Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn ở nước ta, một số đánh giá và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn

Lời nói đầu Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới, tại Đại hội lần thứ 9 Đảng đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2001 – 2010 là: “Phát triển kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị trường độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Nhằm

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn ở nước ta, một số đánh giá và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, toàn Đảng toàn dân cần phải tích cực phát huy những lợi thế của đất nước; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, coi đây là giải pháp chiến lược nhằm giải phóng và khai thác tối đa các tiềm năng hiện có để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý; đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để giải quyết; tích cực huy động và sử dụng vốn có hiệu quả thì nền kinh tế mới bước đi vững chắc trong mọi hoạt động và tạo được sự tăng trưởng hiện tại. Chính vì tầm quan trọng của tuần hoàn , quản lý và sử dụng vốn nên em chọn đề tài “Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta” cho đề án kinh tế chính trị của mình. Đề án bố cục gồm: Phần I . Lời mở đầu. Phần II. Nội dung chính. Chương I. Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản. Chương II. Vận dụng học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản vào thực tế. Chương III. Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn ở nước ta, một số đánh giá và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Phần III. Kết luận. Mục lục Lời mở đầu 1 Mục lục 3 I.Chương I: Lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản 4 1.1 Lí luận tuần hoàn của tư bản 4 a. Giai đoạn 1 4 b. Giai đoạn 2 5 c. Giai đoạn 3 6 d. Sự biến chuyển của tư bản 6 1.2 Chu chuyển tư bản 7 a. Thời gian chu chuyển 8 b. Tốc độ chu chuyển 9 c. Tư bản cố định và tư bản lưu động 10 1.3 Tác dụng , ý nghĩa, phương pháp của việc rút ngắn thời gian 11 chu chuyển II.Chương II. Vận dụng của học thuyết tuần hoàn và chu 14 chuyển tư bản vào thực tế của việc quản lý,sử dụng vốn . 2.1 Vận dụng thực tế của học thuyết 14 2.2 Vốn –vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả 15 2.3 Khái niệm, đặc điểm, phân loại vốn 16 2.4 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 18 III.Chương III : Thực trạng, một số đánh giá và biện pháp về 21 vốn ở Việt Nam 3.1 Nhu cầu về vôn ở nước ta 21 3.2 Kết qủa thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội 22 3.3 Một số tồn tại và yếu kém trong sử dụng vốn. 29 3.4 Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 29 3.5 Các giải pháp huy động vốn 31 3.6 Biện pháp sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm 35 3.7 Biện pháp nâng c hiệu quả vốn đầu tư 36 Kết luận 39 Tài liệu tham khảo 40 Chương I Lí luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản 1.1. Lí luận tuần hoàn của tư bản Tư bản luôn luôn vận động và trong quá trình vận động, nó lớn lên không ngừng.Tư bản vận động qua 3 giai đoạn sau đây: Giai đoạn I : T-H Giai đoạn này biến tiền tệ thành hàng hoá : T-H. Đối với người mua, đó là biến tiền thành hàng. Còn đối với người bán thì đó là biến hàng thành tiền. Đó là một hành vi lưu thông hàng hoá thông thường. Nhưng nếu nhìn vào nội dung vật chất của việc mua bán đó,thì sẽ thấy tính chất tư bản chủ nghĩa của nó. Hàng hoá mua bán là những loại hàng hoá nhất định; tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là những nhân tố của sản xuất. Quá trình mua bán có thể biểu diễn thành: T-H SLĐ (sức lao động) TLSX (tư liệu sản xuất) Như thế nghĩa là có hai hành vi mua bán: T-SLĐ và T-TLSX. Hai hành vi này xảy ra trên hai thị trường hoàn toàn khác nhau là thị trường sức lao động và thị trường hàng hoá thông thường. Tiền của nhà tư bản phải chia làm hai phần theo tỷ lệ thích đáng: một phần mua sức lao động , một phần mua tư liệu sản xuất. Đối với hành vi T-TLSX, căn cứ vao ngành kinh doanh cụ thể phải tính toán thế nào để mua đủ tư liệu sản xuất đặng sử dụng hết số nhân công thuê được; nếu thiếu tư liệu sản xuất thì không có việc cho công nhân làm, quyền sử dụng lao động thặng dư sẽ trở thành vô ích đối với nhà tư bản. Ngược lại,nếu thiếu công nhân thì tư liệu sản xuất sẽ không biến thành sản phẩm được. Ta lại xét quá trình T-SLĐ. Nhà tư bản có tiền tệ, công nhân có sức lao động,hai bên mua bán với nhau.