Thực trạng Xuất khẩu hàng hoá & hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam sang thị trường ASEAN

Chương I: Cơ sở lý thuyết của thương mại quốc tế và vai trò của xúc tiến thương mại đối với xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Cơ sở lý thuyết của xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1. Các lý thuyết chính về trao đổi thương mại quốc tế Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A. Smith Theo A.Smith: Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Một nước được coi là

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng Xuất khẩu hàng hoá & hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam sang thị trường ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong việc sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được nhiều hơn sản phẩm A ở nước thứ nhất hơn nước thứ hai. A.Smith cũng cho rằng, nếu quốc gia chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí hiệu quả hơn nước khác. Ví dụ: Lượng lúa gạo và vải vóc có thể được sản xuất với một đơn vị nguồn lực ở Việt Nam và Hàn Quốc như sau: Bảng 1: Ví dụ về lợi thế tuyệt đối Nước Lúa gạo (tạ) Vải (mét) Việt Nam 10 6 Hàn Quốc 5 10 Căn cứ số liệu ở bảng trên thì Việt Nam có lợi thế tuyệt đối về lúa gạo vì cùng một đơn vị nguồn lực Việt Nam có thể sản xuất được 10 tạ lúa gạo trong khi Hàn Quốc chỉ sản xuất được 5 tạ lúa gạo, vì thế Việt nam sẽ chuyên môn hoá sản xuất lúa gạo để trao đổi thương mại quố tế. Giải thích tương tự, Hàn Quốc có lợi thế tuyệt đối về vải và nước này nên chuyên môn hoá sản xuất vảI để tham gia thương mại quốc tế. Nhờ sự chuyên môn hoá, các nước có thể gia tăng hiệu quả do: (1) người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao tác nhiều lần; (2) người lao động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản xuất sản phẩm này sang sản phẩm khác và (3) do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ nảy sinh ra sáng kiến đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn. Tuy nhiên, một nước nên chuyên môn hoá vào những sản phẩm nào? Mặc dù, A. Smith cho rằng thị trường chính là nơi quyết định nhưng ông vẫn nghĩ rằng lợi thế của một nước có thể là lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực của nước đó. Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện khí hậu và tự nhiên. Còn lợi thế do nỗ lực là lợi thế có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề. Điều kiện tự nhiên có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất có hiệu quả rất nhiều sản phẩm như chè, cà phê, cao su..., các loại khoáng sản. Nhưng ngày nay, người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai hoặc sơ chế, quy trình sản xuất các loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào “lợi thế do nỗ lực”. Lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, lợi ích ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu một nước có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu, và ngoại thương diễn ra như thế nào? Lý thuyết về lợi thế so sánh của D.Ricardo sẽ là câu trả lời cho câu hỏi này. Theo D.Ricardo, cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là: - Mọi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu từ nước khác. - Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn so với nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng. Như vậy, một nước A gọi là có lợi thế so sánh so với một nước khác về một mặt hàng nào đó khi việc sản xuất ra mặt hàng đó ở nước A có chi phí cơ hội thấp hơn. Ví dụ: 1.3Lý thuyết của Hecksher – Ohlin ( Lý thuyết H/O hay Mô hình H/O) về mối quan hệ giữa các yếu tố sẵn có và chuyên môn hoá quốc tế Lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo vẫn chưa giải thích được nguyên nhân xuất hiện lợi thế so sánh, và vì sao các nước khác nhau lại có chi phí cơ hội khác nhau. Để khắc phục hạn chế này, hai nhà kinh tế học Thuỵ Điển là Eli Hecksher và B. Ohlin trong tác phẩm “Thương mại liên khu vực và quốc tế’ xuất bản năm 1993 đã phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo bằng việc xác định nguồn gốc của lợi thế so sánh chính là sự ưu đãi về các yếu tố sản xuất mà kinh tế học phát triển đương đại vẫn gọi là nguồn lực sản xuất. Do đó, lý thuyết của Hecksher – Ohin còn được gọi là lý thuyết lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất sẵn có, đã tính đến những khác biệt về cung ứng yếu tố (chủ yếu là đất đai, lao động và vốn) khi chuyên môn hoá quốc tế. Lý thuyết này chứng minh rằng, một nước sẽ thu lợi qua buôn bán nếu xuất khẩu một hàng hoá được sản xuất bằng việc sử dụng ở mức cao yếu tố sản xuất mà nước đó có tương đối nhiều (và rẻ) và nhập những hàng hoá mà việc sản xuất đòi hỏi sử dụng ở mức cao các yếu tố sản xuất mà ở nước mình có ít. Thương mại quốc tế dựa vào những khác biệt về yếu tố sản xuất hiện có của mỗi nước, ví dụ Việt Nam có nhiều lao động và Nhật Bản có nhiều vốn. Việt Nam có lợi thế so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều lao động (chẳng hạn sản phẩm dệt) và Nhật Bản có lợi thế so sánh về những hàng hoá đòi hỏi nhiều vốn; điều đó cũng có nghĩa là chi phí cơ hội của hàng dệt (đo bằng sản lượng thép để sản xuất ra một đơn vị hàng dệt) ở Nhật lớn hơn ở Việt Nam. Lý thuyết H/O dựa trên hai giả định quan trọng: Một là, các sản phẩm khác nhau cần các yếu tố sản xuất ở các tỷ lệ khác nhau. Ví dụ, sản phẩm nông nghiệp nói chung cần tỷ lệ lao động tương đối lớn hơn trên mỗi đơn vị vốn, trong khi sản phẩm công nghiệp cần nhiều thời gian máy (vốn) hơn trên mỗi công nhân so với hầu hết các sản phẩm nguyên khai. Các tỷ lệ mà trong đó các yếu tố thực sự được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm khác nhau sẽ phụ thuộc vào các giá tương đối. Tuy nhiên, bất kể các yếu tố có thế nào chăng nữa, một số sản phẩm nhất định sẽ luôn luôn cần tương đối nhiều vốn hơn trong khi một số khác thì sẽ cần tương đối nhiều lao động hơn. Hai là, các nước sẵn có các yếu tố sản xuất khác nhau. Một số nước có số vốn lớn trên mỗi công nhân và do vậy gọi là “dư thừa vốn” trong khi các nứơc khác lại có ít vốn và nhiều lao động, do đó được gọi là “dư thừa lao động”. Nói chung, các nước phát triển được coi là tương đối dư thừa vốn (người ta cũng nói thêm rằng họ có nhiều lao động có kỹ năng hơn), trong khi các nước đang phát triển có ít vốn và nhiều lao động không có kỹ năng, nghĩa là họ là các nước dư thừa lao động. Nói cách khác , cơ sở của mậu dịch nảy sinh không phải vì có sự khác biệt vốn có về công nghệ trong năng suất lao động đối với các sản phẩm khác nhau giữa các nước khác nhau, mà bởi vì các nước sẳn có các yếu tố khác nhau. Lý thuyết này đã giải thích hiện tượng thương mại quốc tế là do trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước đều hướng đến chuyên môn hoá các ngành sản xuất cho phép sử dụng nhiều nhất các nhân tố sản xuất mà đối với nước đó là thuận lợi nhất (ví dụ như tài nguyên thiên nhiên, lao động hay vốn...). Nói cách khác, theo lý thuyết H/O, một số nước có lợi thế so sánh hơn trong việc xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của mình là do việc sản xuất những mặt hàng đã được sử dụng nhiều yếu tố sản xuất mà nước đó có lợi thế hơn một số nước khác. Chính sự ưu đãi về các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản xuất này (gồm vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khí hậu...) đã khiến một số nước có chi phí cơ hội thấp hơn ( so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá khác) khi sản xuất các sản phẩm hàng hoá đó. Lý thuyết H/O còn đưa ra quy luật về tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất mà về sau được các nhà kinh tế học mở rộng và phát triển. Nội dung của quy luật này là “một nước sẽ xuất khẩu loại hàng hoá mà việc sản xuất nó cần sử dụng yếu tố rẻ và tương đối sẳn có của nước đó và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và tương đối khan hiếm hơn ở nước đó”. Tuy còn có những khiếm khuyết lý luận trước thực tiễn phát triển phức tạp của thương mại quốc tế ngày nay, song quy luật này vẫn đang là quy luật chi phối động thái phát triển của thương mại quốc tế và có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là đối với các nước chưa phát triển bởi vì những nước này đa số là những nước đông dân, thừa lao động nhưng nghèo vốn, do đó trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước cần tập trung xuất khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều lao động và nhập khẩu những hàng hoá sử dụng nhiều vốn. Sự lựa chọn những hàng hoá xuất khẩu phù hợp với các lợi thế so sánh về các nguồn lực sản xuất vốn có như vậy sẽ là điều kiện cần thiết để các nước chưa phát triển, đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào sự phân công lao động và hợp tác thương mại quốc tế, và trên cơ sở lợi ích thương mại thu được sẽ thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở nước này. 2. Các mô hình thương mại quốc tế được sử dụng trong hoạch định chính sách xuất khẩu Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, tuỳ vào việc lựa chọn chiến lược phát triển cho từng thời kỳ, các quốc gia đều áp dụng một chiến lược phát triển ngoại thương thích hợp với thời kỳ chiến lược đó. Tổng kết thực tiễn phát triển ngoại thương của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển sau Thế chiến hai, có ba loại hình phát triển ngoại thương chủ yếu sau đây: 2.1 Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô dựa chủ yếu vào việc sử dụng rộng rãi các nguồn tài nguyên sẳn có và các điều kiện thuận lợi trong nước về các sản phẩm nông nghiệp và khai khoáng. Chiến lược này được thực hiện trong điều kiện trình độ sản xuất còn thấp, đặc biệt là trình độ của ngành công nghiệp và khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế còn bị hạn chế. Chiến lược này tạo điều kiện cho phát triển kinh tế theo chiều rộng, xuất hiện nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Sự phát triển các thị trường sản phẩm sơ khai sẽ dẫn đến tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tích luỹ trong nước, đồng thời giải quyết công ăn việc làm và tăng đội ngũ công nhân lành nghề, dẫn đến quy mô tăng sản xuất cho nền kinh tế. Chiến lược cũng tạo ra sự thay đổi cơ cấu kinh tế, góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho công nghiệp hoá. Tuy nhiên, sự phát triển dựa vào chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô cũng gặp nhiều hạn chế như cung- cầu sản phẩm thô không ổn định, giá cả sản phẩm thô thường có xu hướng giảm so với hàng công nghệ nên thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô sẽ không ổn định gây bất lợi cho các nước xuất khẩu sản phẩm thô. Ngoài ra đây còn là chiến lược dựa hoàn toàn vào tài nguyên do vậy nó sẽ làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. 