Thực trạng vai trò điều tiết của nhà nước đối với phân phối thu nhập trong thời gian qua ở nước ta

Chương 1: Lý luận về vai trò của nhà nước trong phân phối thu nhập 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về phân phối Từ trước đến nay vấn đề phân phối giữ vai trò quan trọng trong lý luận kinh tế. Từ các nhà kinh tế học cổ điển Anh như A. Smith tới C. Mác đều nghiên cứu sâu sắc vấn đề phân phối, thậm chí. D.Ricardo cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của kinh tế chính trị học là tìm ra quy luật chi phối sự phân phối. Tầm quan trọng của vấn đề phân phối không chỉ ở chỗ nó nói lên quan hệ về lợi ích kinh

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng vai trò điều tiết của nhà nước đối với phân phối thu nhập trong thời gian qua ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế trong nền kinh tế, mà còn phản ánh những nguyên tố quyết định ẩn dấu đằng sau các quan hệ lợi ích đó, giúp ta hiểu được quá trình vận động kinh tế; đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối và vai trò của nhà nước đối với phân phối. 1.1.1. Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối Lý luận phân phối trong chủ nghĩa xã hội và trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt nguồn từ học thuyết kinh tế của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin. C. Mác và Ph. Ăng ghen lúc đương thời đã nghiên cứu một cách có hệ thống chế độ phân phối của phương thức sản xuất TBCN. Các ông đã vạch rõ bản chất của phương thức phân phối này và cho rằng chế độ phân phố TBCN là bất công; nó dựa trên cơ sở quan hệ bóc lột của giai cấp tư sản và địa chủ đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì trong thế kỷ XIX, CNXH vẫn chưa ra đời nên nhiệm vụ lý luận thực tế nhất, bức thiết nhất không phải là chú trọng trình bày và thiết kế chế độ và nguyên tắc phân phối thu nhập trong CNXH, mà là vạch trần bản chất và phê phán phương thức phân phối TBCN, đồng thời còn phê phán và đấu tranh với mọi sự xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội đối với CNXH. Tuy nhiên, trong quá trình đó, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã nêu lên được quan điểm và nguyên tắc cơ bản về phân phối trong xã hội tương lai. So với lý luận của tất cả các nhà kinh tế trước đó, thì lý luận phân phối của C. Mác và Ph. Ăng ghen đã thật sự đặt nền tảng và là khởi nguyên cho lý luận phân phối thu nhập trong CNXH. Kế thừa và tiếp nối tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăng ghen, trong lãnh đạo xây dựng CNXH ở Nga, Lênin đã làm rõ hơn và cụ thể hoá các quan điểm và nguyên tắc phân phối trong CNXH. Theo Lênin, để xây dựng thành công CNXH hiện thực, thì nhiệm vụ có ý nghĩa trọng đại hơn cả là xây dựng kinh tế. Trong nhiệm vụ đó, nếu nhà nước không tiến hành kiểm kê, kiểm soát toàn diện đối với sản xuất và phân phối các sản phẩm, thì chính quyền của những người lao động, nền tự do của họ sẽ không thể nào duy trì được và nhất định họ sẽ phải sống trở lại dưới ách thống trị của CNTB [11, tr 244] "không có chế độ kế toán và kiểm soát trong sự sản xuất và phân phối sản phẩm, thì những mầm mống của XNXH sẽ bị tiêu diệt..." [11, tr 225]. Từ ý nghĩa của vấn đề nêu trên, Lênin đã xây dựng hệ thống lý luận về phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Dưới đây là những vấn đề chủ yếu trong lý luận phân phối của chủ nghĩa Mác - Lênin. a. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí của phân phối * Vị trí của phân phối trong tái sản xuất xã hội Quá trình tái sản xuất bao gồm 4 khâu: sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất. Phân phối là một trong 4 khâu đó, nó là một mắt xích trung gian trong quá trình tái sản xuất. Trong quá trình tái sản xuất, sản xuất bao giờ cũng giữ vai trò quyết đinh. Quy mô, cơ cấu và trình độ phát triển của sản xuất quy định quy mô và cơ cấu của phân phối. Phân phối không thể vượt quá trình độ hiện có của lực lượng sản xuất xã hội. Ngược lại, nếu phân phối phù hợp với sự phát triển của sản xuất, có lợi cho việc động viên tính tích cực của người lao động sản xuất, thì sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, còn nếu không phù hợp thì nó sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất. Phân phối và trao đổi có quan hệ mật thiết với nhau. Trao đổi là sự tiếp tục của phân phối. Trong kinh tế thị trường, phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị (tiền tệ). Người nhận được thu nhập tiền tệ đó sẽ biến thành thu nhập thực tế bằng việc mua hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Với một thu nhập danh nghĩa nhất định sẽ chuyển thành khối lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào giá cả thị trường. Đó cũng chính là quá trình phân phối. Phân phối còn quan hệ mật thiết với tiêu dùng. Việc tăng hoặc giảm sản phẩm phân phối đều có tác động trực tiếp đến mức độ tiêu dùng. Ngược lại, cơ cấu, phương thức và trình độ của tiêu dùng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tăng trưởng của phân phối. Như vậy, phân phối là một khâu độc lập tương đối trong quá trình tái sản xuất, nó luôn có tác động qua lại một cách biện chứng với các khâu khác của quá trình tái sản xuất xã hội. Trong mọi phương thức sản xuất đều diễn ra sự phân phối sản phẩm xã hội, tức là nó là một phạm trù kinh tế chung cho mọi xã hội. * Vị trí của phân phối trong quan hệ sản xuất xã hội Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. C.Mác đã nhiều lần nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất " quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với quan hệ sản xuất nhất định, nó cấu thành mặt sau của quan hệ sản xuất ấy [5, Tr 634]. Theo Ph. Ăng ghen thì " Trên những nét chủ yếu của nó, phân phối luôn luôn là kết quả tất nhiên của những quan hệ sản xuất và trao đổi trong một xã hội nhất định" [9, Tr 261]. Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất nhất định có quy luật phân phối tương ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào, thì quan hệ phân phối cũng như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Khi lực lượng sản xuất biến đổi và do đó quan hệ sản xuất biến đổi, khi quan hệ phân phối cũng biến đổi. C. Mác viết " Mỗi một hình thái phân phối đều biến đổi cũng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy và đã đẻ ra hình thái phân phối ấy" [8, Tr 373]. Và chỉ rõ " phương thức tham gia nhất định vào sản xuất quy định hình thái đặc thù của phân phối, quy định hình thái theo đó người ta tham dự vào phân phối" [ 7, Tr 870]. Phân phối là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của quan hệ sở hữu và quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất. Phân phối được hiểu theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp. Phân phối theo nghĩa rộng là phân phối tổng sản phẩm xã hội, nó bao gồm phân phối các yếu tố sản xuất và phân phối tư liệu tiêu dùng. Phân phối yếu tố sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất, nó có trước sản xuất, đồng thời tiếp tục phát sinh trong quá trình sản xuất. Trước khi sản xuất, cần phải phân phối các yếu tố sản xuất cho các ngành và các doanh nghiệp khác nhau để sản xuất các sản phẩm khác nhau. Không có sự phân phối các yếu tố sản xuất, thì sản xuất không thể diễn ra được. Tính chất phân phối các yếu tố sản xuất quyết định tính chất phân phối tư liệu tiêu dùng. C. Mác đã chỉ rõ "Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính những điều kiện sản xuất " [2, Tr 36 - 37]. "Phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm trong tay những kẻ không lao động dưới hình thức sở hữu tư bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng thì chỉ là kẻ sở hữu những điều kiện người của sản xuất, tức là sức lao động. Nếu yếu tố sản xuất được phân phối như thế thì việc phân phối hiện nay về tư liệu tiêu dùng tự nó cũng từ đó nó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là sở hữu tập thể của bản thân người lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối những tư liệu tiêu dùng khác với sự phân phối hiện nay [2, Tr 37]. b. Sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội của C. Mác Trong tác phẩm " Phê phán cương lĩnh Gô - ta", khi phê phán quan điểm của Lát - xan về " thu nhập không bị cắt xén của lao động", C. Mác đã nêu lên sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội. Sơ đồ phân phối ở tầm vĩ mô: Trong tổng sản phẩm xã hội đó, phải khấu đi: Một là: phần để thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng Hai là: một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất Ba là: một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm để đề phòng những tai nạn, những sự rối loạn do các hiện tượng tự nhiên gây ra vv..... Những khoản khấu trừ như thế vào "thu nhập không bị cắt xén của lao động" là một tất yếu kinh tế và khấu trừ nhiều hay ít là tuỳ theo những tư liệu và những lực lượng sản xuất hiện có, một phần là nhờ lối tính xác suất. Còn lại phần kia của tổng sản phẩm thì dành làm vật phẩm tiêu dùng. Trước khi phân phối cho cá nhân, lại còn phải khấu trừ: Một là, những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất... Hai là, những khoản dùng để cùng chung nhau thoả mãn những nhu cầu, như trường học, cơ quan y tế vv..... Ba là, quỹ cần thiết để nuôi dưỡng những người không có khả năng lao động, vv....., tóm lại là những cái thuộc về việc mà ngày nay, người ta gọi là cứu tế xã hội của nhà nước. Cuối cùng, bây giờ mới tới cái phần những vật phẩm tiêu dùng đem chia cho cá nhân những người sản xuất của tập thể. [2, Tr 31 - 32]. Như vậy, C. Mác đã vạch ra hai bước phân phối: bước thứ nhấ là phân chia tổng sản phẩm xã hội làm sáu khoản phải khấu trừ và toàn bộ tư liệu tiêu dùng; bước thứ hai là phân phối tư liệu tiêu dùng cho những người lao động theo nguyên tắc phân phối theo lao động (sẽ được trình bày dưới đây). Một số người nghiên cứu cho rằng C. Mác đã không nói rõ các tỷ lệ phân chia đó. Ông chỉ nói sơ lược, không nêu cụ thể biện pháp khấu trừ các khoản trên. Thiết nghĩ rằng những tỷ lệ đó là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước ở những giai đoạn phát triển nhất định, do đó không nên đòi hỏi C. Mác phải giải quyết tất cả những vấn đề cụ thể cho chúng ta. Sơ đồ phân phối nêu trên của C. Mác là sơ đồ phân phối vĩ mô, vạch rõ khái quát việc phân phối tổng sản phẩm xã hội. Nó vừa đảm bảo tái sản xuất mở rộng vừa đảm bảo thoả mãn nhu cầu chung của xã hội và của các cá nhân, cũng như sự tiến bộ xã hội. c. Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác Khi nghiên cứu nguyên tắc phân phối của CNTB, C. Mác dã chỉ ra rằng giá trị mới sáng tạo ra được phân chia cho các giai cấp dựa vào sự đóng góp các yếu tố sản xuất: một bộ phận được phối cho người sở hữu sức lao động theo giá trị sức lao động, bộ phận khác phân phối cho người sở hữu tư liệu sản xuất . Do đó giá trị mới được phân thành tiền công, lợi nhuận, lợi tức và được tô. Tiền công là thu nhập của người lao động và là hình thức thực hiện của giá trị sức lao động, lợi nhuận là thu nhập của nhà tư bản và là hình thức thực hiện của quyền sở hữu tư liệu sản xuất, còn địa tô là thu nhập của địa chủ và là hình thức thực hiện của quyền chiếm hữu ruộng đất. Sự phân phối này được che đậy bởi nguyên tắc " trao đổi ngang giá" nên hình như mọi giao dịch trên thị trường đều công bằng. Đó là nguyên tắc phân phối dựa trên quan hệ sở hữu các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Về tiền công, C. Mác đã phát hiện ra nguyên tắc có tính phổ biến trong CNTB là tiền công ở mức tối thiểu C. Mác đã vạch ra rằng " tiền công là giá cả của một thứ hàng hoá nhất định - của sức lao động cho nên tiền công cũng được quy định bởi những quy luật quyết định giá cả của tất cả các hàng hoá khác.... bởi quan hệ của cung với cầu, của cầu với cung [1, Tr 736 - 737]. Tiền công là một quan hệ kinh tế diễn ra tại khu vực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo C. Mác "chi phí sản xuất của sức lao động đơn giản quy lại thành chi phí sinh hoạt của người công nhân và chi phí để tiếp tục duy trì nòi giống của anh ta. Giá cả của những chi phí sinh hoạt và chi phí để tiếp tục duy trì nòi giống đó là tiền công. Tiền công được quy định như vậy là tiền công tối thiểu" [1, Tr 744] Là những người sáng lập CNXH khoa học, C. Mác và Ph. Ăng ghen đã sáng tạo ra nguyên tắc phân phối theo lao động. Hai ông đã sáng tạo và phát triển những mầm mống tư tưởng về phân phối theo lao động của CNXH không tưởng và sáng tạo ra lý luận phân phối theo lao động của CNXH khoa học. Trong bộ " Tư bản",. C. Mác đã bắt đầu khẳng định phương thức phân phối mới: lấy lao động làm thước đo để phân phối, C. Mác chỉ rõ trong thể liên hiệp của những người lao động tự do, " phần tư liệu sinh hoạt chia cho mỗi người sản xuất do thời gian lao động của người đó quyết định. Trong điều kiện ấy, thời gian đóng vai trò hai mặt. Việc phân phối thời gian theo một kế hoạch xã hội sẽ quy định tỷ lệ đúng đắn giữa các chức năng lao động khác nhau và nhu cầu khác nhau. Mặt khác, thời gian lao động cũng đồng thời dùng để đo phần tham gia của cá nhân người sản xuất vào lao động chung và do đó, cả cái phần tham dự của anh ta vào bộ phận có thể sử dụng cho tiêu dùng cá nhân trong toàn bộ sản phẩm " [4, Tr124 - 125]. Tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gô- ta" của C. Mác đã đánh dấu sự hình thành lý luận phân phối theo lao động. Nó là sản phẩm của cuộc luận chiến của C. Mác với chủ nghĩa cơ hội. Trong tác phẩm này, C. Mác nêu lên quan niệm về xã hội tương lai và phê phán quan niệm " phân phối công bằng" của bản cương lĩnh: " thu nhập lao động đem lại là thuộc về tất cả mọi thành viên trong xã hội một cách không bị cắt xén, theo nguyên tắc ngang nhau" [2, tr 28]. Đồng thời C. Mác đã nêu lên nguyên tắc phân phối thu nhập cá nhân trong CNXH là phân phối theo lao động. Lý luận phân phối theo lao động của C. Mác gồm hai bộ phận: điều kiện tiền đề để phân phối theo lao động; nguyên tắc và phương thức phân phối theo lao động. Tiền đề để thực hiện phân phối theo lao động gồm hai mặt liên quan chặt chẽ với nhau; một là, phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối trong " giai đoạn đầu của xã hội cộng sản", tức là trong điều kiện lịch sử mà như C. Mác đã giải thích " các xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra" [2, Tr 33]. Trong điều kiện như vậy, người ta vẫn còn có lợi ích riêng, chưa coi lao động là nhu cầu bậc nhất của con người. Hai là, phân phối theo lao động được thực hiện trong điều kiện kinh tế dựa trên chế độ công hữu, tức là "trong một xã hội được tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì những người sản xuất không trao đổi sản phẩm của mình, ở đây, lao động chi phí vào việc sản xuất ra các sản phẩm cũng không biểu hiện thành ra giá trị của những sản phẩm ấy...., lao động của các cá nhân tồn tại - không phải bằng một con đường vòng như trước nữa mà là trực tiếp - với tính cách là một bộ phận cấu thành của tổng lao động" [2, Tr33]. Nói cách khác, ở đây không có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Dựa trên những điều kiện tiêu đề đó, C. Mác đã vạch ra những nguyên tắc và phương thức phân phối theo lao động. Theo C. Mác, chủ thể phân phối là những người lao động, đối tượng phân phối là tư liệu tiêu dùng, tức là tổng sản phẩm xã hội sau khi đã trừ đi 6 khoản (đã nêu trong sơ đồ phân phối tổng sản phẩm xã hội) căn cứ để phân phối là thời gian lao động, phương thức thực hiện phân phối theo lao động là phiếu lao động. "cùng một lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội dưới một hình thức này thì anh ta lại nhận trở lại của xã hội dưới một hình thức khác [2, Tr 34]. Như vậy thời gian lao động là thước đo khách quan của phân phối, thực hiện trao đổi lao động ngang nhau, sự khác biệt về lao động, do đó sự khác biệt về thu nhập sẽ tồn tại. "Quyền của người sản xuất tỷ lệ với lao động mà người ấy đã cung cấp" [2, Tr 34]. Chỉ đến giai đoạn cộng sản chủ nghĩa mới có thể thực hiện " làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Giá trị của lý luận phân phối theo lao động của C. Mác. Thứ nhất, trước sau nhu một, C. Mác coi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đó quyết định là nhân tố quyết định quan hệ phân phối. Theo C. Mác, chủ nghĩa xã hội là nấc thang cao hơn chủ nghĩa tư bản có lực lượng sản xuất phát triển, chế độ công hữu được thiết lập, thì sự phân phối tư liệu tiêu dùng cho cá nhân tất yếu phải được phân phối theo lao động. Thứ hai, dưới độ công hữu, mọi người đều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất. Quyền bình đẳng đó chỉ có thể chuyển hoá thành quyền lợi lao động bình đẳng, lao động trở thành phương tiện mưu sinh cơ bản nhất, trở thành tiền đề quan trọng để thu được lợi ích kinh tế. Như vậy, C. Mác đã xác lập cơ sở của mối liên hệ nội tại giữa lao động và thu nhập, lao động trở thành điều kiện tất yếu để nhận được thu nhập. Thứ ba, lý luận phân phối theo lao động của C. Mác thừa nhận tồn tại sự khác biệt về thu nhập và phủ nhận phân phối bình quân. Nhưng sự khác biệt này chính là sự công bằng trong phân phối, mà không phải là chủ nghĩa bình quân. C. Mác đã xác định nguyên tắc phân phối trong CNXH, đó là phân phối theo lao động. Nhưng phương thức phân phối đó được thiết kế trên cơ sở giả định kinh tế hàng hoá đã tiêu vong. Do đó, kinh tế sản phẩm là điều kiện kinh tế xã hội để thực hiện phân phối theo lao động. Nhà nước trực tiếp tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm vì thế việc áp dụng vào thực tiễn cần giải quyết một số vấn đề thao tác cụ thể. Nguyên tắc phân phối theo lao động được V. I Lênin phát triển trong quá trình xây dựng CNXH ở Nga. VI Lênin đã nêu ra một cách rõ ràng khái niệm phân phối theo lao động: Một là, "người không lao động thì không được ăn", hai là, " dựa vào lượng lao động ngang nhau lĩnh số sản phẩm ngang nhau." Ông đã xuất phát từ thực tế, cho rằng CNXH vừa mới thoát thai từ xã hội cũ mà ra, sự biến đổi về chất của lao động không thể hoàn thành trong ngày thứ hai sau khi xây dựng chế độ mới. "....Nếu không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, thì người ta sẽ tức khắc có thể làm việc cho xã hội mà không cần phải có tiêu chuẩn pháp quyền nào cả, hơn nữa, việc xoá bỏ CNTB không thể đem lại ngay được những tiền đề kinh tế cho một sự thay đổi như vậy [12, Tr 116]. Do đó, V.I Lênin đã đề ra phải thực hiện chế độ lao động nghĩa vụ, thông qua đó mới thực hiện được phân phối theo lao động. Vì thế " ai không làm thì không ăn", đó là điều kiện thực tiễn của CNXH. Phải tổ chức một cách thực tiễn như thế đó [13, Tr 244]. Để phân phối được hợp lý, cần phải tính toán và đôn đốc một cách chính xác tỉ mỉ nhất, có tinh thần trách nhiệm nhất trong phạm vi toàn dân, tức là thực hiện chế độ giám sát và đôn đốc của công nhân đối với sản xuất và phân phối sản phẩm. Xuất phát từ thực tiễn, V.I Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới thay thế cho chính sách cộng sản thời chiến. Ông chủ trương nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và thừa nhận CNXH không thể xoá bỏ được kinh tế hàng hoá. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ là tiền đề của phân phối theo lao động. V.I Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện hạch toán kinh tế; ông cho rằng " sự quan tâm thiết thân của cá nhân có tác dụng nâng cao sản xuất; trước hết chúng ta cần phải đẩy mạnh sản xuất cho bằng được [14, Tr 189]. V.I Lênin chỉ ra rằng trong CNXH, việc phân phối sản phẩm tiêu dùng của người lao động không thể được thực hiện theo chế độ phân phối bình quân. Tiền lương và tiền thưởng phải liên hệ mật thiết với nhau, đồng thời được quyết định ở mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất. Ông phê bình nghiêm khắc việc biến thưởng hiện vật thành lối bình quân phụ thêm vào lương và đề suất quỹ thưởng cần được tiến hành phân phối hợp lý, nên dùng để thưởng cho những người làm kinh tế có biểu hiện của tinh thần dũng cảm, chăm chỉ, có trách nhiệm, tài giỏi và hết lòng trung thành. Như vậy, V.I Lêin đã gắn trực tiếp thu nhập lao động với thành quả lao động và năng suất lao động. 1.1.2. Một số lý thuyết về phân phối trong kinh tế học hiện đại Từ giữa thế kỷ XX lại đây, ở các nước TBCN đã xuất hiện các lý thuyết kinh tế học của các trường phái khác nhau. Dưới đây là một số lý thuyết phân phối của các nhà kinh tế học hiện đại. a) Lý thuyết của trường phái Kinh tế thị trưỡng xã hội ở cộng hoà liên bang Đức Tác giả tiêu biểu của trường phái này là A. Muller Armack. Theo ông, việc phân phối kết quả sản xuất cho cá nhân phải tương xứng với phần đóng góp của mỗi người. Sau đó, thông qua các chính sách xã hội phù hợp mà giúp đỡ cho những người có thu nhập thấp. Phân phối phải được thực hiện trên cơ sở công bằng theo cả chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Công bằng theo chiều ngang là phân phối phải đảm bảo sự công bằng cho những người ngang nhau về đóng góp lao động, đóng góp vốn. Công bằng theo chiều dọc là tái phân phối từ những người có thu nhập cao sang những người có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập [33, tr.408]. Theo họ, công bằng trong phân phối phải được thể hiện ở chỗ, một mặt thực hiện tiền lương tối thiểu và bảo đảm lương phân biệt thông qua sự thoả thuận tự do; mặt khác, thực hiện cân bằng thu nhập, xoá bỏ những khác biệt vô lý trong thu nhập thông qua các biện pháp đánh thuế, mở rộng hình thức công nhân có cổ phần trong doanh nghiệp, áp dụng chính sách tăng việc làm, hỗ trợ cho các nhóm người có thu nhập thấp bằng các biện pháp như ưu đãi thuế đối với các nhà kinh doanh, trả lương bổ sung cho công nhân căn cứ vào mức thu nhập thấp, trợ cấp nhà ở, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội. Các quan niệm về phân phối và yêu cầu thực hiện các chính sách như trên của trường phái này nhằm tạo sự ổn định xã hội - một trong hai mục tiêu chính mà họ đặt ra. b) Lý thuyết phân phối thu nhập của trường phái Chính hiện đại Trường phái chính hiện đại nghiên cứu vấn đề phân pgối thu nhập trên cơ sở quan điểm cơ chế thị trường có sự can thiệp của nhà nước. Người đứng đầu trường phái này là P. Samuelson, nhà kinh tế học người Mỹ. Theo ông, phân phối thu nhập là một phạm trù kinh tế đề cập đến vấn đề hàng hoá được sản xuất cho ai, định giá các yếu tố sản xuất qua cung-cầu như thế nào để quyết định mức thu nhập của mọi người? [31, tr. 63]. Những quyết định lớn về phân phối thu nhập "được làm ra tại thị trường". Hoạt động của thị trường có thể dẫn nền kinh tế đến sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đạt được sản lượng tối đa, nhưng nó không nhất thiết phân phối sản lượng đó có thể chấp nhận được. Bởi vậy, nhà nước cần phải can thiệp vào phân phối thu nhập thông qua các chính sách phân phối lại [31, tr. 61]. Trên quan điểm đó, họ nêu nguyên tắc phân phối trong cơ chế thị trường có sự can thiệp của nhà nước. - Nguyên tắc phân phối thu nhập trong cơ chế thị trường: Theo họ, phân phối thu nhập được quyết định bởi các quan hệ cung và cầu trên thị trường. "Chìa khoá" để hiểu nguyên tắc phân phối này là lý thuyết "hàm sản xuất". P. Samuelson cho rằng, "Hàng