Đó là một quan hệ mua bán,mọt quan hệ hàng hoá-tiền tệ thông thường.Nhưng đồng thời đó cũng là một sự mua bán giữa một bên là nhà tư bản chuyên môn mua như thế và một bên là người vô sản chuyên môn bán như vậy.Sở dĩ có quan hệ mua bán kiểu đó, chính là vì những điều kiện cần thiết để thực hiện sức lao động-tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt-đã bị tách rời khỏi người lao động,đã trở thành tài sản của người không lao động. Tính chất tư bản chủ nghĩa trong việc mua bản trên không phải do bản thân tiền tệ gây nên mà là do quá trình tách rời đó gây nên,và tiền tệ ở đây đã biến thành tư bản tiền tệ, chứ không còn là tiền tệ thông thường nữa. Như vậy, giai đoạn I của sự vận động của tư bản là giai đoạn biến tư bản tiền tệ thành tư bản sản xuất. Sau khi mua được hàng hoá (tư liệu sản xuất và sức lao động) thì tư bản đã trút bỏ hình thức tiền tệ mà mang hình thức hiện vật.Với hình thức hiện vật đó, nó không thể tiếp tục lưu thông được. Nhà tư bản không thể đem bán công nhân như hàng hoá được,vì công nhân chỉ bán sức lao đông trong một thời gian,chứ không phải là nô lệ của nhà tư bản. Tư liệu sản xuất và sưc lao động phải được đem ra tiêu dùng cho sản xuất. Nhà tư bản bắt công nhân phải vận dụng tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm. Kết quả là nhà tư bản có được một số hàng hoá mới mà giá trị của chúng lớn hơn giá trị của những nhân tố đã dùng để sản xuất ra số hàng hoá đó. ở đây,chúng ta coi quá trình sản xuất này như một giai đoạn trong sự vận động cua tư bản. Trong giai đoạn vận đông này, tư bản trút bỏ hình thức tư bản sản xuất để chuyển sang hình thức tư bản hàng hoá. H SLĐ TLSX ……… SX ………. H’ Giai đoạn II : Quá trình sản xuất Giai đoạn III : H’ – T’ H’ sản xuất ra phải được bán đi. Nhà tư bản lại xuất hiện trên thị trường, nhưng lần này chỉ xuất hiện trên một thị trường là thị trường hàng hoá thông thường. Bán H’ lấy T’, tức là T’ đã lớn lên, vì có thêm giá trị thặng dư. Sở dĩ có thể thu về một giá trị lớn hơn số giá trị đã bỏ ra trong giai đoạn đầu, chính là vì đến giai đoạn III, đã ném ra thị trường một số hàng hoá có giá trị lớn hơn số giá trị đã ứng ra trước đây. Số lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà công nhân đã sáng tạo ra trong giai đoạn sản xuất và bị nhà tư bản chiếm không. Như vậy, giai đoạn III của sự vận động là giai đoạn biến tư bản hàng hoá thành tư bản tiền tệ. Toàn bộ quá trình vận động tuần hoàn của tư bản có thể tóm lại như sau: T-H SLĐ TLSX ……… SX ………. H’ – T’ Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III Tư bản đã vận động qua 3 giai đoạn và trong mỗi giai đoạn, tư bản tồn tại dưới một hình thức và làm tròn một chức năng nhất định. ở giai đoạn I, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản tiền tệ mà chức năng của nó là mua hàng hoá. ở giai đoạn II, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản hàng hoá mà chức năng của nó là thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Cuộc vận động đó là cuộc vận động tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Như vậy, tuần hoàn của tư bản là sự biến chuyển liên tiếp của tư bản qua 3 giai đoạn, trải qua ba hình thái, thực hiện ba chức năng tương ứng, để trở về hình thái ban đầu với lượng giá trị lớn hơn. Trong ba giai đoạn tuần hoàn của tứ bản thì giai đoạn I và giai đoạn II diễn ra trong lưu thông, thực hiện chức năng mua các yếu tố sản