Thực trạng về tiêu thụ sản phẩm của Công ty da giầy Hà Nội - Chương 2

II. thực trạng về tiêu thụ sản phẩm của công ty da giầy Hà Nội. Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh vì nó kết thúc một chu kỳ kinh doanh và mở ra một chu kỳ kinh doanh mới. Thông qua các chỉ tiêu chúng ta có thể nhận thức đúng đắn khách quan về tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty. Chỉ tiêu doanh thu bán hàng là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh, nó là một trong những điều kiện quan trọng để doanh nghiệp có thể tồn tại và ph

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng về tiêu thụ sản phẩm của Công ty da giầy Hà Nội - Chương 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển. Khi đã đánh giá được các chỉ tiêu chúng ta có thể tìm ra những mặt tồn tại, các nguyên ảnh hưởng khách quan để xây dựng chính sách, kế hoạch kinh doanh trong kỳ tới. Để phân tích đánh giá chính xác kết quả hoạt động tiêu thụ, chúng ta cần xem xét các góc độ khác nhau của hoạt động tiêu thụ cụ thể là những nội dung sau: 1. Phân tích đánh giá kết quả tiêu thụ sản phẩm qua tổng doanh thu và mặt hàng kinh doanh. Thông qua tổng doanh thu và mặt hàng kinh doanh nhà quản trị có thể thấy được doanh thu thực tế của từng mặt hàng so với tổng doanh thu từ đó rút ra được tỷ trọng doanh thu của từng mặt hàng, nắm bắt được mặt hàng nào chiếm tỷ trọng lớn à có triển vọng để định hướng phát triển trong kỳ kinh doanh tới. Đồng thời qua phân tích doanh thu tiêu thụ giúp cho ban lãnh đạo thấy được sự biến động của từng nhóm mặt hàng, biết được điểm mạnh điểm yếu trên cơ sở đó ban lãnh đạo rút ra kinh nghiệm để có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn. Tình hình tiêu thụ theo tỏng doanh thu và mặt hàng kinh doanh của công ty da giày Hà Nội trong thời gian 1998 – 2000 được thể hiện như sau: Công ty da giày Hà Nội tiền thân là nhà máy da Thuỵ Khuê, nó có hai thời ỳ kinh doanh khác nhau. Trước năm 1999 nhiệm vụ chính của công ty là thuộc da, mặt hàng kinh doanh chính của công ty da cứng, da mềm, keo công nghiệp và giầy vải, ngoài ra còn có các sản phẩm xuất khẩu như giầy vải, da có chất lượng. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện qua biểu 1. Qua biểu số 1 cho ta thấy doanh thu bán của công ty qua 3 năm 1996 – 1998 giảm rõ rệt với tỷ lệ giảm lớn. Năm 1996 doanh thu bán ra của công ty đạt 6565,335 triệu đồng. Năm 1997 tổng doanh thu đạt 5065.622 triệu đồng giảm 1499.713 triệu đồng tỷ lệ giảm 22,84% so với năm 1996 năm 1998 tổng doanh thu chỉ đạt 3761 triệu đồng, so với năm 1997 giảm 1304,622 triệu đồng, với tỷ lệ giảm 25,75/%. Qua tình hình tổng doanh thu ta thấy quy mô tiêu thụ sản phẩm về sản lượng và giá trị có sự thay đổi do đó ảnh hưởng chủ quan và khách quan tác động đến tổng doanh thu của công ty. - Thứ nhất là vế sản phẩm chủ yếu. Năm 1996 doanh thu từ những sản phẩm kinh doanh trong nước là 6305,395 triệu đồng chiếm 96,04% trong tổng doanh thu. Năm 1997 doanh thu từ sản phẩm tiêu thụ trong nước đạt 4783,808 triệu đồng chiếm99,44% trong tổng doanh thu, so với năm 1996 thì giảm1521,527 triệu đồng với tỷ lệ giảm 24,13%, xét về tỷ trọng giảm 1,6%. Năm 1998 doanh thu từ sản phẩm tiêu thụ trong nước đạt 3462 triệu đồng, so với năm 1997 giảm 1321,808 triệu đồng với tỷ lệ giảm 38,18% xét về mặt tỷ trọng; năm 1998 chiếm 92,05% so với năm 1997 giảm 2,39%. Như vậy xét cả về tỷ trọng và tỷ lệ năm 1997, 1998 đều giảm chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty là không tốt. Nguyên nhân dẫn đến năm 1997, 1998 doanh thu giảm là do số lượng sản phẩm tiêu thụ thấp hơn 1996, chất lượng sản phẩm giảm xuống không đạt các yêu cầu mà thị trường cần, chủ yếu là do máy móc sản xuất đã lạc hậu, việc xuất hiện nhiều đơn vị thuộc mới tham gia vào thị trường da thuộc, dẫn đến tình hình tiêu thụ của công ty ngày càng khó khăn hơn. Những sản phẩm của công ty chưa phong phú chỉ vẫn là những sản phẩm truyền thống vì vậy tính cạnh tranh trên thị trường của công ty rất