Tiềm năng du lịch của bảo tàng dân tộc Việt Nam

Lời nói đầu Văn hoá là một thực thể sống động, có sự vận động cả trong không gian và thời gian. Nhìn theo chiều thời gian, văn hoá Việt Nam là một diễn trình lịch sử nó có những quy luật phát triển của nó. Nhìn trong không gian văn hoá Việt Nam có sự vận động qua các vùng – xứ – miền khác nhau. Trải dài từ Bắc vào Nam với dáng hình lưỡi gươm mở, nước Việt Nam bao gồm nhiều vùng sinh thái, văn hoá khác nhau. Trên đó là sự cộng cư cuả 54 tộc người cùng chung sống hoà hợp, đoàn kết và thân ái, đ

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Tiềm năng du lịch của bảo tàng dân tộc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều đó khẳng định Việt Nam là quốc gia thống nhất trong đa dạng văn hoá. Điều kiện tự nhiên, xã hội, lịch sử của các vùng đã tạo nên những nét tương đồng, có những nét dị biệt, do vậy chu trình vận động của văn hoá nước ta cũng được cảm nhận dưới hai chiều cảm quan và nhãn quan luôn chịu sự tác động của những điều kiện kể trên. Chúng ta đang sống trong bối cảnh mà mối quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và trở thành xu thế chung của nhân loại. Trong bối cảnh ấy du lịch đã và đang trở thành nhịp cầu nối liền khoảng cách vùng miền và giữa các quốc gia, dân tộc, mối quan hệ, giao lưu và hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng, các cá nhân trong đời sống văn hoá, xã hội. Mặt khác, hoạt động kinh tế du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều nước trên thế giới. Nhưng trên thực tế, du lịch văn hoá ở Việt Nam vẫn chưa được quan tâm đầu tư tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là trong lĩnh vực bảo tàng. Khách du lịch chưa quan tâm, thậm chí còn thờ ơ đối với loại hình này. Vậy tại sao bảo tàng không có sức hấp dẫn lớn đối với du khách? Những vấn đề gì còn bất cập trong hoạt động của bảo tàng? làm thế nào để thu hút khách du lịch đến với bảo tàng, để bảo tàng trở thành địa chỉ du lịch văn hoá hấp dẫn khách du lịch trong và ngoài nước. Xuất phát từ thực tế trên, bước đầu tác giả đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu một bảo tàng cụ thể với đề tài “ Tiềm năng du lịch của bảo tàng dân tộc Việt Nam” để làm luận văn tốt nghiệp. Tính cấp thiết của đề tài. Du lịch mới chỉ phát triển ở Việt Nam những năm gần đây khi Đảng và Nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới, nhờ đó đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhu cầu du lịch tìm hiểu về văn hóa cũng đòi hỏi cấp bách hơn bao giờ hết. Mặt khác, công cuộc đổi mới cũng thu hút một lượng khách quốc tế lớn đến tìm hiểu, làm ăn, hợp tác du lịch tại Việt Nam, đồng thời họ là những người có nhu cầu rất lớn tìm hiểu về lịch sử văn hoá của dân tộc này. Bảo tàng dân tộc học Việt Nam được thành lập vào tháng 11 năm 1997 và là bảo tàng trẻ nhất trong hệ thống Bảo tàng quốc gia ở Việt Nam. Trong những năm qua bằng những hoạt động của mình,với thế mạnh riêng, Bảo tàng Dân tộc học đã dần khẳng định được vị thế và trở thành một trong những bảo tàng có sức hấp dẫn lớn đối với du khách, một trong những địa điểm du lịch mà khách không thể bỏ qua nếu như họ đến Hà Nội - Thủ đô ngàn năm văn hiến. Vì vậy, việc tìm hiểu đánh giá về tiềm năng du lịch văn hoá của Bảo tàng Dân tộc học là điều nên làm và là đề tài hấp dẫn, có ý nghĩa đối với sinh viên ngành du lịch. Phương pháp nghiên cứu và mục đích của đề tài. Để thực hiện và hoàn thành tốt đề tài, tác giả đã có một thời gian thực tập ở bảo tàng dân tộc học và Bảo tàng lịch sử để có thể tìm hiểu và tiếp cận các đối tượng của đề tài, kết hợp với việc sưu tầm tài liệu và tiếp cận các đối tượng của đề tài, tác giả cũng thực hiện các chuyến điền giã nhằm điều tra thăm dò ý kiến của khách tham quan về bảo tàng dân tộc học. Trên cơ sở đó, bước đầu tác giả cố gắng tìm hiểu nguyên nhân về sức hấp dẫn và những tồn tại của Bảo tàng Dân tộc học đối với khách du lịch và đưa ra một số ý kiến nhằm phát triển hoạt động du lịch ở đây. Tình hình nghiên cứu và phạm vi của đề tài. Mặc dù là một bảo tàng mới thành lập nhưng có rất nhiều tài liệu khác nhau, các công trình nghiên cứu về bảo tàng. Song để tiếp cận với bảo tàng dân tộc học dưới hình thái của hoạt động du lịch thông qua hệ quy chiếu của văn hoá du lịch thì còn rất ít và chưa đồng bộ. Vì vậy trong đề tài này, trên cơ sở kế thừa kế thừa tổng hợp và sử dụng những nguồn tư liệu khác nhau kết hợp với một khoảng thời gian ngắn đi thực tập điền dã, tác giả mong muốn tiếp cận với bảo tàng Dân tộc học với tư cách là một sinh viên khoa du lịch để từ đó chỉ ra tiềm năng du lịch to lớn của bảo tàng cũng như những điều còn hạn chế bất cập cho sự phát triển du lịch văn hoá của bảo tàng này. Đồng thời đưa ra những nhận xét cảm quan của mình nhằm góp phần thúc đẩy sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước đối với bảo tàng cũng như góp phần nhỏ bé của mình đưa bảo tàng trở thành một địa chỉ du lịch văn hoá không thể nào quên đối với mỗi du khách, xứng đáng là điểm đến trong thiên niên kỷ mới của Hà Nội- Việt Nam trong tương lai. Những đóng góp của đề tài. Là sinh viên khoa du lịch, được tiếp cận với bảo tàng dân tộc học thông qua lĩnh vực văn hoá du lịch, tác giả mong muốn góp phần nhỏ bé của mình cùng các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực bảo tàng, các công ty du lịch trình bày một cách có hệ thống về: Những giá trị về văn hoá của các tộc người trên dải đất Việt Nam. 2.Đối với hoạt động du lịch cần làm sáng tỏ những giá trị tiềm năng du lịch. 3. Đưa ra những hướng nhằm khai thác tốt hơn thế mạnh của bảo tàng mà vẫn giữ được giá trị vốn có của nó. 5. Bố cục của luận văn. Luận văn được chia làm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần nội dung chia làm 4 chương: Chương I: Giới thiệu chung về bảo tàng dân tộc học và vai trò của nó trong phát triển du lịch. Giới thiệu về Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo tàng. Tổ chức và nhân lực. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam với du lịch văn hoá. Vai trò của Bảo tàng đối với nền văn hoá xã hội của Quốc gia. Bảo tàng Dân tộc học – một địa chỉ mới cho du khách. Chương II: Nội dung trưng bày và hiện trạng hoạt động của Bảo tàng Dân tộc học. 2.1. Nội dung của hệ thống trưng bày. 2.1.1. Những hình ảnh chung về dân tộc Việt nam. 2.1.2. Phần giới thiệu về không gian văn hoá của người Việt- dân tộc chủ thể ở Việt Nam. 2.1.3. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc Mường, Thổ Chứt 2.1.4. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tày, Thái, Ka Đai. 2.1.5. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tọcc nhóm ngôn ngữ Hmông- Dao, Tạng- Miến và ngưòi Sán Dìu, người Ngái. 2.1.6. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khơ Me ở miền Núi. 2.1.7. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo ở miền Núi. 2.1.8. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc Chăm, Hoa, Khơ Me. 2.1.9. Phần giới thiệu về sự giao lưu giữa các dân tộc. 2.2. Quan điểm và phương pháp trưng bày, giới thiệu. 2.3. Trưng bày ngoài trời. 2.4. Phòng khám phá dành cho trẻ em. 2.5. Các hoạt động trình diễn 2.6. Trưng bày về ASEAN 2.7. Hợp tác quốc tế. Chương III: Khảo sát về hình ảnh của bảo tàng trong con mắt khách du lịch. 3.1. Khảo sát đối với khách du lịch nội địa. 3.1.1. Một số kết quả khảo sát. 3.1.2. Một vài nhận xét thông qua kết quả điều tra 3.2. Khảo sát với khách du lịch quốc tế. 3.2.1. Một số kết quả khảo sát. 3.2.2. Một vài nhận xét thông qua kết quả điều tra. 3.3. Nhận xét chung về hoạt động thu hút khách du lịch ở Bảo tàng Dân tộc học. 3.3.1. Điểm mạnh. 3.3.2. Điểm yếu. Chương IV: Đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút khách du lịch đến với Bảo tàng Dân tộc học. Phương hướng phát triển bảo tàng dân tộc học trong thời gian tới. Các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hoạt động du lịch ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Giải pháp đẩy mạnh công tác quảng cáo, Marketing. 