xuất và bán hàng hoá có chứa đựng giá trị thặng dư. Nhưng quá trình lưu thông (giai đoạn I và III) cũng có tác dụng rất quan trọng, vì thế nếu không có lưu thông, thì không thể tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó tư bản cũng không thể có tái sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó tư bản chủ nghĩa cũng không thể tồn tại được. Tư bản chỉ có thể tuần hoàn một cách bình thường trong điều kiện các giai đoạn kế tiếp nhau không ngừng. Nếu ngừng trệ ở giai đoạn I, thì tiền tệ không thể chuyển thành hàng hoá được và sẽ không có được các điều kiện sản xuất hàng hoá, nếu ngừng trệ ở giai đoạn II, thì tư liệu sản xuất không kết hợp với sức lao động, do đó không thể có sản phẩm mới. Nếu ngừng trệ ở giai đoạn III, thì hàng hoá sẽ không bán được, lưu thông sẽ bế tắc. Mặt khác, tư bản cũng chỉ có thể tuần hoàn một cách bình thường, nếu như tư bản của mỗi nhà tư bản công nghiệp, trong cùng một lúc, đều tồn tại dưới ba hình thức: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất, tư bản hàng hoá. Trong khi một bộ phận là tư bản tiền tệ đang biến thành tư bản sản xuất thì một bộ phận khác là tư bản sản xuất đang biến thành tư bản hàng hoá, và một bộ phận thứ ba là tư bản hàng hoáđang biến thành tư bản tiền tệ. Không những từng tư bản cá biệt đều như thế, mà tất cả các nhà tư bản trong xã hội cũng như thế. Các tư bản đều không ngừng vận động, không ngừng trút bỏ hình thức này để mang hình thức khác, và thông qua sự vận động đó mà lớn lên. Không thể quan niệm tư bản như một vật tĩnh. Ba hình thức của chủ nghĩa tư bản công nghiệp vừa nói trên có thể tồn tại riêng rẽ. Sau này chúng ta sẽ thấy tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay tách khỏi tư bản công nghiệp như thế nào. Trên cơ sở tách rời đó, sẽ hình thành các tập đoàn tư bản khác nhau: nhà tư bản công nghiệp, nhà tư bản thương nghiệp, nhà tư bản ngân hàng. Các tập đoàn đó sẽ chia nhau số giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. 1.2. Chu chuyển tư bản Khái niệm Sự vận động của tư bản khi là một quá trình định kỳ đổi mới, lặp đi lặp lại nhiều lần chứ không phải là một quá trình cô lập thì được gọi là chu chuyển tư bản. Khi nghiên cứu sự tuần hoàn của tư bản là ta nghiên cứu về chất, còn khi nghiên cứu chu chuyển tư bản là ta nghiên cứu về lượng. Thời gian và tốc độ chu chuyển Khi nghiên cứu về tuần hoàn tư bản, ta chỉ nghiên cứu về chất. Do đó, ta không đề cập tới thời gian và tốc độ vận động của nó. Nhưng trên thực tế, các yếu tố này có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là một phần quan trọng trong lý thuyết chu chuyển tư bản. b.1- Thời gian chu chuyển tư bản Thời gian chu chuyển tư bản là khi nhà tư bản ứng tư ban ra dưới hình thái nhất định cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo giá trị thặng dư. Thực chất đó là thời gian để tư bản thực hiện được một vòng tuần hoàn. Tuần hoàn tư bản bao gồm hai quá trình là sản xuất và lưu thông. Thời gian chu chuyển = Thời gian sản xuất + Thời gian lưu thông Thời gian sản xuất: là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Nó gồm có thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian lao động: là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian hữu ích nhất để tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho sản phẩm. Thời gian gián đoạn lao động: là thời gian đối tượng dưới dạng bán thành sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất song không chịu tác động của lao động mà của tự nhiên. Thời gian gián đoạn lao động có thể xen kẽ với thời gian lao động hoặc tách riêng, nó có thể dài hoặc ngắn tuỳ từng ngành sản xuất, từng loại sản phẩm và từng công nghệ sản xuất. Thời gian dự trữ sản xuất: là thời gian các yếu tố đầu vào đã sẵn sàng cho quá trình sản xuất song chưa được sử dụng vào quá trình sản xuất. Cả thời gian gián đoạn lao động cũng như thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo nên giá trị cho sản phẩm, song sự tồn tại của chúng là khách quan, không thể tránh khỏi. Do vậy, rút ngắn được khoảng thời gian này càng nhiều thì nhà tư bản càng nhanh chóng chuyển sang lưu thông, hiệu quả sản xuất càng cao. Đây cũng chính là mục đích của cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học kĩ thuật trong chủ nghĩa tư bản nói riêng và trong nền kinh tế nói chung. Thời gian lưu thông: là thời gian tư bản nằm trong lưu thông. Vì tư bản vận động qua hai quá trình lưu thông nên thời gian lưu thông cũng bao gồm thời gian mua và thời gian bán, kể cả thời gian vận chuyển. Thời gian lưu thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Tình hình thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả thị trường. Khoảng cách tới thị trường. Sự phát triển của giao thông vận tải. Trong thời gian lưu thông, tư bản không thực hiện chức năng sản xuất, không tạo ra giá trị cho sản phẩm. Nhưng nếu thời gian lưu thông thì thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất tăng lên, từ đó tạo ra nhiều giá trị hơn cho sản phẩm. Do vậy, việc rút ngắn thời gian lưu thông cũng rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả tư bản. Trong giai đoạn hiện nay, có một mâu thuẫn là thời gian lưu thông vừa có xu hướng rút ngắn lại nhưng vừa có xu hướng kéo dài ra. Tiến bộ của khoa học kĩ thuật công nghệ và kĩ thuật marketing đã rút ngắn thời gian lưu thông. Song khi quy mô sản xuất ngày một lớn, thị trường cũng được mở rộng, doanh nghiệp muốn vươn tới nhưng thị trường xa hơn, do vậy thời gian lưu thông lại được kéo dài ra. b.2- Tốc độ chu chuyển của tư bản Do những nhân tố ảnh hưởng tới nó và do những yêu cầu riêng của từng ngành, từng lĩnh vực sản xuất nên thời gian chu chuyển của tư bản dài ngắn khác nhau. Chính vì thế, thời gian chu chuyển của tư bản chưa phản ánh đúng tính chất và lượng tư bản chu chuyển mà người ta còn phải căn cứ vào tốc độ chu chuyển của tư bản. Đó chính là số vòng chu chuyển của tư bản thực hiện được trong một khoảng thời gian nhất định, chẳng hạn một năm. c- Tư bản cố định và tư bản lưu động Tư bản sản xuất bao gồm nhiều bộ phận với thời gian chu chuyển khác nhau. Căn cứ vào sự khác nhau giữa các phương thức chu chuyển và thời gian chu chuyển của chúng ta mà người ta phân ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản cố định: là bộ phận của tư bản được sử dụng toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó chỉ chuyển dần vào sản phẩm. Đặc điểm của tư bản cố định là về hiện vật, nó luôn luôn cố định trong quá trình sản xuất, chỉ có giá trị của nó là tham gia vào quá trình lưu thông, còn một phần vẫn bị cố định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng tham gia vào quá trình sản xuất và chuyển dần giá trị vào sản phẩm. Thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn một vòng tuần hoàn của nó. Ví dụ: nhà xưởng máy móc…Trong sản xuất, những thứ này hao mòn dần đi và chuyển hết giá trị của chúng vào sản phẩm sau một thời gian dài. Ví dụ: một chiếc máy dùng mười năm thì hỏng, vậy mỗi năm nó chuyển 1/10 giá trị vào sản phẩm. Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản, khi tham gia vào quá trình sản xuất, nó chuyển toàn bộ giá trị của nó sang sản phẩm. Nguyên liệu, vật liệu phụ bị tiêu dùng toàn bộ vào sản xuất và cũng chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm mới. Chẳng hạn, giá trị 100 kg bông được chuyển ngay vào sợi sau khi đã kéo xong 100 kg bông đó. Còn sức lao động, thì sau một thời gian hoạt động, không những thêm vào sản phẩm mới toàn bộ giá trị của nó, mà còn thêm giá trị thặng dư nữa. Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động. Trong khi tư bản cố định lưu chuyển được một vòng thì tư bản lưu động đã chu chuyển được nhiều vòng. Ngay trong tư bản cố định, thời gian chu chuyển của các yếu tố khác nhau cũng không giống nhau. Ví dụ: nhà xưởng, máy móc, có những thời gian hoạt động dài, ngắn khác nhau, nghĩa là hao mòn khác nhau. Tư bản cố định là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên vật liệu, nhiên liệu…bộ phận tư bản khả biến có phương thức chu chuyển giống như thế nên cũng được coi là tư bản lưu động. Trong quá trình sản xuất, tư bản cố định bị hao mòn dần. Vậy thế nào là hao mòn của tư bản cố định? Có 2 hình thức hao mòn của tư bản cố định: đó là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn do sử dụng và do tác động của thiên nhiên làm cho những bộ phận của tư bản đó dần dần hao mòn đi đến chỗ hỏng, không dùng được nữa. Do vậy để tránh hao mòn hữu hình cần thường xuyên lau chùi, bảo dưỡng các máy móc, thiết bị, tu bổ hỏng hóc mỗi khi gặp phải. Hao mòn vô hình: là hao mòn do sự ảnh hưởng của khoa học kỹ thuật, làm cho các tư bản cố định tuy còn mới song lại bị giảm giá trị. Do tiến bộ của khoa học kỹ thuật là quy luật khách quan nên không tránh được. Để hạn chế hao mòn vô hình cần sử dụng các giá trị của máy móc, thiết bị, cần giảm thời gian chu chuyển của chúng để tăng tốc độ chu chuyển. 1.3. Tác dụng (ý nghĩa) của việc rút ngắn thời gian chu chuyển tư bản và phương pháp rút ngắn thời gian chu chuyển. Tăng tốc độ chu chuyển tư bản hay rút ngắn thời gian chu chuyển tư bản có vai trò rất quan trọng trong việc tăng hiệu quả hoạt động của tư bản. Đối với tư bản cố định, việc rút ngắn thời gian chu chuyển tư bản sẽ làm giảm chi phí bảo quản, sửa chữa, tránh hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, cho phép đổi mới nhanh máy móc, thiết bị, có thể sử dụng quỹ khấu hao làm quỹ dự trữ sản xuất để mở rộng sản xuất mà không cần tư bản phụ thêm. ở các nước tư bản phương tây hiện nay, có nhiều trường hợp các máy móc, thiết bị đã khấu hao hết song vẫn bán được cho các nước đang phát triển dưới hình thức chuyển giao công nghệ hay liên doanh. Đối với tư bản lưu động, việc rút ngắn thời gian chu chuyển sẽ cho phép tiết kiệm được tư bản ứng trước khi quy mô sản xuất như cũ hay cho phép mở rộng sản xuất mà không cần tư bản phụ thêm. Để làm rõ điều này, chúng ta hãy cũng xét thí dụ sau: Một tư bản có vòng tuần hoàn gồm 10 tuần, 5 tuần sản xuất và 5 tuần lưu thông. Quy mô sản xuất đòi hỏi một lượng tư bản ứng trước cho 5 tuần sản xuất là 5 x 100 = 500. Nhưng sau đó, sản phẩm phải qua 5 tuần lưu lượng tư bản là 5x 100 = 500 nữa, nghĩa là tổng tư bản ứng trước là 1.000.000. Nếu thời gian chu chuyển được rút ngắn lại, giả sử là 8 tuần thì lúc đó lượng tư bản ứng trước cần thiết với quy mô sản xuất không đổi là 8 x 100 = 800 (tiết kiệm được 200 tư bản ứng trước). Còn tư bản ứng trước vẫn là 1.000.000 thì lúc đó, số tư bản ứng trước cho mỗi tuần là 1.000.000 : 8 = 125.000 có nghĩa là quy mô sản xuất được mở rộng mà không cần tư bản phụ thêm. Để nghiên cứu hiệu quả hoạt động của tư bản, người ta sử dụng tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm. Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm được tính bằng tỷ lệ tính bằng phần trăm giữa khối lượng giá trị thặng dư hàng năm với tư bản khả biến ứng trước. Hay: M’ = m’ x n Trong đó: - m là giá trị thặng dư tạo ra trong một vòng chu chuyển. - n là số vòng chu chuyển trong năm Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh mức độ bóc lột của các tư bản có thể như nhau song hiệu quả hoạt động của tư bản đó lại khác nhau do có tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm khác nhau. Từ đó có thể thấy rằng việc rút ngắn thời gian chu chuyển tư bản là một trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp. Để rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, có thể sử dụng các biện pháp như: Trong sản xuất, để rút ngắn thời gian sản xuất, nhà tư bản áp dụng các công nghệ mới, cải tiến tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động… Trong lưu thông, để rút ngắn thời gian lưu thông nhà tư bản tiến hành xúc tiến quảng cáo, cải tiến chất lượng sản phẩm, cải tiến giao thông vận