kém. Đi vào xem xét từng mặt hàng kinh doanh ta thấy: + Sản phẩm da cứng: Năm 1997 đạt 216,909 triệu đồng so với năm 1996 giảm 14,52 triệu đồng với tỷ lệ giảm tương ứng là 6,27%, xét về mặt tỷ trọng năm 1997 đạt 5,17% trong tổng doanh thu so với năm 1996 giảm 1,65%. Sang năm 1998 doanh thu đạt 149,2 triệu đồng so với năm 1997 giảm 67,709 triệu đồng với tỷ lệ giảm 45,38%, Xét về mặt tỷ trọng năm 1998 chiếm 3,97% so với năm 1997 giảm 1,2%. Như vậy việc sản xuất kinh doanh mặt hàng này là không tốt nguyên nhân da do da cứng là một loại da được dùng ddể làm đế giày, sản xuất dây curoa. Nhưng hiện nay vì đời sống chưa cao những đôi giày đế da có chi phí lớn vì vậy những nhà mua da thường chỉ mua da maù là chủ yếu để làm đế giày còn họ thay thế bằng đế cao su... tuy không tốt bằng da thật nhưng nó rẻ và rất bền đẹp vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến việc tiêu thụ da cứng hiện nay. + sản phẩm da mềm. Sản phẩm da mềm là sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất có sự ổn định hơn các sản phẩm khác. Năm 1996 doanh thu tiêu thụ đạt 2937,326 triệu đồng, năm 1997 đạt 2356,479 triệu đồng. Năm 1997 so với năm 1996 giảm 180,897 triệu đồng với tỷ lệ giảm 16,37%. Năm 1998 đạt 2866,35 triệu đồng. Năm 1998 so với năm 1997 tăng 509,876 triệu đồng với tỷ lệ tăng 21,6%. Xét về mặt tỷ trọng, năm 1997 chiếm 46,52%, năm 1998 chiếm 76,2%. Năm 1997 so với năm 1996 tăng 1,78%. Năm 1998 so với năm 1997 tăng 29,69% như vậy công ty cần chú trọng vào da mềm trong kế hoạch sản phẩm . + sản phẩm keo công nghiệp. sản phẩm keo công nghiệp năm 1997 đạt 197,32 triệu đồng so với năm 1996 tăng 60,24 triệu đồng với tỷ lệ tăng 43,94 xét về tỷ trọng năm 1997 chiếm 3,9% tăng 1,81% so với năm 1996. Sang năm 1998 doanh thu đạt 80,916 triệu đồng so với năm 1997 giảm 116,404 triệu đồng với tỷ lệ giảm 58,99%. Xét về tỷ trọng năm 1998 chiếm 2,15% tổng doanh thu, so với năm 1997 giảm 1,75%. * sản phẩm giầy. Sản phẩm giầy năm 1997 đạt 1968,1 triệu đồng so với năm 1996 giảm 1031,4 triệu đồng với tỷ lệ giảm 34,38%, xét về tỷ trọng năm 1997 chiếm 38,85% trong tổng doanh thu so với năm 1996 giảm 6,84% Namư 1998 doanh thu đạt 365,625 triệu đồng so với năm 1997 giảm 1602,475 triệu đồng với tỷ lệ giảm 81,42%. Xét về tỷ trọng năm 1998 chiếm 9,72% so với năm 1997 giảm 29,13%. Sản phẩm xuất khẩu: Các csp xuất khẩu của công ty chủ yếu là các loại da có chất lượng. Năm 1997 sản phẩm xuất khẩu đạt 281,814 triệu đồng so với năm 1996 tăng 21,814 triệu đồng, với tỷ lệ tanưg 8,39%. Xét về tỷ trọng năm 1997 chiếm 5,56 trong tổng doanh thu, so với năm 1996 tăng 1,6% sang năm 1998 sản phẩm xuất khẩu đạt 299 triệu đồng so với năm 1997 tăng 17,186 triệu đồng với tỷ lệ tăng 6,09%. Xét về tỷ trọng năm 1998 chiếm 7,79% so với năm 1997 tăng 2,39%. Điều này chứng tỏ rằng việc s kinh doanh sản phẩm xuất khẩu rất tốt công ty cần quan tâm. Tóm lại, qua sự phân tích trên cho thấy rằng doanh thu bán hàng ngày càng giảm xuống rõ rệt lý do là do chất lượng sản phẩm đi xuống, không đạt các yêu cầu mà thị trường cần, chủ yếu là do máy móc sản xuất đã lạc hậu. Bên cạnh đó trene thị trường xuất hiện nhiều đơn vị thuộc da mới dẫn đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty ngày càng khó khăn hơn. Những sản phẩm của công ty chưa phong phú vẫn chỉ là sản phẩm truyền thống vì vậy tính cạnh tranh trên thị trường của công ty là rất kém. Thêm vào đó hầu hết các nguyên liệu hiện nay nhập khẩu từ Đài Loan, Trung Quốc. Mặc dù chất lượng có thể không bàng đơn vị trongnước nhưng giá rẻ mẫu mã đẹp hơn vì vậy nó vẫn tiêu thụ tốt. Mặt khác do sản xuất thuộc da làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Đứng trước tình hình này, năm 1998 thực hiện kế hoạch của tổng công ty da giầy Việt Nam công ty chuyển đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh từ da thuộc sang sản xuất kinh doanh giầy dép các loại như giầy vải, giầy da nam nữ, giầy thể thao..., kinh doanh các loại máy móc công cụ.... Bắt đầu từ năm 1999 công ty sản xuất kinh doanh các mặt hàng, chủ yếu giầy vải, giầy da, giầy thể thao và một số các sản phẩm khác. Doanh thu bán hàng được thể hiện qua biểu 2 Qua biểu 2 cho thấy doanh thu bán hàng năm 2000 đạt 25210,699 triệu đồng. Năm 1999 đạt 11.985,891 triệu đồng. Năm 2000 so với năm 1999 tăng 13.224.808 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 110,34%. Doanh thu bán hàng tăng là do. Doanh thu các sản phẩm chủ yếu tăng. Năm 2000 đạt 17.734,188 triệu đồng so với năm 1999 tăng 10.171,622 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 134,50% xét về tỷ trọng sản phẩm chủ yếu năm 2000 chiếm 70,34% trong tổng doanh thu tăng 7,25% so với năm 2000. Doanh thu các sản phẩm khác tăng gồm dép xăng đan, dép đi trong nhà, ví da, túi xách nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất giầy dép. Năm 2000 đạt 7.476,511 triệu đồng so với năm 1999 tăng 3.053,176 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 69,02%. Xét về mặt tỷ trọng , doanh thu các sản phẩm khác chiếm 29,66%. Xét về mặt tỷ trọng, doanh thu các sản phẩm khác chiếm 29,02% giảm 7,25% so với năm 1999. Trong các mặt hàng chủ yếu thì giầy vải chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là giầy da và sau cùng là giầy thể thao, cụ thể là: Mặt hàng giầy vải. Doanh thu mặt hàng này năm 2000 đạt 12.544,362 triệu đồng, so với năm 1999 tăng 5.249,125 triệu đồng tỷ lệ tăng 71,86%. Xét về mặt tỷ trọng năm 2000 chiếm 49,79% trong tổng doanh thu so với năm 1999 giảm 11,16%. Mặt hàng giầy da: Doanh thu mặt hàng này tăng. Năm 2000 đạt 3.509,276 triệu đồng so với năm 1999 tăng 3.251,857 triệu đồng với tỷ lệ tăng 1263,25%, xét về tỷ trọng năm 2000 chiếm 13,925 trong tổng doanh thu, so với năm 1999 tăng 11,78%. Mặt hàng giầy thể thao: Doanh thu mặt hàng này năm 2000 đạt 1.670.550 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 6,63% trong tổng doanh thu. Đây là mặt hàng mới bắt đầu xâm nhập vào thị trường. Vậy qua sự phân tích trên cho thấy rằng, doanh thu bán hàng tăng nhanh trong hai năm qua hai năm 1999 – 2000 với tốt độ rất nhanh 110,34% và mặt hàng giầy vải là mặt hàng chủ lực, truyền thống của công ty. Công ty cần quan tâm hơn đến số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, dễ đáp ứng nhanh nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng xét về tỷ trọng mặt hàng này năm 2000 giảm so với năm 1999 Nguyên nhân là do năm 2000 có nhiều biến động về thị trường thế giới và khu vực. * sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Nước ngoài có Trung Quốc một đất nước hơn 1 tỷ dân, giá lao động rẻ, có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn Việt Nam, sản phẩm đa dạng phong phú giá rẻ có tính cạnh tranh cao. Bên cạnh đó có các công ty trong nước như công ty giầy Thăng Long công ty da giầy Thượng Đình. Về mặt hàng giầy thể thao là mặt hàng mũi nhọn đang được thị trường chấp nhận. Mặt hàng giầy da mặc dù là tỷ trọng không lớn nhưng tăng rất nhanh và tốc độ tăng doanh thu rất lớn 126,25%. Nguyên nhân là do bắt đầu từ tháng 8/1999 công ty mới quyết định tận dụng dây chuyền sản xuất giầy da cũ để đầu tư dây chuyền giầy nữ. Năm 1999 chưa được sản xuất nhiều, sang năm 2000 mới phát huy được công suất và mặt hàng này đã được thị trường chấp nhận. Thị trường tiêu thụ chủ yếu của mặt hàng này là Anh, Newzecaland, Halya và một số thị trường khác. Vậy mặt hàng giầy da chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, còn tiêu dùng trong nước là rất ít. Công ty quan tâm hơn nữa đến mặt hàng này để mở rộng thị trường tiêu thụ; còn đối với mặt hàng giầy thể thao là mặt hàng mới chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, thị trường chính là Thuỵ Điển. Trong những năm tới công ty cần mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước để tăng doanh số bán ra. Còn các sản phẩm khác như dép xăng Đảng, dép đi trong nhà, ví da, túi sách, thắt lưng, máy móc, công cụ.... là da dạng chủng loại sản phẩm tăng thu nhập cho công ty. Tóm lại qua 2 biểu trên chứng tỏ việc chuyển