hoá đước sản xuất ra cho ai được xác định bởi mối quan hệ cung-cầu ở thị trường yếu tố sản xuất. Những thị trường này xác định mức lương, tiền thuê đất, lãi suất và lợi nhuận, những thứ này đi vào thu nhập của mọi người. Như vậy, phân phối thu nhập trong nhân dân được xác định bởi số lượng các nhân tố có được (giờ công, mẫu đất, vv...) và giá của các nhân tố đó (mức lương, tiền thuê đất...)'' [31, tr.54]. Họ dựa vào lý thuyết sản phẩm tăng thêm trên hạn mức (sản phẩm doanh thu cận biên) để giải thích sự biến đổi của các loại thu nhập. Theo lý thuyết này, sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động là sản lượng có thêm khi ta bổ sung thêm 1 đơn vị lao động và giữ nguyên các yếu tố đầu vào khác. Sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của đất đai là sự thay đổi tổng sản phẩm có được nhờ bổ sung thêm 1 đơn vị đất đai, trong khi các nhân tố khác không đổi, vv... Qui luật vận động của sản phẩm tăng thêm trên hạn mức là ngày càng giảm. Phân phối thu nhập do được giải quyết trên cơ sở sản phẩm tăng thêm trên hạn mức, nên cũng vận động theo qui luật thu nhập giảm dần. Tương tự như vậy, nếu giữ nguyên số lao động mà chỉ biến đổi một yếu tố đầu vào khác, chẳng hạn là đất đai, thì số sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của mỗi đơn vị diện tích đất kế tiếp sẽ giảm xuống, làm cho tiền thuê đất giảm xuống... Từ quan điểm đó, các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại cho rằng tại mức xác định giao điểm của mỗi lượng cầu với mức cung của một yếu tố sản xuất, sẽ có: Tiền công bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của lao động. Tiền thuê đất bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của đất đai. Lãi suất bằng sản phẩm tăng thêm trên hạn mức của tư bản Và tiếp như vậy cho bất kì yếu tố sản xuất nào. + Tiền công và tiền lương: Theo các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại, thị trường lao động cũng giống như các thị trường khác. Tiền công cân bằng có tính cạnh tranh được xác định tại giao điểm của mức cung và mức cầu về lao động (điểm E trên đồ thị 1). Nếu mức tiền công thấp hơn E thì sẽ xảy ra thiếu lao động và chủ doanh nghiệp sẽ phải tăng tiền công tới mức E để khôi phục lại sự cân bằng. Trên đồ thị, Sl là cung về lao động; Dl là cầu về lao động, E là điểm cân bằng giữa cung và cầu lao động trên thị trường, tại đây xác định số lượng lao động cần sử dụng và mức tiền công cân bằng (tiền công thị trường). Đồ thị 1: Mức tiền công tương đối trên thị trường lao động D1 S1 Tiền công (W) Wo E Lo Lao động (L) Các nhà kinh tế học trường phái chính hiện đại quan tâm đến tiền công thực tế, tức là đến những thứ mua được với số tiền công đó, chứ không phải chỉ quan tâm đến số tiền (mà chúng ta gọi là tiền công danh nghĩa). Theo họ, tiền công thực tế (Wr) thể hiện chỉ số mức lương thực tế tính bằng tiền (Wn) chia cho chỉ số về mức giá chung (P) như chỉ số về giá hàng tiêu dùng CPI. Wr = Wn / P Theo họ, mức tiền công thực tế khác nhau giữa các vùng, hoặc ở các thời kì khác nhau, trước hết là do hoạt động của mức cung-cầu về lao động, tiếp đến là do sự biến đổi của các yếu tố đầu vào khác cùng hoạt động như tư bản (vốn), tài nguyên và trình độ kĩ thuật. Mức tiền công của các lao động khác nhau do chất lượng đầu vào lao động như trình độ tay nghề, đào tạo, học vấn và giáo dục quy định. Chẳng hạn, nếu hạn chế mức cung bất cứ lao động nào so với sự gia tăng các yếu tố sản xuất khác thì nhất định mức tiền công sẽ tăng lên. Còn với các điều kiện khác như nhau, việc tăng cung về lao động sẽ nảy sinh xu hướng giảm tiền công. Giữa nhũng người lao động khác nhau cũng có mức tiền công khác nhau. Chẳng hạn, người làm nghề lau cửa sổ nhà cao tầng cần dược trả tiền công cao hơn người làm nghề gác cổng vì người ta không thích nguy hiểm khi trèo lên các nhà trọc trời. Nghĩa là sự chênh lệch tiền công giữa các nhóm là cần thiết để lôi kéo lao động vào các nghề "kém hấp dẫn" hoặc "không thích thú". Họ gọi đó là "sự chênh lệch có tính chất bù trừ". Sự khác nhau về chất lượng lao động là một yếu tố làm cho mức tiền công khác nhau giữa những lao động. Nếu một người đầu tư nhiều thời gian và tiền của vào việc học tập để có một nghề chuyên sâu thì anh ta sẽ làm việc có năng suất và hiệu quả cao hơn. Do đó, sẽ thu được mức tiền công nhiều hơn so với một người không có sự "hi sinh" như vậy. Trong các nghề khác nhau, mặc dù không có cạnh tranh, nhưng do mức cung và cầu về lao động không giống nhau, người lao động không thể dễ dàng chuyển từ nghề này sang nghề khác (vì rất khó khăn, rất tốn kém về thời gian và tiền của cho việc đào tạo), nên mức tiền công cũng rất khác nhau. Ngoài ra, một số người có thiên hướng đặc biệt (danh thủ bóng đá, nghệ sĩ tài ba, bác học...) cũng có mức thu nhập rất cao. Tuy nhiên, theo họ, sự chênh lệch về mức tiền công giữa những người và các nhóm lao động không phải là hoàn toàn cố định. Trong quá trình vận động của cuộc sống, con người có xu hướng chuyển sang các ngành nghề, công việc được trả tiền công cao và bỏ những nghề tiền công thấp hơn, làm cho mức tiền công có xu hướng tụ hội lại. + Tiền thuê đất và các tài nguyên khác: Tiền thuê đất và các tài nguyên khác là khoản thu nhập mà người chủ của nó phân phối được từ sản phẩm xã hội thông qua việc cung ứng đất đai và các tài nguyên khác vào sản xuất kinh doanh với tư cách là yếu tố đầu vào. Khác với các yếu tố đầu vào khác, mức cung về đất đai và các tài nguyên khác được cố định bởi tự nhiên và không thể tăng lên để đáp ứng với giá đất cao hơn, hay giảm đi để đáp ứng với giá đất thấp hơn. Mức tiền thuê đất và các tài nguyên khác được xác định trên thị trường cạnh tranh, do quan hệ cung - cầu về đất đai và các tài nguyên khác quy định. Nếu tiền thuê đất tăng lên cao hơn giá cân bằng thì lượng đất đai mà các doanh nghiệp có nhu cầu sẽ ít hơn lượng đất đai cần có để cung cấp. Điều này sẽ làm cho một số chủ đất không thể nào cho thuê được khu đất của mình. Họ buộc phải giảm giá thuê đất xuống. Ngược lại, tiền thuê đất cũng không ở lâu dưới điểm cân bằng. Do cạnh tranh về thuê đất giữa các chủ doanh nghiệp mà tiền thuê đất tăng lên. Tiền thuê đất và các tài nguyên khác là một chi phí sản xuất. Do đó, giá cả của đất được quyết định bởi giá cả sản phẩm thu được trên khu đất đó. Tức là giá cả hàng hoá quyết định giá thuê đất chứ không phải giá thuê đất quyết định giá cả hàng hoá. + Lợi tức và lãi suất: Lợi tức và lãi suất là thu nhập của những người cung cấp yếu tố đầu vào của sản xuất bao gồm vốn và tài sản tài chính. Mức lợi tức là thu nhập ròng mà người chủ sở hữu nhận được về việc cho thuê nguồn vốn của mình. Đó là một con số thuần tuý - phần trăm hàng năm hoặc tính theo đơn vị thời gian. Chẳng hạn, một người có một xe tải trị giá 20000 đôla. Sau khi trả hết chi phí (tiền bảo quản, bảo hiểm...), số còn lại mà người đó thu được là 2000 đôla trong một năm. Khoản tiền thu được đó chính là thu nhập ròng hay mức lợi tức của vốn thu được trong năm đó. Đối với những người có tài sản tài chính, việc chuyển tiền cho người đầu tư bằng cách cho vay hoặc đi mua trái phiếu và chứng khoán, gửi tiền vào quỹ tiết kiệm, quỹ hưu trí... để cuối cùng chuyển đến những doanh nghiệp và những người thực sự đầu tư, sẽ thu được lãi suất. Lãi suất là giá của một ngân hàng, hoặc một người đi vay khác phải trả cho người cho vay để được sử dụng tiền trong một thời gian. Tiền lãi có nhiều hình thức: lãi suất dài hạn và ngắn hạn, tuỳ theo thời gian cho vay; lãi suất cố định và lãi suất thay đổi, lãi suất trái phiếu bảo đảm cao và lãi suất "chứng khoán mong manh" của các công ty sắp đổ vỡ... Mức lợi tức và lãi suất cũng được xác lập bởi cạnh tranh và tình hình cung-cầu về vốn và tài sản tài chính trên thị trường. + Lợi nhuận: Theo các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại, lợi nhuận là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp (hay là của một nền kinh tế) với tổng số chi phí (tiền công, tiền lương, tiền thuê đất, nhà cửa, nguyên vật liệu, lãi suất, thuế hàng hoá và các thứ khác). Có nhiều nhân tố quyết định lợi nhuận: 1)Thu nhập của chủ doanh nghiệp về lao động của chính họ hoặc vốn đầu tư của chính họ, tức là cácyếu tố sản xuất mà họ tự cung cấp; 2) Lợi nhuận là khoản tiền thưởng cho chủ do._.anh nghiệp do việc chịu mạo hiểm, rủi ro trước nhiều nguy cơ kinh doanh hoặc do sáng tạo, đổi mới sản phẩm; 3) Độc quyền: thông qua hạn chế mức cung và quy định giá cả, người độc quyền có được một khoản tiền lời gọi là thu nhập độc quyền. Đó là thu nhập dôi ra của một người có sức mạnh trên thị trường. Như vậy, tiền công, tiền lương, tiền thuê đất, tiền lãi và lợi nhuận là các khoản thu nhập của các giai cấp, tầng lớp trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Các thu nhập này đều có nguồn gốc từ thu nhập quốc dân. Cơ chế (nguyên tắc) phân phối thu nhập được thực hiện thông qua thị trường dưới tác động của các quy luật cạnh tranh, cung- cầu... Tuy nhiên, trong khi đề cao vai trò của thị trường đối với phân phối thu nhập quốc dân, các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại còn chỉ ra những thất bại của thị trường. Theo họ, cơ chế thị trường có khả năng giải quyết các vấn đề cái gì và như thế nào - những vấn đề phân bổ tài nguyên giữa các ngành và việc lựa chọn kĩ thuật tốt nhất để sản xuất ra những hàng hoá cụ thể. Nhưng thị trường không có khả năng đặc biệt để tìm ra giải pháp tốt nhất đối với vấn đề cho ai. Một nền kinh tế hiệu quả nhất trên thế giới, vẫn có thể tạo ra sự bất bình đẳng lớn về phân phối thu nhập [31, Tr 259]. Đó là biểu hiện sự thất bại và sự phân phối tuỳ tiện của thị trường [31, Tr 396]. - Sự can thiệp của nhà nước vào phân phối thu nhập: Các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại quan tâm đến sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập. Theo họ, nguồn gốc của sự bất bình đẳng này là do sự khác nhau về năng lực lao động, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn kĩ thuật, tính chuyên cần chịu khó, và nhất là nguồn tài sản do thừa kế, sáng chế, kinh doanh mà mỗi người có được. Do thị trường là một cơ chế điều tiết không biết đến phạm trù đạo đức và nhân đạo, nên nếu cứ để mặc sự khác nhau giữa mọi người về lao động và tài sản do cơ chế này tự điều tiết thì không thể tránh khỏi sự bất bình đẳng lớn về thu nhập. Bởi vậy, cần phải có sự can thiệp của nhà nước vào phân phối thu nhập. Mục đích của sự can thiệp này nhằm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về thu nhập. Muốn vậy, nhà nước phải thiết lập các chương trình tác động đến việc phân phối thu nhập. Thông qua phân phối lại, nhà nước có thể dành một phần thu nhập để đảm bảo mức sống tối thiểu về y tế, dinh dưỡng và thu nhập nhằm nâng cao mức sống của người nghèo. Nhà nước phải tiến hành phân phối lại bằng cách phân bổ gánh nặng thuế khoá giữa những nhóm thu nhập hay giai cấp khác nhau. Công cụ để nhà nước thực hiện phân phối lại thu nhập là thuế luỹ tiến và hỗ trợ thu nhập. Thuế luỹ tiến là mức thuế đánh vào người giàu có tỉ lệ thu nhập lớn hơn người nghèo. Loại thuế này có tính chất phân phối lại thu nhập, chuyển khả năng tiêu dùng của người giàu sang người nghèo. Hệ thống hỗ trợ thu nhập bao gồm giúp đỡ phúc lợi, trợ cấp y tế, bảo hiểm xã hội, giúp đỡ năng lượng, tem phiếu lương thực, thuế thu nhập âm (thực chất là một giải pháp hỗ trợ thu nhập cho người nghèo bằng tiền mặt). Hệ thống này nhằm giúp người già, người tàn tật, người phải nuôi con, bảo hiểm thất nghiệp cho những người không có việc làm. Mục tiêu của hệ thống hỗ trợ thu nhập này