tải. Tốc độ chu chuyển của tư bản bị gián đoạn bởi các nhân tố như: kỹ thuật ngày một phát triển làm cho các tư bản cố định lớn chu chuyển chậm; sự bố trí không hợp lý trong sản xuất khiến cho thời gian lưu thông kéo dài; sự tiêu thụ hàng hoá gặp nhiều khó khăn do cạnh tranh; sức mua giảm sút… Phương pháp rút ngắn thời gian lưu thông có thể thực hiện bằng cách cải tiến chất lượng hàng hoá, cải tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương pháp thương nghiệp, và đặc biệt là phát triển ngành giao thông vận tải, ... song việc rút ngắn thời gian lưu thông của tư bản lại gặp rất nhiều trở ngại. Sản xuất càng phát triển, phạm vi thị trường càng mở rộng thì càng làm trầm trọng thêm tính chất cạnh tranh vô chính phủ trong xã hội tư bản, khiến hàng hoá lưu thông hỗn loạn, có nhiều hiện tượng bất hợp lý, lãng phí do đầu cơ mù quáng và quảng cáo phô trương hình thức gây ra. Mặt khác, đông đảo quần chúng lao động bị áp bức bóc lột thậm tệ, thu nhập ngày càng giảm sút nên sức mua ngày càng giảm sút. Như vậy là do mâu thuẫn đối kháng của bản thân chủ nghĩa tư bản, việc rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của chủ nghĩa tư bản, do đó cả việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản đã vấp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại. Tình trạng năng lực sản xuất thường xuyên không được sử dụng hết ở các nước đế quốc cùng mức độ cạnh tranh, giành giật gay gắt thị trường giữa các nước này hiện nay càng xác minh rõ điều đó. Tăng tốc độ chu chuyển và tìm mọi biện pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn là yêu cầu chung của moị nền sản xuất. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, do bản chất của nó, càng yêu cầu và có đầy đủ khả năng để thực hiện được tốt vấn đề đó. Để quản lý tốt nền kinh tế, phát huy hiệu quả cao của đồng vốn, miền Bắc nước ta cũng phải biết vận dụng những nguyên lý đó một cách sáng tạo và linh hoạt. Chương II Vận dụng của học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản vào thực tế và vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. 2.1 vận dụng thực tế của học thuyết Trong thực tế, tư bản công nghiệp cũng vận động theo công thức: T-H SLĐ TLSX ……… SX ………. H’ – T’ 2.1.1. ở giai đoạn thứ nhất, các doanh nghiệp xuất vốn ra để tư liệu sản xuất và sức lao động. Tuy nhiên, việc mua này không thể diễn ra một cách tuỳ tiện. Đối với các doanh nghiệp, mục tiêu của họ là tối đa hoá lợi nhuận, do vậy điều quan trọng là cần tối thiểu hoá chi phí sản xuất. Việc lựa chọn phương thức tối ưu trong khi mua tư liệu sản xuất và sức lao động là hết sức cần thiết. 2.1.2. Trong giai đoạn thứ hai, các doanh nghiệp chú trọng vào khâu sản xuất, song không vì thế mà có thể đánh giá thấp vai trò của quản lý và sử dụng vốn. Sự hiệu quả trong quản lý và sử dụng vốn thể hiện ở hiệu quả sản xuất, ở chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, việc sử dụng có hiệu quả thể hiện ở việc rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản, thời gian chu chuyển của tư bản được rút ngắn lại sẽ khiến cho vốn được quay vòng nhanh, tiết kiệm được tư bản ứng trước và cho phép tăng quy mô sản xuất. Mặt khác, hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình do các tác động khách quan sẽ được giảm bớt. 2.1.3. Trong giai đoạn thứ ba, doanh nghiệp chú trọng vào lưu thông hay nói chính xác hơn là chú trọng vào tiêu thụ sản phẩm. Để rút ngắn thời gian tiêu thụ cần phải có các xúc tiến marketing hỗn hợp. Việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trong giai đoạn này được thể hiện qua hiệu quả của các chiến lược marketing. Chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp làm tăng doanh thu, giảm chi phí lưu thông và đương nhiên lúc đó, hiệu quả của tư bản sẽ là cao nhất. 2.2. Vốn – vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. Như đã trình bày ở trên, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một chìa