán. Hoạt động ngân quỹ Đây là một trong những hoạt động của các NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Các ĐCTC này thường đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao, chủ yếu nhằm dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán, dự phòng và tích trữ. Các loại chứng khoán này bao gồm tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng được. Hoạt động ngân quỹ là cầu nối quan trọng giữa thị trường tín dụng và TTCK. Khi thị trường tín dụng trầm lắng thì một bộ phận vốn trên thị trường này sẽ được dịch chuyển thông qua hoạt động mua chứng khoán của các ĐCTC trên TTCK. Ngược lại, khi thị trường tín dụng sôi động thì các ĐCTC sẽ bán chứng khoán để đáp ứng nhu cầu cho hoạt động tín dụng. Điều này giúp cho các tổ chức tín dụng có thể tận dụng được tối đa các nguồn vốn để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa hai thị trường này sẽ là chất xúc tác làm tăng hiệu quả hoạt động của thị trường tín dụng. Tuy nhiên, biến động của TTCK cũng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động ngân quỹ của các ĐCTC. Vì hoạt động này đòi hỏi sự sẵn có các công cụ có tính thanh khoản cao, chi phí giao dịch thấp và tính ổn định của thị trường nên những biến động xấu của TTCK có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng thanh toán của các ĐCTC tiến hành hoạt động ngân quỹ. Hoạt động đầu tư chứng khoán Chiến lược đầu tư chứng khoán của các ĐCTC được xây dựng với các danh mục đầu tư đa dạng như danh mục đầu tư trái phiếu, danh mục đầu tư cổ phiếu và danh mục đầu tư hỗn hợp. Các ĐCTC khác nhau sẽ lựa chọn các danh mục đầu tư với mức độ rủi ro khác nhau để đảm bảo an toàn trong hoạt động thông thường khác của mình. Ngân hàng, các tổ chức tín dụng và công ty bảo hiểm sẽ lựa chọn chiến lược đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công ty, cổ phiếu của các doang nghiệp hoạt động kinh doanh tốt. Quỹ đầu tư chứng khoán lựa chọn đầu tư vào các chứng khoán giao dịch trên sàn. Quỹ đầu tư mạo hiểm sẽ lựa chọn chiến lược đầu tư vào các cổ phiếu của các doanh nghiệp mới phát hành hoặc cổ phiếu trên thị trường phi tập trung OTC. Các ĐCTC tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán không chỉ vì mục đích kiếm lợi nhuận thông qua chênh lệch giá mà còn nhằm mục đích thôn tính và sáp nhập. Ví dụ, các ngân hàng Mỹ xâm nhập vào lĩnh vực bảo hiểm và chứng khoán, hoặc thông tính lẫn nhau để hình thành nên những tập đoàn tài chính lớn trên thế giới. Tuy nhiên, các nhà quản lý thị trường cũng có những lo ngại rằng hoạt động đầu tư chứng khoán của các ĐCTC, đặc biệt là các NHTM, trên TTCK không những sẽ đem lại rủi ro đối với bản thân các ĐCTC này mà còn đối với thị trường và cả nền kinh tế khi mà các ĐCTC này hoạt động vì quyền lợi của mình nhiều hơn quyền lợi của khách hàng. 2.4.3. Đại lý và bảo lãnh phát hành Đây là việc các ĐCTC giúp cho các tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, phân phối chứng khoán, nhận mua chứng khoán hoặc mua số chưa phân phối hết của tổ chức phát hành để bán lại và giúp bình ổn giá trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ này là uy tín và tính chuyên môn hóa cao của các ĐCTC trên thị trường. Các tổ chức phát hành hoàn toàn có thể tự mình thực hiện việc phát hành chứng khoán ra thị trường nhưng họ sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn. Thứ nhất, tổ chức phát hành sẽ phải tiến hành rất nhiều công việc trước khi phát hành như phân tích thị trường để xác định khả năng huy động vốn, làm hồ sơ giấy tờ và thủ tục xin phép phát hành…Để làm được các công việc này, tổ chức phát hành sẽ phải có những am hiểu về pháp lý, thị trường, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin về thị trường…Điều này sẽ không dễ dàng đối với các tổ chức phát hành vì họ vốn không chuyên về các nghiệp vụ này. Thứ hai, doanh nghiệp có thể sẽ phải đối mặt với tình huống không huy động đủ vốn và chi phí phát hành sẽ tăng lên đáng kể trên một đồng vốn huy động được, thêm chí là vỡ kế hoạch kinh doanh khi thời hạn huy động bị kéo dài hoặc không huy động đủ vốn. Ngoài ra, trong một số trường hợp, các doanh nghiệp buộc phải phát hành chứng khoán qua hình thức bảo lãnh hoặc đại lý theo quy định của pháp luật. Khi doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra ngoài công chúng thông qua tổ chức phát hành và với một số lượng nhỏ chứng khoán thì nó có thể chỉ cần một tổ chức bảo lãnh phát hành. Nhưng nếu là một doanh nghiệp lớn và với số lượng lớn chứng khoán phát hành vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh thì cần phải có một tổ hợp bảo lãnh phát hành, bao gồm một hoặc một số tổ chức bảo lãnh phát hành chính và một số tổ chức bảo lãnh phát hành thành viên. Trong đó, một tổ chức đóng vai trò là tổ chức bảo lãnh chính, gọi là người quản lý bảo lãnh. Tổ chức này thường là người khởi đầu cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các thủ tục giấy tờ với công ty phát hành, quyết định tổ chức nào tham gia bảo lãnh và trả chi phí cho họ. Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát hành là mức chênh lệnh giữa giá bán chứng khoán cho người đầu tư và số tiền mà tổ chức phát hành nhận được. Ví dụ, nếu công chúng mua chứng khoán phải trả 100.000 đồng/cổ phiếu, trong khi công ty bảo lãnh nhận được 90.000 đồng/cổ phiếu thì tiền phí bảo lãnh phát hành trên một cổ phiếu là 10.000 đồng. Phí bảo lãnh hay tiền hoa hồng cao hay thấp phụ thuộc vào tính chất của đợt phát hành đó (lớn hay nhỏ, thuận lợi hay khó khăn). Nhìn chung, nếu đó là đợt phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng thì mức phí hay tiền hoa hồng phải cao hơn phát hành thêm. Đối với trái phiếu, phí bảo lãnh hay tiền hoa hồng phụ thuộc vào lãi suất trái phiếu (lãi suất trái phiếu thấp thì tiền bảo lãnh phát hành phải cao và ngược lại). Các tổ chức bảo lãnh phát hành có thể thực hiện theo các hình thức sau đây: Bảo lãnh cam kết chắc chắn Là hình thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ chứng khoán phát hành cho dù có phân phối hết hay không. Bảo lãnh cố gắng cao nhất Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết mức để bán chứng khoán ra thị trường nhưng phần không phân phối được sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành. Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không bán gì Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán hết số chứng khoán thì hủy bỏ toàn bộ đợt phát hành. Phương thức bảo lãnh này hoàn toàn khác với phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất. Ở phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất, có thể chỉ một phần chứng khoán được bán, còn ở phương thức bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không gì thì hoặc là tất cả chứng khoán được bán hết hoặt là hủy bỏ toàn bộ đợt phát hành và tiền đã bán chứng khoán được hoàn trả lại cho người mua. Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa Là phương thức bảo lãnh trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không gì. Theo phương thức này, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán tối thiểu hoặc tối đa một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị hủy bỏ. 2.4.4. Quản lý danh mục đầu tư Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là hoạt động quản lý tài sản của khách hàng thông qua việc mua bán và nắm giữ các chứng khoán theo tỷ lệ ủy thác và vì quyền lợi của khách hàng. Trong các loại ĐCTC, các CTCK, quỹ đầu tư hoặc các ngân hàng thương mại thường thực hiện nghiệp vụ này. Trong hoạt động này, các ĐCTC này phải đảm bảo tách biệt tài sản của khách hàng và tài sản của riêng mình. Việc mua bán và nắm giữ các chứng khoán chỉ được tiến hành khi có sự ủy thác hoặc theo lệnh của khách hàng. Tùy theo mức độ tín nhiệm của các ĐCTC mà khách hàng có thể ủy quyền một phần hoặc ủy quyền toàn bộ đối với việc quản lý tài sản. Định kỳ hoặc theo yêu cầu của khách hàng, các ĐCTC phải gửi các bản sao kê về tình hình tài sản trong danh mục đầu tư cho khách hàng, đồng thời không được tiết lộ các thông tin về tài sản của khách hàng ngoại trừ các trường hợp đặc biệt như theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Khi thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, các ĐCTC nhận được lệ phí quản lý tài sản từ phía khách hàng; đồng thời, họat động này cũng góp phần làm tăng uy tín của các ĐCTC và phát triển các hoạt động khác như lưu ký, thanh toán hay tư vấn đầu tư. Tuy nhiên, các ĐCTC phải đảm bảo nguyên tắc ưu tiên và tôn trọng quyền lợi của khách hàng trước quyền lợi của bản thân để tạo ra lòng tin cho công chúng đầu tư. 2.4.5. Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Sự xuất hiện đa dạng của các loại quỹ đầu tư với các chứng chỉ quỹ đầu tư có các mức độ rủi ro khác nhau đã tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho các nhà đầu tư. Từ đó làm tăng mức độ hấp dẫn của thị trường với các nhà đầu tư. Các quỹ này được ủy thác cho các công ty quản lý quỹ đầu tư. Công ty quản lý quỹ đầu tư là pháp nhân và phải được cấp phép và chịu sự quản lý của cơ quan quản lý TTCK. Các ĐCTC muốn thực hiện quản lý quỹ đầu tư thì phải thành lập công ty thành viên để thực hiện nghiệp vụ này. Hoạt động quản lý quỹ đầu tư có thể mang lại một phần thu nhập đáng kể cho các công ty quản lý quỹ đầu tư dưới dạng phí và các khoản thưởng khác theo kết quả hoạt động của quỹ. Đồng thời, nó cũng giúp cho các ĐCTC duy trì và phát triển mối quan hệ với các khách hàng của mình. 2.4.6. Tư vấn chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc các ĐCTC thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số dịch vụ khác có liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Một trong những trở ngại quan trọng đối với thị trường là vấn đề thông tin không cân xứng dẫn đến sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Trong khi đó, các nhà đầu tư cá thể rất khó trong việc thu thập và xử lý thông tin để đưa ra quyết định đầu tư. Vì vậy, các ĐCTC tiến hành nghiệp vụ tư vấn đầu tư nhằm giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí và làm tăng chất lượng giao dịch. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau : Theo hình thức của hoạt động tư vấn: gồm tư vấn trực tiếp (gặp khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng. Theo mức độ ủy quyền của tư vấn: gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn ủy quyền (vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, ủy quyền thực hiện đầu tư của khách hàng). Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch… và giúp cho tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá cả, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán). Người tư vấn chứng khoán đóng một vai trò rất quan trọng, lời khuyên của họ rất có ảnh hưởng tới quyết định đầu tư cũng như kết quả lỗ, lãi của nhà đầu tư chứng khoán. Chính vì vậy mà những tổ chức tiến hành hoạt động tư vấn chứng khoán phải cẩn trọng với lời khuyên của mình và buộc phải tuân theo những nguyên tắc nhất định, như: không được đảm bảo chắc chắn về giá trị của chứng khoán; phải luôn nhắc nhở khách hàng là những lời tư vấn chỉ là những dự báo trên cơ sở các yếu tố tâm lý và dữ liệu trong quá khứ, do đó nó có thể không đúng với hiện tại. Trong hoạt động tư vấn, khách hàng là người đưa ra quyết định cuối cùng và người tư vấn không chịu trách nhiệm về bất kỳ hậu quả nào phát sinh từ lời khuyên đó. 2.4.7. Môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, người môi giới sẽ đại diện cho khách hàng tiến hành các giao dịch về chứng khoán theo cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ là người chịu trách nhiệm đối với kết quả của các giao dịch đó. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán được xem là một đặc quyền của các CTCK và ra đời cùng với sự xuất hiện của TTCK. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của các ĐCTC, nhiều tổ chức khác cũng tham gia vào hoạt động này như NHTM, công ty bảo hiểm, công ty tài chính… Điều này đã làm tăng tính cạnh tranh và làm giảm chi phí môi giới chứng khoán. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán của người môi giới chứng khoán đảm bảo cho các nhà đầu tư tiết kiệm được các chi phí về giao dịch, an toàn khi đầu tư và cho cả thị trường. Để được thực hiện nghiệp vụ này, các ĐCTC phải có đủ các điều kiện cần thiết theo luật định như: vốn pháp định, giấy phép hành nghề đối với giám đốc và môi giới viên, cơ sở vật chất kỹ thuật và phải được ủy ban chứng khoán cấp giấy phép hành nghề môi giới chứng khoán. Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, người môi giới sẽ chuyển đến khách hàng các sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa người bán chứng khoán với người mua chứng khoán. Và trong một số trường hợp nhất định, người môi giới sẽ đưa ra những lời động viên, giúp cho các nhà đầu tư có những quyết định đầu tư tỉnh táo và kịp thời. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán có thể chia thành các loại sau: Môi giới lập giá Môi giới loại này có chức năng là duy trì một thị trường liên tục đối với loại chứng khoán được phụ trách. Để thực hiện được chức năng này, nhà môi giới phải thực hiện hai nhiệm vụ là môi giới chứng khoán và kinh doanh chứng khoán. Người môi giới không được cạnh tranh với khách hàng, tức là khi có người mua bán chứng khoán thì người môi giới phải ưu tiên cho khách hàng trước. Người môi giới chứng khoán chỉ thực hiện kinh doanh chứng khoán khi chỉ có người mua mà không có người bán và ngược lại. Khi đó, để tạo tính liên tục đối với loại chứng khoán mà mình phụ trách, người môi giới phải đóng vai trò mua hoặc bán chứng khoán; hoặc trong trường hợp thị trường có cả người mua và bán chứng khoán nhưng có sự chênh lệch giá mà không thể dàn xếp trực tiếp giữa người bán và người mua thì người môi giới chứng khoán phải mua chứng khoán của người bán và bán lại cho người mua. Trong trường hợp này, người môi giới sẽ phải chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được bù đắp lại bằng khoản lệ phí môi giới nhận được từ cả người bán và người mua chứng khoán. Môi giới thông thường Là môi giới chỉ được thực hiện đơn chức năng, có thể là môi giới phần mua hay môi giới phần bán. Môi giới “hai đô la” Là môi giới tập sự, chỉ thực hiện các công việc theo sự ủy quyền của hai loại môi giới trên. Sở dĩ có tên như vậy là vì trước kia họ được hưởng hai đô la cho mỗi tập hợp lệnh mà họ thực hiện được. Người môi giới loại này có thể là môi giới độc lập hoặc là thành viên của một tổ chức môi giới nào đó nhưng đều là thành viên và chịu sự quản lý chặt chẽ của hiệp hội môi giới chứng khoán. 