tạo ra một mạng lưới an toàn bảo vệ những người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế. Song, các nhà kinh tế trường phái chính hiện đại cho rằng việc phân phối lại có thể làm giảm khoảng cách bất bình đẳng trong xã hội, nhưng cũng phải trả giá cho tình trạng không hiệu quả. Nếu chính phủ áp dụng mức thuế luỹ tiến cao thì cố gắng của người đóng thuế giảm xuống, làm giảm tổng thu nhập quốc dân thực tế. Từ đó, họ nêu quan điểm về mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả. Nếu giảm bớt tình trạng bất bình đẳng là một điều tốt về đạo lí thì nó cũng được người ta trả một giá nào đó làm tổn hại một mục tiêu kinh tế khác là hiệu quả. Sự phân phối lại " tối ưu theo Pareto" và nguyên lý " Hàm phúc lợi xã hội" của Bergson và Samuelson Theo nguyên lý phân phối tối ưu Pareto, nếu sự thay đổi của một chính sách phân phối nào đó dẫn đến hoàn cảnh sống của một số người trở nên tốt hơn, đồng thời không làm cho hoàn cảnh sống của một số người khác trở nên xấu đi, thì sự thay đổi này gọi là phân phối "tối ưu Pareto". Kết luận cuối cùng mà Pareto muốn rút ra là muốn làm tăng thu nhập của tầng lớp nghèo khổ, thì biện pháp duy nhất là nâng cao thu nhập quốc dân, việc phân phối lại là vô ích. Theo nhiều nhà kinh tế quan điểm đó quá chặt chẽ đối với vấn đề công bằng về phân phối, vả lại, miễn là có thể làm tăng thu nhập quốc dân mà không làm giảm bớt phần của người nghèo trong thu nhập quốc dân cũng được coi là "tối ưu Pareto". Trước Sanuelson, Pigou - người sáng lập ra hệ thống kinh tế học phúc lợi - trong tác phẩm "Kinh tế học phúc lợi" đã trình bầy vấn đề làm thế nào để tăng phúc lợi xã hội. Theo Pigou, tổng thu nhập quốc dân càng lớn thì phúc lợi càng lớn, bất cứ một sự vật nào, nếu có thể làm tăng thu nhập quốc dân mà không làm tổn hại đến số lượng thu nhập tuyệt đối của người nghèo, hoặc tăng thêm số lượng thu nhập tuyệt đối của người nghèo mà không ảnh hưởng đến thu nhập quốc dân đều sẽ làm tăng phúc lợi kinh tế". Lý luận của Pigou không vạch rõ được quan hệ nội tại giữa hiệu quả và công bằng trong phân phối. Bergson và Samuelson đã nêu lên " Hàm số phúc lợi xã hội ". Họ cho rằng hiệu quả kinh tế là điều " cần", còn phân phối hợp lý là điều kiện " đủ" của lợi ích tối đa. Chỉ có đồng thời đưa các nhân tố về phân phối và các nhân tố chi phối khác vào trong một hàm phúc lợi xã hội và chỉ khi giá trị của hàm này lớn nhất thì mới đạt được tối ưu thế hoá phúc lợi xã hội. Công thức hàm phúc lợi xã hội của họ là W = F (Z1, Z2,.......Zn) trong đó W biểu thị phúc lợi xã hội, F biểu thị hàm số, Z1, Z2,.......Zn. Là các nhân tố ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội như lượng hàng mà cá nhân tiêu dùng, số lượng các loại lao động, số lượng vốn được đưa vào,...Chúng có những tổ hợp khác nhau, nhưng khi giá trị của W đạt tối đa thì phúc lợi xã hội sẽ tối đa. Sự tự do lựa chọn của cá nhân là điều kiện quan trọng trong quyết định tối đa hoá phúc lợi của cá nhân. Vì thế để làm cho phúc lợi xã hội đạt tối đa, thì chính phủ phải đảm bảo cho sự tự do lựa chọn của cá nhân mà không nên hạn chế nó. Như vậy, kinh tế học trường phái chính hiện đại đã nêu quan niệm phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường, đã thấy mục đích của sản suất là để tiêu dùng, phân phối thu nhập là cách thức để phân bổ kết quả sản xuất cho tiêu dùng của các tầng lớp, giai cấp trong xã hội. Họ đã chỉ ra nguồn để phân phối là sản lượng do nền kinh tế sáng tạo ra, được tiền tệ hoá thành thu nhập quốc dân và phụ thuộc vào thực tế sản xuất của mỗi nước ở mỗi thời điểm. Thị trường là cơ chế phân bổ công bằng và có hiệu quả nhất thu nhập quốc dân. Nguyên tắc của phân phối thu nhập là dựa trên sự đóng góp của các yếu tố đầu vào của sản xuất và năng lực kinh doanh của chủ doanh nghiệp thông qua cơ chế thị trường. Họ đã gợi ý một nguyên tắc phân phối thu nhập có hiệu quả phải dựa trên cơ chế tự điều tiết của thị trường. Đồng thời chỉ ra tính cấp thiết phải có sự can thiệp của nhà nước vào phân phối để giảm bớt tình trạng bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội, trợ giúp người nghèo. Lí luận phân phối của trường phái chính hiện đại đã là một bước tiến so với lý luận phân phối của các nhà kinh tế thuộc trường phái trước đó. Họ đã đặt quan hệ phân phối công bằng với hiệu quả, đã chú ý đến tính hợp lí của thu nhập xã hội trên nguyên tắc kiên trì ưu tiên có hiệu quả. Có thể nói từ lý thuyết kinh tế học phúc lợi của Pigou đến sự phân phối tối ưu Pareto và nguyên lý " Hàm số phúc lợi xã hội " của Bergson và Samunelson là một bước tiến dài hướng đến "tính hợp lý" của công bằng và hiệu quả trong phân phối thu nhập của xã hội TBCN. Tuy vậy, cho đến nay giữa hai mục tiêu công bằng và hiệu quả trong phân phối thu nhập của xã hội TBCN vẫn tồn tại những mâu thuẫn vốn có, cho dù các nhà kinh tế học đã tìm cách làm thế nào để định được một sự phân phối tối ưu trên lý luận. 1.1.3. Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phân phối thu nhập a) Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: Sau khi được giải phóng (năm 1954), miền Bắc nước ta bước vào khôi phục và phát triển kinh tế. Công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế không chỉ nhằm tạo cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH ở miền Bắc, mà còn nhằm tạo cơ sở để đấu tranh thống nhất nước nhà. Để lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi công cuộc cách mạng này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài nói và viết rất quan trọng, trong đó Người rất quan tâm đến vấn đề phân phối thu nhập. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói (tháng 6/1955), chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay đến mấy cũng không thực hiện được. Tham ô, lãng phí là có tội, mà tham ô lãng phí gạo cứu đói tội lại càng lớn hơn; không khác gì gián điệp hại đồng bào đó. Thế là có tội với Đảng và Chính phủ, đối với nhân dân và đối với nước bạn. Đó là tội thật to. Các cấp uỷ Đảng cùng với cán bộ tìm cho ra gốc rễ tham ô, lãng phí và xử trí đúng mức" [16, tr. 572]. Xây dựng CNXH từ một nước nghèo, nông nghiệp lạc hậu, đó là một đặc điểm "to nhất" của ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức rằng đảm bảo ăn no cho nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng nhất. Nó bắt nguồn từ đòi hỏi bức thiết của người dân. Bởi thế, Người nhắc nhở phải đẩy mạnh sản xuất. Người nói: "Đời sống ví như con thuyền. Sản xuất ví như nước. Mực nước lên cao, thì con thuyền càng nổi lên cao" [17, tr.141]. Cho nên, "các cấp bộ Đảng cần phải thấy hết khả năng của địa phương, nhận rõ trách nhiệm đối với đời sống nhân dân... để cố gắng hơn nữa trong phát triển kinh tế" [19, tr.451]. Phát triển sản xuất là điều kiện để nâng cao đời sống nhân dân. Phải ra sức sản xuất và thực hành tiết kiệm. Nhưng, phải phân phối cho công bằng hợp lý. Trong bài phát biểu tại Hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc (tháng 11/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: muốn "sản xuất được nhiều, phải chú ý phân phối cho công bằng, cán bộ phải chí công vô tư, thậm chí có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt thòi một phần nào. Chớ nên cái gì tốt thì dành cho mình, xấu để cho người khác" [18, tr.537]. Tư tưởng phân phối phải công bằng được Chủ tịch Hồ Chi Minh rất quan tâm và luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên, những người có chức có quyền phải chăm lo thực hiện. Người viết: "Hết sức chăm lo đời sống nhân dân. Phải ra sức sản xuất và thực hành tiết kiệm, lại phải phân phối cho công bằng hợp lý, từng bước cải thiện việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khoẻ và giải trí của nhân dân. Đặc biệt chú trọng các vùng bị chiến tranh tàn phá, các cháu mồ côi, các cụ già yếu và gia đình các liệt sỹ, thương binh, bộ đội, thanh niên xung phong" [21, tr.482]. ở đây, tư tưởng phân phối công bằng hợp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh được gắn liền với yêu cầu phải làm tốt chính sách bảo đảm xã hội. Đứng trên tư tưởng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê bình những việc làm sai trái của các cấp chính quyền và của cá nhân một số cán bộ đảng viên. Trong bài nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo Tổng công đoàn Việt Nam (tháng 7/1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Quần chúng rất thông cảm với hoàn cảnh thiếu hàng, quần chúng chỉ phàn nàn việc phân phối không công bằng. Vẫn còn một số cán bộ lạm dụng chức quyền, quan liêu, xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm trước quần chúng... làm cho đời sống quần chúng thêm khó khăn" [21, tr.567]. Người đề nghị phải làm tốt công tác lưu thông phân phối. "Có khi vật tư, hàng hoá thiếu, mà phân phối không đúng, thì gây ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn luôn nhớ: - Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; - Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên" [21, 185]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu nguyên tắc phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Trong thư gửi Đại hội hợp tác xã và đội sản xuất nông nghiệp tiên tiến vùng đồng bằng miền Bắc (tháng 1/1964), Người đề nghị phải "làm đúng nguyên tắc phân phối theo lao động" [20, tr.197]. Người giải thích: "Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít. Lao động khó thì được phân phối nhiều, lao động dễ thì được phân phối ít. Không nên có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ, cũng công điểm như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân" [19, tr.410]. Bằng những bài nói và viết xuất phát từ nhu cầu thực tiễn (chứ không phải là những tác phẩm có tính thuần tuý lý luận), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những quan điểm, tư tưởng cơ bản về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Những quan điểm và tư tưởng đó mang đậm tính nhân văn. Nó đựợc phát ra từ một con người mà suốt cuộc đời tận tuỵ với hào bão cao cả làm sao cho mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, tiến bộ. b) Quan điểm của Đảng ta về phân phối thu nhập: Từ khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH đến nay, Đảng ta luôn nhận thức rằng phân phối thu nhập là một nội dung quan trọng trong chính sách kinh tế-xã hội của đất nước, liên quan trực tiếp đến cuộc sống của hàng chục triệu con người, đến động lực phát triển kinh tế, đến ổn định chính trị-xã hội và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế nhằm trở lại với những tư tưởng đích thực của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN phải trên cơ sở sự đóng góp thực tế của mỗi người về lao động, tài năng, vốn, tài sản...vào sản xuất kinh doanh. Để thực hiên phân phối công bằng, cần phải: + Có sự bình đẳng giữa người góp vốn với người góp sức lao động trong phân chia kết quả sản xuất; + Sự bình đẳng giữa những người góp vốn được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai góp nhiều được phân chia nhiều, ai góp ít được phân chia ít; + Sự bình đẳng giữa những người lao động được phân phối kết quả sản xuất theo nguyên tắc ai làm nhiều, làm tốt được hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai làm hỏng phải chịu phạt, mọi người có sức lao động phải lao động. Ngoài ra, xã hội phải điều tiết thu nhập cá nhân giữa những người có thu nhập cao thấp khác nhau do đóng góp sức lao động và các nguồn lực khác vào sản xuất khác nhau, nhằm đảm bảo công bằng xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định: "Việc thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động đòi hỏi phải sửa đổi một cách căn bản chế độ tiền lương theo hướng đảm bảo yêu cầu tái sản xuất sức lao động, khắc phục tính chất bình quân...