khoá quan trọng cho thành công của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên do có những hạn chế nhất định, đề án này chỉ nghiên cứu về vốn và việc quản lý và sử dụng vốn ở phương diện vĩ mô. Để thấy được vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, chúng ta hãy nhìn lại tình hình kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Với tham vọng mau chóng xây dựng một nền kinh tế phát triển toàn diện tự chủ, trong đó công nghiệp hiện đại, giao thông, bưu điện, thương nghiệp quốc doanh tiên tiến…, các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra chiến lược “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Như chúng ta đều biết, công nghiệp nặng là ngành đòi hỏi phải có một lượng tư bản ứng trước lớn, thời gian chu chuyển của các tư bản cố định rất dài, do đó hiệu quả của tư bản đương nhiên không cao và hiệu quả kinh tế thu được rất chậm. Trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ, nền kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát gia tăng, vốn đầu tư hầu hết chỉ dựa vào ngân sách quốc gia. Với điều kiện nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu, đáng ra tư bản phải được đầu tư vào các ngành có thời gian chu chuyển hay tốc độ chu nhanh, còn việc phát triển công nghiệp nặng chỉ có thể phát triển một cách có hiệu quả khi nền kinh tế đã đạt được một số thành tựu nhất định, nguồn vốn lớn. Chính vì sai lầm này, mọi nguồn lực đều được sử dụng vô tội vạ, các nguồn vốn vay nước ngoài, các nguồn viện trợ… đều được đổ vào công nghiệp nặng bất chấp hiệu quả, bất chấp quy luật cung cầu. Hậu quả là ngân sách nhà nước cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng chất, lạm phát tăng, hệ thống công nghiệp nặng đồ sộ không còn được nuôi dưỡng bỗng chốc trở thành gánh nặng kinh tế. Như vậy, có thể thấy rằng việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức quan trọng, đặc biệt là trong việc xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược kinh tế, từ đó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn thích hợp. Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với một nền kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động chủ quan cũng như khách quan. Vì thế việc xác định chính sách công nghiệp hay chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá sao cho phù hợp là bước quan trọng đầu tiên và quan trọng nhất. 2.3. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp. a)Khái niệm : Vốn là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế .Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp.Vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất và giá trị. Về phương diện vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, nhiên liệu,thành phẩm hàng tồn kho…vốn là nhân tố đầu vào đồng thời bản thân nó là kết quả đầu ra của kinh tế.Vốn luôn chuyển động và chuyển hoá hình thái vật chất, cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ.Vốn là tiền tệ là “trung gian” cần thiết để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Trong cơ chế thị trường, ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất, còn có loại vốn tồn tại dưới dạng tài sản có giá trị vô hình như: bằng phát minh,sáng chế, kinh nghiệm tay nghề,bí quyết. Xét trên diện rộng, người ta có thể coi tài nguyên lao động cũng là vốn. Chính vì thế vốn là một nhân tố quan trong không thể thiếu được đối với một doanh nghiệp. Bởi vì phải có vốn thì doanh nghiệp mới đảm bảo được sự vận hành thường xuyên và có khả năng tăng trưởng trong tương lai. Nói một cách khác vốn chính là một tất yếu khách quan của doanh nghiệp.Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát như sau: Vốn là toàn bộ giá trị ứng ra cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện ở nhiều hình thái và tài sản vô hình, cũng như mọi kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp, trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ công nhân viên chức. Sự bảo tồn và tăng trưởng của vốn là nguyên lý và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp. b)Đặc điểm của vốn: Vốn kinh doanh là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. - Vốn kinh doanh có giá trị và giá trị sử dụng. - Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn vận đông không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn theo sơ đồ sau: T-H SLĐ TLLĐ ……… SX ……….H’ …..T’(T’>T) ĐTLĐ Sức lao động tiềm ẩn trong mỗi con người c)Phân loại vốn kinh doanh. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta chia thành các loại vốn sau. + Vốn cố định + Vốn lưu động Vốn cố định của doanh nghiệp Khái niệm vốn cố định . Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần trong nhiều chu kì sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết hạn sử dụng. Đặc điểm Vốn cố định tham gia vào nhiều quá trính sản xuất kinh doanh Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong quá trình sản xuất khi tham gia vào quá trình sản xuất. Sau nhiều chu kì sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển sau mỗi chu kỳ sản xuâts phần vốn đươc lưu chuyển vao giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại dần giảm xuống cho tới khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá trị của nó dược chuyển dịch hết vao giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Vốn lưu động của các doanh nghiệp *Khái niệm Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Tài sản lưu động có ba bộ phận : TSLĐ lưu trữ. TSLĐ trong sản xuất. TSLĐ trong lưu thông. Tài sản lưu động của doanh nghiệp trong doanh nghiệp sản xuất là những vật tư dự trữ như nguyên vật liệuvà sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất. TSLĐ trong lưu thông bao gồm: sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán,cac khoản chi phí chờ kết chuyển,chi phí trả trước… Đặc điểm: - Khởi đàu vòng tuần hoàn vốn lưu động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vạt tư, hang hoá dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất vật tư hàng hoá trở thành bán thành phẩm và thành phẩm kết thúc vòng tuần hoàn khi sản phẩm được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ ban đầu nhưng với một lương lớn hơn (T’ > T). Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục lên cùng một thời điểm vốn lưu động thường tồn tại dưới tất cả các hình thái khác nhau trong các giai đoạn dự trữ sản xuất lưu thông của quá trình sản xuất . Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất . 2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp Xuất phát từ vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Một doanh nghiệp với bát kỳ quy mô nào cần phải có mmột lượng vốn tiền tệ nhất định và việc huy động kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa vô cùng qúa trình quan trọng để các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất và chớp được cơ hội kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển cạnh tranh gay gắt. Do đó để tồn tại và phát triển trong cơ chế này tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường ,đổi mới máy móc thiết bị , cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm , nâng cao chất lượng sản phẩm và giá thành hợp lý nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá ,mang lai lợi nhuận cao. Muốn vậy doanh nghiệp phải có vốn .Vốn trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với tất cả các doanh nghiệp cho qúa trình sản xuất kinh doanh phát triển nghành nghề mới. *Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cung ứng sản phẩm lao động, dịch vụ cho xã hội nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất . Để đạt được mục đích đó các doanh nghiệp phải phối hợp tổ chức ,phải thực hiện đồng bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó vấn đè nâng cao hiệu quả ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV130.doc
Tài liệu liên quan