2.4.8. Thanh toán và lưu ký chứng khoán Lưu ký chứng khoán là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Trong các loại ĐCTC, NHTM và CTCK thường thực hiện nghiệp vụ này. Bảo quản các chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, tránh mất mát, hư hỏng chứng khoán, giảm chi phí cho việc kiểm định chứng khoán và vận chuyển chứng khoán. Điều này cũng sẽ tạo những tiền đề cho việc phi vật chất hóa các chứng khoán. Theo quy định của pháp luật, các nhà đầu tư muốn kinh doanh chứng khoán thì họ phải mở tài thanh toán và tài khoản lưu ký chứng khoán, và phải duy trì một mức độ nào đó trên tài khoản tại ngân hàng hay CTCK. Khi giao dịch mua bán chứng khoán phát sinh, các tổ chức này sẽ đảm nhận việc thanh toán hộ các nhà đầu tư thông qua hệ thống thanh toán bù trừ và nhận được phí từ khách hàng. Nghiệp vụ này giúp cho các ĐCTC tăng ngồn vốn và thu nhập của mình, đồng thời có cơ hội để làm các dịch vụ khác theo ủy quyền của khách hàng. 2.4.9. Các hoạt động khác. Ngoài các nghiệp vụ chính ở trên, các ĐCTC còn cung cấp các dịch vụ khác nhằm hỗ trợ thị trường như nghiệp vụ tín dụng, quản lý thu nhập của khách hàng, Ngân hàng giám sát, ĐMTN, cung cấp dịch vụ kiểm toán… Quản lý thu nhập của khách hàng (hay còn gọi là quản lý cổ tức) Xuất phát từ nghiệp vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, tổ chức lưu ký chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Nghiệp vụ tín dụng Trên TTCK, bên cạnh nghiệp vụ môi giới, một số ĐCTC như NHTM hay CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng thương mại hoặc CTCK cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ phải ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do người cho vay ứng trước tiền thanh toán. Đến một kỳ hạn theo thỏa thuận, khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi suất cho người cho vay. Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ thì người cho vay có quyền phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. Định mức tín nhiệm ĐMTN là việc đưa ra các nhận định hiện tại về mức độ tín nhiệm của nhà phát hành đối với một nghĩa vụ tài chính nào đó, hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Các đầu tư này có thể dưới các dạng chứng khoán khác nhau như cổ phiếu, trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi, giấy nhận nợ, hoặc các công cụ cho vay khác như vay và gửi tiền tại ngân hàng, các thương phiếu. Các loại chứng khoán và công cụ cho vay đóng vai trò là những hình thức huy động vốn để đầu tư trên thị trường vốn. Rủi ro được đề cập ở đây là rủi ro vỡ nợ của người phát hành chứng khoán hoặc công cụ huy động vốn đó, do việc đầu tư thất bại gây ra. Không trả được nợ cho một khoản đầu tư chủ yếu là do tình trạng phá sản hoặc thiếu khả năng thanh toán đầy đủ cả gốc lẫn lãi theo nghĩa vụ của nhà phát hành, do không có đủ khoản tiền thặng dư. Nói một cách rộng hơn, xếp hạng một đầu tư (được thể hiện thông qua một hệ thống các ký hiệu xếp hạng) bởi một công ty ĐMTN là thể hiện ý kiến chuyên gia bên thứ ba về mức độ rủi ro vỡ nợ gắn liền với thể loại đầu tư đó. Xếp hạng tín nhiệm đanh giá mức độ rủi ro vỡ nợ cho ba loại chủ thể chính: Người phát hành là người có nghĩa vụ (công ty, ngân hàng, các ĐCTC khác) Một loại chứng khoán nào đó. Một quốc gia Mỗi công ty ĐMTN sẽ có cách ký hiệu riêng với kết quả đánh giá của mình. Tuy nhiên, kết quả đánh giá đều phân làm hai loại là đầu tư hay không nên đầu tư. Việc đánh giá ĐMTN dựa trên hai tiêu chí cơ bản là định tính và định lượng, hay còn gọi là hai mảng phân tích: phân tích kinh doanh và phân tích tài chính. Các yếu tố định tính được xem xét theo phương pháp bậc thang 3 bước. Thứ nhất, tình hình và triển vọng phát triển kinh tế của đất nước, các yếu tố rủi ro vĩ mô, chính sách của nhà nước có ảnh hưởng tới ngành và công ty. Thứ hai, đặc điểm của ngành kinh tế mà công ty đang tham gia; triển vọng phát triển của ngành đó trong nền kinh tế quốc dân; tác động, ảnh hưởng của những yếu tố vĩ mô trong và ngoài nước tới ngành kinh tế; vị trí, thị phần của công ty trong ngành. Thứ ba, chính sách quản lý trong ngành sản xuất - kinh doanh, chính sách tài chính, quản lý vốn, marketing, bán hàng, đặc điểm công nghệ, quy trình sản xuất, khả năng, kinh nghiệm của bộ máy lãnh đạo… Các yếu tố định lượng được xem xét dựa trên các báo cáo tài chính đã được kiểm toán, công ty ĐMTN sẽ tính toán tất cả các chỉ số tài chính để đưa ra những nhận định đầy đủ nhất về tình hình tài chính hiện tại và tưong lai của công ty. Định mức tín nhiệm có vai trò rất quan trọng đối với thị trường tài chính của mỗi quốc gia. Đặc biết đối với các thị trường tài chính mới nổi thì sự xuất hiện của các tổ chức ĐMTN lớn trên thế giới chắc chắn sẽ tạo được những niềm tin và góp phần vào thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư của các tổ chức nước ngoài vào thị trường đó. Thứ nhất, ĐMTN giúp cho cơ quan này quản lý vốn tại các doanh nghiệp được dễ dàng hơn; góp phần tạo nên một thị trường cân bằng, minh bạch thông tin. Các cơ quan quản lý nhà nước có thể dựa vào các thông tin của các tổ chức ĐMTN công khai để ban hành các chính sách, giám sát việc thực hiện và cấp phép hoạt động…..và quản lý vốn tốt hơn. Thứ hai, định mức sẽ giúp các tổ chức phát hành huy động vốn với chi phí hợp lý, hiệu quả; là một phương tiện để các công ty quảng bá thương hiệu với thị trường trong và ngoài nước, đồng thời tạo ra một cơ chế kiểm soát công khai, tạo động lực cho công ty cơ cấu tài chính, cải tiến quy trình quản lý, chất lượng và hiệu quả hoạt động. Thứ ba, ĐMTN là một tiêu chí để các nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư như: nên hay không nên đầu tư vào trái phiếu công ty, đầu tư với mức lãi suất là bao nhiêu thì hợp lý; là cơ sở để các NHTM, tổ chức tín dụng quyết định với các dự án vay vốn. ĐMTN vừa phản ánh độ tin tưởng, khả năng thanh toán của các nhà phát hành, vừa là một tiêu chí chung để đánh giá doanh nghiệp. Việc đánh giá doanh nghiệp dựa trên ĐMTN sẽ góp phần tránh những hậu quả đáng tiếc từ việc đầu tư thiếu thông tin. Một số công ty ĐMTN nổi tiếng trên thế giới như Moody’s, Standard & Poor, Fitch, Duff & phelps của Mỹ; CRISIL của Ân Độ, KMCC của Hàn Quốc; CBRS của Cananda… Vai trò của các định chế tài chính trên TTCK Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu TTCK và các hoạt động của các ĐCTC trên TTCK, có thể tổng kết vai trò của các tổ chức này trên TTCK như sau: 1. Cầu nối giữa người cho vay và người sử dụng vốn Vai trò này chủ yếu được thể hiện thông qua hoạt động phát hành chứng khoán để huy động vốn và đầu tư - kinh doanh chứng khoán của các ĐCTC trên thị trường. TTCK là một kênh dẫn vốn trực tiếp, trong