đổi ngành nghề của công ty là đúng đắn giúp cho công ty dần dần phục hồi và phát triển, lấy lại lòng tin đối với khách hàng. Doanh thu bán hàng ngày càng tăng, tính từ năm 1999- 2000 trong những năm tới công ty sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, thu hút sự chú ý của khách hàng bằng giá cả, chất lượng mẫu mã sản phẩm. Năm 2000 công ty đã được cấp chứng chỉ ISO 9002 cho xí nghiệp sản xuất giầy vài. Đó là thành công to lớn đối với toàn công ty. Bước đầu đánh giá những bước đi đúng đắn của toàn công ty, tạo điều kiện để cho việc áp dụng ISO 9002 cho xí nghiệp giầy vải năm 2001 tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm nâng cao năng xuất lao động để đáp ứng nhu cầu thị trường. 2. Phân tích và đánh giá tình hình tiêu thụ theo phương thức hình thức tiêu thụ. Để tiêu thụ sản phẩm đối với mọi doanh nghiệp cả doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất đều phải chuẩn bị cho mình những phương thức bán khác nhau, muốn đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp cần tìm hiểu, phân tích nghiên cứu các phương thức bán để thu được hiệu quả cao nhất. Công ty da giầy Hà Nội có chức năng vừa sản xuất vừa kinh doanh xuất khẩu cho nên hình thức tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là bán buôn và xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu trực tiếp và uỷ thác. Tình hình tiêu thụ sản phẩm được thể hiện qua biểu 3. Qua biểu 3 ta thấy doanh thu bán hàng chủ yếu là xuất khẩu còn bán trong nước rất ít. Doanh thu bán hàng trong nước thì bán buôn là chủ yếu. Công ty vẫn tăng cường bán buôn song bán lẻ cũng rất quan trọng vì bán lẻ giúp công ty có nhiều khách hàng về mình cho nên công ty cần chú trọng mở rộng thị trường và khuếch trương các địa điểm bán lẻ của mình. Về bán buôn: Doanh thu bán hàng năm 2000 đạt 4.675,752 triệu đồng chiếm tỷ trọng 18,55% trong tổng doanh thu so với năm 1999 doanh thu bán hàn tăng 2.974,562 triệu đồng với tỷ lệ tăng 174,85%. Xét về tỷ trọng năm 2000 tăng 4,36% so với năm 1999. Điều này chứng tỏ hoạt động bán buôn của công ty là rất tốt. Công ty đã có các mức giá khác nhau áp dụng cho bán buôn và bán lẻ. Về bán lẻ doanh thu bán hàng năm 2000 đạt 606,59 triệu đồng chiếm tỷ trọng 2,4% trong tổng doanh thu bán hàng. So với năm 1999 doanh thu bán hàng tăng 85,139 triệu đồng tỷ lệ tăng 16,33%. Nhưng xét về tỷ trọng năm 2000 giảm 1,95% so với năm 1999. Điều này chứng tỏ hoạt động bán lẻ thông qua các đại lý còn bán trực tiếp thì rất ít. Công ty đã và đang mở rộng các đại lý của hàng bán hàng ở Hà Nội và các vùng lân cận. Các đại l, cửa hàng được bố trí khang trang, tiện lợi cho việc mua bán, nhân viên bán hàng có trình độ, hiểu biết về sản phẩm của công ty. Công ty tham gia vào các hội chợi triển lãm với mục đích là quảng cáo giới thiệu sản phẩm là chính. Công ty đã quan tâm đến chất lượng, mẫu mã giá cả của sản phẩm nhưng vẫn chưa được tốt, công ty đã đầu tư vào các dây chuyền sản xuất nhưng sản phẩm của công ty chưa đáp ứng được hết nhu cầu của người Việt Nam. Vì vậy mà công ty cần có các biện pháp cụ thể hơn để tăng doanh thu bán lẻ để tiếp xúc với khách hàng nhiều hơn từ đó hiểu được tâm lý, nhu cầu về sản phẩm của khách hàng nhiều hơn. Về xuất khẩu thì xuất khẩu trực tiếp là chủ yếu còn xuất khẩu gián tiếp chiếm tỷ trọng nhỏ song sang năm 2000 thì công ty chuyển snag xuất khẩu trực tiếp 100%. Điềunày là rất tốt giúp công ty tiếp xúc trực tiếp với khách hàng sẽ hiểu được nhu cầu của khách hàng của thị trường hơn, mặt hàng khác không phải chia sẻ lợi nhuận. Để đạt được kết quả này công ty đã đầu tư trang bị cho mình một mạng lưới tiêu thụ rộng khắp bằng các đơn chào hàng lớn, nhỏ, qua các mối quan hệ làm ăn lâu dài với khách hàng, thông qua sự giúp đỡ của tổng công ty da giầy Việt Nam, của các công ty bạn như công ty giầy Hiệp Hưng. Bên cạnh đó công ty tham gia hội chợ, triển lãm trong và ngoài nước, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm trên mạmg Internet, thư điện tử.... Công ty sử dụng một số điều kiện ưu đãi nhằm khuyến khích cho người mua hàng của công ty bằng cách trả chậm không tính các chi phí vận chuyển bốc dỡ, với những lô hàng lớn công ty áp dụng mức thưởng là 2% tức là cứ mỗi khách hàng nào mua sản phẩm của công ty cũng được hưởng 20% trên tổng giá trị và được trừ luôn khi thanh toán. Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty được áp dụng theo các phương thức cơ bản sau: Phương thức tiêu thụ trực tiếp; khách hàng đến công ty để mua không thông qua trung gian, môi giới phương thức này công ty thường áp dụng cho những khách hàng gần địa bàn công ty. Phương thức tiêu thụ gián tiếp: Tiêu thụ sản phẩm thông qua khâu trung gian môi giới. Phương thức tiêu thụ hỗn hợp: Đó là sự kết hợp đan xen nhau của hai phương thức tiêu thụ trực tiếp và tiêu thụ gián tiếp. Đây là phương thức phổ biến mà công ty áp dụng. Tuy công ty đã có đủ phương thức tiêu thụ cơ bản mà một doanh nghiệp cần phải có, nhưng việc áp dụng chúng của công ty chưa có hiệu quả lắm. Công ty vẫn chưa cải tiếp phương thức để có thể tăng thêm khách hàng như ở phương thức tiêu thụ trực tiếp. Công ty cần chủ động tìm đến khách hàng hơn không nên ngồi chờ khách hàng đến, vì như thế lượng khách hàng của công ty mới tăng lên được. Công tác Marketing chưa được chú trọng, giới thiệu sản phẩm còn ít làm cho khách hàng không hiểu rõ về sản phẩm của công ty. Công tác khuếch trương quảng cáo của công ty còn chưa sản phẩm mạnh người tiêu dùng chỉ biết đến sản phẩm của công ty thông qua nhãn mác sản phẩm, qua hội chợ triển lãm, và các cửa hàng đại lý của công ty. Tóm lại, có thể việc nghiên cứu và đưa ra một hình thức, thức tiêu thụ tốt, hợp lý sẽ giúp rất nhiều cho việc tiêu thụ sản phẩm. Công ty cần có các biện pháp để đẩy mạnh hoạt động bán buôn, bán lẻ và kết hợp giữa bán buôn và bán lẻ. 3. Phân tích và đánh giá tình hình tiêu thụ theo thị trường của công ty trong hai năm 1999- 2000 hiện nay công ty da giầy Hà Nội do tạo dựng được nhiều mối quan hệ với bạn hàng tạo được thị trường tương đối ổn định vững chắc cho cả giầy vải và giầy da nam nữ, giầy thể thao và nhiều sản phẩm khác như ví da thắt lưng, dép xăng đan...... giầy dép của công ty được xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới như: Đức, Pháp, Anh... bên cạnh việc sản xuất và xuất khẩu công ty đã triển khai mở rộng chiếm lĩnh thị trường trong nước và hiện tại công ty có gần 40 cửa hàng đại lý và giới thiệu sản phẩm từ Bắc vào Nam kết quả tiêu thụ thể hiện qua biểu 4. Nhìn vào biểu 4 ta thấy tổng doanh thu bán hàng tăng lên. Năm 2000 tăng 13.224,808 triệu đồn so với năm 1999 tỷ lệ tăng 110,34%. Nguyên nhân là do: +Doanh thu xuất khẩu tăng. Doanh thu xuất khẩu năm 2000 đạt 19.928,357 triệu đồng chiếm tỷ trọng 79,05 %. So với năm 1999 tăng 10.165,107 triệu đồng , với tỷ lệ tăng 104,12% nhưng về tỷ trọng giảm 2,41%qua đây thấy doanh thu xuất khẩu chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng doanh thu, mặc dù tỷ ọng năm 2000 giảm so với năm 1999 nhưng không đáng kể. Nguyên nhân là do sự giảm giá của đồng Euro đã ảnh hưởng đến giá cả giầy dep xuất khẩu vào thị trường EUvà dẫn tới sản phẩm giầy xuất khẩu vào thị trường EU giảm. Mặt hác do sản phẩm của đối thủ cạnh tranh của Trung Quốc có nhiều ưu thế hơn về mẫu mã, giá cả, chất lượng. Để khắc phục được tình trạng này công ty cần quan tâm hơn nữa đến chất lượng mẫu mã, giá cả sao cho hợp lý đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng để tăng sức cạnh tranh trên thương trường. Đặc biệt quan tâm đến giầy vải, giầy da, giầy thể thao xuất khẩu. + Doanh thu trong nước tăng: năm 2000 doanh thu trong nước đạt 5.282,342 triệu đồng chiếm tỷ trọng 20,95%. So với năm 1999 doanh thu tăng 3.059,702 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 137,66% tỷ lệ tăng 2,41%. Như vậy tình hình tiêu thụ trong nước là tốt, công ty đã và đang có chỗ đứng trên t, lấy lại lòng tin đối với khách hàng. Công ty cần phát huy và mở rộng tiêu. Doanh thu trong nước có: Doanh thu sản