4.2.2. Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên nghiệp cho bảo tàng. 4.2.3. Giải pháp xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật Các hoạt động của bảo tàng. Phần cuối là phụ lục và tài liệu tham khảo. Chương I: Giới thiệu chung về bảo tàng dân tộc học và vai Trò của nó trong phát triển du lịch. Giới thiệu về bảo tàng dân tộc học ở Việt Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo tàng. Loại hình bảo tàng dân tộc học ở Việt Nam còn mới mẻ nhưng rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn về nhiều phương diện trên quy mô quốc gia cũng như ở từng địa phương. Nước ta có tới 54 dân tộc, nên ngay từ năm 1981, nhà nước đã chủ trương hình thành một Bảo tàng Dân tộc học đặt tại thủ đô Hà Nội. Công trình Bảo tàng Dân tộc học được chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế – kỹ thuật ngày 14/12/1987 và được nhà nước cấp đất để xây dựng năm 1987 là 2.500 m2, năm 1988 là 9.500 m2 và năm 1990 thủ tướng chính phủ có quyết định giao toàn bộ 3,27 ha. Bảo tàng bắt đầu được cấp vốn chuẩn bị đầu tư vào năm 1986. Công việc khởi công xây dựng móng triển khai từ cuối 1989. Theo luận chứng kinh tế kỹ thuật, tổng kinh phí để xây dựng là 27 tỷ chưa kể khoảng 4 tỷ cho việc sưu tầm hiện vật và tổ chức trưng bày. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam có kiến trúc mô phỏng hình trống đồng – một biểu tượng của nền văn hoá Việt Nam, do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh – người dân tộc Tày (công ty xây dựng nhà ở và công trình công cộng – Bộ xây dựng ) thiết kế. Nội thất công trình do bà kiến trúc sư Ve’ronique Dollfus ( người Pháp thiết kế ). Sau nhiều năm chuẩn bị về mặt cơ sở vật chất và chuyên môn ngày 12 tháng 11 năm 1997, nhân dịp lễ khai mạc hội nghị thượng đỉnh khối Pháp ngữ lần thứ 7, bảo tàng được Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và tổng thống Pháp Jac Queschirac cắt băng khánh thành mở cửa phục vụ khách tham quan. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đặt trên một khu đất rộng trên đường Nguyễn Văn Huyên, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, cách trung tâm thủ đô 8km. Đây vốn là vùng đất canh tác nông nghiệp của cư dân sở tại. Tất cả các công trình cơ sở hạ tầng đều mới được xây dựng cùng với quá trình hình thành Bảo tàng kể cả đoạn đường lớn dài khoảng 700m từ đường Hoàng Quốc Việt rẽ vào bảo tàng (trong tương lai nó sẽ được kéo dài tiếp đến khách sạn Deawoo bên đường Cầu Giấy và Liễu Giai ). Bảo tàng gồm hai khu vực chính : Trong nhà và ngoài trời. Khu vực trong nhà bao gồm các khối nhà : Nhà trưng bày , cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản, các bộ kỹ thuật, hội trường …. Các khối nhà này liên hoàn với nhau có các lối đi được thiết kế hợp lý. Khu vực ngoài trời giới thiệu một số công trình kiến trúc của một số dân tộc như : nhà người Chăm, nhà người Việt, Thuỷ đình, nhà của người Êđê, nhà mồ GiaRai, nhà mồ CơTu, nhà người Dao, nhà người Hà Nhì và nhà người Tày. Tổng diện tích xây dựng là 2.480m2, trong đó 750 m2 dành cho kho bảo quản hiện vật. Hàng năm bảo tàng bảo tàng đón tiếp 60.000 khách tới tham quan. Khu trưng bày ngoài trời và khu trưng bày về văn hoá các nước ASEAN sẽ được hoàn thành vào những năm đầu của thế kỷ 21. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam vừa là một cơ sở khoa học vừa là một trung tâm văn hoá có tính khoa học cao và tính xã hội rộng lớn. Vị trí đó đã được xác định qua các chức năng của bảo tàng. Nghiên cứu khoa học về các dân tộc nước ta, sưu tầm phân loại, đánh giá, bảo quản phục chế, trưng bày, giới thiệu và khai thác những giá trị lịch sử – văn hoá của các dân tộc đồng thời cung cấp tư liệu dân tộc học và đào tạo cán bộ cho loại hình Bảo tàng Dân tộc học. 1.1.2. Tổ chức và nhân lực. Yếu tố quan trọng góp phần vào những thành công kể trên là Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã có phương pháp quản lý rất khoa học và cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Bảo tàng luôn quan tâm đến nguồn lực con người cả về chất và lượng thông qua các hoạt động học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên môn, quản lý, ngoại ngữ. Do đó tất cả các cán bộ làm chuyên môn của Bảo tàng Dân tộc học hiện nay đều có trình độ đại học chuyên ngành trong đó có 10 người học vị tiến sỹ và 2 người là phó Giáo sư. Qua quá trình hình thành và phát triển, đến nay bảo tàng Dân tộc học đã thiết lập được cơ cấu tổ chức chặt chẽ gồm ban Giám đốc và 15 phòng ban chức năng với 91 cán bộ trong đó có 41 cán bộ trong biên chế, có 57 người đều có trình độ đại học và sau đại học chuyên ngành dân tộc học và bảo tàng học. Sơ đồ cơ cấu tổ chức bảo tàng dân tộc học việt nam Giám Đốc Hội đồng khoa học Phó giám đốc Phó giám đốc Các phòng giúp việc giám đốc Các phòng nghiên cứu Các phòng nghiệp vụ Phòng bảo quản Phòng đồng bằng và biển Phòng Hành chính – tổng hợp Phòng trưng bày Phòng miền núi miền bắc Phòng quản lý khoa học - đào tạo và đối ngoại Phòng giáo dục Phòng bảo tàng ngoài trời Phòng trường sơn – tây nguyên ban quản lý dự án Phòng lưu trữ phim ảnh Phòng đông nam á Phòng nghe – nhìn thư viện (*) Ghi chú: a) Cán bộ giữ chức vụ (tính đến 01/01/2007): 16 Giám đốc Phó giám đốc: 02 Trưởng phòng: 08 (1 kiêm ) Phó trưởng phòng: 05 b) Hội đồng khoa học: 15 Với cơ cấu tổ chức các phòng ban được phân chia rất khoa học, hợp lý tinh gọn như vậy đã giúp cho các cán bộ bảo tàng tập trung vào các công việc chuyên môn. Nó cũng giúp cho việc tổ chức quản lý nhân viên, quản lý tài chính tốt hơn. Đội ngũ cán bộ nhân viên của bảo tàng thực sự là những người có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực của mình, họ cũng là những người rất yêu nghề, tâm huyết với nghề và có ý thức cao trong việc bảo tồn và phát triển di sản văn hoá của dân tộc. Bảo tàng đang triển khai việc xây dựng toà nhà “cánh diều” đáp ứng nhu cầu của khách đến tham quan. Bảo tàng dân tộc học với du lịch văn hoá. Vai trò của bảo tàng đối với nền văn hoá xã hội của Quốc Gia. được nhiều nước quan tâm từ rất sớm thông qua các hoạt động sưu tầm các hiện vật nghiên cứu, chỉnh lý và công bố các tư liệu về di sản văn hoá. Cho đến thời gian gần đây các nhà khoa học mới quan tâm đến vấn đề lý thuyết của việc bảo tồn các di sản văn hoá. Qua đó vấn đề bảo tồn các di sản đó lâu dài và vĩnh viễn. Đến thập kỷ 60 vấn đề bảo tồn các di sản văn hoá nó đã mang tính chất quốc tế. Hàng năm trên thế giới có hàng triệu người đến thăm quan bảo tàng và số lượng các bảo tàng cũng ngày một gia tăng. Đến những năm 70 của thế kỷ này, thế giới có chừng hơn 20.000 bảo tàng, trong số đó một nửa ở Châu Âu, một nửa ở Mỹ và những nước còn lại. Không một đất nước nào lại không có bảo tàng. Có thể nói một dân tộc không có bảo tàng là một dân tộc không có truyền thống được giữ gìn và không có lịch sử. Một dân tộc như thế sẽ không có khả năng để phát triển bởi thiếu những kho tàng sáng tạo của nhân dân mình để mở ra những bản sắc mới trên nền tảng vững chắc của truyền thống dân tộc và văn hoá nghệ thuật từ quá khứ. Bảo tàng ra đời không phải là ngẫu nhiên hay ý muốn chủ quan của những cá nhân. Bảo tàng chỉ xuất hiện khi sự phát triển kinh