áp dụng các hình thức trả lương gắn chặt với kết quả lao động và hiệu quả kinh tế". Phải thực hiện phân phối một cách công bằng "ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình" [22, tr.113]. Với quan điểm này, phân phối công bằng trước hết phải được thực hiện ở việc phân phối hợp lý tư liệu sản xuất. Các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội như tài nguyên, đất đai... thuộc quyền sở hữu của nhà nước phải được phân phối, sử dụng hợp lý trên cơ sở phân biệt rõ quyền sở hữu và quyền sử dụng chúng. Trong phân phối kết quả sản xuất, phải "thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác nhau vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua quỹ phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo vệ quyền lợi của người lao động" [22, tr.113]. Quan điểm phân phối trên được bắt nguồn từ mục đích tối cao của Đảng là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nó thể hiện đặc trưng của quan hệ phân phối trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lấy phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần kinh tế làm phương tiện. Đây là quan điểm mới về phân phối thu nhập trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Việc thực hiện quan điểm đó sẽ tạo động lực cho việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội vào sự nghiệp phát triển đất nước. 1.2. Những nhân tố quy định phân phối và các nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN 1.2.1. Những nhân tố quy định phân phối thu nhập Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội và là một mặt của quan hệ sản xuất, nêu sự vận động của nó chịu sự ràng buộc của nhiều nhân tố. Dưới đây là một số nhân tố chủ yếu quy định phân phối thu nhập. a. Sự phát triển của lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là toàn bộ năng lực sản xuất của xã hội ở một thời kỳ nhất định. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nói lên trình độ con người chinh phục, cải tạo tự nhiên và từ đó làm ra sản phẩm vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình. Lực lượng sản xuất ảnh hưởng đến tính chất của phân phối, phạm vi phân phối, hình thức biểu hiện của đối tượng được đem ra phân phối. Trong xã hội cộng xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất hết sức thấp kém, chỉ có dựa vào lao động tập thể mới tiến hành sản xuất được, lao động mang lại hiệu quả rất thấp, không có sản phẩm dư thừa để tích luỹ, vì thế, trong xã hội công xã nguyên thuỷ, sản phẩm lao động được phân phối bình quân và dưới hình thức hiện vật. Nguyên tắc phân phối này là rất cần thiết vì sản phẩm làm ra quá ít ỏi. Chỉ có thể thoả mãn nhu cầu sinh tồn bức thiết nhất. Bất cứ một sự phân phối nào khác đều không thích hợp với trình độ của lực lượng sản xuất lúc bấy giờ. Khi lực lượng sản xuất được phát triển hơn, thì sản phẩm thặng dư suất hiện, nhưng chưa nhiều, đồng thời chế độ tư hữu suất hiện, nên phương thức phân phối chỉ có thể mang tính chất áp đặt, bóc lột, bất bình đẳng. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân phối lao động xã hội, quan hệ hàng hoá - toàn bộ được mở rộng đã đưa đến sự thay thế phân phối hiện vật bằng phân phối dưới hình thức giá trị (tiền tệ) là chủ yếu. Sự ra đời và phát triển của đại công nghiệp làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên mạnh mẽ, nên khối lượng sản phẩm sản xuất ra rất lớn, quan hệ phân phối mở rộng. Và cùng với quá trình phát triển của kinh tế thị trường, phân phối dưới hình thức giá trị ngày càng trở thành phổ biến và có thể thông qua sự đánh giá của thị trường để xác định phần được phân phối. Tính chất xã hội hoá sản xuất ngày càng cao cũng tất yếu đòi hỏi nhà nước phải điều tiết phân phối để thực hiện chức năng xã hội của mình. Như vậy, lực lượng sản xuất là nhân tố ảnh hưởng đến phân phối, điều đó thể hiện ở chỗ: một là, sự phát triển của lực lượng làm tăng khối lượng của cải vật chất đưa vào phân phối, trình độ của lực lượng sản xuất cũng cao, thì quy mô phân phối càng lớn; hai là, sự thay đổi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất dẫn đến sự thay đổi hình thức phân phối, khi lực lượng sản xuất thấp như trong các xã hội công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến thì phân phối được thực hiện dưới nhiều hình thức phân phối hiện vật, khi lực lượng của sản xuất phát triển cao thì phân phối được thực hiện dưới hình thức giá trị (tiền tệ), ba là, sự phát triển của lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định sự biến đổi của các phương thức phân phối xã hội: phương thức phân phối xã hội công xã nguyên thuỷ, xã hội nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản chủ nghĩa, xã hội XHCN. b. Chế độ sở hữu Giữa chế độ sở hữu và phân phối có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau. Như đã trình bày ở phần trên, quan hệ sở hữu là cơ sở của quan hệ phân phối, nó quyết định tính chất của quan hệ phân phối. Còn quan hệ phân phối là hình thức thực hiện của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Nhà tư bản là người sở hữu vốn và tư liệu sản xuất, dựa vào đó họ chiếm đoạt giá trị thặng dư. Nếu như gạt bỏ việc chiếm đoạt giá trị thặng dư của nhà tư bản, thì sự chiếm hữu tư liệu sản xuất của nhà tư bản chẳng có ý nghĩa gì. Nhìn vào lịch sử, ta thấy quan hệ giữa chế độ sở hữu và phân phối. Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, chế độ sở hữu là chế độ công hữu nguyên thuỷ, nên chế độ phân phối được thực hiện theo nguyên tắc ngang nhau (bình quân) và phân phối trực tiếp của công xã thị tộc. Trong xã hội phong kiến, chế độ sở hữu là chế độ sở hữu tư hữu ruộng đất của địa chủ, nên chế độ phân phối nửa tự cấp tự túc, nửa thị trường. Trong CNTB, chế độ sở hữu là sở hữu tư nhân TBCN, nên chế độ phân phối là phân phối theo giá trị các yếu tố đầu vào của sản xuất. Đối với người lao động thì theo giá trị sức lao động, còn đối với nhà tư bản thì theo giá trị của vốn mà anh ta ứng ra. C.Mác đã phân tích rõ quá trình phân phối trong CNTB: giá trị mới sáng tạo ra được phân thành tiền lương, lợi nhuận, lợi tức và địa tô. Sự phân phối ấy mang hình thức "trao đổi ngang giá" vì thế nó che lấp thực chất bóc lột của phân phối TBCN. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất từng bước được thiết lập dưới hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, nên ra đời chế độ phân phối theo lao động. Nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất và là đặc trưng của phân phối XHCN. Phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại, nhưng chế độ sở hữu lại quyết định quan hệ phân phối, vì thế, trong thời kỳ quá độ tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập. Đồng thời trong hoạt động kinh tế thực tế các hình thức sở hữu không tồn tại tách bạch mà có sự đan xen, xâm nhập vào nhau. Chẳng hạn, một Xí nghiệp trong đó có vốn của nhà nước, của tập thể, của cá nhân thì không thể quy nó về một hình thức sở hữu nào đó, mà thuộc sở hữu hỗn hợp, vì thế tất yếu phải có sự dung nạp nhiều hình thức phân phối. Từ sự phân tích trên cho thấy, chế độ sở hữu có vai trò quyết định đối với phân phối, khi chế độ sở hữu thay đổi, thì các chế độ phân phối tương ứng với nó cũng thay đổi theo. Việc tách rời phân phối với chế độ sở hữu, giải thích, phân phối như thế là một thứ không dựa vào phương thức sản xuất là một quan điểm sai lầm. Tuy nhiên, không nên coi sở hữu là nhân tố duy nhất quyết định quan hệ và hình thức phân phối. c. Kiến trúc thượng tầng Toàn bộ các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội, trên cơ sở hạ tầng ấy thiết lập kiến trúc thượng tầng tương ứng gồm nhà nước, pháp quyền và các hình thái ý thức xã hội. Trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Và đến lượt nó kiến trúc thượng tầng cũng tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất thuộc cơ sở hạ tầng, vì thế, nó chịu sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng. ảnh hưởng to lớn của kiến trúc thượng tầng đối với phân phối thể hiện ở chỗ: Một là, Nhà nước sử dụng luật pháp để bảo vệ chế độ sở hữu và quan hệ phân phối tương ứng với chế độ sở hữu đó. Nhà nước tư sản sử dụng luật pháp để bảo vệ chế độ phân phối TBCN, còn nhà nước XHCN có nhiệm vụ xây dựng và từng bước hoàn thiện chế độ phân phối XHCN, nhà nước thiết lập đồng bộ hệ thống chính sách phân phối như chính sách tiền lương, chính sách việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách thuế.... và thực hiện điều tiết thu nhập. Hai là, hình thái ý thức có thể tác động thông qua việc chấp nhận hoặc phủ nhận, từ đó củng cố hoặc làm suy yếu quan hệ phân phối nào đó. Nếu cho rằng một phương thức phân phối nào đó là hợp lý, có thể chấp nhận được, thì phương thức phân phối đó sẽ được củng cố và phát triển. Ngược lại, nếu cho rằng phương thức phân phối nào đó là bất hợp lý, thì sẽ có những lực lượng xã hội đòi thay đổi phương thức phân phối hiện hành. 1.2.2. Những nguyên tắc phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN a. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng của phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hiệu quả là sự vận hành kinh tế nhằm bằng mọi khả năng thoả mãn nhu cầu của mọi người trong điều kiện ràng buộc về tài nguyên và kỹ thuật. Theo cách nói thông thường hiệu quả là đầu vào ít nhất mà thu được đầu ra lớn nhất. Công bằng về cơ bản là một khái niệm thuộc lĩnh vực hình thái ý thức, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như chính trị, đạo đức, tâm lý. Vấn đề là trong hiện thực người ta có quan điểm thật sự như thế nào về công bằng, bởi vì chỉ có quan niệm công bằng trong thực tế mới có tác dụng đối với hiệu quả sản xuất. Lý luận kinh tế phương Tây đã trình bày phân phối thu nhập TBCN và cho rằng giữa công bằng và hiệu quả tồn tại quan hệ thay thế, được cái này mất cái kia, và thường chọn hiệu quả là mục tiêu ưu tiên trong phân phối. Giáo sư Kuznets phân tích các mô hình tăng trưởng trong quá khứ của các nước phát triển đương thời, đã nói rằng trong những giai đoạn đầu của tăng trưởng kinh tế tình hình phân phối thu nhập thường xấu đi, nhưng nó sẽ tốt lên ở giai đoạn sau. Một số nhà lý luận lại tin rằng phân phối không công bằng là điều kiện cần thiết để tạo ra tăng trưởng nhanh. Họ lập luận rằng thu nhập cao của cá nhân và của công ty là điều kiện cần thiết để tiết kiệm, để có thể đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Trong khi người nghèo tiêu tất cả thu nhập của họ cho tiêu dùng, thì người giầu tiết kiệm và đầu tư một tỷ lệ đáng kể trong thu nhập của họ. Vì thế, một nền kinh tế có phân phối thu nhập rất không công bằng sẽ tiết kiệm được nhiều hơn và tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nền kinh tế có phân phối thu nhập công bằng. Lập luận trên là không đáng tin tưởng, không phải phân phối không công bằng là điều kiện của sự tăng trưởng, mà trái lại sự phân phối thu nhập công bằng trên thực thế là một điều kiện để tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ thu nhập thấp và mức sống thấp của phần lớn người dân sẽ làm cho tình trạng dinh dưỡng, sức khoẻ và giáo dục kém, do đó sẽ làm giảm năng suất lao động của họ, vì thế dẫn kinh tế phát triển chậm. Sự phân phối thu nhập công bằng có tác dụng như một hình thức kích thích vật chất và tâm lý đối với quần chúng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời tăng thu nhập cho người nghèo cũng sẽ tăng nhu cầu đối với các nhu yến phẩm, sự tăng lên của nhu cầu