đó nhà phát hành có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn trực tiếp từ phía nhà đầu tư. Tuy nhiên, không phải mọi nhà đầu tư, mọi chủ thể phát hành với những hạn chế về tiềm lực tài chính, độ chấp nhận rủi ro…đều có thể thực hiện được mục đích của mình thông qua hoạt động phát hành chứng khoán trực tiếp trên thị trường. Một công ty lớn, có uy tín trên thị trường sẽ dễ dàng phát hành chứng khoán để huy động được một lượng vốn lớn, phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng một người đánh giầy sẽ không thể huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán trên thị trường. Các ĐCTC với vai trò là một người trung gian chuyên nghiệp trên thị trường, sẽ huy động vốn từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ bằng cách phát hành chứng khoán thứ cấp (như cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, hợp đồng bảo hiểm…) hấp dẫn đối với những người thặng dư tiết kiệm và sử dụng quỹ do những người này cung cấp để mua chứng khoán sơ cấp từ những đơn vị thiếu hụt tiết kiệm. Bằng việc bán các chứng khoán tương đối an toàn, thuận tiện, lưu hoạt và dễ tiếp cận cho những người tiết kiệm, đồng thời chấp nhận mua những chứng khoán có nhiều rủi ro hơn, có mệnh giá lớn hơn, dài hạn và không lưu hoạt từ những người đi vay, các ĐCTC đã trở thành một chiếc cầu nối quan trong trên thị trường giữa những người cho vay và người cần vốn. 2. Giảm thiểu rủi ro do đa dạng hoá danh mục đầu tư Một nhà đầu tư nhỏ lẻ bao giờ cũng có giới hạn về mức độ chấp nhận rủi ro, trong khi đó họ không thể có đủ tiềm lực tài chính để đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro trước một thị trường chứng khoán đầy biến động. Các ĐCTC ngày càng phong phú thì các sản phẩm mà nó tạo ra ngày càng đa dạng và có thể giúp các nhà đầu tư cá nhân trong việc giảm thiểu rủi ro trong quá trình đầu tư trên TTCK. Khi các nhà đầu tư đặt tiền vào các quỹ đầu tư, các quỹ này có thể đầu tư số tiền đó vào một số lượng lớn chứng khoán của các công ty khác nhau. Điều này có nghĩa, quỹ đầu tư đã biến những tài sản nhiều rủi ro thành những tài sản ít rủi ro hơn. Nếu rủi ro xảy đến với một hoặc một số chứng khoán nào đó trong danh mục đầu tư của quỹ thì rủi ro đó sẽ được chia đều cho số lượng lớn các nhà đầu tư, vì vậy rủi ro mà một nhà đầu tư phải chịu sẽ là tối thiểu. Bằng cách làm này, các quỹ đầu tư đã đa dạng hóa việc đầu tư, giảm thiểu tới mức thấp nhất các rủi ro cho chính mình và cho các nhà đầu tư tham gia vào quỹ. Điều này chỉ có thể thực hiện được với một khối lượng tiền đủ lớn. Chính vì vậy, vai trò của các ĐCTC trong việc đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro đã đem lại lợi ích cho thị trường nói chung và cho các nhà đầu tư nói riêng. 3. Giảm thiểu chi phí xử lý thông tin và chi phí hợp đồng Để thực hiện được giao dịch trên thị trường, nhà đầu tư sẽ phải trả những chi phí như chi phí thu thập - xử lý thông tin, chi phí hợp đồng…Các ĐCTC với tư cách là một trung gian với tính chuyên nghiệp và lợi thế do tiết kiệm nhờ quy mô, thông qua các hoạt động phát hành doanh chứng khoán, kinh doanh chứng khoán; môi giới và tư vấn đầu tư… trên thị trường sẽ giúp giảm thiểu các chi phí này. Các ĐCTC có thể thu hút được những khoản tiền nhỏ từ nhiều nhà đầu tư với nhau để cung cấp vốn cho một người đang cần vốn, nhờ đó mà chi phí giao dịch cho một nhà đầu tư sẽ giảm đi rất nhiều. Và tác dụng của phương pháp này càng được thể hiện rõ khi quy mô của giao dịch tăng lên nhưng chi phí cho giao dịch đó lại tăng không đáng kể. Ví dụ, chi phí dàn xếp cho một giao dịch mua 10.000 cổ phần sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với chi phí để thực hiện 10.000 giao dịch mua cổ phần; thêm vào đó, chi phí cho một giao dịch mua 10.000 cổ phần đó sẽ không lớn hơn nhiều so với chi phí cho việc mua 50 cổ phần. Với ưu thế này của mình, các ĐCTC đã trở thành một thành phần không thể thiếu trên thị trường. Khi một chủ thể trên thị trường chứng khoán muốn đưa ra quyết định, như quyết định đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó, quyết định phát hành chứng khoán…thì họ phải có kỹ năng để thu thập, phân tích, đánh giá các vấn đề có liên quan tới quyết định đó và chi phí để thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ ai cũng có thể làm được điều này, cả về thời gian và kiến thức. Các ĐCTC với tính chuyên nghiệp, lành nghề có thể tiến hành các công việc trên một cách hiệu qủa cho nhiều chủ thể trong cùng một thời gian, giảm đáng kể chi phí cho một giao dịch trên thị trường. 4. Cung cấp một cơ chế thanh toán Mục đích cuối cùng của các chủ thể trên thị trường chứng khoán là làm sao thu hồi được tiền đã đầu tư và khoản lợi nhuận thu được một cách dễ dàng. Việc thanh toán có thể sử dụng séc, thẻ tín dụng, thẻ nợ và chuyển tiền điện tử. Một số các ĐCTC sẽ đảm nhận việc cung cấp những phương thức thanh toán này. Tóm lại, các ĐCTC là những trung gian quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của TTCK. Sự phân chia vai trò của các tổ chức này cùng với các hoạt động của chúng t._.ới các ĐCTC, nguồn vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tài sản, đặc biệt là các NHTM và các công ty bảo hiểm. Tuy nhiên, việc tăng vốn chủ sở hữu của các ĐCTC này sẽ khẳng định được uy tín, đảm bảo mức độ an toàn khi tham gia trên thị trường. Có thể khẳng định, việc tăng vốn chủ sở hữu là một yếu tố quyết định tiềm lực tài chính của các ĐCTC. Tuy nhiên, đối với các ĐCTC trên TTCK hiện nay, song song với việc tăng tiềm lực tài chính, các ĐCTC phải chú ý tới quản trị nguồn vốn để sử dụng vốn một cách có hiệu quả, tránh sử dụng vốn để chạy theo nhu cầu trước mắt của thị trường mà cần phải có chiến lược lâu dài. Đối với các NHTM - ĐCTC quan trọng nhất trên TTCK – cần có biện pháp để xử lý nợ đọng, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng. 2.2. Củng cố các nghiệp vụ chính, đồng thời phát triển các nghiệp vụ mới trên thị trường. Để phát huy hết vai trò của mình trên TTCK, các ĐCTC một mặt phải đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu hiện tại của khách hàng bằng việc củng cố các nghiệp vụ hiện tại, đồng thời phải chuẩn bị đón đầu các nhu cầu mới bằng việc tăng cường nghiên cứu, đầu tư để triển khai các nghiệp vụ mới trên thị trường. Trước hết, các ĐCTC đã được cấp phép thực hiện tất cả các nghiệp vụ trên thị trường theo Luật chứng khoán thì cần phải củng cố lại các nghiệp vụ hiện có của mình, đặc biệt là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành - một trong những nghiệp vụ có liên quan mật thiết tới việc tăng khối lượng hàng hóa cho TTCK thông qua phát hành của các tổ chức phát hành. Đối với các ĐCTC mà phạm vi hoạt động còn hạn chế cần nghiên cứu, đăng ký và đưa vào triển khai các nghiệp vụ mới nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các ĐCTC cần chủ động hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ để đón đầu nhu cầu của các nhà đầu tư. Như theo Philip Kotler, các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm, dịch vụ không những đáp ứng được nhu cầu hiện tại của khách hàng