tế văn hóa đạt đến một trình độ nhất định của lịch sử nhân loại. Bảo tàng chỉ thực sự ra đời khi xã hội có giai cấp và nhà nước được hình thành. Theo định nghĩa của hội đồng quốc tế các đền đài và di chỉ (ICom) đã đề ra: Bảo tàng là một tổ chức không có lợi nhuận, tồn tại lâu dài để phục vụ cho sự phát triển xã hội, mở rộng đón công chúng. Bảo tàng thu nhận, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày và tuyên truyền nhằm mục đích giáo dục, học tập và thưởng thức. Bảo tàng là một bằng chứng vật chất xác thực về con người và môi trường xung quanh con người. Như vậy bảo tàng có vai trò rất lớn đối với bất cứ cộng đồng quốc gia nào, dân tộc nào. Bằng những nhận định của mình trong quá trình tìm hiểu tại bảo tàng tác giả xin đưa ra một số quan điểm về vai trò, lợi ích to lớn về mặt văn hóa xã hội chủ bảo tàng như sau: Các bảo tàng tạo ra lợi ích to lớn về mặt văn hoá xã hội cho các địa phương, trước hết các bảo tàng đảm nhận việc bảo quản và bảo tồn các di sản tự nhiên và văn hoá của cộng đồng. Với xu hướng ngày càng đánh giá cao hơn tầm quan trọng của bản sắc dân tộc, bản sắc vùng và địa phương – nơi các bảo tàng hoạt động và để phản ánh một cách khách quan sự đổi thay và tính kế thừa của những giá trị văn hoá truyền thống cùng với sự phát triển của đất nước. Các bảo tàng có trọng trách to lớn là cung cấp cho khách tham quan những hiểu biết về bản sắc một địa danh, một cộng đồng nào đó. Trong tình hình nền văn hoá ở nhiều nước đổi thay một cách nhanh chóng toàn diện thì các bảo tàng đóng vai trò là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là kho tàng để tìm hiểu về đời sống văn hoá, cội nguồn của các dân tộc, bên cạnh đó các bảo tàng còn hỗ trợ cho các tổ chức giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động và sự kiện văn hoá, là công cụ giáo dục tư tưởng, giáo dục chính trị thông qua phương pháp trực quan sinh động. Ví dụ: Khi tham quan Bảo tàng Dân tộc học người xem có thể hiểu rằng đất nước Việt Nam có nền văn hoá đa dạng với 54 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đến với Bảo tàng Lịch Sử người xem có thể hiểu rằng đất nước Việt Nam có nền văn hóa từ lâu đời và dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước dựng nước từ rất sớm. Hoạt động văn hoá của một quốc gia cũng không thể tách khỏi hoạt động của bảo tàng bởi đây là nơi lưu giữ di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, thể hiện bản sắc những nét độc đáo trong nền văn hoá của mỗi nước, tạo nên sự khác biệt giữa các dân tộc. Dân tộc nào có nền văn hoá phong phú, mang đậm bản sắc thì bảo tàng ở đó càng khẳng định được vị thế của mình và có sức hấp dẫn với người xem. Theo một ý nghĩa nào đó thì các bảo tàng còn nâng cao chất lượng sống của con người và có thể đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát triển bản sắc tại những khu vực mà bảo tàng định vị. Chất lượng sống của con người không chỉ là sự no đủ về đời sống vật chất mà còn là sự thoả mãn về đời sống tinh thần. Một quốc gia đạt đến trình độ phát triển cao thì nhu cầu này càng lớn và trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Nếu hệ thống bảo tàng càng đa dạng, phong phú thì con người sẽ có nhiều cơ hội hơn để nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Ngược lại những quốc gia đang phát triển, đang trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hoá lại dễ dàng bỏ quên hay làm mất đi giá trị văn hoá của riêng mình trong đó có bảo tàng. Bảo tàng chưa được đánh giá đúng vai trò của mình do các điều kiện kinh tế chi phối. Mặc dù theo định nghĩa của ICom “ Bảo tàng là một tổ chức không có lợi nhuận” nhưng nó vẫn mang lại lợi ích kinh tế cho từng quốc gia. Ví dụ: Khi khách du lịch đến Pháp, họ không thể không tham quan bảo tàng ở Paris như bảo tàng Lourve