sẽ kích thích sản xuất, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Vì thế, phân phối thu nhập trong kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể theo quan điểm " được cái này mất cái kia" tức là muốn có tăng trưởng kinh tế cao thì phải hy sinh công bằng, mà phải đảm bảo sự thống nhất giữa công bằng và hiệu quả. Kinh tế thị trường TBCN nhằm phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, phát triển CNTB. Vì thế sự phát triển kinh tế thị trường TBCN và chế độ phân phối của nó dẫn đến phân hoá giầu nghèo và bất công xã hội ngày càng tăng. Trái lại, Việt nam xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là để phát triển lực lượng, xây dựng CNXH, thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Bản chất của CNXH không phải là đói nghèo, mà là một xã hội trong đó con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Để đạt được điều đó phải có một nền kinh tế phát triển cao và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất cùng với chế độ phân phối công bằng. Chế độ phân phối đó phải đảm bảo sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mục tiêu chung của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Nhưng điều đó lại tuỳ thuộc vào sự tăng trưởng của cải của xã hội, sự tăng trưởng của cải tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển xã hội. Nâng cao hiệu quả là biện pháp quan trọng để tăng của cải. Vì thế, trong kinh tế định hướng XHCN, nếu không chú ý tới hiệu quả, tách rời mục tiêu phát triển và tăng thêm của cải thì xã hội sẽ đình trệ, đất nước sẽ lạc hậu. Do đó tìm đủ mọi cách để nâng cao hiệu quả, tăng thêm của cải là yêu cầu khách quan của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhưng mục đích nâng cao hiệu quả, tăng thêm của cải không phải là để thoả mãn nhu cầu và sự hưởng lạc của một số ít người, mà là để thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của toàn thể nhân dân. Vì thế, đồng thời với việc nhấn mạnh mục tiêu hiệu quả, cần phải thực hiện phân phối thu nhập công bằng. Như vậy, sự vận động của kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng, không nên thiên lệch về phía nào. Sự thống nhất giữa hiệu quả và công bằng trong kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập. Hiệu quả và công bằng vừa không phải là mâu thuẫn tuyệt đối. Hiệu quả tạo ra điều kiện vật chất để thực hiện công bằng, chỉ có không ngừng nâng cao hiệu quả, tăng thêm của cải xã hội, thì phân phối công bằng mới có điều kiện thực hiện được. Nếu hiệu quả thấp, vật chất thiếu thốn, thì dù mọi người được chia những phần ngang nhau, nhưng tất cả chỉ là sự thiếu thốn. Cái gọi "công bằng" ấy chỉ là sự " bình quân" nghèo túng, tuyệt nhiên không phải là tiêu chuẩn công bằng của CNXH. Vì thế, chỉ có nâng cao hiệu quả, tăng trưởng của cải, thì công bằng mới theo đó mà phát triển. Ngược lại, công bằng kích thích hiệu quả. Con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, quyết định nhất, vì thế, việc nâng cao hiệu quả suy đến cùng phải dựa vào việc phát huy tính tích cực của người lao động. Nhưng tính tích cực của người lao động có được phát huy đầy đủ hay không lại tuỳ thuộc vào cảm nhận của họ đối với lợi ích kinh tế của bản thân, phân phối có công bằng hay không. Nếu phân phối trong kinh tế thị trường định hướng XHCN có thể làm cho đại đa số người lao động cảm thấy công bằng, thì sẽ khơi dậy tinh thần tích cực và sáng tạo của họ để nâng cao hiệu quả, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Như vậy, quan hệ giữa hiệu quả và công bằng không phải là quan hệ gạt bỏ và thay thế lẫn nhau, cái này tăng lên thì cái kia giảm đi một cách tuyệt đối. Trong kinh tế thị trường định hướng XHCN, chỉ cần chúng ta dày công phối hợp một cách nhịp nhàng tự giác thì có thể đạt được sự phối hợp tối ưu và thúc đẩy lẫn nhau giữa hiệu quả và công bằng. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tất yếu cũng sẽ hình thành khoảng cách thu nhập, nhưng khoảng._.hượng cổ phần, chuyển nhượng tài sản, thu nhập từ đầu tư vốn ra nước ngoài; chưa áp dụng chính sách thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh chứng khoán.... Thuế GTGT chưa điều chỉnh nhiều nhóm hàng hoá, dịch vụ. Hơn nữa, trong quá trình hoàn thiện chính sách thuế, nhà nước đã thực hiện chính sách hạ giá thuế suất và khuyến khích đầu tư bằng việc mở rộng diện miễn giảm thuế đã làm tốc độ tăng thu về thuế và phí giảm đi. Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp đã điều chỉnh từ 3 thuế suất: 25%, 35% và 45% xuống còn 1 thuế suất 32%, đồng thời thực hiện chính sách miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp có khó khăn. Vì thế mà số thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp bị giảm. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã thực hiện 2 lần điều chỉnh tăng mức khởi điểm chịu thuế, điều đó cũng có nghĩa là giảm bớt tỷ lệ điều tiết về thuế thu nhập cá nhân. Chính thực tế này đã làm giảm vai trò động viên thu nhập từ các tổ chức, đơn vị kinh tế và các cá nhân trong xã hội vào NSNN, từ đó ảnh hưởng đến vai trò phân phối lại thu nhập quốc dân thông qua các phúc lợi xã hội. - Hệ thống chính sách thuế vừa nhằm mục tiêu tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa là công cụ quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đồng thời phải thực hiện nhiều chính sách xã hội khác nhau, làm cho chính sách thuế phức tạp, chưa thực hiện được tính trung lập, bình đẳng và đơn giản của chính sách thuế. Số lượng thuế suất nhiều đã được tạo ra sự không bình đẳng trong kinh doanh giữa các ngành nghề và gây khó khăn cho công tác quản lý. Việc quy định các mức thuế suất khác nhau giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra mức chênh lệch quá lớn giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gây tâm lý kinh doanh không tốt và không khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung tuy đã huy động cho ngân sách hàng trăm tỷ đồng, nhưng mức huy động và cách tính có sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh là không phù hợp gây khó khăn cho công tác quản lý, là nguyên nhân gây thất thu cho NSNN. - Một số sắc thuế mức thuế suất cao do thu gộp nhiều sắc thuế.Tuy thực hiện được vai trò điều tiết thu nhập và động viên nguồn thu cho NSNN nhưng lại gây tâm lý thuế nặng và không phù hợp với xu hướng chung của các nước trong khu vực và thế giới. Đặc biệt là thuế tiêu thụ đặc biệt gồm 10 mức thuế suất từ 15% đến 100% trên giá bán chưa có thuế. Thuế suất cao do gộp cả xuất nhập khẩu. Thuế nhập khẩu đánh trên giá nhập khẩu cộng với thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, làm cho mức thuế tăng vọt. - Trong từng sắc thuế còn chứa đựng tính không ổn định, không công bằng, chưa thật sự bình đẳng các thành phần kinh tế. Thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy đã quy định 1 thuế suất 32%, nhưng chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài vẫn hưởng thuế suất ưu đãi 25% và phải nộp thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Như vậy, chưa thực hiện chính sách đối xử bình đẳng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao chỉ điều tiết thu nhập từ tiền lương, tiền công và các khoản thu nhập khác của cá nhân, không đề cập đến thu nhập của các cá nhân kinh doanh. Như vậy, chưa điều chỉnh thu nhập của nhiều đối tượng kinh doanh, làm cho số lượng đối tượng nộp thuế còn hạn hẹp. Do cá nhân kinh doanh là đối tượng điều tiết của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp nên thu nhập của họ sau khi trả các chi phí kinh doanh phải chịu mức thuế suất 32%, nhưng cá nhân không kinh doanh có thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân sau khi trừ mức khởi điểm chịu thuế 2 triệu đồng/ tháng thì phải nộp thuế theo biểu thuế luỹ tiến từng phần với mức thấp nhất là 10%, cao nhất là 60%. Sự phân biệt về đối tượng nộp giữa cá nhân kinh doanh và cá nhân không kinh doanh đã dẫn đến điều tiết không bình đẳng về nghĩa vụ thuế. Khởi điểm chịu thuế của người Việt Nam và người nước ngoài cũng quy định khác nhau đã tạo nên sự bất bình đẳng về điều hoà thu nhập. Mặt khác, khi quy định mức khởi điểm chịu thuế đã không tính đến hoàn cảnh kinh tế gia đình khác nhau đối với mỗi cá nhân. Mức khởi điểm chịu thuế chung như vậy sẽ không đảm bảo điều tiết hợp lý trong trường hợp các cá nhân có cùng mức thu nhập chịu thuế nhưng có người phải nuôi người ăn theo: vợ, con, bố, mẹ... có trường hợp không có người ăn theo. Vì vậy, cần thiết phải đưa về một biểu thuế với mức được miễn trừ khác nhau giữa người Việt Nam, người nước ngoài, người có nuôi người ăn theo... sẽ khắc phục những nhược điểm của mức khởi điểm chịu thuế bình quân. Hơn nữa, thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân còn phân biệt 2 loại thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên và ứng với nó là 2 biểu thuế khác nhau đã làm méo mó vai trò điều tiết thu nhập của sắc thuế này. - Hệ thống chính sách thuế còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa thể hiện tính bằng đẳng, công bằng, đồng thời mức độ điều tiết thu nhập còn quá lớn so với thế giới. Trong Biểu thuế luỹ tiến từng phần so với các nước trong khu vực thì thuế suất không chỉ cao mà độ chênh lệch về mức chịu thuế giữa các bậc, giữa bậc cao so với các nước trong khu vực. ở Thái Lan, mức chịu thuế thấp nhất 5% đối với thu nhập trên 100.000 Bạt, mức chịu thuế cao nhất 37% là thu nhập trên 4.000.000 Bạt. So sánh tỷ lệ là 40 lần (4 triệu/0,1 triệu), trong khi đó ở Việt Nam mức thuế suất thấp nhất là 10% đối với thu nhập trên 2 triệu đồng, mức cao nhất là 60% đối với thu nhập trên 10 triệu đồng. So sánh tỷ lệ chênh lệch 5 lần (10 tr/2tr). Tương tự như vậy, ở Philipin 10 lần, Singapore 11 lần. Như vậy, qua cải cách thuế bước I, bước II, Việt Nam đã hình thành một hệ thống chính sách thuế, đảm bảo nhiệm vụ động viên và động viên một cách công bằng đối với mọi tầng lớp dân cư, mọi tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên quá trình phát triển đến nay hệ thống chính sách thuế, cũng như từng sắc thuế vẫn bộc lộ những bất hợp lý, thiếu công bằng. Để động viên công bằng tốt hơn đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục cải cách chính sách thuế, cũng như tạo các điều kiện thực hiện tốt từng sắc thuế. 2.1.3. Thực trạng một số chính sách xã hội Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, các chính sách xã hội cũng được đổi mới, điều chỉnh, sửa đổi liên tục theo hướng huy động mọi lực lượng trong xã hội bao gồm nhà nước, cộng đồng và người dân cùng thực hiện chính sách xã hội. Tuy nhiên, nhà nước vẫn giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách xã hội. Nhà nước bảo đảm khoản chi tương đối lớn cho lĩnh vực xã hội, cho đảm bảo xã hội. Việc coi trọng chính sách xã hội đã có tác dụng quyết định đến việc cải thiện đời sống nhân dân, đặc biệt của tầng lớp xã hội có mức sống thấp. Chính sách xã hội của Việt Nam là một hệ thống các chính sách liên quan đến lĩnh vực xã hội, có phạm vi tác động toàn diện, tới mọi đối tượng trong xã hội. Dưới đây nghiên cứu thực trạng một số chính sách xã hội ở nước ta hiện nay. * Chính sách giải quyết việc làm Việt Nam là nước có dân số đông và trẻ, nền kinh tế còn kém phát triển, vì vậy, vấn đề thất nghiệp ở thành thị (đầu thập kỷ 90 gần 10%) và thiếu việc làm ở nông thôn (30 - 36%) là hết sức trầm trọng. Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Chính phủ thông qua chương trình quốc gia về việc làm với 3 hướng cơ bản: * Phát triển kinh tế tạo nhiều chỗ làm việc * Cố gắng giữ chỗ làm việc đã có (chống sa thải hàng loạt) * Hỗ trợ cho người muốn tìm kiếm việc làm. Chương trình này được cụ thể hoá bằng Nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Chương trình quốc gia về việc làm được thực hiện trên phạm vi cả nước trên cơ sở thành lập Quỹ quốc gia về việc làm bằng cách huy động các nguồn vốn của nhà nước, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và dân cứ cho vay lãi với lãi suất thấp đối với các đối tượng có dự án tạo việc làm, hỗ trợ phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm. Nhờ đó, một mặt, nhà nước huy động vốn của dân để đầu tư, mặt khác, tạo việc làm nhằm ổn định cuộc sống cho người lao động và cho xã hội. - Nghị định số 72/CP ngày 31/10/1995 của Chính phủ quy định chi tiết về hướng dẫn thi hành một số Điều của Bộ luật lao động về việc làm. Nghị định đã nói rõ nguồn thành lập Quỹ quốc gia về việc làm và quỹ đó được sử dụng vào các mục đích nào. Thông tư liên tịch số 13/1999 TTLT - BLĐTBXH - BTC - BKHĐT ngày 08/5/1999 của Bộ lao động - thương binh và xã hội - Bộ tài chính - Bộ kế hoạch và đầu tư này nói rõ đối tượng được vay, mức vốn vay, lãi suất cho vay thu hồi và sử dụng vốn thu hồi gia hạn nợ, cho vay, xử lý các dự án nợ quá hạn. Về mức vốn vay, đối với mỗi hộ gia đình, mức vay tối đa không quá 10 triệu đồng, ít nhất phải tạo ra một chỗ làm việc mới hoặc tăng thêm thời gian làm việc tương ứng với một lao động. Đối với dự án của cơ sở sản xuất kinh doanh, mức vay tối đa không quá 300 triệu đồng và không quá 10 triệu đồng trên một chỗ làm việc mới. Về thời hạn cho vay, thời hạn cho vay 12 tháng đối với chăn nuôi tiểu gia súc, gia cầm, nuôi thuỷ hải sản, trồng cây lương thực, hoa màu; thời hạn cho vay 24 tháng đối với chăn nuôi đại gia súc lấy thịt, con đặc sản, trồng cây công nghiệp ngắn ngày, sản xuất tiểu thủ công nghiệp; thời hạn cho vay 36 tháng đối với mua sắm thiết bị, chăn nuôi đại gia súc để sinh sản, lấy sữa, trồng cây ăn quả lâu năm, trồng cây công nghiệp dài ngày. Thông tư liên tịch số 08/1999 TTLT/ BLĐTBXH - BTC - BKHĐT ngày 15/3/1999 của Bộ lao động thương binh và xã hội - Bộ tài chính - Bộ kế hoạch và đầu tư hướng dẫn giải quyết các dự án vay vốn đã từ Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm bị rủi ro. Thông tư này nói rõ đối tượng và các trường hợp được xem xét giảm, miễn lãi, khoanh nợ hoặc xoá nợ. Cùng với Bộ luật lao động, những Nghị định và thông tư trên đã tạo ra cơ sở pháp lý cho quan hệ lao động trong cơ chế thị trường, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, tạo việc làm. Nhà nước thực hiện cho vay vốn ưu đãi về lãi suất, không phải thế chấp, đối với các dự án nhỏ tạo việc làm, hình thành và phát triển hệ thống các trung tâm dịch vụ việc làm và các cơ sở dạy nghề, có chủ trương chính sách và cơ chế nhằm phát triển xuất khẩu lao động và chuyên gia... Nhờ chính sách đúng đắn và sự tham gia tích cực của các tổ chức và nhân dân, nên việc giải quyết việc làm đã có chuyển biến tích cực. - Nhà nước, các ngành, các cấp và các tổ chức đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn đầu tư, trong giai đoạn 1991 - 2000 đã huy động được khoảng 57 tỷ USD. Nguồn vốn ngày đã có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế và thực hiện chương trình quốc gia giải quyết việc làm. Theo số liệu của Bộ lao động - thương binh và xã hội, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm đã hình thành năm 1992 đến nay đã có khoảng 2000 tỷ đồng, trong đó 1.350 tỷ đồng trừ ngân sách nhà nước (chiếm 67,5%); doanh số cho vay là 4000 tỷ đồng, thu hút 3 triệu lao động, trong đó 1,4 triệu người có việc làm mới và 1,6 triệu người có thêm việc làm. Riêng năm 2000 Quỹ quốc gia giải quyết việc làm đã giải quyết được 32 vạn lao động, trong đó tao ra việc làm mới là 14 vạn, có thêm việc làm là 18 vạn. Cả nước đã có 143 Trung tâm dịch vụ việc làm, hàng năm tư vấn việc làm và tư vấn nghề nghiệp cho 20 vạn người, giới thiệu và cung ứng 8 vạn lao động. - Hệ thống dạy nghề của nước ta đến nay đã có 154 trường dạy nghề, 86 trung tâm dạy nghề, 320 trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp... Số học sinh được đào tạo nghề dài hạn tăng từ 80 năm 1996 lên 150.000, năm 2000, ngoài ra còn khoảng 500.000 được đào tạo nghề ngắn hạn. - Về giải quyết việc làm, từ năm 1991 - 2001 số người có việc làm đã tăng từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu tăng 32,2% bình quân hàng năm tăng khoảng 2,9%. Chỗ làm việc mới hàng năm cũng có xu hướng gia tăng, nên thời kỳ 1991 - 1995 số việc làm mới tăng bình quân 863 nghìn người/ năm, thì thời kỳ 1996 - 2000 con số đó là 1,2 triệu người/ năm. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 10% năm 1991 xuống còn 6,5% năm 2000, phấn đấu đến năm 2010 sẽ dưới 5% . Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn có xu hướng tăng từ 72,1% năm 1996 lên 74% năm 2000, mục tiêu đến năm 2010 sẽ từ 80 - 85%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng tăng liên tục từ 10% năm 1996 lên khoảng 20% năm 2000. Qua việc cải cách hành chính và sắp xếp loại doanh nghiệp nhà nước, lao động trong khu vực nhà nước giảm từ 14,7% năm 1991 xuống còn 9% năm 2000. Khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể thu hút khoảng 90% lao động xã hội và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 33 vạn lao động. - Số lượng lao động và chuyên gia xuất khẩu cũng ngày càng tăng lên từ 1022 người năm 1991 lên 10.050 người năm 1995 dự tính thời kỳ năm 2002 - 2005 bình quân sẽ là 100.000 người/năm. Theo ước tính số lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài kể cả Liên Xô (cũ) và Đông Âu làm việc dưới nhiều hình thức khác nhau đã chuyển về nước khoảng 1 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, việc giải quyết việc làm cũng còn những hạn chế. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị còn ở mức 6,4% và tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn mới đạt 73,8%, thời gian lao động nhàn rỗi còn chiếm tới 26,2%. Cơ cấu và chất lượng lao động chuyển dịch còn chậm tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp (20%), năng suất thấp lao động thấp. Còn thiếu những chính sách đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, khai thác, huy động các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. Việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm ở một số đia phương còn lúng túng; Việc giải ngân quỹ một số dự án tạo việc làm còn thấp. *Chính sách xoá đói giảm nghèo Xoá đói giảm nghèo là một trong những chính sách xã hội cơ bản, được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, cùng với quá trình đổi mới tạo ra những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, Đảng ta lên chủ trương "khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo". Đại hội lần thứ VII, VIII, IX của Đảng đều xác định xoá đói giảm nghèo là một trong những chương trình phát triển kinh tế - xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Chính sách xoá đói giảm nghèo được nhà nước thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm 1992. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã cụ thể hoá chủ trương xoá đói, giảm nghèo bằng chính sách, cơ chế, quyết định, Nghị định, Chỉ thị, thông tư của Chính phủ và của các Bộ có liên quan. * Quyết định số 734 - TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Thông tư liên tịch số 52/TTLT/TP - TCCB - TC - LĐTBXH ngày 14/1/1998 của Bộ tư pháp - Ban tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ tài chính - Bộ lao động thương binh xã hội hướng dẫn thi hành Quyết định trên của Thủ tướng Chính phủ. * Quyết định số 80/1998/QĐ - TTg ngày 9/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo. Thông tư liên tịch số 01/1999/TTLT - BKH - BTC, BLĐTBXH ngày 15 - 3 - 1999 của Bộ kế hoạch và đầu tư - * Bộ tài chính - Bộ lao động thương binh và xã hội hướng dẫn kế hoạch hoá việc lồng ghép các chương trình, dự án tham gia thực hiện xoá đói giảm nghèo. *Quyết định số 135/1998/QĐ - TTg ngày 31 - 7 - 1998 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và cùng sâu, vùng xa. Chính phủ đã đưa ra và thực hiện nhiều chương trình, dự án tham gia thực hiện xoá đói giảm nghèo như: * Dự án trồng 5 triệu ha rừng: mục tiêu và nguồn lực của chương trình này hầu hết giành cho người nghèo và xã nghèo được hưởng lợi, thông qua tạo việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào các dân tộc ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. * Chương trình 773 có mục tiêu tác động đến xoá đói, giảmnghèo thông qua khai hoang, tạo ra tư liệu sản xuất là đất cho người nghèo và xây dưng các cơ sở phúc lợi xã hội ở các xã nghèo. * Chương trình quốc gia về việc làm có mục tiêu tham gia trực tiếp vào xoá đói giảm nghèo: tham gia giải quyết việc làm cho những hộ nghèo không có việc làm; đào tạo nghề miễn phí cho con em các hộ nghèo tại các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc khu vực nhà nước quản lý. * Chương trình giáo dục - đào tạo có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo thông qua việc xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; cung cấp sách giáo khoa cho học sinh miền núi và dân tộc; nâng cấp cơ sở vật chất các trường học phổ thông. * Chương trình y tế có mục tiêu tác động đến xoá đói giảm nghèo thông qua việc chữa các bệnh về sốt rét, bướu cổ, phong, lao, sốt xuất huyết cho nhân dân nói chung, trong đó phần lớn là người nghèo, nâng cấp trang thiết bị các cơ sở y tế; xoá các xã trắng về y tế. * Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn có mục tiêu cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nói chung, xây dựng các công trình cung cấp nước sạch ở các xã nghèo. * Chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình nhằm cung cấp các phương tiện, dịch vụ tránh thai cho nhân dân, trong đó có người nghèo để hạn chế tăng dân số, từ đó tác động đến xoá đói, giảm nghèo. * Chương trình bảo vệ và chăm sóc trẻ em có mục tiêu tác động đến xoá đói, giảm nghèo thông qua việc chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em. * Một số nhiệm vụ, chính sách tham gia thực hiện xoá đói, giảm nghèo như phát triển hệ thống lưới điện sinh hoạt ở nông thôn; phát triển hệ thống giao thông nông thôn; chính sách trợ giá, trợ cứu cho miền núi; chính sách cứu tế, cứu đói thiên tai, lũ lụt; quỹ xoá đói, giảm nghèo của các địa phương. * Các chương trình, dự án hợp tác quốc tế có mục tiêu tham gia xoá đói, giảm nghèo như các dự án trồng rừng vùng Đông bắc, Các tỉnh miền trung; dự án khu vực lâm nghiệp cho Thanh Hoá, Quảng trị, Phú Yên, Gia Lai; dự án bảo vệ rừng và phát triển nông thôn; các dự án tín dụng trực tiếp cho người nghèo do cộng hoà liên bang Đức tài trợ; dự án IFAD... Việc thực hiện các chương trình đó đã huy động các nguồn lực góp phần phát triển kinh tế, cải tạo đời sống nhân dân, nhất là người nghèo. Từ khi thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo năm 1992 đến nay, nhà nước đã đầu tư thông qua các chương trình quốc gia có liên quan đến xoá đói, giảm nghèo khoảng 21.000 tỷ đồng, trong đó riêng hai năm 1999 và 2000 là khoảng 9.600 tỷ đồng, điều đó biểu hiện sự nỗ lực của nhà nước ta trong điều kiện nền kinh tế còn thấp kém như hiện nay. Nguồn lực đầu tư trực tiếp cho chương trình xoá đói, giảm nghèo được tăng cường, trong đó riêng ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp cho cơ sở hạ tầng của xã đặc biệt khó khăn khoảng 2000 tỷ đồng; hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, cấp bù chênh lệch lãi suất tín dụng ưu đãi cho người nghèo khoảng 700 