phẩm giầy dép, đồ da các loại. Năm 2000 doanh thu tiêu thụ đạt 1.504,51 triệu đồng chiếm tỷ trọng 5,97% so với năm1999 doanh thu tăng 203,32 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 15,62% nhưng xét về tỷ trọng giảm 4,86%. Như vậy tình hình sản xuất kinh doanh của công ty chưa được tốt nguyên nhân do mặt hàng của công ty còn mới, khách hàng chưa biết nhiều về sản phẩm của công ty. nhiệm vụ của công ty là bán ký gửi trên các đại lý với mục đích giới thiệu sản phẩm là chính,vì vậy doanh số bán ra chưa cao. Doanh thu từ các mặt hàng như keo công nghiệp, nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất giầy dép, máy móc, công cụ , dụng cụ điện dân dụng. Doanh thu năm 2000 đạt 3.777,832 triệu đồng chiếm tỷ trọng 14,98% chứng tỏ tình hình tiêu thụ mặt hàng này rất tốt. Công ty cần mở rộng thêm thị trường tiêu thụ để đa dạng các mặt hàng kinh doanh tăng doanh thu bán hàng, tránh được những rủi ro trong kinh doanh. Tóm lại, qua sự phân tích trên cho thấy được răng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty là hướng về xuất khẩu coi đó là hoạt động mũi nhọn có vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Còn hoạt động tiêu thụ trong nước chỉ là hỗ trợ tăng thêm nguồn thu cho công ty, mở rộng thị trường tiêu thụ, các cửa hàng trong nước chủ yếu là để giới thiệu sản phẩm với khách hàng trong và ngoài nước. Vậy công ty cần có các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu phát triển mạnh hơn nữa trong các năm tới như nghiên cứu thị trường xuất khẩu, các chính sách ưu đãi đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, đồng thời nâng cao chất lượng giầy vải, giầyda, giầy thể thao vì thị trường xuất khẩu chính của công ty là thị trường EU mà người dân ở đây có sở thích dùng giầy vải. Đâylà cơ hội cho công ty phát triển hết công xuất sản xuất của hai dây chuyền sản xuất giầy vải và một dây chuyền sản xuất giầy da. Một lần nữa khẳng định sự đầu tư của công ty là hoàn toàn đúng đắn. Bên cạnh đó công ty cần quan tâm đến thị trường trong nước, một thị trường có nhiều tiềm năng trong hiện tại cũng như tương lai. Thu nhập của người dân cũng dần được nâng cao, vì vậy nhu cầu về sản phẩm đồ da tăng, và sản phẩm đồ da đa dạng là mốt được khách hàng ưa chuộng. Đó là lợi thế của công ty da giầy Hà Nội. Vậy để hiểu rõ về thị trường tiêu thụ của công ty ta đi phân tích và đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty theo từng khu vực thị trường. 3.1. thị trường xuất khẩu. Việc nghiên cứu thị trường là một việc làm không thể thiếu được trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Thị trường là vấn đề quan tâm đầu tiên. Một công ty muốn hoạt động xuất khẩu phải có thị trường xuất khẩu. Theo lý thuyết Marketing hiện đại thì mọi việc đều bắt đầu từ thị trường, từ khách hàng, từ người tiêu dùng. Công ty da giầy Hà Nội mới chú trọng hoạt động xuất nhập khẩu trong một vài năm trở lại đây nên thị trường xuất khẩu không nhiều. Thị trường xuất khẩu hiện nay của công ty là một số nước như Anh, Pháp, Đức...... kết quả tiêu thụ được thể hiện qua 5 biểu: Nhìn vào biểu 5 ta thấy doanh thu xuất khẩu tăng nhanh. Năm 2000 đạt 199928,375 triệu đồng. Năm 1999 đạt 9763,25 triệu đồng. Năm 2000 so với năm 1999 tăng 10165,125 triệu đồng với tỷ lệ tăng 104,12%. Doanh thu xuất khẩu tăng đó là do: + Doanh thu qua thị trường Anh: Năm 2000 đạt 955,63 triệu đồng so với năm 1999 tăng 3857,39 triệu, với tỷ lệ tăng 351,223%. Xét về tỷ trọng doanh thu tại thị trường Anh chiếm 25,07% tăng 13,82% so với năm 1999. Nguyên nhân tăng nhanh như vậy là do năm 1999 công ty chỉ có thể xuất khẩu giầy vải sang năm 2000 cộng thêm có cả giầy da. + Thị trường Pháp: Doanh thu tiêu thụ năm 2000 đạt 2118,21 triệu đồng so với năm 1999 tăng 176,98 triệu đồng , xét về tỷ trọng doanh thu năm 2000 chiếm tỷ trọng 10,63% giảm 9,35% so với năm 1999. + Thị trường Đức: Doanh thu xuất khẩu năm 2000 đạt 5319,85 triệu so với năm 2000 tăng 1679,3 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 