mà còn phải gợi mở và phục vụ cho nhu cầu tương lai. Bên cạnh những dịch vụ chính của mình, các ĐCTC cũng nên đưa ra các dịch vụ phụ trợ sử dụng công nghệ hiện đại để thu hút và phục vụ tốt hơn cho các nhà đầu tư, như dịch vụ vấn tin qua điện thoại, mạng internet; nhập lệnh qua mạng internet hoặc qua điện thoại… Việc phát triển đồng bộ các nghiệp vụ là một vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, mỗi ĐCTC nên đầu tư và tạo cho mình một thế mạnh trong một mảng dịch vụ cụ thể để nâng cao năng lực cạnh tranh cho bản thân mình. Ví dụ, các NHTM với tiềm lực về tài chính, kinh nghiệm có thể tập trung nghiên cứu để phát triển sâu đối với hoạt động bảo lãnh phát hành, đặc biệt bảo lãnh phát hành cho các công ty lớn, phát hành cổ phiếu với khối lượng lớn…Các CTCK có thể tập trung khai thác và phát triển năng động hoạt động môi giới thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của các thị trường khác trên thế giới… Thêm vào đó, các tổ chức không phải là doanh nghiệp chuyên doanh trên TTCK mà chỉ coi hoạt động trên TTCK là một trong các mảng hoạt động của mình, như công ty bảo hiểm, NHTM,… thì cần phải chú ý tới các hoạt động truyền thống của mình, không nên mất định hướng, chạy theo lợi nhuận khủng lồ trên thị trường vì TTCK luôn luôn là một thị trường đầy biến động, có thể gây ra những rủi ro cho mọi đối tượng tham gia. 2.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực hoạt động của các ĐCTC Việt Nam đã và đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, và gần đây nhất là việc gia nhập vào Tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Theo các cam kết khi gia nhập vào WTO, Việt Nam sẽ đối xử bình đẳng với các nhà đầu tư trong và ngoài nước; mở cửa thị trường vốn và các dịch vụ tài chính theo hướng thông thoáng nhưng vẫn đảm bảo sự an toàn, ổn định cho hệ thống tài chính và thị trường vốn. Trước ngưỡng cửa của hội nhập, các định chế tài chính Việt Nam trong thời gian tới sẽ không chỉ phải đối mặt với việc cạnh tranh gay gắt với nhau mà còn cạnh tranh với các định chế tài chính nước ngoài, không loại trừ khả năng có sự tham gia của các tập đoàn tài chính hùng mạnh với bề dày lịch sử trên các thị trường phát triển lâu đời. Vì vậy, vấn đề quan trọng đối với các ĐCTC trong giai đoạn hiện nay là phải tăng năng lực cạnh tranh để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh mới. Để thực hiện được điều này, các ĐCTC có thể áp dụng một số kiến nghị sau. Nâng cao năng lực của đội ngũ nhân viên trong tổ chức. Có thể khẳng định, nguồn nhân lực là một trong các yếu tố quan trọng, quyết định năng lực cạnh tranh, thành công của các định chế tài chính. Trong thời điểm hiện tại, việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ của tổ chức cần tiến hành ngay trên 3 khía cạnh là: thay đổi thái độ phuc vụ đối với khách hàng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tăng mức độ ủy quyền cho nhân viên trong tổ chức. Thứ nhất, cần thay đổi thái độ phục vụ của nhân viên trong tổ chức đối với khách hàng. Phong cách phục vụ không chuyên nghiệp của thời kỳ mà cầu lớn hơn cung trong lĩnh vực tài chính vẫn còn tồn tại dai dẳng trong nhiều tổ chức. Nhưng trong thời gian tới, khi thị trường phát triển mạnh mẽ, đối thủ cạnh tranh tăng lên, để đảm bảo được sự tồn tại và phát triển của mình trên thị trường thì các tổ chức này phải có chính sách nhằm thay đổi thái độ đó của nhân viên, như ý thức cho nhân viên về tầm quan trọng của khách hàng đối với sự tồn tại và phát triển của tổ chức trong điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, tiến hành đánh giá nhân viên thông qua kết quả hoạt động của từng người... Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhân viên bằng cách đào tạo và đào tạo lại, kết hợp với việc thuê các chuyên gia gia nước ngoài về làm việc. Cần có một chính sách nhân sự hợp lý, trong đó, thực hiện đào tạo và đào tạo lại nhân viên, để tăng chất lượng chuyên môn cũng như trình độ nghiệp vụ cho nhân viên. Việc đào tạo nhân viên có thể tiến hành theo hai hình thức: Lựa chọn và gửi đi đào tạo chính quy tại các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước; Hoặc đào tạo tại chỗ, vừa kết hợp bồi dưỡng ngắn hạn với cập nhật kiến thức thực tiễn. Trong hình thức đào tạo này, tổ chức có thể mời, thuê các chuyên gia nước ngoài, các chuyên gia trong nước với nhiều kinh nghiệm tham gia thực hiện chương trình đào tạo. Thứ ba, trao quyền, ủy quyền cho nhân viên để khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của nhân viên trong quá trình tác nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động của từng nhân viên trong sự đóng góp chung vào sự phát triển của tổ chức. Ví dụ, hoạt động môi giới trong công ty chứng khoán là một trong những hoạt động rất linh hoạt, năng động. Vì vậy, công ty không nên đưa ra các hình thức hoạt động cụ thể mà nên khuyến khích nhân viên thực hiện bằng cách riêng của họ theo định hướng chung của công ty là phục vụ tốt nhất cho khách hàng và thu hút được nhiều khách hàng nhất về cho công ty. Cần phải tổ chức các phòng ban chuyên trách về từng mảng nghiệp vụ chứng khoán trong công ty và tập trung đầu tư cho các bộ phận chủ chốt. Điều này sẽ giúp tổ chức tập trung và khẳng định năng lực cạnh tranh trong một số mảng hoạt động trên thị trường. Ví dụ, trong CTCK phòng nghiên cứu và tư vấn có thể coi là một trong những bộ phận quan trọng vì nó ảnh hưởng tới hoạt động của các phòng ban khác. Do đó, cần đầu tư nhân lực và tài chính cho phòng tư vấn của công ty. Thêm vào đó, cần khuyến khích và thiết lập các chương trình làm việc theo nhóm người và nhóm công việc. Trong điều kiện nhân lực của các công ty còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm trên thị trường thì giải pháp này sẽ phát huy được năng lực tổng hợp của cả nhóm, từ đó có thể đưa ra những nhận định chính xác hơn đối với mỗi vấn đề nghiên cứu. Ví dụ, đối với nghiệp vụ môi giới trong công ty, ngoài việc khuyến khích các cá nhân phát huy tính chủ động sáng tạo, mỗi tổ chức có thể thành lập các nhóm môi giới, trong đó, mỗi nhóm sẽ phụ trách một nhóm chứng khoán trên thị trường về các mặt như tình hình biến động giá cả, tình hình hoạt động của công ty phát hành, các nhân tố ảnh hưởng, triển vọng cho tương lai…Khi cả nhóm đã có hiểu biết sâu sắc, thống nhất về nhóm chứng khoán được phụ trách, sẽ bắt đầu triển khai nghiệp vụ môi giới cho khách hàng quan tâm tới các chứng khoán này. Tiến hành hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin trong đơn vị Công nghệ luôn đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực chứng khoán, vì TTCK luôn cần sự nhanh chóng và chính xác. Rất nhiều nhà đầu tư lựa chọn giao dịch tại một CTCK nào đó chỉ vì lý do là công nghệ tại công ty đó tốt hơn, không gây ra tình trạng nhầm lẫn, dẫn tới lệnh giao dịch không nhập được hoặc nhập sai. Trong thời gian tới, số lượng các nhà đầu tư tham gia vào TTCK sẽ tăng, thêm vào đó vấn đề bảo mật thông tin ngày càng được đặt ra trước vấn nạn Hacker đang phát triển trên thị trường càng đòi hỏi các công ty phải hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin. Làm sao có thể bảo mật thông tin khách hàng cũng như cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất, phần lớn phụ thuộc vào hệ thống công nghệ của các ĐCTC. Tuy nhiên, sẽ cần đầu tư một lượng vốn lớn để có thể phát triển toàn diện hệ thống công nghệ thông tin cho một công ty kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, các tổ chức này, đặc biệt là các công ty có tiềm lực tài chính hạn chế, cần phải thực hiện giải pháp này từng bước, phù hợp với sự phát triển của thị trường, để đảm bảo không tạo ra gánh nặng chi phí trong những giai đoạn “trầm lắng” của thị trường. Ngoài ra, việc hiện đại hóa hệ thống thông tin cũng để triển khai kế hoạch giao dịch không sàn và chuyển việc quản lý tiền của các nhà đầu tư tại các CTCK sang các NHTM được ủy quyền theo kế hoạch của UBCKNN trong thời gian tới. Phát triển, mở rộng mạng lưới chi nhánh nhận lệnh của khách hàng trên nhiều tỉnh thành trong cả nước. Các CTCK trực thuộc ngân hàng, với thế mạnh là mạng lưới hoạt động rộng của ngân hàng mẹ, sẽ rất thuận lợi khi thực hiện giải pháp này. Hiện nay, các định chế tài chính chủ yếu đặt các chi nhánh tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nơi tập trung đông các nhà đầu tư. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi mà TTCK phát triển hơn nữa, số lượng nhà đầu tư tại các tỉnh thành có tốc độ tăng trưởng cao như Hải Phòng, Hải Dương, Đồng Nai… tăng lên, sẽ tạo ra một mảng thị trường lớn. Vì vậy, cần phải có các chi nhánh tại cở sở để đáp ứng nhu cầu cho khối lượng đối tượng này. Ngoài các giải pháp như trên, việc thu hút các cổ đông chiến lược nước ngoài tham gia vào các ĐCTC cũng là một trong những giải pháp rất đáng được chú ý trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực hoạt động của các tổ chức này. 2.4. Mở rộng phạm vi hoạt động dựa vào quan điểm đa dạng hóa các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việc đa dạng hóa các ĐCTC trên TTCK sẽ tạo điều kiện phát triển hoàn thiện hệ thống các ĐCTC trong thị trường tài chính; đồng thời tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các tổ chức này, chuẩn bị năng lực cho cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới. Mở rộng phạm vi hoạt động của các ĐCTC có thể theo các hướng sau: Thứ nhất, hình thành các ngân hàng đa năng, các tập đoàn tài chính hùng mạnh. Theo đó, các ĐCTC có thể xâm nhập vào các hoạt động khác trên thị trường, như các NHTM với tiềm lực tài chính mạnh có thể tiến hành góp vốn cổ phần, sáp nhập với các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, …để hình thành các ngân hàng đa năng; các CTCK có thể sáp nhập với nhau để hình thành CTCK chuyên doanh có tiềm lực tài chính mạnh…Giải pháp này được thực hiện thuận lợi hơn nhờ sự hỗ trợ của chính TTCK thông qua việc mua ban cổ phiếu trên thị trường. Thứ hai, phát triển thêm các loại hình ĐCTC mới, có triển vọng phát triển trên thị trường như tổ chức ĐMTN, Quỹ đầu tư. Tổ chức ĐMTN là một mảng hoạt động đầy tiềm năng khi thị trường ngày càng phát triển. Một trong những lý do khiến cho các nhà đầu tư chưa dám đầu tư mạnh hoặc đầu tư theo phong trào vào thị trường chứng khoán là vì cơ sở hạ tầng về đánh giá tín nhiệm chưa phát triển. Hệ thống đánh giá của các tổ chức tín nhiệm không chỉ đem lại niềm tin cho công chúng đầu tư mà còn mang lại lợi ích to lớn cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư. Chính những kết quả mà đánh giá tín nhiệm đem lại sẽ là nền tảng cho việc chọn danh mục đầu tư lý tưởng đối với các công ty chứng khoán, công quản lý quỹ đầu tư. Để hình thành và phát triển các tổ chức ĐMTN, bên cạnh việc hỗ trợ từ các cơ quản quản lý Nhà nước về mặt xây dựng khung pháp lý, các biện pháp nhằm tạo điều kiện để hình thành một thị trường nợ năng động và đa dạng, các công ty cần thực hiện các biện pháp sau: + Lựa chọn mô hình các tổ chức ĐMTN phù hợp cho thị trường trong giai đoạn hiện nay. ĐMTN là một khái niệm phổ biến tại nhiều thị trường trên thế giới, tuy nhiên nó vẫn còn là một vấn đề mới mẻ đối với thị trường non trẻ của Việt Nam. Mô hình này cần phải đảm bảo nguyên tắc hoạt động của các tổ chức tín nhiệm là tính tin cậy, tính độc lập và tính chuyên nghiệp. Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, để đảm bảo được mục tiêu này, các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước có thể thành lập tổ chức ĐMTN theo mô hình công ty cổ phần vẫn có sự tham gia góp vốn của Nhà nước, nhưng phải đảm bảo tỷ lệ sở hữu sao cho không có bất kỳ một tổ chức nào có quyền kiểm soát và chi phối hoạt động của tổ chức ĐMTN; các doanh nghiệp tư nhân có thể thành lập mô hình doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn (Mô hình của Mỹ). Việc lựa chọn mô hình phù hợp còn phải dựa vào chiến lược phát triển thị trường cụ thể của Chính phủ. + Nghiên cứu các tiêu chuẩn quốc tế về định mức tín nhiệm để xây dựng một hệ thống đánh giá riêng cho đơn vị mình. Việc này có thể thực hiện thông qua nghiên cứu hệ thống đánh giá tín nhiệm của các công ty lớn trên thế giới, như Moody’s, Standard & Poor… Phát triển các quỹ đầu tư Việt Nam. Quỹ đầu tư là một ĐCTC mà nguồn vốn chủ yếu được tập trung từ nhiều tổ chức và cá nhân đầu tư, đựoc quản lý chuyên nghiệp và vốn được sử dụng để đầu tư vào tập hợp các chứng khoán của các công ty và tổ chức nhằm mục đích sinh lợi. Với lợi thế nhờ chuyên môn hóa trong hoạt động đầu tư chứng khoán, lợi thế do tiết kiệm kinh tế theo quy mô, lợi thế về đa dạng hóa trong danh mục đầu tư, các quỹ đầu tư chứng khoán là một hình thức đầu tư phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Mở rộng hoạt động trên lĩnh vực này là một hướng phát triển của thị trường. Để thực hiện được điều này, có thể áp dụng các giải pháp sau: + Xây dựng các quỹ đầu tư với các mục tiêu khác nhau, như tăng trưởng, mạo hiểm… để thu hút được các đối tượng nhà đầu tư có mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau tham gia đầu tư vào quỹ. + Xây dựng một đội ngũ cán bộ phân tích và quản lý chuyên nghiệp cho quỹ để thu hút các nhà đầu tư. Vì khi nhà đầu tư bỏ tiền vào qũy, họ rất mong muốn tiền của mình được quản lý một cách chuyên nghiệp và sinh lợi. + Ngoài ra, cần phải có những quy định bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư khi tổ chức giám sát quỹ và công ty quản lý quỹ không thực hiện đúng điều lệ, đem lại lợi ích cho số ít cổ đông và gây ảnh hưởng tiêu cực tới lợi ích của số đông các nhà đầu tư trong các quỹ công chúng. 2.5. Hội nhập hơn nữa với thị trường chứng khoán khu vực và thế giới. Việc hội nhập vào TTCK khu vực và thế giới để tạo ra môi trường cạnh tranh, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho chính các ĐCTC. Để thực hiện giải pháp này, các ĐCTC có thể tiến hành niêm yết chứng khoán trên các thị trường chứng khoán trên thế giới. Khi đó, các ĐCTC cần phải chú ý tới năng lực tài chính và tính minh bạch về thông tin để đáp ứng được các yêu cầu niêm yết của các trung tâm giao dịch nước ngoài. Đây là một giải pháp không phải đơn giản đối với nhiều ĐCTC Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, bởi lĩnh vực tài chính Việt Nam vốn vẫn rất nhạy cảm với vấn đề công bố thông tin, đặc biệt là thông tin về tình hình tài chính. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của TTCK, chính các cơ quan Nhà nước Việt Nam sẽ đưa ra những yêu cầu nghiêm ngặt với vấn đề này, và đây sẽ là những cơ hội để các ĐCTC Việt Nam thử nghiệm. 3. Một số kiến nghị Đối với Việt Nam, việc phát triển, vận hành có hiệu qủa TTCK có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế. Sức ép của hội nhập ngày càng lớn, vì vậy, Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước cần nhìn nhận đúng vai trò của các định chế tài chính đối với việc phát triển TTCK, từ đó có những chính sách cụ thể để tạo điều kiện thu hút, định hướng, chỉ đạo hoạt động của các tổ chức này theo kịp và thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Đối với Nhà nước Nhà nước cần phải tiến hành nghiên cứu, hoạch định và ban hành các văn bản pháp lý có liên quan đến thị trường chứng khoán để tạo ra một khuôn khổ pháp lý hoàn thiện cho các hoạt động trên thị trường. Trong quá trình này, cần phải tiến hành nghiên cứu kinh nghiệm của các thị trường phát triển trên thế giới, đặc biệt là các thị trường có đặc điểm giống Việt Nam, kết hợp với nghiên cứu thực tiễn Việt Nam để tạo tính ổn định, chiến lược khi đưa ra các quyết định. Phát triển nền kinh tế - xã hội, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để thu hút các lực lượng tham gia đầu tư vào TTCK. Đối với UBCKNN Đẩy mạnh tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về chứng khoán và TTCK Tăng cường quản lý việc thực hiện các quy định về chứng khoán và TTCK đối với các tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức niêm yết chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động trên TTCK, phát hiện và xử lý các vi phạm về chứng khoán và TTCK Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm đẩy nhanh tiến trình quốc tế hóa về chứng khoán và TTCK, nhằm đưa TTCK nước ta hội nhập hơn với thị trường khu vực và thế giới theo định hướng phát triển thị trường mà Chính phủ đã đề ra. 3.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước Xây dựng đề án phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng để tạo cơ sở cho việc thành lập các ĐCTC mới trên thị trường. Nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên TTCK. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng của các ngân hàng trong lĩnh vực chứng khoán phù hợp với các luật đã được thông qua và dựa trên nghiên cứu thực tiễn thị trường. KẾT LUẬN Việt Nam đã từng bước tiến hành cải cách thị trường tài chính, trong đó, xây dựng được một hệ thống các định chế tài chính đa dạng và phong phú. Các định chế tài chính này không chỉ là những chủ thể chính trên thị trường tiền tệ mà còn đóng vai trò quan trọng trên thị trường chứng khoán - kênh dẫn vốn trực tiếp cho nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán là xu thế tất yếu khách quan trong chiến lược phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, góp phần đưa Việt Nam hội nhập hơn nữa vào thị trường chứng khoán khu vực và thế giới. Bằng việc vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, khóa luận đã một phần thực hiện được các mục tiêu đã đặt ra: Thứ nhất, tìm hiểu về các định chế tài chính và vai trò của chúng trên thị trường chứng khoán . Thứ hai, tìm hiểu và đánh giá được thực trạng một số vai trò chủ yếu của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp để nâng cao vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động của thị trường chứng khoán cũng như vai trò của các định chế tài chính trên thị trường chứng khoán vẫn còn là một trong những vấn đề mới mẻ đối với nhiều cá nhân và tổ chức cả về phương diện thực tiễn và lý thuyết. Thêm vào đó, vì những hạn chế về kiến thức và thời gian, nên chắc chắn khóa luận còn nhiều khiếm khuyến. Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn. Một lần nữa, người viết xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Cô giáo PGS-TS. Nguyễn Thị Quy đã tận tình hướng dẫn hoàn thành khóa luận này. Xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ thương mại, Bản tin thông tin thương mại, chuyên ngành ngân hàng – tài chính – tiền tệ, trung tâm thông tin thương mại năm 2006. Bộ thương mại, Bản tin thông tin thương mại, chuyên ngành ngân hàng – tài chính – tiền tệ, trung tâm thông tin thương mại quý I/2007. Chính phủ, Nghị định 14/2007/NĐ-CP Quy định chi tiết về một số điều của Luật chứng khoán, ngày 19 tháng 01 năm 2007. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010, Báo cáo của Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Lương Đức Cường (2006), Hỏi - đáp về Luật chứng khoán năm 2006, NXB Tài chính. Nguyễn Hữu Tài (2002), Giáo trình lý thuyết tài chính – tiền tệ, NXB thống kê. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Chỉ thị số 03/2007CT-NHNN ngày 28 tháng 5 năm 2007. PGS.NGƯT. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB giáo dục 1998. Phạm Văn Định (2005), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê. Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 163/2003/QĐ-TTg ngày 05 tháng 8 năm 2003 phê duyệt chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010. Trường đại học Ngoại Thương (1999), Giáo trình lý thuyết tài chính – tiền tệ, NXB giáo dục. Viện nghiên cứu tài chính (2000), Tài chính với sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, NXB Tài chính. Viện hàn lâm khoa học quốc gia Ucraine (2006), Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế chuyển đổi, NXB Tài chính. Frederic S. Mishkin (1999), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội. Richard A. Brealey (2001), Fundamentals of Corporate Finance, McGraw-Hill compnanise, Inc. Các Website: DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bộ thương mại, Bản tin thông tin thương mại, chuyên ngành ngân hàng – tài chính – tiền tệ, trung tâm thông tin thương mại năm 2006. Bộ thương mại, Bản tin thông tin thương mại, chuyên ngành ngân hàng – tài chính – tiền tệ, trung tâm thông tin thương mại quý I/2007. Chính phủ, Nghị định 14/2007/NĐ-CP Quy định chi tiết về một số điều của Luật chứng khoán, ngày 19 tháng 01 năm 2007. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010, Báo cáo của Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Lương Đức Cường (2006), Hỏi - đáp về Luật chứng khoán năm 2006, NXB Tài chính. Nguyễn Hữu Tài (2002), Giáo trình lý thuyết tài chính – tiền tệ, NXB thống kê. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Chỉ thị số 03/2007CT-NHNN ngày 28 tháng 5 năm 2007. PGS.NGƯT. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thị trường chứng khoán, NXB giáo dục 1998. Phạm Văn Định (2005), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê. Quyết định của Thủ tướng chính phủ số 163/2003/QĐ-TTg ngày 05 tháng 8 năm 2003 phê duyệt chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2010. Trường đại học Ngoại Thương (1999), Giáo trình lý thuyết tài chính – tiền tệ, NXB giáo dục. Viện nghiên cứu tài chính (2000), Tài chính với sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, NXB Tài chính. Viện hàn lâm khoa học quốc gia Ucraine (2006), Thị trường chứng khoán trong nền kinh tế chuyển đổi, NXB Tài chính. Frederic S. Mishkin (1999), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB khoa học kỹ thuật Hà Nội. Richard A. Brealey (2001), Fundamentals of Corporate Finance, McGraw-Hill compnanise, Inc. Các Website: Phụ lục 1: Các công ty chứng khoán tại Việt Nam tính đến tháng 10/2007 STT Tên công ty Vốn điều lệ Website Tên viết tắt 1 Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng Đông Nam Á 50 tỷ SEABS 2 CTCK Âu Lạc 50 tỷ www.chungkhoanaulac.com.vn ASC 3 Công ty cổ phần chứng khoán Đà Nẵng 22 tỷ www.dnsc.com.vn DNSC 4 Công ty cổ phần chứng khoán Hà Thành 20 tỷ HASC 5 Công ty cổ phần chứng khoán Gia Anh 22 tỷ GASC 6 Công ty cổ phần chứng khoán Thủ Đô 60 tỷ www.chungkhoanthudo.com.vn CSC 7 Công ty cổ phần chứng khoán Thiên Việt 86 tỷ www.tvs.com.vn TVSC.JSC 8 Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt 150 tỷ www.bvsc.com.vn BVSC 9 Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển 200 tỷ www.bsc.com.vn BSC 10 Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn 800 tỷ www.ssi.com.vn SSI 11 Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất 100 tỷ www.fsc.com.vn FSC 12 Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long 80 tỷ TSC 13 Công ty TNHH chứng khoán Châu Á 500 tỷ www.acbs.com.vn ACBS 14 Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng công thương Việt Nam 105 tỷ www.icbs.com.vn IBS 15 Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn 150 tỷ AGRISECO 16 Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương 200 tỷ ww.vcbs.com.vn VCBS 17 Công ty cổ phần chứng khoán Mê Kông 22 tỷ www.mekongsecurities.com.vn MSC 18 Công ty cổ phần chứng khoán TP.HCM 100 tỷ www.hsc.com.vn HSC 19 Công ty cổ phần chứng khoán Hải Phòng 50 tỷ www.hspc.com.vn HASSECO 20 CTCK ngân hàng Đông Á 500 tỷ www.dongasecurities.com.vn DAS 21 Công ty cổ phần chứng khoán Đại Việt 250 tỷ www.dvsc.com.vn DVSC 22 Công ty TNHH một thành viên chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thường Tín 300 tỷ www.sbsc.com.vn SBS 23 Công ty cổ phần chứng khoán An Bình 330 tỷ ABS 24 Công ty cổ phần chứng khoán Kim Long 315 tỷ www.kls.vn KLS 25 Công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế Việt Nam 55 tỷ www.vise.com.vn VISecurities 26 Công ty cổ phần chứng khoán VNDirect 50 tỷ www.vnds.com.vn VNDS 27 Công ty cổ phần chứng khoán Việt 9,750 tỷ VSC 28 Công ty cổ phần chứng khoán Hà Nội 50 tỷ HSSCCorp 29 Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng ngoài quốc doanh 300 tỷ www.vpbs.com.vn VPBS 30 Công ty cổ phần chứng khoán quốc gia 50 tỷ www.nsi.vn NSI 31 Công ty cổ phần chứng khoán Việt Nam 9 tỷ www.vnsec.vn VSEC 32 Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á - Thái Bình Dương 60 tỷ www.apec.com.vn APECSECURITIES 33 Công ty cổ phần chứng khoán Rồng Việt 300 tỷ VDSC 34 Công ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long 60 tỷ www.mhbs.vn MHBS 35 Công ty cổ phần chứng khoán Alpha 20 tỷ www.apsc.vn APSC 36 Công ty cổ phần chứng khoán Thái Bình Dương 28 tỷ PSC 37 Công ty cổ phần chứng khoán Việt Tín 50 tỷ www.viet-tin.com VTSS-JSC 38 Công ty cổ phần chứng khoán Biển Việt 25 tỷ www.cbvvn.com CBV.JSC 39 Công ty cổ phần chứng khoán Đại Dương 50 tỷ www.ocs.com.vn OCS 40 Công ty cổ phần chứng khoán Tràng An 60 tỷ TAS 41 Công ty cổ phần chứng khoán Cao Su 40 tỷ www.rupse.com.vn RUBSE 42 Công ty cổ phần chứng khoán Tân Việt 55 tỷ www.isecurities.com.vn TVSI 43 Công ty cổ phần chứng khoán Dầu khí 150 tỷ www.pvsecurities.com.vn PVEecurities 44 Công ty cổ phần chứng khoán Phú Gia 43 tỷ www.pgsc.com.vn PGSC 45 Công ty cổ phần chứng khoán Tầm nhìn 12 tỷ www.horizonsecurities.com HRS 46 Công ty cổ phần chứng khoán Phương Đông 120 tỷ www.ors.com.vn ORS 47 Công ty cổ phần chứng khoán Hoàng Gia 20 tỷ ROSSECorp 48 Công ty cổ phần chứng khoán Hướng Việt 20 tỷ www.gsi.vn GSI 49 Công ty cổ phần chứng khoán Sao Việt 36 tỷ VSSCorp 50 Công ty cổ phần chứng khoán Chợ Lớn 90 tỷ www.cholonsc.com.vn CLSC 51 Công ty cổ phần chứng khoán VINA 45 tỷ www.vinasecurities.com VNSC 52 Công ty cổ phần chứng khoán DN nhỏ và vừa Việt Nam 51 tỷ www.smesc.vn/www.smesc.com.vn SMESc 53 Công ty cổ phần chứng khoán Việt Quốc 45 tỷ www.vqs.vn Vqsc 54 Công ty cổ phần chứng khoán Gia Quyền 135 tỷ www.eps.com.vn EPS 55 Công ty cổ phần chứng khoán FPT 200 tỷ www.fpts.com.vn FPTS 56 Công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế hoàng gia 135 tỷ www.irs.com.vn IRS 57 Công ty cổ phần chứng khoán Âu Việt 300 tỷ www.avssc.com.vn AVSC 58 CTCK VNS 59 Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội 150 tỷ www.hbbs.com.vn HBBS (Nguồn: Phụ lục 2: Danh sách các quỹ đầu tư tại Việt Nam tính đến tháng 10/2007 STT Quỹ đầu tư Công ty quản lý quỹ Nguồn vốn (triệu USD) 1 Bao viet investment fund Bao Việt 31,3 2 BVIM BIDV partners 100 3 Blackhorse enhanced VN Inc Blackhorse Asset Management 50 4 DWS VN fund Deutsche Asset management 354 5 VN top select – Zertifikat Deutsche bank 100 6 VN Enterprise Investment Ltd Dragon Capital 1.044 7 VN Growth fund Dragon capital 536 8 VN Dragon fund Dragon capital 334,1 9 VN equity fund Finansa fund management 18,1 10 Blue ocean fund Glden bridge 10 11 Hanoi investment fund Hanoi fund management 12 12 Horizon capital Việt Nam 13 P-notes HSBC 100 14 Indochina equity fund Indochina capital 428 15 Indochina Land Holdings Indochina capital 42 16 Indochina land holdings II Indochina capital 100 17 IDG ventures Vn International data group 100 18 JF asset VN fund JF asset management 104 19 Keppel fund Keppel land 100 20 KITMC VN Growth fund Korean investment trust management 25 21 Worldwide VN fund Korean investment trust management 76 22 Korean worldwide VN Hybrid toust 1 Korean investment trust management 400 23 VN investment fund Singapore KV management Pte Ltd 5,5 24 VN opportunity – Zertifikat Landesbank Berlin 50 25 Lion VN fund Lion Capital 33 26 Mekong enterprise fund Mekong capital 27,1 27 Mekong enterprise fund II Mekong capital 27,1 28 VN pioneer fund Pioneer 29 PPF A.s PPF Asset management asset 50 30 Prudential VN segregated portfolio Prudential Viet nam 288 31 Prudential fund Prudentil Vietnam 63,7 32 Prudential balanced fund 1 Prudentil Vietnam 31,3 33 PXP VN fund PXP Vietnam Asset management 134 34 VN emerging equity fund 1 PXP Vietnam Asset management 31,3 35 VN lotus fund PXP Vietnam asset management 41 36 Saigon fund A1 Thanh viet fund management 1,3 37 Saigon fund A2 Thanh viet fund management 31 38 VPF1 Vietcombank JV 12,5 39 VPF2 Vietcombank JV 40 VFMVF1 Viet fund management 156,2 41 VFMVF2 Viet fund management 25 42 Beta VN fund Vietnam fund management 2,9 43 VN holding fund Vietnam holding asset management 128,8 44 VN opportunity fund Vina capital 789,5 45 DFJ vinancapital LP Vina capital 25 46 Vinaland fund Vina capital 200,7 (Nguồn: Vietnam investment review) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT038.doc
Tài liệu liên quan