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương đầu tư khoảng 300 tỷ đồng; các đơn vị, tổng Công ty hỗ trợ khoảng 300 tỷ đồng; các đơn vị, Tổng Công ty hỗ trợ khoảng 200 tỷ đồng. Nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng phục vụ người nghèo khoảng 5000 tỷ đồng (vào năm 2000), cho gần 5 triệu lượt hộ nghèo vay, bình quân 1,7 triệu đồng/hộ. Ngoài ra còn nhận được sự giúp đỡ của trên 40 tổ chức quốc tế và nhiều mặt (kỹ thuật, tài chính khoảng 2000 tỷ đồng....). Năm 2001 và 2002 công tác xoá đói giảm nghèo còn được tập trung cao hơn (xem biểu số....) Biểu 5: Kinh phí cho xoá đói giảm nghèo và chương trình 135 năm 2001 và 6 tháng đầu năm 2002 Chỉ tiêu Thực hiện 2001 ( tỷ đồng) Dự án 2002 (tỷ đồng ) Thực hiện 6 tháng 2002 so với cả năm (%) Tổng số 1755 1851 52 1. Chương trình xoá đói giảm nghèo và việc làm 695 651 62 a. Nhóm dự án xoá đói giảm nghèo 490 471 50 - Dự án định canh định cư 170 90 50 - Dự án ổn định di dân cư và xây dnựg kinh tế mới 290 340 50 - Dự án hướng dẫn người nghèo làm ăn, khuyến nông, lâm, ngư 10 12 50 - Dự án đào tạo cán bộ xã nghèo 10 12 50 - Dự án xây dựng mô hình XDGN các vùng đặc biệt khó khăn 0 5 50 b. Nhóm việc làm 205 180 50 - Dự án cho vay quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm 192 164 96 - Dự án hiện đại hoá các trung tâm dịch vụ, việc làm 6,5 9 100 - Dự án điều tra lao động và tổ chức hội chợ việclàm 3,5 4 45 - Dự án đào tạo cán bộ làm công tác giải quyết việclàm 3 3 80 2. Chương trình 135 1080 1200 50 - Đã giao cho các địa phương 1080 1132 50 - Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng 880 880 50 - Dự án xây dựng trung tâm cụm xã 200 234 50 - Dự án quy hoạch bố trí dân cư 10 50 - Dự án đào tạo cán bộ 10 50 Nguồn: Bộ Tài chính, 7 - 2002. Theo số liệu của Bộ lao động - thương binh và xã hội, trong 10 năm qua chúng ta đã giảm được 2 triệu hộ nghèo; tỷ lệ hộ đói giảm nhanh (theo tiêu chuẩn Việt Nam) từ gần 30% năm 1992 xuống còn 11% năm 2000, mỗi năm bình quân giảm được 250.000 hộ, riêng giai đoạn 1996 - 2000 mỗi năm giảm được 300.000 hộ (chiếm 2%). Việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn các vùng sâu, vùng xa cũng được đẩy mạnh. Năm 1999 đầu tư được 2000 công trình vào 1200 xã nghèo, đặc biệt khó khăn; năm 2000 có khoảng 4000 công trình hạ tầng được đưa vào sử dụng. Những hạn chế về xoá đói giảm nghèo - Tỷ lệ đói nghèo ở nước ta còn cao. Theo tiêu chuẩn của Bộ lao động -Thương binh và xã hội công bố tỷ lệ đói nghèo năm 1992 - 1993 là khoảng 30%, năm 1995 khoảng 20%, năm 1999 khoảng 13% và năm 2000 còn 11%. Song theo tiêu chuẩn đánh giá của Ngânhàng thế giới (WB), thì tỷ lệ đói nghèo của nước ta năm 1992 - 1993 khoảng 58%, năm 2001 - 2002 còn 32%. Đặc biệt tỷ lệ đói nghèo chiếm tỷ lệ cao ở một số vùng khó khăn, nhất là vùng đồng bào dân tộc ít người. (Xem biểu 7). Biểu 6: Tỷ lệ đói nghèo ở một số vùng của nước ta Đơn vị: % Năm Vùng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Núi phía Bắc + Trung du Bắc Bộ 28,16 27,24 25,42 23,36 16,93 15,00 Bắc Trung Bộ 32,5 30,08 27,84 24,62 20,25 17,00 Tây nguyên 30,8 29,45 27,84 25,65 14,57 13,00 Cả nước 20,37 19,23 17,70 15,66 13,10 11,00 Nguồn: Bộ lao động - Thương binh và xã hội - Sự phân hoá giầu - nghèo trong xã hội cũng ngày càng tăng. Theo kết quả điều tra của Tổng cục thống kê, nếu so sánh thu nhập 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất với thu nhập 20% nhóm hộ có thu nhập thấp nhất chênh lệch nhau là 7,3 lần (năm 1996) đã tăng lên tới 8,9 lần (năm 1999). Còn hệ số chênh lệch mức sống giữa dân cư thành thị và nông thôn hiện nay khoảng 5 - 7 lần. - Các chỉ tiêu thực hiện còn rất thấp so với mục tiêu đề ra. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em còn lớn khoảng 35% (năm 2000); tỷ lệ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn cao - bình quân hàng năm khoảng 7%. Riêng năm 1999 có 415 nghìn hộ vượt qua được người nghèo đói thì có tới 75 nghìn hộ lại tái nghèo ( chiếm 18%). * Chính sách bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Trong hơn 10 năm qua, hệ thống BHXH Việt Nam từng bước phát triển và hoàn thiện, tập trung vào 4 lĩnh vực chủ yếu là: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, (BHYT), bồi thường tai nạn lao động và chính sách trợ cấp thôi việc đối với người lao động trong khu vực nhà nước. Trong đó BHXH và BHYT đã được thể chế hoá và tổ chức thực hiện thống nhất từ Trung ương đến địa phương; chế độ trợ cấp thôi việc là một biện pháp mang tính cấp bách và tình thế, chỉ áp dụng cho lao động trong khu vực nhà nước nhằm thực hiện tinh giảm biên chế và cải cách, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Tài liệu tham khảo 1. C. Mác và Ph. Ăng ghen Tuyển tập, T1, NXB CTQG, H, 1980 2. C. Mác và Ph.Ăng ghen: Toàn tập, T19, NXB CTQG, H, 1995 3. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T21, NXB CTQG, H 1995 4. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T23, NXB CTQG, H, 1993 5. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T25, NXB CTQG, H, 1993 6. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T 25, Phần I, NXB CTQG, H, 1993 7. C. Mác và Ph. Ăng ghen: Toàn tập, T12, NXB CTQG, H, 1995. 8. C. Mác: Tư bản: Q3, T3, NXB ST, H, 1968 9. Ph. Ăng ghen: Chống Đuy- rinh. NXB ST, H, 1971. 10. V.I. Lênin: Bàn về công nghiệp nặng và điện khí hoá cả nước . NXB ST, H, 1962. 11. V.I. Lênin: Toàn tập, T3, NXB TB, M, 1977 12. V.I. Lênin: Toàn tập, T 33, NXB TB, M, 1976 13. V.I. Lênin: Toàn tập. T35, NXB TB, M, 1976 14. V.I. Lênin: Toàn tập, T 44, NXB TB, M, 1978 15. C. Mác, Ăng ghen, Lênin và Stalin: Bàn về phân phối NXB ST, H, 1974. 16. Hồ Chí Minh: Toàn tập T7, NXB CTQG, H, 2000 17. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T8, NXB CTQG, H, 2000 18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T9, NXB CTQG, H, 2000 19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T10, NXB CTQG, H, 2000 20. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T11, NXB CTQG, H, 2000 21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, T12, NXB CTQG, H, 2000 22. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB CTQG, H, 1996 23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB CTQG, H, 2001 24. Một số chính sách quốc gia về việc làm và xoá đói giảm nghèo. NXN LĐ, H, 2002 25. Bộ luật lao động của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. NXB CTQG, H, 1994 26. Lý Bân: Lý luận chung về phân phối của chủ nghĩa xã hội. NXB CTQG, H, 1999 27. Cốc Thư Đường (chủ biên): Lý luận mới về kinh tế học xã hội chủ nghĩa. NXB CTQG, H, 1997 28. Chu Thượng Văn: Chủ nghĩa xã hội là gì? xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào? NXB CTQG, H, 1999 29. TS. Nguyễn Kim Bảo: Thể chế kinh tế thị trường XHCN có đặc sắc Trung quốc. NXB KHXH, H, 2002 30. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin. NXB CTQG, H, 1999 31. P.A. Samucelson và W.D. Nordhaus: Kinh tế học, T1, Viện quan hệ kinh tế quốc tế, 1989 32. P.A. Samucelson và W.D. Nordhaus: kinh tế học, T2, Viện quan hệ kinh tế quốc tế, 1989 33. David Begg: kinh tế học, T1, NXB GD, H, 1992 34. Đại từ điển kinh tế thị trường. Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, H, 1998 35. Tổng cục thống kê: Số liệu về sự biến đổi xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. NXB Thống kê, H, 2000 36. Trinh Duy Luân ( Chủ biên): Phát triển xã hội ở Việt Nam - Tổng quan xã hội học năm 2000. NXB KHXH, H, 2002 37. TS. Lê Đăng Doanh và TS. Nguyễn Minh Tú: Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay. NXB LĐ, H, 2001 38. GS.TS. Phạm Xuân Nam: Sự quản lý phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng: NXB CTQG, H, 2001. 39. TS. Phạm Thị Thu Hằng: Tạo việc làm tốt bằng các chính sách phát triển doanh nghiệp nhỏ. NXB CTQG, H, 2002. 40. Bộ tài chính: Một số vấn đề về chính sách tài chính trong lĩnh vực tiền lương và thu nhập giai đoạn 2001 - 2010, H, 1999 41. Các quy định mới về doanh nghiệp Nhà nước. NXB Thống kê, H, 1997 42. Đỗ Minh Cương (chủ biên): Tìm hiểu về chế độ tiền lương mới NXB CTQG, H, 1993 43. Kỷ yếu hội thảo: Phương hướng và bước đi của tiền lương tới và quan hệ tiền lương trong các khu vực thời kỳ 2001 - 2005. Sầm sơn. Tháng 7/2001. 44. Đinh Trọng Thắng và Ngô Văn Giang: Một số vấn đề cần quan tâm trong cải cách tiền lương hiện nay. Tạp chí Lao động và xã hội. Số 186 tháng 3/2002 45. Thảo Lan: Cải cách tiền lương trong khu vực Nhà nước ở Việt Nam. Tạp chí Lao động và xã hội, số 186 tháng 3/2002 46. Nguyên Xuân Nga: Cơ sở tiền lương tối thiểu và phương pháp tiếp cận xác định. Tạp chí Lao động và xã hội, số 186 tháng 3/202 47. GS. Lương Trọng Yêm: Vài suy nghĩ về cải cách tiền lương cán bộ, công chức hiện nay. Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 7/2001 48. Đoàn Cường: Về chính sách tiền lương chức vụ trong cơ quan Nhà nước. Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 8/2001 49. Những hướng dẫn mới về tiền lương, thời gian làm việc, bảo hiểm xã hội, thi đua khen thưởng. NXB LĐ, H, 2000 50. Ngô Thị Ngọc Anh: Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp ở nước ta hiện nay - Tạp chhí Giáo dục lý luận, số 3/2003 51. Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Tài liệu hội thảo về cải cách chính sách tiền lương Nhà nước giai đoạn 2001 - 2005, Hà Nội tháng 5/2001 52. PGS.TS. Mai Ngọc Cường: Về cải cách tiền lương của cán bộ công chức ở Việt Nam những năm tới. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 64 tháng 10/2002 53. Trần Văn Chử: Quan hệ giữa chất lượng lao động và giải quyết việc làm trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tạp chí Lý luận chính trị số 2/2002. 54. Nguyễn Văn Định: Bảo hiểm xã hội và một số vấn đề đặt ra trong quá trình cải cách tiền lương ở Việt Nam. Tạp chí kinh tế và phát triển, số 64 tháng 10/2002. 55. Nguyễn Kim đình: Tiền lương phải phù hợp với giá trị sức lao động. Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2002. 56. GS. TS. Tống Văn Đường: Những nội dung cơ bản của cải cách chính sách tiền lương ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Kinh tế và phát triển, só 47, tháng 5/2001. 57. Trần Thị Hằng: Về phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay. Tạp chí Lý luận Chính trị, số 1/2002. 58. TS. Vũ Thị Hiểu: Về sự hình thành và sử dụng vốn hỗ trợ cho người nghèo ở Việt Nam trong thời gian qua. Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 54 tháng 12/2001. 59. Kết quả thực hiện các chương trình 135, xoá đói giảm nghèo, việc làm năm 2001 và mục tiêu kế hoạch 2002 - 2005. Tạp chí Kinh tế và Tự do hoá, số 8/2002. 60. Bạch Kim: Cải cách theo hướng nào để tiền lương thực sự là đầu tư phát triển nguồn lực con người. Tạp chí Xây dựng Đảng, số 7/2002. 61. Một số chính sách quốc gia về việc làm và xoá đói giảm nghèo. NXB Lao động, Hà Nội - 2002. 62. Phát triển nông nghiệp và nông thôn - Mấu chốt của chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 6/2002. 63. Lê Phượng: Tăng lương theo hướng nào? Báo Đầu tư, số 123 ( 920) ra ngày 14/10/2002. 64. TS. Nguyễn Ngọc Quân - Đặng Đức Huyền: Quan điểm và các giải pháp cải cách chính sách tiền lương, chính sách xã hội. Tạp chí kinh tế và phát triển, số 49, tháng 7/2001. 65. PGS.TS. Phạm Đức Thành: Mối quan hệ giữa nhu cầu tối thiểu, mức sống tối thiểu với tiền lương tối thiểu. Tạp chí kinh tế và phát triển, số 51, tháng 9/2001. 67. Đỗ Xuân Trường: Tín dụng cho người nghèo và các quỹ xoá đói, giảm nghèo ở nước ta. Tạp chí Lý luận chính trị, số 2/2002. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0100.doc
Tài liệu liên quan