46,13%. Nhưng xét về mặt tỷ trọng năm 2000 chiếm 26,69% so với năm 2000 giảm 10,6%. + thị trường Hà Lan: Doanh thu xuất khẩu năm 2000 đạt 1721,33 triệu đồng chiếm 8,6% trong tổng doanh thu so với năm 1999 tăng 725,58 triệu đồng với tỷ lệ tăng 72,87 % nhưng về tỷ trọng giảm đi 1,59%. + thị trường Thuỵ Sĩ: Doanh thu xuất khẩu năm 2000 đạt 2678,47 triệu đồng chiếm 13,44 % trong tổng doanh thu xuất khẩu, so với năm 1999 tăng 1236,09 triệu đồng với tỷ lệ tăng 85,69% nhưng về tỷ trọng giả 1,33%. + thị trường Thuỵ Điển: Doanh thu tiêu thụ năm 2000 đạt 755,98 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 3,79% trong tổng doanh thu. + thị trường úc và Newzealand: Doanh thu tiêu thụ năm 2000 đạt 975,42 triệu đồng chiếm tỷ trọng 4,47% trong tổng doanh thu. + thị trường khác: bao gồm Bỉ, Hà Lan, Đài Loan.... doanh thu tiêu thụ năm 2000 đạt 1403,985 triệu đồng chiếm tỷ trọng 7,04% so với năm 1999 tăng 767,885 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 120,72%, xét về tỷ trọng năm 2000 tăng 0,52% so với năm 1999. Qua sự phân tích trên ta thấy rằng doanh thu tiêu thụ qua các nước tăng lên rõ rệt. Trong các nước trên thì nổi trội vẫn là các nước Anh, Đức, Thuỵ Sĩ, Pháp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu xuất khẩu. Các nước này là khách hàng truyền thống của công ty, họ có quan hệ làm ăn buôn bán lâu đời, còn các thị trường khác doanh thu tiêu thụ chiếm tỷ tọng nhỏ không đáng kể mà chủ yếu là khách hàng mới như Thuỵ Điển, úc, Newzealand. Sang năm 2000 công ty mới mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu sang Thuỵ Điển là giầy thể thao, còn sang úc, Newzealand là giầy da. Đây cũng là hai mặt hàng mới mà công ty bắt đầu chú trọng sản xuất kinh doanh từ cuối năm 1999. Điều này chứng tỏ sản phẩm của công ty đã và đang xâm nhập vào thị trường và được thị trường chấp nhận. Còn năm 1999 ngoài mấy thị trường chính ra thì công ty xuất qua công ty giầy Hiệp Hưng, chưa tìm kiếm được thị trường mới. Qua đây ta thấy được là một sự thành công của công ty. Bên cạnh đó mặc dù doanh thu tăng nhưng xét về tỷ trọng thì doanh thu tiêu thụ ở các nước Pháp, Đức, Hà Lan, Thuỵ Sĩ đều giảm. Vậy công ty cần tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp khắc phục. Tóm lại qua sự phân tích trên ta thấy hương xuất khẩu sản phẩm tập trung vào EU. Sở dĩ có được điều này là do chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu. Chỉnh phủ có các nghị định như ghị định 57/CP đã mở rộng đối tượng xuất khẩu, chủ thể tham gia kinh doanh xuất khẩu ở các thành phần kinh tế. Việt Nam được hưởng quy ché ưu đãi chung GSP (General System of Preference) . Đây là hệ thống ưu dãi phổ cập là cơ chế chủ yếu của các nước phương tây nhằm miễn thuế cho các nước kém phát triển. Theo quy chế này sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang EU được hưởng ưu đãi về thuế. Trong khi đó các nước xuất khẩu lớn như Đài Loan, Hàn Quốc không được hưởng ưu đãi này. Do đó Việt Nam được lợi thế ưu đãi về thuế quan, giá bán hạ thấp tương đối, thu hút được người tiêu dùng, mở rộng thị trường xuất khẩu. thị trường EU hiện nay vẫn là thị trường tiềm năng có mức tiêu dùng cao họ có mức tiêu dùng về giầy cao nhất thế giới 6-7 đôi/năm/người. Hiện nay công ty tập trung vào các đơn đặt hàng lớn của các khách hàng truyền thống như: Anh, Pháp, Đức, Thuỵ Sĩ đồng thời mở các chiến dịch tìm kiếm thị trường mới thông qua các đơn đặt hàng nhỏ. Các đơn đặt hàng vừa và nhỏ có mục đích thăm dò thị trường. Với các đơn đặt hàng này, công ty có thể chú trọng vào mẫu mã chất lượng sản phẩm, giá cả phải chăng coi như chào bán sản phẩm ở thị trường mới. Công ty không ngừng đổi mới mẫu mã chất lượng sản phẩm để giữ vững thị trường tiêuthụ đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ. Để nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường xuất khẩu công ty đã triển khai công tác Marketing như tham gia hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế, quảng bá sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng như hào mạng Internet, thư điện tử...... để chao hàng và giới thiệu sản phẩm.Công ty có chính sách giá ưu đãi đối với khách hàng, đưa mẫu đi giới thiệu sản phẩm. Công ty có chính sách giá ưu đãi đối với khách hàng truyền thống, thanh toán có thể trả ngay hoặc trả chậm ưu tiên giao hàng trước khi họ có nhu cầu. Bên cạnh những thuận lợi công ty còn gặp những khó khăn sau: + Sự cạnh tranh quyết liệt của sản phẩm Trung Quốc. Đây là một đối thủ giầu tiềm năng một nguồn cung cấp sản phẩm lớn. Đặc biệ sau hiệp định thương mại Trung – Mỹ đã ký kết thì phần lớn các đơn đặt hàng xuất khẩu bị hút vào thị trường này khá nhiều. Trung Quốc chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Trung Quốc đã chủ động sản xuất được hầu hết nguyên phụ liệu cho ngành giầy da nên đa dạng về mấu chốt và giá thành của Trung Quốc thấp hơn của Việt Nam từ 10- 20%. Ngoài ra còn có sự cạnh tranh của các công ty giầy trong nước như giầy Thuỵ Khuê, Thăng LOng, Thượng Đình.... làm cho lượng giầy xuất khẩu của công ty bị hạn chế, đặc biệt là giầy vải. + Sự mất giá của đồng EURO đã ảnh hưởng lớn đến khối lượng giầy dép xuất khẩu vào thị trường EU, dẫn tới xuất khẩu vào thị trường EU giảm đáng kể. Vì các nguyên nhân trên cho tỷ trọng doanh thu tiêu thụ ở các nước Pháp, Đức..... giảm hẳn so với năm 1999. Ngoài thị trường xuất khẩu trên công ty còn có thị trường tiêu thụ trong nước. 3.2. Thị trường trong nước. Như đã nói ở trên thị trường là vô cùng quan trọng đối với khâu tiêu thụ sản phẩm. Vậy việc nghiên cứu thị trường là việc không thể thiếu được đối với bất kỳ một công ty nào. Cũng như thị trường xuất khẩu, thị trường trong nước cũng có những điểm mạnh, điểm yếu của nó. Đặc biệt là đối với mặt hàng giầy dép thì tiêu thụ trong nước là không thể thiếu được vì mặt hàng này ai cũng có nhu cầu chỉ khác là ở mức độ cao hay thấp. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, công ty da giầy Hà Nội đã và đang cho ra hàng loạt sản phẩm mới với đủ chủng loại mâu mã, mầu sắc. sản phẩm của công ty đã được bán trên đại lý ở khắp cả nước. Doanh thu tiêu thụ được thể hiện qua biểu 6 . Doanh thu bán hàng năm 2000 đạt 145,54 triệu đồng chiếm tỷ trọng 9,67% trong tổng doanh thu so với năm 1999 tăng 5,62 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 4,02% nhưng tỷ trọng giảm 1,08%. + Đại lý 63 Hàng Bồ: Doanh thu bán hàng năm 2000 đạt 189,95 triệu đồng chiếm tỷ trọng 12,6% trong tỏng doanh thu các sản phẩm giầy dép. So với năm 1999 tăng 14,67% với tỷ lệ tăng 8,37% nhưng tỷ trọng giảm 0,85%. + Đại lý 47 Quán Thánh: Doanh thu bán hàng năm 2000 đạt 132,24 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 8,79%. So với năm 1999 tăng 16,71 triệu đồng với tỷ lệ tăng 14,46% tỷ trọng giảm 0,09%. Doanh thu bán hàng năm 2000 đạt 110,5 triệu đồng chiếm tỷ trọng 7,34% so với năm 1999 doanh thu bán hàng tăng 11 triệu với tỷ lệ tăng 11,05 triệu đồng nhưng tỷ trọng giảm 0,31 triệu đồng. Như vậy qua phân tích trên cho ta thấy mặc dù doanh thu bán hàng của các đại lý đều tăng nhưg xét về mặt tỷ trọng giảm chứng tỏ việc kinh doanh của các đại lý này chưa thật tốt. Nguyên nhân là do công ty mới chuyển đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh từ thuộc da sản xuất kinh doanh mặt hàng giầy dép. Vì vậy mà mặt hàng giầy dép vẫn còn mới mẻ đối với khách hàng. Việc mở rộng các đại lý và các cửa hàng với mục đích là để bán và giới thiệu sản phẩm nhưng giới thiệu sản phẩm là chính. Qua các đại ký của khách hàng có và đại lý của công ty được trang bị đầy đủ về cơ sở vât chất để phục vụ bán hàng. Khách hàng có thể tự chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình, vì các sản phẩm của công ty được niêm yếu giá, tiết kiệm được thời gian mua sắm của khách hàng, Nhân viên bán hàngchỉ là người chỉ dẫn, thu tiền và giải thích nếu khách hàng yêu cầu. Mỗi sản phẩm của công ty đều có nhãn hiệu riêng, phân biệt với c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28181.doc
Tài liệu liên quan