2.2 Chiến lược thay thế nhập khẩu (IS- Import Substitution) Nội dung cơ bản của chiến lược này là đẩy mạnh sự phát triển của các ngành công nghiệp trong nước, trước hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các ngành công nghiệp khác nhằm sản xuất sản phẩm nội địa thay thế các sản phẩm nhập khẩu. Ban đầu nên sản xuất các loại hàng tiêu dùng cơ bản mà trước đây phải nhập khẩu. Việc sản xuất này được coi là thay thế nhập khẩu lần thứ nhất. Sau đó, khi vốn tích luỹ được gia tăng và công nghệ trong nước đã được nâng cao sẽ tiến hành sản xuất các sản phẩm có trình độ công nghệ cao. Nội dung này được coi là thay thế nhập khẩu lần thứ hai. Để thực thi chiến lược này, điều kiện quan trọng nhất là phải có vai trò bảo hộ của Chính phủ; và đòi hỏi thị trường trong nước phải đủ lớn để đảm bảo cho sự phát triển của ngành hạn chế nhập khẩu. Trong thời gian đầu khi công nghiệp trong nước còn non trẻ, giá thành sản xuất thường cao hơn so với thị trường thế giới, Chính phủ cần xây dựng hàng rào bảo vệ bằng hình thức thuế quan hoặc hạn ngạch nhập khẩu. Cùng với các biện pháp này, các ngành công nghiệp non trẻ phải vươn lên cạnh tranh được với hàng nhập khẩu trên thị trường trong nước và theo đó sẽ giảm dần mức độ bảo hộ. Chiến lược này vì thế có tác dụng làm giảm mức độ trầm trọng trong thâm hụt cán cân thanh toán và thương mại quốc tế do giảm được lượng hàng hoá nhập khẩu và xuất khẩu thuần được cải thiện. Nhờ có sự bảo hộ của Chính phủ, các ngành công nghiệp “non trẻ” được nuôi dưỡng (đó là các ngành có bộc lộ lợi thế nhưng chưa đủ sức để cạnh tranh). Mặc dù chiến lược này có vẻ hấp dẫn về mặt lý thuyết, song lại chưa mấy thành công trong thực tế. Việc thay thế nhập khẩu thành công đòi hỏi phải quản lý được hai sự chuyển đổi rất khó khăn. Thứ nhất là, tạo ra một cơ cấu kinh tế năng động và hiệu quả một cách hợp lý đằng sau các hàng rào bảo hộ. Thứ hai là, chuyển từ bảo hộ sang một môi trường buôn bán cởi mở hơn. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng việc đối phó với cả hai thách thức này đều rất khó. Những sai lệch do sự bảo hộ gây ra thường nghiêm trọng đến nỗi không thể đạt được sự tăng trưởng cao, bền vững ngay cả khi nền công nghiệp trong nước được bảo vệ trước sự cạnh tranh quốc tế, và quá trình chuyển từ bảo hộ sang mậu dịch tự do thường vấp phải sự phản đối quyết liệt từ các nhóm lợi ích. Sau một thời gian thực thi chiến lược này, nhiều nước đã tìm cách chuyển hướng chiến lược. Lý do cơ bản là chiến lược này có nhiều mặt hạn chế: Thứ nhất, nó làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước vì có thuế quan bảo hộ và được mua nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ. Nếu chi phí sản xuất tăng hay giá thị trường quốc tế của hàng nhập khẩu có sức cạnh tranh giảm thì phản ứng tự nhiên của các nhà sản xuất là quay sang Chính phủ để trông chờ bảo hộ. Do đó, thay vì bảo hộ sẽ giảm dần theo thời gian thì các nhà sản xuất lại trông chờ bảo hộ tăng lên. Thứ hai, chiến lược IS hạn chế xu hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chiến lược này bắt đầu từ công nghiệp hàng tiêu dùng, sau đó tiếp tục tạo thị trường cho các nghành sản xuất sản phẩm trung gian. Nhưng vì thị trường trong nước đối với các sản phẩm trung gian thường nhỏ hơn thị trường hàng tiêu dùng nên có những trở ngại đối với việc đầu tư vào lĩnh vực này, do vậy, cần có sự bảo hộ. Sự bảo hộ này lại làm tăng giá đầu tư vào các nghành sản xuất hàng tiêu dùng. Để đảm bảo lợi nhuận, các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu, làm cho các ngành sản xuất nguyên vật liệu không có khả năng phát triển, hạn chế sự hình thành cơ cấu công nghiệp đa dạng của đất nước. Thứ ba, việc thực thi chiến lược này làm nảy sinh nhiều tiêu cực. Bảo hộ bằng thuế quan dẫn đến tình trạng trốn, lậu thuế, hối lộ cán bộ thuế. Cuối cùng, chiến lược này làm tăng nợ nước ngoài của các nước đang phát triển. Do được bảo hộ nên các sản phẩm sản xuất trong nước không có khả năng cạnh tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trường quốc tế, trong khi vẫn phải nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên vật liệu từ nước ngoài, làm cho tình trạng nhập siêu của những nước này ngày càng gia tăng. Đặc biệt đối với những nước có quy mô thị trường trong nước nhỏ bé và nguồn tài nguyên khan hiếm thì những hạn chế trên càng gia tăng. Chính vì những hạn chế này, các nước đang phát triển nhận thấy rằng chỉ có cách dựa vào thị trường quốc tế rộng lớn và họ đã tìm cách chuyển sang chiến lược hướng ngoại. 2.3 Chiến lược hướng về xuất khẩu (EP- Export Promotion) Chiến lược hướng về xuất khẩu là chiến lược hướng vào thị trường quốc tế để xuất khẩu sản phẩm, bao gồm cả xuất khẩu sản phẩm thô và sản phẩm công nghệ. Sản xuất xuất khẩu là những sản phẩm được sản xuất dựa vào lợi thế so sánh của đất nước. Tư tưởng cốt lõi của chiến lược hướng về xuất khẩu là lấy nhu cầu thị trường thế giới làm mục tiêu cho nền sản xuất trong nước, là cải tạo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc gia sao cho thích ứng với những đòi hỏi của thị trường quốc tế, là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh của quốc gia.Việc thực thi chiến lược hướng về xuất khẩu đã giúp cho các nước đang phát triển đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá đất nước. Trước hết, chiến lược EP tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động. Sự phát triển các ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu đã tác động đến các ngành công nghiệp cung cấp đầu vào cho các ngành xuất khẩu tạo ra “mối liên hệ ngược” thúc đẩy sự phát triển của các ngành này.Bên cạnh đó, khi tích luỹ của nền kinh tế được nâng cao thì sản phẩm thô sẽ tạo ta “mối liên hệ xuôi” là cung cấp nguyên liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến và mối liên hệ xuôi này tiếp tục được phát triển. Sự phát triển của tất cả các ngành này sẽ làm tăng thu nhập của người lao động, tạo ra “mối liên hệ gián tiếp” cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. Thứ hai, chiến lược EP tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước ngày càng lớn mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì chiến lược này làm cho các doanh nghiệp phụ thuộc vào thị trường thế giới nhiều hơn thị trường trong nước, do vậy các doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa vào các tiêu chuẩn quốc tế. Thời kỳ đầu có thể có sự trợ giúp của Nhà nước, song muốn tiếp tục tồn tại thì phải tự khẳng định vị trí của mình. Mặt khác, thị trường quốc tế rộng lớn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu được hiệu quả nhờ quy mô sản xuất lớn. Thứ ba, chiến lược EP còn tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Nguồn thu ngoại tệ này vượt xa các thu nhập khác, kể cả vốn vay là đầu tư nước ngoài. Đối với nhiều nước đang phát triển, ngoại thương đã trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Đồng thời có ngoại tệ đã tăng được khả năng nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị và nguyên liệu cần thiết cho sự phát triển các ngành công nghiệp. *** Về lý thuyết chiến lược phát triển ngoại thương của Việt Nam có thể được xem là sự kết hợp giữa khuyến khích xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế chính sách và hoạt động thương mại trong thời gian qua của Việt Nam cho thấy chiến lược thay thế nhập khẩu vẫn được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Nhà nước đã khuyến khích nhập khẩu các hàng hoá tư bản, nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng kim ngạch nhập khẩu, trong khi tỷ trọng hàng tiêu dùng ngày nhỏ và giảm.Chính sách bảo hộ có khi được áp dụng một cách tràn lan, làm cho người tiêu dùng phải trả giá đắt khi mua hàng hoá, tình trạng buôn lậu gia tăng, khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém. Trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm thô vẫn là chủ yếu. Một số nội dung trong chính sách thương mại cũng có phần chưa thật rõ ràng, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. Đặc biệt khi mà thời gian thực hiện các cam kết của AFTA và APEC đang đến gần, nếu không có các chủ trương, biện pháp thích hợp và kịp thời thì sẽ không tận dụng được những thuận lợi do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại và bị thua thiệt khi thực hiện tự do hoá thương mại. Vai trò của xúc tiến thương mại đối với thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 1.Khái niệm về xúc tiến thương mại (XTTM) và một số vấn đề liên quan Xúc tiến thương mại (XTTM) 1.1.1 Xúc tiến thương mại là gì? Theo cách hiểu truyền thống, XTTM là hoạt động trao đổi và hỗ trợ trao đổi thông tin giữa bên bán và bên mua, hoặc qua khâu trung gian nhằm tác động tới thái độ và hành vi mua bán và qua đó thúc đẩy việc mua bán và trao đổi hàng hoá, dịch vụ. Như vậy theo định nghĩa này, XTTM là nhằm mở rộng và phát triển thị trường là chủ yếu. Theo Luật Thương mại Việt Nam do Quốc hội khoá IX nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 10.5.1997 thì: “XTTM là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thương mại” (điều 5, khoản 5); Bộ Thương mại là cơ quan quản lý Nhà nước về tổ chức, hướng dẫn các hoạt động xúc tiến thương mại (điều 245). 1.1.2 Hoạt động XTTM Các hoạt động cụ thể trong lĩnh vực XTTM bao gồm: Các hoạt động thông tin thương mại và nghiên cứu thị trường Các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, triển lãm và khuyến mại hàng hoá và dịch vụ Tổ chức và tham gia các đoàn khảo sát thị trường nước ngoài Đón tiếp và tổ chức cho các đoàn thương mại và thương nhân nước ngoài vào khảo sát thị trường nội địa Đại diện thương mại ở nước ngoài Các hoạt động này có thể do doanh nghiệp tự tiến hành hoặc do các tổ chức XTTM của Chính phủ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các công ty kinh doanh dịch vụ XTTM tiến hành để hỗ trợ doanh nghiệp, hội viên hoặc theo yêu cầu của khách hàng. Các dịch vụ XTTM do các tổ chức hỗ trợ thương mại cung cấp có thể miễn phí hoặc phải trả tiền. 1.1.3 Xúc tiến xuất khẩu Nhìn từ góc độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, XTTM có thể là xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và phát triển thương mại nội địa. Như vậy, xúc tiến xuất khẩu có phạm vi hẹp hơn và là các hoạt động nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra thị trường nước ngoài. Do đó trên thực tế, các hoạt động XTTM (nhất là các hoạt động do Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ thương mại thực hiện) chủ yếu tập trung vào thúc đẩy xuất khẩu nên nhiều người thường quan niệm XTTM gần như đồng nghĩa với xúc tiến xuất khẩu. 1.2 Phát triển thương mại Trong bối cảnh tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay, để mở rộng, thâm nhập và giữ vững thị trường, các doanh nghiệp không thể chỉ tiến hành các hoạt động XTTM truyền thống (xúc tiến bán cái mà mình có thể sản xuất và cung cấp) mà phải tiến hành tất cả các hoạt động nhằm tạo ra những sản phẩm mà thị trường có nhu cầu, bán đúng kênh/khách hàng tại đúng nơi, đúng thời điểm với giá phù hợp và bằng các hình thức xúc tiến bán hàng phù hợp. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển là những nước đi sau, hoạt động nghiên cứu thị trường và phát triển, cải tiến sản phẩm nhằm tạo ra những sản phẩm độc đáo mà thị trường có nhu cầu là hết sức quan trọng để có thể thâm nhập và mở rộng, đồng thời giữ vững được thị trường kể cả trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Những hoạt động này được gọi chung là hoạt động phát triển thương mại. Như vậy, phát triển thương mại bao gồm các mảng hoạt động chính là phát triển sản phẩm, phát triển thị trường và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế. Ngoài các công cụ XTTM phát triển thị trường theo cách hiểu truyền thống như trên, phát triển thương mại còn bao gồm các hoạt động khác như: - Nghiên cứu và hỗ trợ nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm nhằm tạo ra các sản phẩm đáp ứng đúng yêu cầu thị trường; xây dựng và quảng bá thương hiệu; - Các hoạt động góp phần nâng cao sức cạnh tranh quốc tế như: quản lý tiêu chuẩn, chất lượng hàng hoá, áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh...; - Các khuyến khích và hỗ trợ tài chính của chính phủ đối với xuất khẩu; - Thuận lợi hoá môi trường thương mại, đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với các nước để mở cửa thị trường xuất khẩu; - Các hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu, đặc biệt là nhằm phát triển những mặt hàng xuất khẩu mới, có giá trị gia tăng cao; - Các hoạt động xúc tiến nhập khẩu phục vụ xuất khẩu (ví dụ như hỗ trợ nhập công nghệ phù hợp và nguyên phụ liệu với giá cả cạnh tranh); - Đào tạo và phát triển nguồn lực phục vụ phát triển thương mại. 2. Vai trò của xúc tiến thương mại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 2.1 XTTM là hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường Trên thực tế không một doanh nghiệp nào không tiến hành các hoạt động phát triển thương mại nói chung và XTTM nói riêng dưới hình thức này hay hình thức khác và ở mức độ này hay mức độ khác. Để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế cạnh tranh, doanh nghiệp luôn phải nghiên cứu phát triển sản phẩm đáp ứng nhu cầu thay đổi ngày càng nhanh chóng của thị trường cũng như tiến hành các hoạt động quảng cáo và khuyến mại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu hiện nay, khi mà hàng hoá dịch vụ được chào bán trên thị trường rất dồi dào và phong phú và người mua là “thượng đế” thì hàng hoá, dịch vụ dù có tốt, rẻ đến mấy mà người tiêu dùng không biết đến thì cũng không thể bán được. Xuất phát từ những nhu cầu của doanh nghiệp, ở bất kỳ nền kinh tế thị trường nào cũng có các hiệp hội sản xuất và kinh doanh, các phòng thương mại và công nghiệp, các tổ chức và công ty dịch vụ thông tin, nghiên cứu thị trường, tư vấn kinh doanh, tư vấn pháp luật, quảng cáo, hội chợ triễn lãm...để hỗ trợ và cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp trong các hoạt động XTTM nói trên. 2.2 XTTM với việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá - Thông qua các dịch vụ cung cấp thông tin thương mại, cung cấp thông tin về chính sách pháp luật, danh mục các mặt hàng cũng như thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu, các hành vi ứng xử thương mại đối với các sản phẩm mà nhà xuất khẩu xuất sang một thị trường, các thông số về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm...góp phần nâng cao hiệu quả xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng hoá nói riêng. - Thông qua các hội chợ, triễn lãm thương mại (cả trong nước và quốc tế), nơi các doanh nghiệp tham gia triển lãm trưng bày hàng hoá, các thông tin tư liệu về hàng hoá và về chính doanh nghiệp mình, họ có thể giới thiệu, quảng cáo về sản phẩm của mình nhằm mở rộng và thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế; đây cũng là nơi diễn ra sự mua bán, ký kết hợp đồng trao đổi hàng hoá giữa những cá nhân, tổ chức đến tham gia triễn lãm...là điều kiện thuận lợi cho các nhà xuất khẩu trực tiếp gặp gỡ đối tác để đàm phán, ký hợp đồng xuất khẩu sản phẩm. - Theo quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các chính phủ ở các nước thành viên có mức thu nhập bình quân đầu người từ 1000 USD trở lên không được phép trợ cấp trực tiếp cho xuất khẩu (ví dụ như trợ giá xuất khẩu), song họ có thể trợ cấp cho hoạt động XTTM hoặc tiến hành trực tiếp một số hoạt động XTTM để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Như vậy trong điều kiện tự do hoá thương mại toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, khi mà các hàng rào bảo hộ dần dần được phá bỏ thì XTTM là một biện pháp hữu hiệu để hỗ trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Điều này phần nào lý giải việc ngày càng nhiều nước thành lập tổ chức XTTM của Chính phủ. Hiện thế giới có khoảng 130 nước có tổ chức này, trong đó có Cục XTTM Việt Nam. 2.3 XTTM là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại, tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên thị trường thế giới Trên phương diện quốc gia, một nước có tận dụng đựơc những cơ hội và hạn chế được thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra hay không phụ thuộc chủ yếu vào hàng hoá, dịch vụ của nước đó có thâm nhập được vào thị trường thế giới và đứng vững trên thị trường nội địa hay không. Do vậy, phát triển thương mại, trong đó có hoạt động XTTM sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia Đối với các nước đang phát triển, hoạt động XTTM, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu của mình trên thị trường quốc tế là rất quan trọng vì sản phẩm của họ chưa có tên tuổi, chỗ đứng trên thị trường thế giới. Đẩy mạnh hoạt động XTTM sẽ góp phần xây dựng được hình ảnh về sản phẩm của nước đó trên thị trường thế giới, tăng cường địa vị kinh tế của quốc gia trên trường quốc tế. XTTM có mối quan hệ chặt chẽ với xúc tiến du lịch và xúc tiến đầu tư. Thông qua các hoạt động XTTM, các hợp đồng mua bán trao đổi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ và công nghệ...sẽ được ký kết, làm gia tăng số lượng và chủng loại hàng hoá xuất nhập khẩu, khuyến khích đầu tư, tăng cường giao lưu hợp tác giữa các quốc gia. Vì thế làm tốt công tác XTTM sẽ đẩy mạnh phát triển du lịch và góp phần thu hút đầu tư vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. III. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trên con đường hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – AFTA 1.Tổng quan về AFTA Năm 1992, tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ IV các nước thành viên ASEAN họp ở Singapore (27-28/1/1992), các nước ASEAN đã ký kết Hiệp định về Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), nhằm đẩy nhanh tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước ASEAN. Việc hình thành AFTA là ưu tiên hàng đầu trong chương trình hợp tác của ASEAN trong thập kỷ 90. AFTA nhằm mục đích thiết lập một thị trường khu vực trong đó các loại thuế quan đối với 15 nhóm sản phẩm vốn cao từ khoảng 40% được giảm đồng loạt ở tất cả các nước xuống mức độ chỉ còn 0-5% vào năm 2003 (2006 cho Việt Nam, 2008 cho Lào, Myanma và 2010 cho Campuchia) và các mối quan hệ mậu dịch sẽ không bị cản trở bởi các loại hàng rào phi quan thuế (non-tariff barriers) như các biện pháp cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu hoặc thủ tục hải quan... Trước những thay đổi nhanh chóng và các xu thế phát triển mới của mậu dịch tự do khác trên thế giới- WTO, sự hình thành các khu vực mậu dịch tự do khác trên thế giới...sau nhiều lần nghiên cứu và thay đổi, các nước ASEAN đã quyết định rút ngắn thời hạn thực hiện chương trình Thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff- CEPT) từ 15 năm xuống còn 10 năm theo đó AFTA sẽ được hình thành vào năm 2003. Hiện các nước ASEAN đã đưa một danh mục bao gồm khoảng 42000 mặt hàng, chiếm khoảng 81% tổng số các sản phẩm đã qua chế tác (manufactured goods) và nhiều sản phẩm nông sản chưa qua chế biến vào danh mục giảm thuế. Là công cụ chủ yếu của AFTA, CEPT quy định các nước thành viên ASEAN cùng áp dụng một biểu thuế quan chung đối với cùng một số sản phẩm của các nước thành viên. Thuế quan đánh vào các mặt hàng xuất nhập khẩu đối với các nước khác không phải là thành viên sẽ do các nước thành viên tự quyết. ASEAN áp dụng phương thức “hai đường ray” (two-track approach) cho dự án giảm thuế quan trong AFTA có nghĩa là cùng lúc tiến hành hai chương trình giảm thuế quan với các khung thời gian khác nhau đối với các loại mặt hàng có biểu khung thuế khác nhau. 2. Chương trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) Mục tiêu của CEPT là đến năm 2003 sẽ áp dụng thuế quan ưu đãi chung ở mức 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế quan trong thương mại nội bộ giữa các nước thành viên ASEAN. Riêng đối với các nước gia nhập chậm và có nền kinh tế chậm phát triển thì được phép kéo dài thời gian thực hiện hơn, cụ thể là Việt Nam được kéo dài đến 2006, Lào và Myanma được kéo dài đến năm 2008 và Campuchia đến 2010. Các sản phẩm thực hiện giảm thuế nhập khẩu do các nước hội viên ASEAN tự đề nghị căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh kinh tế của mỗi nước. Chương trình cắt giảm thuế quan theo CEPT được thực hiện theo 4 danh ._.mục sau: - Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL- General Exclusion List): Là danh mục các sản phẩm không bị cắt giảm thuế và không đưa vào chương trình thực hiện AFTA vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ, bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di tích lịch sử khảo cổ. - Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay (IL-Inclusion List):Gồm các sản phẩm sẳn sàng cắt giảm thuế quan với lịch trình thống nhất và được phân bố theo hai lộ trình: lộ trình cắt giảm bình thường (normal track) và lộ trình cắt giảm nhanh (fast track). + Lộ trình cắt giảm bình thường được thực hiện như sau: Đối với các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào thời điểm1/1/1998 và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào thời điểm 1/1/2000. Đối với các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống mức 0-5% vào thời điểm 1/1/2000. +Lộ trình cắt giảm nhanh thực hiện như sau: Đối với các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 0-5% vào thời điểm 1/1/2000. Đối với các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ đựoc giảm xuống mức 0-5% vào thời điểm 1/1/1998. - Danh mục loại trừ tạm thời (TEL- Temporary Exclusion List): Các sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời chưa giảm thuế và sẽ không được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên. Tuy nhiên danh mục này chỉ có tính chất tạm thời và sau một thời gian nhất định các quốc gia phải đưa toàn bộ các sản phẩm này vào danh mục giảm thuế. Lịch trình chuyển các sản phẩm trong danh mục này danh mục cắt giảm cần được thực hiện trong vòng 5 năm, từ 1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục TEL và giảm thuế xuống mức 0-5% vào năm 2003. - Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến hay nhậy cảm (Sensitive): Các quy định cụ thể về lịch trình giảm thuế quan cho các sản phẩm nhạy cảm cho đến nay vẫn đang trong quá trình thoả thuận. Tuy nhiên đối với các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm, thời điểm bắt đầu thực hiện cắt giảm đã đựơc xác định là 1/1/2001 và kết thúc vào năm 2010 với mức thuế suất phải đạt là 0-5%. Đối với các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm cao, thời hạn kết thúc đã đựơc xác định là năm 2010, tuy nhiên sẽ có một số linh hoạt nhất định sẽ được áp dụng liên quan đến mức thuế suất kết thúc, các biện pháp tự phòng vệ, phòng ngừa bất trắc... CEPT, khi hoàn tất vào năm 2003, về cơ bản sẽ bao gồm 98% dòng thuế của ASEAN vào năm 2003; chỉ còn lại khoảng 1% thuộc diện loại trừ và một số sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm được gia hạn đến 2010. 3. Cơ chế trao đổi nhượng bộ của kế hoạch CEPT Một sản phẩm khi xuất khẩu sang các nước trong nội bộ ASEAN, muốn được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan trong nội bộ ASEAN theo chương trình CEPT, thì phải đồng thời thoả mãn các điều kiện sau: Sản phẩm đó phải nằm trong Danh mục cắt giảm thuế của các nước xuất khẩu và nhập khẩu Sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông qua Sản phẩm đó phải là một sản phẩm của khối ASEAN tức là phải thoả mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%. Công thức 40% hàm lượng ASEAN được xác định như sau: Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ nước không phải là ASEAN + Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào không xác định được xuất xứ x100% <60% Giá FOB Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên ASEAN là giá CIF tại thời điểm nhập khẩu. Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào không xác định được xuất xứ là giá xác định ban đầu trước khi đưa vào chế biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN. Để xây dựng thành công khu mậu dịch tự do, Chương trình CEPT còn đề cập đến việc loại bỏ hạn chế về số lượng nhập khẩu và các hàng rào phi thuế quan khác. Về vấn đề này, Hiệp định CEPT đã quy định: -Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT ngay khi sản phẩm đó được hưởng thuế suất ưu đãi ở mức 0-5%. - Các hàng rào phi thuế quan khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. - Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột hay phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu. 4.Hợp tác trong lĩnh vực hải quan Việc phối hợp các hoạt trong lĩnh vực hải quan là khâu khá quan trọng trong tiến trình thực hiện CEPT/AFTA. Nội dung của hợp tác này bao gồm: Thực hiện thống nhất phương pháp định giá tính thuế hải quan giữa các nước ASEAN. Thực hiện thống nhất các thủ tục hải quan (3) Xây dựng hệ thống “hành lang xanh” (4) Thực hiện áp dụng thống nhất danh mục biểu thuế quan 5.Tiến trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước ASEAN từ tháng 7/1995 và bắt đầu thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) từ 1/1/1996, chương trình này kết thúc vào 1/1/2006. Do trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn thấp so với một số nước trong khu vực, năng lực cạnh tranh của các DOANH NGHIệP, của nhiều ngành sản xuất và dịch vụ còn yếu... và thuế nhập khẩu vẫn còn là một trong những nguồn thu cho ngân sách, nên chương trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam đựơc xây dựng dựa trên những nguyên tắc chính sau: Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền sản xuất trong nước Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các quy định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Có thể kể ra đây một số việc mà Việt Nam đã thực hiện: (1)Xây dựng chương trình cắt giảm thuế quan Dựa theo 4 nguyên tắc nêu trên, tại thời điểm gia nhập, Việt Nam đã đệ trình 4 danh mục hàng hoá theo quy định của Hiệp định CEPT như sau: a)Danh mục loại trừ hoàn toàn: bao gồm những mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia sức khoẻ con người, giá trị đạo đức, lịch sử nghệ thuật khảo cổ...như theo quy định của Hội đồng AFTA. Ngoài ra Việt Nam còn đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn một số mặt hàng mà hiện Việt Nam đang phải nhập từ các nước ASEAN song lại không có khả năng xuất khẩu, hoặc một số mặt hàng hiện đang có thuế suất cao trong biểu thuế nhập khẩu như ôtô dưới 16 chỗ ngồi, ôtô tay lái nghịch, chất phế thải, các loại xăng dầu (trừ dầu thô Việt Nam đang xuất khẩu), đồ dùng đã qua sử dụng... b)Danh mục loại trừ tạm thời: Danh mục này đựơc xây dựng theo quy định của CEPT và quy hoạch phát triển đến năm 2010 của các ngành kinh tế trong nước, nhằm bảo hộ một số ngành đang có tiềm năng phát triển, đồng thời không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách. Danh mục này chủ yếu gồm các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng có thuế suất thấp hơn 20% song cần được bảo hộ như các loại xe máy, ôtô (trừ loại 16 chỗ ngồi đã nằm trong doanh nghiệpah mục loại trừ hoàn toàn), các loại sắt thép, sản phẩm cơ khí thông dụng, các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu... Theo quy định của Hội đồng AFTA thì những mặt hàng nào đưa vào chương trình cắt giảm thuế và được hưởng thuế suất ưu đãi từ các thành viên khác thì đồng thời phải loại bỏ hàng rào phi thuế quan trong vòng 5 năm sau đó. Do vậy mặt hàng nào được đưa vào danh mục tạm thời thì sẽ có thêm thời gian để bảo hộ thông qua việc kéo dài thời gian thực hiện các biện pháp phi thuế quan. Cũng theo quy định của CEPT thì các mặt hàng thuộc danh mục TEL này cần phải được chuyển sang danh mục cắt giảm thuế (IL) trong vòng 5 năm, sao cho đến thời hạn năm 2006 chúng cũng phải đạt mức thuế quan ưu đãi chung từ 0-5% Danh mục cắt giảm thuế: Danh mục này chủ yếu bao gồm các mặt hàng hiện đang có thuế suất dưới 20%, tức là các mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi ngay theo Hiệp định CEPT. Ngoài ra tròn danh mục này còn bao gồm một số mặt hàng hiện có thuế suất cao nhưng VIệt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu, do vậy việc đưa các mặt hàng này vào danh mục giảm thuế sẽ không gây ảnh hưởng nhiều đến nguồn thu ngân sách, ngược lại nó sẽ kích thích đẩy mạnh xuất khẩu thông qua việc được hưởng thuế ưu đãi theo CEPT, khi hàng Việt Nam xuất qua các nước thành viên. Danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm: bao gồm các mặt hàng nông sản chưa chế biến có yêu cầu bảo hộ cao như: các loại thịt, trứng, gia cầm, động vật sống, thóc gạo lức, đường, mía...các mặt hàng này hiện đang áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý theo hạn ngạch, quản lý Bộ chuyên ngành... (2) Thực hiện giảm thuế Dựa theo sự phân loại danh mục hàng hoá như trên, tiến trình cắt giảm thuế của Việt Nam đã được tiến hành như sau: Trong hai năm đầu 1996, 1997 Việt Nam chưa thực hiện việc cắt giảm thuế mà chỉ đưa 875 danh mục các mặt hàng có thuế nhập khẩu từ 0-5% vào danh sách giảm thuế, đáp ứng một cách tự nhiên yêu cầu giảm thuế nhanh của CEPT, còn chương trình giảm thuế bình thường chỉ được bắt đầu thực hiện kể từ 1/1/1998. Các bước đi thận trọng này giúp cho Việt Nam có thêm thời gian cải tiến hệ thống thuế nội địa nhằm đảm bảo nguồn thu ngân sách và góp phần bảo hộ các nện kinh tế còn non trẻ của chúng ta. Như vậy, từ đầu năm 1998 Việt Nam mới thực hiện những bước cắt giảm thuế đầu tiên theo Nghị định 15/1998/NĐ-CP ngày 12/3/1998. Theo Nghị định này trong năm 1998 chúng ta đã đưa thêm 1161 mặt hàng vào danh mục giảm thuế. Sang năm 1999 theo Nghị định 14/1999/NĐ-CP ngày 23/3/1999 Việt Nam đã nâng danh mục các mặt hàng giảm thuế lên đến 3590 mặt hàng. Và trong năm 2000, với nghị định 09/2000/NĐ-CP, trong năm 2000 có thêm 640 dòng thuế từ danh mục các mặt hàng loại trừ tạm thời sang danh mục giảm thuế, như vậy có 4230/6200 dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu được đưa vào danh mục cắt giảm thuế. Tính đến tháng 6/2002, Việt Nam đã đưa vào diện cắt giảm 5500 mặt hàng, nghĩa là gần 90% tổng số các mặt hàng mà Việt nam cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu đã được cắt giảm với thuế suất 0-20%, trong đó khoảng 2/3 có mức thuế suất 0-5%. Đến năm 2003, Việt Nam đưa gần 80 mặt hàng còn lại (chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm có mức bảo hộ cao) vào diện cắt giảm, với mức thuế suất chỉ bằng hoặc thập hơn 20%. 6. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập Hội nhập kinh tế nói chung và gia nhập khu vực thương mại tự do ASEAN đưa đến cho Việt Nam nhiều cơ hội phát triển đồng thời cũng đặt ra cho Việt Nam không ít thách thức phải giải quyết, có thể kể ra sau đây một số điểm chính: (1)Cơ hội của Việt Nam - Tham gia AFTA/ASEAN Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất xuất nhập khẩu ưu đãi CEPT thấp của các nước ASEAN, giúp các DOANH NGHIệP Việt Nam giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng cường khả năng cạnh tranh về giá hàng hoá, dịch vụ, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá và phát triển sản xuất nói chung. - Tham gia AFTA/ASEAN Việt Nam sẽ thu hút thêm nhiều nhà đầu tư nước ngoài không chỉ từ nhiều quốc gia khác trên thế giới. Đặc biệt, với sự phối hợp các chương trình hợp tác khác trong ASEAN như hợp tác công nghiệp ASEAN-AICO, hợp tác dịch vụ ASEAN...,các doanh nghiệp trong nước của Việt Nam có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ sản xuất mới tiên tiến, góp phần tăng cường năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới. - Việt Nam tham gia AFTA là bước tập dượt để chuẩn bị cho việc hội nhập sâu, rộng hơn vào thị trường quốc tế, đó là gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. - Trong khi hầu hết các thành viên ban đầu trừ Indonesia, đã mất lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp tập trung lao động thì VIệt Nam lại đang có lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ và thị trường nội địa khá lớn. Đương nhiên khi khuynh hướng phát triển kinh tế của nhân loại, kể cả các nước thành viên ban đầu của ASEAN là hướng tới xây dựng phát triển nền kinh tế triển nền kinh tế tri thức. Việc phát triển một nền công nghiệp dựa trên tài nguyên và sức lao động không phải là mục tiêu mà Việt Nam cần hướng tới, nhưng sẽ là sai lầm khi bỏ qua những lợi thế so sánh của nước mình để chỉ nghĩ tới việc xây dựng kinh tế tri thức khi chưa có đủ điều kiện cần thiết. (2)Thách thức đặt ra - Khả năng cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước còn yếu (về giá cả, chất lượng, mẫu mã) do quy mô sản xuất còn nhỏ bé, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, công tác quản lý kém hiệu quả. - Cơ cấu hàng XK của VN chủ yếu là nông sản chưa qua chế biến, mà đây là những mặt hàng giảm thuế chậm, trong khi đó hàng công nghiệp, xuất nguyên liệu là những mặt hàng giảm thuế nhanh lại là sản phẩm XK của các nước AFTA khác và là sản phẩm nhập khẩu của Việt Nam, vì vậy nếu Việt Nam không có biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm của mình thì sẽ không đủ sức để cạnh tranh với hàng hoá ASEAN thì việc hội nhập này sẽ khiến cho VIệt Nam trở thành thị trường tiêu thụ cho các nước ASEAN. - Khả năng tự lập của các doanh nghiệp Việt Nam còn bị ảnh hưởng của sự bao cấp, nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược kinh doanh cũng như tìm kiếm thị trường cho đầu ra của sản phẩm còn bị hạn chế, đó là còn chưa kể đến sự hiểu biết về hội nhập của doanh nghiệp còn rất hạn chế. Cạnh tranh gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là khi mà nhiều nước trong khu vực đã vực dậy sau cơn khủng hoảng. Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá và hoạt động xúc tiến thương mại của Việt Nam sang thị trường ASEAN thời gian qua I.Tình hình xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN thời gian qua Quy mô và tốc độ xuất khẩu hàng hoá Thị trường ASEAN với 500 triệu người tiêu dùng, là một thị trường rộng lớn với khả năng tiêu thụ hàng hoá dồi dào. Mặc dù Việt Nam mới trở thành viên chính thức của thị trường từ ngày 28/7/1995 nhưng hiện nay ASEAN là bạn hàng lớn của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đã góp phần tích cực thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế thương mại của đất nước trong thời gian qua. Điều này được thể hiện qua kết quả xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường ASEAN trong bảng sau: Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam sang ASEAN Đơn vị tính: triệu USD 91-95 96- 2000 96 97 98 99 2000 2001 2002 Tổng kim ngạch 17156 51796 7255 9185 9631 11540 14455 15027 16705 ASEAN 3748,3 11223,6 1776,8 2020,5 2349,1 2463,4 2613,8 2554,6 2420 Tỷ trọng (%) 21,8 21,7 24,5 22,0 25,1 21,3 18,1 17,0 14,5 Tốc độ tăng (%) 59,8 13,7 16,3 4,9 6,1 -2,3 -5 Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê, Bộ Thương mại. Dựa trên số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN thời kỳ 1996-2000 cao gấp ba lần thời kỳ 1991-1995. Xem xét chi tiết hơn, ta thấy rằng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang ASEAN thời kỳ từ 1996 đến 2000 hàng năm đều tăng, chứng tỏ hàng hoá của ta thâm nhập vào ASEAN ngày càng nhiều, quan hệ thương mại với ASEAN ngày càng khăng khít. Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN không tăng cao trong năm 1999 so với các năm 1996,1997,1998. Nguyên nhân chính là do hai nước Philippin và Indonesia phải nhập khẩu một lượng lớn gạo do mất mùa vào năm 1998, nhưng nhu cầu nhập khẩu gạo đã giảm vào năm 1999. Như vậy, việc các nước ASEAN phục hồi sau khủng hoảng không mấy tác động tích cực đến xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2001 và 2002, giá trị xuất khẩu giảm do Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực, nhiều hàng hoá của Việt Nam được xuất sang Hoa Kỳ không cần qua trung gian ở khu vực này. Số liệu cũng cho thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chiếm trên dưới 20%. Để có một cái nhìn rõ hơn về vị trí của thị trường ASEAN đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, ta có thể xem xét bảng số liệu sau: Bảng 3: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ở một số thị trường chính Đơn vị: % ASEAN Nhật Bản EU Mỹ Trung Quốc Khác 1996 24,5 21,3 11,7 2,8 4,7 35,0 1997 22,0 18,2 17,5 3,2 5,2 33,9 1998 25,1 15,8 22,6 5,0 5,1 26,4 1999 21,3 15,3 21,7 4,4 7,4 29,9 2000 18,1 18,1 22,5 5,1 10,6 25,6 2001 17,0 16,7 20,0 7,1 9,4 29,4 2002 14,5 14,6 18,4 14,5 9,0 29,0 Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê, Bộ Thương mại Qua bảng thống kê trên đây cho thấy, cùng với Nhật Bản, EU, ASEAN đã và vẫn đang là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam vì nhìn tổng thể tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này tương đương nhau và ở mức trên dưới 20%. Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN có xu hướng giảm, đặc biệt là trong hai năm trở lại đây, lý do là vì Việt Nam đã triển khai thâm nhập và mở rộng thêm các thị trường mới, tỷ trọng xuất khẩu vào EU, Mỹ và các thị trường khác gia tăng nên đương nhiên tỷ trọng ở ASEAN và châu á giảm xuống. Về thị trường xuất khẩu Singapore luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN. Tiếp đó là Thái Lan, Indonesia, Malaysia...Cụ thể cơ cấu từng thị trường thành viên ASEAN đối với kim ngạch xuất của Việt Nam sang ASEAN như sau: Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên ASEAN Đơn vị: triệu USD 91- 95 96 – 2000 Kim ngạch Tỷ trọng(%) Kim ngạch Tỷ trọng(%) Brunây - - 1,4 0,003 Campuchia 280,8 7,5 484,2 4,3 Indonesia* 139,4 3,7 1380,4 11,6 Lào 75,5 2,0 422,9 3,8 Malaysia* 314 8,4 961,2 8,6 Myanma - 5 0,05 Philippin* 46,4 1,2 1708,6 15,2 Singapore* 2490,3 66,4 5233,1 46,6 Thái Lan* 339,9 9,1 1500,7 13,4 ASEAN 3748,3 100 11223,6 100 Nguồn: Vụ Kế hoạch Thống kê, Bộ Thương mại Xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN. Là một cảng tự do với 98% tổng số dòng thuế đã nằm trong CEPT có thuế suất 0%. Vì thế việc tham gia CEPT/AFTA hầu như không ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động nhập khẩu của Singapore. Trong những năm gần đây, việc xuất khẩu vào Singapore giảm mạnh chủ yếu do các biến động của thị trường quốc tế đối với các mặt hàng dầu thô, cà phê và hải sản. Đối với các thị trường khác như Indonesia, Malaysia và Philippin nếu loại trừ hai mặt hàng gạo và dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu không có sự gia tăng rõ rệt. Thị trường Lào thì biến động nhiều do bị ảnh hưởng quá mạnh bởi chủ trương hàng đổi hàng. Như vậy, tỷ trọng hàng xuất khẩu sang ASEAN tuy cao nhưng nếu chỉ xét riêng yếu tố này thì chưa đủ căn cứ để kết luận rằng ASEAN là thị trường tiêu thụ chính của hàng hoá Việt Nam. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu đi các nước ASEAN có đến 50-60% được xuất sang Singapore, mà đây lại là thị trường tái xuất điển hình, giống như Hồng Kông. Ví lý do đó, cần có một cái nhìn mang tính thực tiễn hơn khi đánh giá về sự gắn bó thương mại giữa Việt Nam và thị trường này. 2. Các mặt hàng xuất khẩu cuả Việt Nam trên thị trường ASEAN Hàng hoá Việt Nam xuất sang ASEAN cũng đa dạng và phong phú như xuất đi tất cả các thị trường khác. Từ chỗ chỉ đơn thuần xuất khẩu một vài loại nguyên liệu thô như than đá, gỗ tròn...và một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ đơn giản, tới nay chủng loại hàng hoá xuất khẩu của ta đa dạng hơn, trong đó có những mặt hàng đạt giá trị kim ngạch cao như gạo, cà phê...Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng đã có phần thay đổi tích cực. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN có thể tạm chia làm 3 nhóm chính: -nhóm hàng nông sản và thủ công mỹ nghệ: bao gồm cà phê, cao su, chè, gạo, hạt điều, lạc nhân, rau quả, quế, thuỷ hải sản và thủ công mỹ nghệ, trong đó gạo và cà phê là hai mặt hàng chủ lực -nhóm hàng nguyên liệu thô bao gồm dầu thô và than đá -nhóm hàng công nghệ (dệt may, giày dép, điện tử, và linh kiện vi tính) và các mặt hàng khác Đối với nhóm hàng nông sản, tác động của việc cắt giảm thuế theo CEPT/AFTA trong thời gian qua là không đáng kể. Nhu cầu nhập khẩu nông sản Việt Nam chủ yếu của các nước ASEAN là ổn định ở mức thấp. Trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu của ta mới chỉ có hạt tiêu, quế, cao su, rau tươi, thuỷ sản là đủ điều kiện được hưởng ưu đãi đặc biệt theo CEPT. Mặt hàng gạo và một số loại quả được xếp trong Danh mục TEL nên chưa được hưởng ưu đãi. Cà phê sơ chế và chè tuy đã được xếp trong Danh mục IL từ năm 1998 nhưng do các nước ASEAN khác (trừ Indonesia) xếp cà phê sơ chế vào Danh mục IL nên chưa được hưởng ưu đãi theo CEPT; mặt hàng chè, thì hiện nay thuế suất nhập khẩu vẫn là 40% nên cũng chưa được hưởng ưu đãi khi xuất sang ASEAN. Hải sản cũng là mặt hàng xuất khẩu được nhiều sang ASEAN. Tỷ trọng hàng thuỷ sản xuất sang ASEAN trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam năm 1997 là 8,6%, năm 1998 có giảm nhưng vẫn còn 6,6%. Do hai mặt hàng gạo và cà phê (chiếm khoảng 75-85% kim ngạch của nhóm hàng nông sản) đều chưa được hưởng ưu đãi theo CEPT nên có thể đi đến kết luận rằng việc thực hiện CEPT trong giai đoạn vừa qua chưa ảnh hưởng rõ rệt và trực tiếp tới kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản. Tuy nhiên, nếu không nhanh chóng nâng cao chất lượng, phát triển công nghiệp chế biến sâu thì không những không có tính cạnh tranh cao mà hàng của Việt Nam cũng sẽ bị cạnh tranh mạnh mẽ khi hàng rào thuế quan đối với sản phẩm nông nghiệp giảm xuống từ 0-5% vào năm 2006. Đối với nhóm nguyên liệu thô, 2 mặt hàng dầu thô và than đá đã được đưa vào Danh mục IL với thuế suất CEPT năm 1999 là 40%, đủ điều kiện hưởng ưu đãi CEPT. Tuy nhiên, tác dụng của CEPT đối với nhóm mặt hàng này không đáng kể vì mức thuế nhập khẩu của hầu hết các nước ASEAN đều đã ở mức thấp (0-5%) từ trước khi tham gia AFTA. Trong số các mặt hàng xuất khẩu cho bạn hàng ASEAN thì dầu thô chiếm tỷ trọng lớn (36% kim ngạch năm 1997, 18% kim ngạch năm 1998). Nhờ giá dầu thô tăng trong thời gian qua nên kim ngạch xuất khẩu dầu thô của Việt Nam sang các nước trong khu vực tăng đáng kể. Tuy nhiên, giá dầu thô giảm trong năm 2001 làm doanh thu từ xuất khẩu dầu mỏ vào các nước ASEAN giảm xuống. Trong nhóm hàng công nghệ, các mặt hàng quần áo và giày dép là những mặt hàng có tiềm năng cạnh tranh do có lợi thế về chi phí nhân công lao động rẻ. Năm 2002, kim ngạch của nhóm này mới đạt hơn 100 triệu USD, chiếm tỷ trọng khoảng 5-7% trong xuất khẩu của ta sang ASEAN. Hàng dệt may tuy đạt kim ngạch gần 40 triệu USD vào năm 1998, nhưng chủ yếu là bán cho khách Singapore (33 triệu USD) để xuất đi nước thứ ba, không tiêu thụ tại ASEAN. Doanh thu từ xuất khẩu máy tính và các linh phụ kiện tăng, đây là nhóm hàng có triển vọng giúp nâng doanh thu hàng xuất khẩu phi dầu mỏ của Việt Nam vào năm 2003 khi các thị trường quan trọng như Philippin, Thái Lan, Malayxia và Singapore phục hồi và chuyển hướng phát triển nền kinh tế dựa trên thành tựu của công nghệ thông tin. Các mặt hàng này đều đã được đưa vào Danh mục IL với thuế suất CEPT năm 1999 là 40%. Do thuế nhập khẩu của ta chưa xuống 20% nên mặc dầu các nước ASEAN đang có những bước giảm thuế tích cực đối với nhóm hàng này, nhưng Việt nam vẫn chưa được hưởng các ưu đãi theo CEPT. Để tăng cường xuất khẩu và giảm bớt áp lực nhập siêu từ ASEAN, cần chủ động tận dụng thuận lợi khi ASEAN-6 giảm thuế của hầu hết các mặt hàng xuống 0-5% để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng tiêu dùng như hàng may mặc, giày dép, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa. Trong số các mặt hàng xuất khẩu sang ASEAN, hai nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn là hàng nông sản và nguyên liệu thô, thường chiếm đến 50-60% tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Trong năm 1998, 1999, tỷ trọng của nhóm nông sản tăng lên chủ yếu là do kim ngạch xuất khẩu gạo sang Indonesia, Philippin và Singapore tăng mạnh. Tỷ trọng của nhóm nguyên liệu thô có xu hướng giảm xuống do xuất khẩu dầu thô sang Sing giảm mạnh (kim ngạch mặt hàng dầu thô xuất sang Sing năm 1996 là 909,8 triệu USD; năm 1997:707,3 triệu USD; năm 1998 còn 310 triệu USD; năm 1999 đạt 279 triệu USD). Xuất khẩu phi dầu mỏ của Việt Nam sang ASEAN chủ yếu là nông sản, máy tính và các linh phụ kiện, vào tăng 56,4% trong năm 1998 (mặc dù nhu cầu nhập khẩu của khu vực giảm), nhưng tụt xuống còn 2,1% trong năm 1999. Nguyên nhân chính (như đã nói trên) là hai nước Philippin và Indonesia phải nhập khẩu một lượng lớn gạo do mất mùa vào năm 1998, nhưng nhu cầu nhập khẩu gạo đã giảm vào năm 1999. Xuất khẩu hàng phi dầu mỏ của Việt Nam sang ASEAN trong năm 2000 giảm so với năm 1999 và xu hướng này vẫn tiếp tục trong năm 2001,2002 đặc biệt khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực, nhiều hàng hoá của Việt Nam được xuất sang Hoa Kỳ không cần qua trung gian ở khu vực này. Thâm hụt thương mại chủ yếu do nhu cầu nhập khẩu nguyên phụ liệu, thiết bị và các phụ tùng từ khu vực tăng. Nếu Việt Nam chuyển hướng xuất khẩu dầu thô (như hiện nay đang chuyển hướng sang úc) thì tỷ trọng hàng xuất khẩu sang ASEAN trong xuất khẩu của ta sẽ giảm rất mạnh (chỉ còn trên 10%). Tiếp theo đó, nếu các nước Indonesia và Philippin khôi phục được sản xuất lúa gạo thì xuất khẩu hàng hoá của ta và cho thấy bức tranh toàn diện hơn về sự mất cân đối nghiêm trọng trong quan hệ thương mại Việt Nam- ASEAN. Sau đây là một số tổng kết chung của Bộ Thương mại về các mặt hàng mà Việt Nam tham gia trao đổi thương mại quốc tế với các nước thành viên ASEAN. (1) Myanma Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Myanma chủ yếu là phân bón, thép ống, gạch men, bóng đèn, một số đồ điện. Trong năm 2001, đã có thêm một số mặt hàng mới như giầy dép, hàng nhựa, hải sản, dệt may. Việt Nam nhập khẩu từ Myanma chủ yếu là gỗ, bông, đồng, đá quý...Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu từng mặt hàng từng mặt hàng còn rất nhỏ bé. Số lượng DOANH NGHIệP hai bên khảo sát thị trường của nhau đã tăng, nhưng mỗi bên mới ở mức vài chục DOANH NGHIệP. Là một nước nông nghiệp và do có sự chênh lệch về trình độ sản xuất và công nghệ, Myanma có thể được coi là thị trường NK khá tiềm tàng cho hàng công nghiệp Việt Nam. Hầu hết các mặt hàng công nghiệp của ta đều có thể XK sang Myanma như xi măng, sắt thép (ống théo đen và mạ, thép chữ L, khung nhà tiền chế...), sứ vệ sinh, gạch bông, tấm lợp kim loại hoặc fibro xi măng và các loại vật liệu xây dựng khác, máy móc thiết bị điện như máy biến thế tủ điện, cầu chì, công tắc, ổ cắm, cầu dao, điện và điện tử gia dụng như bóng đèn các loại, nồi cơm điện, máy sấy tóc; các sản phẩm nhựa; hàng cơ khí như dụng cụ cầm tay, bù loong; thiết bị đường dây và trạm điện, máy nông nghiệp như thiết bị và phụ tùng máy xay xát gạo, động cơ Điezen, máy bơm, phân bón, thuốc trừ sâu, hoá chất cho ngành dệt và sản xuất sođa; săm lốp, dược phẩm, thiết bị y tế, thuốc thú y; cáp thông tin, thiết bị bưu chính viễn thông... Tuy vậy thời gian qua cũng mới chỉ có một trong số nhóm các mặt hàng trên mở thị trường như máy và phụ tùng máy xay xát gạo, cáp điện, dược phẩm, đèn huỳnh quang, công tơ điện, quạt điện, que hàn, thép và các sản phẩm, máy chế biến gỗ, hoá mỹ phẩm, phân bón và thuốc trừ sâu, hàng nhựa gia dụng... nhưng kim ngạch mới chỉ vài trăm nghìn đến 1 triệu USD cho từng mặt hàng. Năm 2001, kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Myanma mới đạt mức trên 10 triệu USD, trong đó Việt Nam gần 6 triệu. Tiềm năng trao đổi thương mại giữa hai nước còn rất lớn, thời gian tới các cơ quan XTTM và DOANH NGHIệP Việt Nam cần chú trọng hơn nữa tới thị trường này nhằm khai thác cơ hội XK cho hàng công nghiệp Việt Nam. (2) Brunây Các mặt hàng xuất khẩu sang Brunây cũng rất đa dạng: dệt may, rau quả, thủ công mỹ nghệ, hoá chất, lạc nhân, thuốc lá, sản phẩm nhựa...là những mặt hàng ta có khả năng cung cấp lớn, hàng nhập chủ yếu là máy, thiết bị lẻ phục vụ khai thác dầu khí. (3) Lào Do cả Việt Nam và Lào đều chủ trương hạn chế nhập khẩu, hàng Việt Nam về chất lượng, mẫu mã, bao bì chưa phù hợp với thị hiếu của nhân dân Lào cũng như thói quen, trình độ tiêu dùng của người dân; dân cư phân tán và nhu cầu không cao khiến cho khả năng tiêu thụ hàng hoá không nhiều (4) Thái Lan Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Thái Lan: Cà phê: Thái Lan được coi là thị trường mới và tiềm năng, trước 1995 mặt hàng này chiếm tỷ trọng nhỏ trong xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Thái. Năm 1996 cà phê XK sang Thái đã tăng mạnh và đạt 32,45 triệu USD chiếm 4,8% trong tổng kim ngạch XK năm 1996 chiếm 7,7% trong tổng kim ngạch XK cà phê của Việt Nam (700 triệu USD), năm 1999 đạt 31 triệu USD giảm 29% so với năm 1998. Năm 2000 đạt 10,75 triệu USD, giảm mạnh so với năm 1999. Năm 2001 chỉ đạt 115 000 USD và năm 2001 đạt 130 000 USD. Thuỷ hải sản: Năm 1995, Thái Lan nhập từ Việt Nam 8,79 triệu USD, chiếm 1,4% tổng xuất khẩu của Việt Nam về loại hàng hoá này (621,4 triệu USD). Năm 1996 kim ngạch tăng 1,7 lần so với năm 1995 và đạt 14,958 triệu USD, chiếm 2,3% tổng kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam; đến năm 1997, đạt 16,362 triệu USD tăng 9,4% so với năm 1996. Năm 1999 đạt 18,4 triệu USD giảm 14% so với năm 1998; năm 2000 tăng mạnh, đạt 34,53 triệu USD. Năm 2001 đạt 26,87 triệu USD giảm 22% so với năm 2000. Hàng hải sản chủ yếu là tôm đông lạnh, mực tươi, cá chế biến...Do điều kiện máy móc chế biến còn lạc hậu nên hàng thuỷ sản xuât đi dưới dạng nguyên liệu thô cung cấp cho các nhà máy chế biến của Thái Lan. Vì vậy, Việt Nam đang có nhu cầu trang bị công nghệ chế biến hiện đại để nâng cao giá trị xuất khẩu, Thái Lan đang coi Việt Nam là đối thủ cạnh tranh đáng gờm trên thị trường thế giới về mặt hàng tôm. Hiện nay hàng thuỷ sản Thái Lan không còn được hưởng GSP vào thị trường EU, thậm chí gần đây EU và Nhật Bản đang cấm tôm Thái Lan xuất khẩu vào hai thị trường này vì dư lượng kháng sinh cao. Hàng công nghiệp nhẹ: chủ yếu là hàng dệt may của Việt Nam đã tăng, năm 1997 đạt 2,44 triệu USD tăng 60% so với năm 1996 là 1,52 triệu USD; năm 1998: 0,98 triệu USD; năm 1999:1,78 triệu USD; năm 2000:3,8 triệu USD; năm 2001:4,2 triệu USD. Nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản: Than đá đạt giá trị xuất khẩu 1,13 triệu USD năm 1996; 1997:2,32 triệu USD; 1998:2,20 triệu USD; năm 1999:11,30 triệu USD; 2000:13,3 triệu USD; 2001:16,96 triệu USD và 2002:10,99 triệu USD. Dầu thô từ năm 1998 đã trở thành mặt hàng xuất kim ngạch lớn trong thương mại với Thái Lan: 1998 đạt 10,27 triệu USD; năm 1999: 44,76 triệu USD; năm 2000:73 triệu USD; năm 2001: 38,8 triệu USD; năm 2002:55,21 triệu USD. Về cơ cấu hàng NK thì nhóm máy móc thiết bị : ôtô, xe máy chiếm phần lớn, điều này phản ánh đúng định hướng nhập khẩu củ._.p. Hai là, phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động ở nước ta hiện nay là các vừa và nhỏ, trong đó đa số mới đựơc thành lập trong mấy năm gần đây. Hầu hết các tổ chức hỗ trợ thương mại như nêu trên cũng đều mới được thành lập. Các doanh nghiệp và tổ chức đó đều thiếu cả về kinh nghiệm, nguồn nhân lực và tài chính cho hoạt động XTTM. - Nhận thức chưa đầy đủ về XTTM. Hoạt động XTTM ở nước ta hiện nay thường tập trung vào việc duy trì, tìm kiếm và mở rộng thị trường để bán hàng hoá mà chưa gắn liền với hoạt động phát triển sản phẩm để có thể phát và bán hàng mà thị trường có nhu cầu với giá cả cạnh tranh...Hoạt động mở rộng thị trường chưa gắn liền với các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá. Điều này dẫn đến tình trạng thị trường ngoài nước tuy được mở rộng nhưng thâm nhập thị trường còn yếu, sự có mặt của hàng hoá Việt Nam còn mỏng, không vững chắc, trên thị trường nội điạ một số lĩnh vực bị hàng hoá nhập khẩu lấn át. - Thiếu chiến lược và kế hoạch XTTM cụ thể Các hoạt động XTTM, nhất là xúc tiến xuất khẩu của Việt Nam hiện chủ yếu vẫn bao gồm các hoạt động tình thế, tập trung vào các lĩnh vực hội chợ triễn lãm, các đoàn đi khảo sát thị trường nước ngoài )đối với thị trường nước ngoài) và hội chợ triễn lãm, quảng cáo, khuyến mại ( trên thị trường trong nước). Theo khảo sát của Dự án VIE/98/021, đại đa số các tổ chức hỗ trợ thương mại cũng như các doanh nghiệp không có chiến lược và kế hoạch XTTM cụ thể. Nhiều hoạt động XTTM không có mục tiêu cụ thể, được tiến hành một cách bị động, không được chuẩn bị một cách kỹ càng, không có trọng tâm và trọng điểm hoặc chưa gắn mặt hàng cụ thể với thị trường cụ thể và hình thức xúc tiến phù hợp. Điều này làm cho hiệu quả XTTM đạt kết quả thấp. - Sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức hỗ trợ thương mại còn lỏng lẻo Số các tổ chức tham gia vào hoạt động XTTM ngày càng nhiều tuy nhiên sự phối hợp giữa các tổ chức này còn yếu dẫn đến tình trạng lớn nhưng không mạnh. Có những hoạt động XTTM, nhất là hoạt động không cần nhiều vốn và chất xám, thì nhiều tổ chức làm và cạnh tranh với nhau rất quyết liệt gây lãng phí nguồn lực như các hoạt động hội chợ triễn lãm. Trong khi đó có một số hoạt động nhiều doanh nghiệp rất cần thì không có tổ chức nào làm hoặc làm không đáp ứng được yêu cầu, chẳng hạn các hoạt động nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm. - Thiếu các nguồn lực XTTM Nguồn lực làm công tác XTTM ở tất cả các cấp đều yếu và thiếu, đặc biệt trong các lĩnh vực như: thiếu hiểu biết về môi trường kinh doanh quốc tế, thiếu kỹ năng lập và tổ chức các kế hoạch XTTM. Nguồn lực về tài chính và cơ sở vật chất cho XTTM ở tất cả các cấp cũng không ngoài tình trạng về nguồn nhân lực. Nguồn tài chính cho XTTM của các doanh nghiệp là rất hạn hẹp do năng lực của bản thân doanh nghiệp và do cả sự hạn chế của Luật. Bộ Tài chính khống chế mức chi phí hợp lý cho các hoạt động lễ tân, quảng cáo, khuyến mại và các hoạt động XTTM khác không quá 3%, 5% và 7% tổng doanh thu của doanh nghiệp tuỳ theo ngành kinh doanh. Sự hỗ trợ về tài chính của chính phủ trong lĩnh vực này còn rất nhỏ giọt trong điều kiện các tổ chức hỗ trợ thương mại mới thành lập còn nhiều khó khăn về tài chính chỉ như “ muối bỏ bể”. chương III: Một số giải pháp nhằm đổi mới và hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá việt nam sang thị trường asean đến 2010 Những định hướng lớn về xuất khẩu hàng hóa sang thị trường ASEAN của Việt Nam Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam 2001-2010 và các dự báo trung và dài hạn về khả năng phát triển sản phẩm cũng như cung cầu về sản phẩm đó, các chỉ tiêu định lượng chính cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá sang ASEAN của Việt Nam trong thời kỳ đến 2010 được xác định như sau: Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa cao gấp đôi mức tăng trưởng GDP của nền kinh tế, tức đạt khoảng 14,5%/ năm; đạt giá trị kim ngạch XK hàng hoá đến 2010 là 9-10 tỷ USD, chiếm khoảng 1/6 tổng kim ngạch xuất khẩu. 2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu, hướng chuyển dịch cơ cấu đến năm 2010 là: tăng tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và tri thức cao; giảm dần tỷ trọng hàng thô. Cụ thể như sau: Bảng ?: Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đến 2010. Nhóm hàng Kim ngạch 2010 (triệu USD) Tỷ trọng 2001 2010 1. Nguyên nhiên liệu 1750 20,1 3-3,5 2. Nông sản, hải sản 8000-8600 23,3 16-17 3. Chế biến chế tạo 20000-21000 31,4 40-45 4. Công nghệ cao 7000 5,4 12-14 5. Hàng khác 12500 19,8 23-35 Tổng kim ngạch hàng hoá 48000-50000 100 Nguồn: Tự tổng hợp Thị trường xuất khẩu Một trong những khâu then chốt của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu đến năm 2010 là mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Thị trường châu á - Thái Bình Dương sẽ vẫn được coi là thị trường trọng điểm do vị trí địa lý gần gũi và sự gắn bó của quan hệ thương mại lâu đời. Chiến lược xuất nhập khẩu Việt Nam đến năm 2010 còn chỉ rằng ASEAN vẫn được coi là một thị trường trọng điểm. Tuy cơ cấu hàng hoá tương đồng nhưng điều đó không có nghĩa là hàng hoá Việt Nam không xuất sang được thị trường ASEAN, dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá sang thị trường ASEAN vẫn chiếm khoảng 1/6 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Yêu cầu đổi mới công tác XTTM của Việt Nam trong thời gian tới Căn cứ đổi mới Để hỗ trợ hiệu quả hơn nữa việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường ASEAN nói riêng, đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống các chính sách hỗ trợ xuất khẩu bao gồm cả việc hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại. Hoàn thiện công tác xúc tiến thương mại phải dựa trên một số căn cứ sau: - Xuất phát từ vai trò ngày càng quan trọng của XTTM đối với việc mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu trong điều kiện bùng nổ thông tin và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. - Xuất phát từ những bất cập của công tác XTTM Việt Nam thời gian qua: công tác XTTM của Việt Nam những năm qua có sự phát triển đáng kể nhưng còn mang tính tự phát, vai trò của Nhà nước trong XTTM chưa thể hiện rõ dẫn đến sự “lạm phát” một số hoạt động XTTM trong thời gian gần đây như HCTL, quảng cáo, khuyến mại..., năng lực tổ chức thực hiện hoạt động XTTM còn yếu và thiếu kinh nghiệm. - Xuất phát từ sự chưa coi trọng đúng mức về XTTM đối với thị trường ASEAN 2. Nội dung đổi mới Đổi mới công tác xúc tiến thương mại đáp ứng nhu cầu hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: - Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động XTTM để hoạt động này có được một sự thống nhất trong nhận thức và trong hành động từ quy định về định nghĩa, phạm vi tác động điều tiết của XTTM, cơ cấu tổ chức làm việc của các tổ chức XTTM cho đến việc huy động các nguồn lực tiến hành hoạt động xúc tiến thương mại cho đến việc đánh giá kết quả các hoạt động xúc tiến thương mại. - Kiện toàn tổ chức hoạt động của các bộ phận làm XTTM để thích ứng với những thách thức của cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. - Nâng cao chất lượng công tác thông tin phục vụ doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về thông tin thương mại cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp xuất hàng hoá sang thị trường ASEAN nói riêng. - Nâng cao năng lực XTTM cho đội ngũ cán bộ làm công tác XTTM. - Hoàn thiện về cơ chế hỗ trợ tài chính cho hoạt động XTTM. Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện đổi mới công tác xúc tiến thương mại Việt Nam Giải pháp về đổi mới và hoàn thiện quản lý Nhà nước về XTTM Hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về XTTM cần phải được thực hiện theo hướng tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng và cạnh tranh bình đẳng cho các hoạt động XTTM ở tất cả các cấp. XTTM là hoạt động thường xuyên không thể thiếu của tất cả các doanh nghiệp và do doanh nghiệp tự tiến hành là chủ yếu với sự hỗ trợ của các tổ chức hỗ trợ thương mại trong đó có các tổ chức nhà nước. Do nguồn lực của nhà nước có hạn và nhà nước không thể làm thay hoạt động XTTM cho doanh nghiệp nên việc tạo ra môi trường thuận lợi cho các hoạt động XTTM, nhất là môi trường cho thị trường dịch vụ XTTM phát triển là hết sức quan trọng để góp phần phát triển bền vững cho các hoạt động XTTM ở nước ta. Tăng cường phổ biến pháp luật và giám sát, kiểm tra và thanh tra các hoạt động XTTM: Bộ Thương mại là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực hội chợ triễn lãm thương mại và khuyến mại, Bộ Văn hoá-Thông tin là cơ quan quản lý nhà nước về các hoạt động thông tin và quảng cáo thương mại. Do vậy, việc phổ biến pháp luật và tổ chức giám sát, kiểm tra và thanh tra trong lĩnh vực XTTM là trách nhiệm của hai bộ này. Việc phổ biến pháp luật có thể tiến hành thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc thông qua các lớp tập huấn. Các lớp tập huấn này có thể do các bộ liên quan tự tổ chức hoặc phối hợp với các tổ chức hỗ trợ thương mại đồng tổ chức. Nguồn kinh phí cho việc phổ biến luật pháp có thể từ ngân sách nhà nước hoặc từ nguồn của các tổ chức hỗ trợ thương mại do doanh nghiệp tự đóng góp. -Trong lĩnh vực thông tin thương mại: Nhà nước cần phải có những quy định rõ ràng hơn về những loại thông tin thuộc bí mật quốc gia không được phép phổ biến để các tổ chức cung cấp thông tin và các doanh nghiệp yên tâm trong việc cung cấp thông tin, nhất là cung cấp thông tin cho các đối tác và khách hàng nước ngoài. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận với các nguồn thông tin trên Internet, Nhà nứơc cần thiết sớm ban hành hướng dẫn cụ thể về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet và triển khai những chính sách và biện pháp phù hợp để từng bước giảm giá cước các dịch vụ truy cập và dịch vụ kết nối Internet. Bộ Thương mại phải đóng vai trò lãnh đạo và phối hợp hoạt động của tổ chức dịch vụ thông tin (kể cả nhà nước và tư nhân) nhằm tăng cường hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức cung cấp thông tin thương mại. -Trong lĩnh vực hội chợ triễn lãm thương mại Luật Thương mại và các văn bản dưới Luật này cần quy định rõ các tổ chức XTTM không phải là thương nhân có được tiến hành hoạt động tổ chức XTTM hay không. Nếu có thì ranh giới giữa các tổ chức này với hoạt động kinh doanh dịch vụ hội chợ triễn lãm như thế nào, phải qui định rõ quyền và trách nhiệm bảo trợ HCTL của các tổ chức và cá nhân. Các tổ chức XTTM của Nhà nước có thể chọn một số ít hội chợ triễn hướng về xuất khẩu để hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính bằng cách tổ chức mời các đoàn thương nhân nước ngoài vào tham gia bởi việc này không ai có thể làm hiệu quả hơn là các tổ chức XTTM của nhà nứơc và nhất là các cơ quan đại diện của nhà nước ở nước ngoài. Còn đối với các hội chợ triễn lãm trong nước thì các tổ chức XTTM của Nhà nước không nên cạnh tranh với các doanh nghiệp với tư cách là người tổ chức bởi vì việc tổ chức và tham gia các hội chợ triễn lãm này không cần nhiều đến sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Nhà nước. Thúc đẩy thành lập Hiệp hội hội chợ triễn lãm và hỗ trợ cho hiệp hội này phát triển trở thành một diễn đàn chung của các tổ chức kinh doanh hội chợ triễn lãm cũng như các doanh nghiệp thường xuyên tham gia hội chợ triễn lãm. Sử dụng hiệp hội như một trợ thủ đắc lực của các cơ quan quản lý nhà nước về XTTM trong việc đào tạo nâng cao năng lực tổ chức và tham gia hội chợ triễn lãm, lập kế hoạch tổ chức hội chợ triễn lãm hàng năm cũng như trong việc giám sát và kiểm tra các hoạt động hội chợ triễn lãm nhằm khắc phục dần tình trạng lộn xộn hiện nay. Tổ chức bình chọn các hội chợ triễn lãm có hiệu quả nhất hàng năm để khuyến khích các đơn vị tổ chức nâng cao chất lượng dịch vụ và qua đó hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc lựa chọn các hội chợ triễn lãm có hiệu quả để tham gia. Bộ Thương mại nên chỉ đạo cho các đại diện thương mại của nước ta ở nước ngoài lựa chọn các hội chợ triễn lãm quốc tế truyền thống hàng năm phù hợp và có hiệu quả đối với hàng xuất khẩu của nước ta để hướng dẫn cho các doanh nghiệp tham gia. Bộ Thương mại cũng nên chỉ đạo và cấp kinh phí cho các đại diện thương mại của ta ở nước ngoài và Cục XTTM tổ chức mời các đoàn thương nhân nước ngoài vào thăm và giao dịch tại một vài hội chợ trong nứơc hướng về xuất khẩu như Hội chơ Vietnam Expo. -Trong lĩnh vực quảng cáo thương mại: Chính phủ và Bộ Văn hoá-Thông tin cần sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh quảng cáo. Theo pháp lệnh Quảng cáo có những quảng cáo phải xin giấy phép của Bộ Văn hoá-Thông tin hoặc Sở Văn hoá-Thông tin nhưng cũng có những quảng cáo chỉ do người quảng cáo và người kinh doanh dịch vụ quảng cáo hoặc người phát hành quảng cáo quyết định. Vì vậy, nếu pháp luật quy định càng cụ thể rõ ràng nhất là đối với các trường hợp cấm quảng cáo thì càng dễ cho việc thực hiện và tránh vi phạm pháp luật không chủ ý. Bộ Tài chính cần xem xét nới lỏng mức khống chế được phép chi cho quảng cáo của các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp cần quảng cáo những sản phẩm dịch vụ mới và những doanh nghiệp có chương trình thiết lập nhãn hiệu thương mại của mình trên thị trường thế giới. -Trong lĩnh vực khuyến mại: Mục đích chủ yếu của việc quản lý các hoạt động khuyến mại là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và chống cạnh tranh không lành mạnh. Biện pháp đăng ký và cấp phép các hoạt động khuyến mại hiện nay nếu không đi kèm với biện pháp giám sát và kiểm tra có hiệu quả việc thực hiện thì chắc chắn cũng không đạt được mục đích quản lý. Do vậy, để đạt được mục đích quản lý, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khuyến mại, công tác quản lý nhà nước về khuyến mại cần phải được đổi mới chuyển từ tiền kiểm như hiện nay sang hậu kiểm. Nghĩa là, một mặt pháp luật về khuyến mại cần phải quy định đầy đủ và rõ ràng các điều kiện mà các hoạt động khuyến mại phải tuân theo và giảm thiểu những trường hợp phải đăng ký hoặc xin giấy phép. (một số quy định của luật hiện hành về khuyến mại có thể sẽ thành thừa sau khi ban hành luật cạnh tranh). Mặt khác, các cơ quan quản lý nhà nước về XTTM cần phải tăng cường giám sát và kiểm tra việc thực hiện theo pháp luật của các tổ chức khuyến mại. Để làm tốt công tác giám sát và kiểm tra, các cơ quan quản lý nhà nước về XTTM cần phải phối hợp và phát huy nguồn lực và vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong đó có Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người Tiêu dùng, các doanh nghiệp và bản thân người tiêu dùng. Các nhóm lợi ích này có thể vì quyền lợi của mình mà trở thành tai mắt va trợ thủ đắc lực của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc giám sát và kiểm tra nói trên, nhất là trong việc phát hiện những vi phạm pháp luật hoặc tiêu cực trong khuyến mại. Nâng cao chất lượng công tác thông tin phục vụ doanh nghiệp xuất khẩu nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về thông tin thương mại cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường ASEAN nói riêng Để khắc phục những bất cập trong việc tiếp cận thông tin thị trường quốc tế như nêu trên thì về lâu dài cần phải giải quyết tốt mối quan hệ cung cầu về thông tin, dần dần hình thành một thị trường hoàn chỉnh về thông tin. Thông tin cần phải được coi là hàng hoá. Trước mắt cần có những biện pháp thích hợp để kích cầu, tăng cung (chủ yếu là về mặt lượng) và giảm giá thành thông tin. Việc này đòi hỏi nỗ lực và hợp tác chặt chẽ của cả khu vực doanh nghiệp và chính phủ. Đối với khu vực doanh nghiệp: -Các doanh nghiệp cần phải chủ động tổ chức công tác thông tin trong nội bộ doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và quy mô của doanh nghiệp như: xác định cụ thể thông tin mình cần, phân công và đào tạo cán bộ thu thập, lưu trữ và phân tích thông tin, quy trình lưu chuyển và xử lý thông tin trong nội bộ doanh nghiệp để tránh tình trạng cát cứ thông tin, bố trí nguồn tài chính cho công tác thông tin, kể cả cho việc mua các thông tin cần thiết mà doanh nghiệp không tự thu thập hoặc phân tích được. -Các hiệp hội ngành hàng cần phải đóng vai trò tích cực hơn và quan trọng trong việc cung cấp các thông tin chuyên ngành cho các hội viên của mình. Có nhiều thông tin chuyên ngành cần chung cho tất cả các doanh nghiệp trong ngành, nhưng nếu để cho từng doanh nghiệp tự thu thập hoặc phân tích thì một là không làm được hai là tốn kém không cần thiết. Để việc cung cấp thông tin của các hiệp hội ngành hàng thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của hội viên, các doanh nghiệp hội viên cần phải sẵn sàng đóng góp kinh phí cho công tác thông tin, đồng thời có quyền và phải biết đòi hỏi hiệp hội cung cấp thông tin gì cho mình. -Các tổ chức và doanh nghiệp cung cấp thông tin phải nâng cao chất lượng thông tin nhất là cung cấp đúng thông tin mà doanh nghiệp cần, chứ không phải là cái mình có. Những khó khăn hiện nay của doanh nghiệp trong việc tiếp cận với các nguồn tin thị trường quốc tế từ nước ngoài càng làm cho vai trò trung gian cung cấp thông tin của các tổ chức dịch vụ thông tin trong nước trở nên quan trọng hơn và có điều kiện phát triển hơn nhất là trong việc cung cấp các thông tin sâu và các thông tin đã qua xử lý và phân tích. - Các tổ chức cung ứng thông tin cần phải hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác với nhau. Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức. Nhu cầu về thông tin thị trường quốc tế rất lớn, đa dạng và thường xuyên. Không có một tổ chức riêng rẽ nào, dù đó là một tổ chức lớn của Chính phủ có thể thoả mãn được hết các nhu cầu về thông tin của các doanh nghiệp. Hợp tác giữa các tổ chức thông tin cũng là cách để các tổ chức này đi dần vào chuyên môn hoá một cách tự nguyện theo thế mạnh của từng tổ chức nhằm nâng cao chất lượng thông tin, tránh cung cấp trùng lặp thông tin và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong tiếp cận thông tin. Chuyên môn hoá sẽ góp phần nâng cao chất lượng thông tin do vậy sẽ là một nhân tố quan trọng để kích cầu về thông tin. Cầu về thông tin tăng sẽ có lợi cho tất cả các tổ chức cung cấp thông tin. Đối với Chính phủ: Mặc dù nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp là cơ bản song sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin thị trường quốc tế là không thể thiếu. Hầu như nước nào trên thế giới cũng coi việc hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận thông tin thị trường quốc tế là hoạt động chính và quan trọng nhất trong công tác XTTM, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu. Sự hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận thông tin thị trường quốc tế thể hiện trong các lĩnh vực như tạo môi trường thuận lợi cho việc cung cấp và tiếp cận thông tin, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp và trực tiếp cung cấp thông tin nhất là những thông tin nguồn. -Hỗ trợ tạo môi trường và cơ sở hạ tầng thuận lợi cho hoạt động thông tin -Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực -Hỗ trợ về tài chính -Chính phủ hỗ trợ bằng cách trực tiếp cung cấp thông tin. Chính phủ có thể tăng cường và nâng cao hiệu quả cung cấp thông tin thị trường quốc tế cho các doanh nghiệp thông qua các biện pháp sau đây: +Hình thành một mạng lưới thông tin thương mại quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận thông tin. Chính phủ cần đóng vai trò lãnh đạo và phối hợp hoạt động của các tổ chức dịch vụ thông tin để tăng cường chất lượng thông tin cung cấp cho doanh nghiệp và khắc phục tình trạng vừa thừa vừa thiếu thông tin. +Mở rộng và phát huy vai trò của các dại điện thương mại và ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. Các đại diện thương mại ở nước ngoài cần phải được đào tạo tốt hơn, nhất là về nghiệp vụ thu thập và phân tích thông tin và nghiên cứu thị trường. Những điều kiện làm việc thuận lợi hơn, nhất là về mặt tài chính cũng rất quan trọng để họ có thể thực sự là tai mắt của chính phủ và các doanh nghiệp tại địa bàn mà họ phụ trách. Sự trao đổi thông tin giữa các đại diện thương mại ở nước ngoài và các tổ chức dịch vụ thông tin, các tổ chức XTTM và doanh nghiệp trong nước cần được mở rộng và trực tiếp hơn để tránh tình trạng tắc nghẽn thông tin ở những khâu trung gian. +Chính phủ cần tập trung vào việc cung cấp miễn phí hoặc với giá có bù lỗ cho các thông tin nền và thông tin nguồn cũng như các thông tin về môi trường kinh doanh đáp ứng cho nhu cầu của cả cộng đồng doanh nghiệp và đặc biệt là những thông tin có tính dự báo trung và dài hạn để định hướng cho sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế những thiệt hại cho Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức. Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức. Cạnh tranh để nâng cao chất lượng thông tin. Hợp tác để chia sẻ thông tin nguồn nhất là trong điều kiện Việt Nam thông tin nguồn còn rất thiếu và vượt quá khả năng thanh toán của nhiều tổ chức, doanh nghiệp do mất cân đối giữa cung và cầu sản phẩm. +Đối với các thông tin sâu đòi hỏi phải có thời gian và kinh phí thu thập, xử lý và phân tích theo yêu cầu cụ thể của doanh nghiệp cụ thể thì các tổ chức thông tin của Chính phủ cũng có thể cung cấp nhưng doanh nghiệp có nhu cầu phải trả tiền. Đối với loại thông tin chuyên sâu này tốt nhất là nên để cho các tổ chức như hiệp hội, ngành hàng, các công ty dịch vụ thông tin, các công ty nghiên cứu thị trường, các công ty tư vấn kinh doanh...cung cấp theo cơ chế thị trường. +Các trung tâm thông tin thuộc các Bộ, ngành cần phải được củng cố để nâng cao chất lượng cung cấp thông tin. Về mặt thể chế, nên chuyển các tổ chức này từ các đơn vị sự nghiệp có thu thành các doanh nghiệp công ích hoạt động trong lĩnh vực thông tin để doanh nghiệp này độc lập và tự chủ hơn về tài chính và năng động hơn trong hoạt động cung cấp thông tin. Sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước cho các doanh nghiệp công ích hoạt động trong lĩnh vực thông tin nên chuyển từ doanh nghiệp bao cấp lương và một phần kinh phí hoạt động như đang áp dụng hiện nay đối với các đơn vị sự nghiệp có thu sang hỗ trợ có thời hạn và có điều kiện chủ yếu trong lĩnh vực đào tạo và thông tin nguồn như nói trên và một phần kinh phí ban đầu nhằm nâng cấp các thiết bị phục vụ cho việc xử lý thông tin hiệu quả. 3. Xây dựng mạng lưới XTTM có hiệu quả, thích ứng với những thách thức của cạnh tranh Để khắc phục tình trạng lớn nhưng chưa mạnh do thiếu phối hợp giữa các tổ chức XTTM và hỗ trợ thương mại, nhất thiết phải có một mạng lưới XTTM hoạt động có hiệu quả. Đó phải là mạng lưới mở và tự nguyện đối với các tổ chức tham gia; chuyên môn hoá cao và hỗ trợ cho tất cả các khâu của kênh giá trị xuất khẩu từ sản xuất, cung ứng cho xuất khẩu đến việc thực hiện bán hàng xuất khẩu và dịch vụ khách hàng hoạt động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển và do một Uỷ ban quốc gia về phát triển thương mại quốc tế lãnh đạo; trong mạng lưới sẽ có các tổ chức nòng cốt và các tổ chức vệ tinh. Các tổ chức nòng cốt của mạng lưới có thể là Bộ Thương mại, Cục XTTM, VCCI hay các hiệp hội ngành hàng. Các tổ chức nòng cốt này sẽ tập trung vào các lĩnh vực xây dựng, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện, theo dõi và đánh giá, điều chỉnh các chiến lược và kế hoạch XTTM, gắn mặt hàng cụ thể với thị trường cụ thể; ngoài ra còn đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo nâng cao năng lực XTTM ở các cấp. Các tổ chức vệ tinh của mạng lưới có thể là các tổ chức XTTM nhà nước cấp tỉnh, thành phố, các chi nhánh của các hiệp hội ngành hàng và Phòng Thương mại công nghiệp, các hiệp hội kinh doanh địa phương và các tổ chức cung ứng dịch vụ XTTM dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của các tổ chức XTTM nòng cốt như nói trên. Sự phân công chức năng nói trên là trên cơ sở tự nguyện, mang tính chất tương đối và dựa trên lợi thế so sánh của từng tổ chức. Sự phân công này không có nghĩa là các tổ chức nòng cốt không trực tiếp tổ chức thực hiện các hoạt động XTTM cụ thể (nhất là các hoạt động ở tầm quốc gia) và các tổ chức vệ tinh không tham gia vào quá trình xây dựng và điều chỉnh chiến lược và kế hoạch. Uỷ ban quốc gia về phát triển thương mại quốc tế: Để lãnh đạo và chỉ đạo mạng lưới XTTM như nói trên cần thiết phải thành lập một uỷ ban quốc gia về phát triển thương mại quốc tế ba bên (chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại, và doanh nghiệp). Uỷ ban này sẽ gồm 25-30 thành viên do một Phó Thủ tướng làm chủ tịch. Phó chủ tịch thường trực của Uỷ ban là Bộ trưởng Bộ Thương mại. Thứ trưởng Bộ Thương mại phụ trách công tác XTTM làm Tổng thư ký Uỷ ban. Cục XTTM thuộc Bộ Thương mại, ngoài các chức năng XTTM và quản lý nhà nước về XTTM như hiện nay, sẽ đóng thêm vai trò là Ban Thư ký của Uỷ ban. Các thành viên khác của Uỷ ban là đại diện của một số bộ ngành liên quan (cấp thứ trưởng), đại diện một số tổ chức hỗ trợ thương mại (chủ tịch phòng Thương mại và Công nghiệp, chủ tịch một số hiệp hội ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn) và đại diện của doanh nghiệp (tổng giám đốc doanh nghiêp có kim ngạch xuất khẩu lớn). Uỷ ban sẽ họp 3 hoặc 6 tháng một lần với nhiệm vụ chủ yếu sau đây: -Thảo luận và kiến nghị các chính sách và pháp luật để thúc đẩy, điều tiết và quản lý các hoạt động phát triển và xúc tiến thương mại. -Thảo luận và thông qua các chiến lược quy hoạch chương trình và dự án phát triển và xúc tiến thương mại để định hướng, phát triển và điều tiết các hoạt động phát triển và XTTM ở cả ba cấp chính phủ, các tổ chức hỗ trợ thương mại và doanh nghiệp. -Đưa ra và thảo luận những thay đổi mới nhất của môi trường kinh doanh (các sự kiện xảy ra ngoài dự đoán) và chuẩn bị sẵn sàng để thích ứng với những thay đổi đó nhằm giúp doanh nghiệp xuất khẩu có kế hoạch biện pháp đối phó. 4. Đổi mới cơ chế hỗ trợ tài chính cho công tác XTTM Thứ nhất, Hỗ trợ kinh phí cho XTTM phải dựa trên các chương trình hoạt động cụ thể, trong đó tập trung cho các chương trình XTTM trọng điểm. Muốn vậy, Chính phủ cần ban hành các văn bản pháp quy về vấn đề này, trong đó phải có những điểm quan trọng sau: - Xác định được tiêu chí của chương trình XTTM trọng điểm Các Bộ, ngành, UBND tỉnh, thành phố và các hiệp hội doanh nghiệp chủ động đề xuất các chương trình xúc tiến trọng điểm quốc gia, trong đó nêu rõ nội dung chương trình, thời gian thực hiện, cơ quan chủ trì và dự toán kinh phí để gửi về Bộ Thương mại trong quý I hàng năm. Việc đề xuất các chương trình xúc tiến trọng điểm nên được tiến hành một cách chọn lọc. Với những mặt hàng đã sẳn có thị trường tiêu thụ như cà phê, gạo, dệt may, giày dép... thì công tác phát triển thị trường phải do doanh nghiệp tự làm là chính, thông qua nâng cao chất lượng và hạ giá thành. Nhà nước chỉ hỗ trợ khi mặt hàng đó cần thâm nhập một thị trường hoàn toàn mới hoặc cần giải quyết một khâu nào đó mang tính đột phá như quảng bá thương hiệu, thiết lập trung tâm thiết kế mẫu mã...Nếu đề xuất phát triển mặt hàng mới thì cần chú trọng những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, thị trường tiêu thụ lớn, ta lại có lơị thế về nhân công hoặc nguyên liệu, qua đó có thể cạnh tranh về giá cả. Điều cốt yếu là phải có khả năng phát triển lâu dài, đạt tới kim ngạch ít nhất từ 50 – 70 triệu USD/ năm (theo tính toán đề nghị của Bộ Thương mại). Tuy nhiên cần tránh việc cấp kinh phí để các tổ chức XTTM của nhà nước làm thay hoặc cạnh tranh với các doanh nghiệp trong lĩnh vực XTTM hoặc tiến hành các hoạt động có thể thực hiện được bằng các nguồn kinh phí khác - Cách phát hiện và chấp nhận một chương trình XTTM trọng điểm Có các tiêu chí rồi, việc xây dựng một chương trình đề xuất và cấp tiền hỗ trợ được coi là quan trọng không kém. Quy trình này cần thoả mãn các yêu cầu: +Được đề xuất từ cơ sở lên theo các tiêu chí đánh giá +Mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp tham gia làm xuất khẩu đều được tham gia đề xuất, kể cả các doanh nghiệp đơn lẻ, các cơ sở hoặc các tổng công ty, các hiệp hội, các địa phương + Khi đã có các đề án cụ thể, Bộ Thương mại sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam tổ chức hôị đồng bình chọn các chương trình xúc tiến có lợi nhất cho đất nước để trình thủ tướng chính phủ phê duyệt và thông qua. -Công tác kiểm tra hiệu quả chi cho chương trình XTTM trọng điểm Sau khi đã thẩm định, tuyển chọn, quá trình thực hiện cần có sự kiểm tra giám sát để có những điều chỉnh xử lý kịp thời phù hợp với những biến đổi bất thường của môi trường kinh doanh và đánh giá hiệu quả thực hiện chương trình, rút ra bài học kinh nghiệm cho những lần sau. Thứ hai, Chính phủ đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu để sửa đổi quy định về việc khống chế mức chi phí hợp lý cho các hoạt động lễ tân, quảng cáo, khuyến mại và các hoạt động XTTM khác như giao dịch, tiếp thị không quá 3%, 5% và 7% tổng doanh thu của doanh nghiệp tuỳ theo ngành kinh doanh. Thứ ba, Ngoài ra cần kết hợp nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, nguồn hỗ trợ quốc tế và nguồn tự đóng góp của doanh nghiệp. 5. Đào tạo nâng cao năng lực XTTM Cần đổi mới cả nội dung lẫn hình thức đào tạo nhằm nâng cao năng lực XTTM cho những người làm công tác XTTM. Nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo, đảm bảo cho người được đào tạo không chỉ “học” về XTTM, nội dung đào tạo phải được chuẩn hoá về các vấn đề: - cách thu thập, xử lý và phân tích thông tin về thị trường quốc tế - phải có sự kết hợp giữa lý thuyết cơ bản và các bài tập tình huống thực tế đặt ra nhằm vận dụng lý thuyết đó vào thực trạng XTTM Việt Nam - cách tổ chức một hội nghị, hội thảo về XTTM Về hình thức đào tạo, ngoài cách thức truyền thống là tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn về XTTM, các chuyến đi khảo sát thực tế nước ngoài cũng phải được coi là một loại hình đào tạo. Để tăng hiệu quả của loại hình đào tạo này, cần có một quy định bắt buộc đối với những người tham gia các chuyến đi khảo sát là phải nộp bài thu hoạch về đánh giá cơ hội và tiềm năng xuất khẩu của hàng hoá Việt nam sang thị trường mà họ đi khảo sát, nếu bài viết chất lượng họ sẽ được khuyến khích tham gia tiếp, nếu không thì cơ hội đó dành cho người khác. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0512.doc
Tài liệu liên quan