hàng năm thu hút hơn 10 triệu khách với giá vé 6USD/ người. Từ đó sẽ kéo theo nhu cầu của khách về các dịch vụ khác thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Một lợi ích kinh tế khác mà bảo tàng có thể đóng góp cho các địa phương là tạo công ăn việc làm tăng tỷ lệ nhân công. Bản thân bảo tàng là một nơi thu hút nhân công và mỗi công việc mới trong bảo tàng sẽ có một tác động kinh tế nhất định đối với địa phương – nơi bảo tàng xây dựng. Từ đó bảo tàng có tác dụng giúp cho sự phát triển và giữ vững thế mạnh kinh tế của địa phương Như vậy đối với bất kỳ dân tộc nào bảo tàng là thành tố không thể thiếu để duy trì bản sắc văn hoá của dân tộc mình, làm cơ sở cho sự phát triển kế tiếp. Bảo tàng Dân tộc học – một địa chỉ mới cho du khách. Trong thời đại mới, dân tộc và văn hoá ngày càng trở thành hai vấn đề mang tính chiến lược, thời sự trong mỗi con người, mỗi đất nước và toàn xã hội. Đặc biệt trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, xu thế giao lưu hội nhập đang mở ra cho xã hội loài người những thời cơ và thách thức mới. Nhu cầu của họ không còn dừng lại ở việc ăn, mặc, ở. Vì thế du lịch đã trở thành một hoạt động thiết yếu đối với họ. Mục đích của chuyến đi không chỉ đơn thuần là dịp để nghỉ dưỡng mà qua đó họ có nhu cầu tìm hiểu văn hoá truyền thống của các dân tộc. Đất nước ta cũng đang đứng trước những vận hội mới một câu hỏi được đặt ra là chúng ta cần làm gì để giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc đồng thời khơi dậy truyền thống dân tộc trong mỗi người dân. Nắm bắt được nhu cầu cấp thiết đó. Tổ chức du lịch thế giới ( WTO ) đã lấy chủ đề của năm du lịch đầu tiên của thiên niên kỷ mới là “du lịch văn hoá - một công cụ hữu hiệu của giao lưu giữa các nền văn minh”. Chủ đề nhấn mạnh tác dụng văn hoá xã hội của du lịch, làm cho thế giới nhận thức đúng đắn về du lịch văn hoá và tác dụng của nó để thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong 225 quốc gia và các vùng du lịch trên thế giới thì bảo tàng cũng là những điểm đến quan trọng và hấp dẫn của mỗi địa phương bên cạnh các khu du lịch, trung tâm giải trí. Đối với Việt Nam - điểm du lịch mới còn yếu kém về cơ sở hạ tầng, nghèo nàn về dịch vụ giải trí thì thế mạnh nổi lên là các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, lễ hội, bảo tàng, vì thế vai trò của bảo tàng Việt Nam nói chung và Bảo tàng Dân tộc học nói riêng là một thành tố không thể thiếu được của hoạt động du lịch văn hoá. Theo số liệu của tạp chí du lịch và nghỉ dưỡng, thị hiếu du lịch văn hoá và bảo tàng của khách du lịch Âu – Mỹ trong hai thập niên 80 và 90 tăng nhanh gấp đôi trong khi nhu cầu về thú vui xa hoa đã giảm sút. Điểm đến Bảo tàng và di tích lịch sử văn hoá Hiểu biết văn hoá Thể nghiệm văn hoá khác Đến nơi hoang vu Vị trí có cảnh đẹp Thú vui ban đêm Khu nghỉ xa hoa 1980 25% 44% 17% 22% 22% 22% 10% 1990 50% 88% 37% 45% 25% 33% 7% Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được đánh giá là một trong những bảo tàng hoạt động hiệu quả nhất Việt Nam. Góp phần vào thành công đó phải kể đến những hoạt động thực tiễn mà trong những năm qua bảo tàng đã tiến hành: Hoạt động sưu tầm nghiên cứu hiện vật, hoạt động trưng bày, hoạt động giáo dục, hoạt động trình diễn, hoạt động marketing…Hiện nay Bảo tàng Dân tộc học được đánh giá là một điểm du lịch văn hoá hấp dẫn ở Việt Nam bởi những thế mạnh sau: Sức sống của một bảo tàng là hiện vật, sức sống của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Bảo tàng Dân tộc học là trung tâm trưng bày và lưu giữ những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của 54 dân tộc Việt Nam. Tính đến năm 2000 bảo tàng đã tích luỹ được 15000 hiện vật, 42000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRom. Với số lượng hiện vật đó bảo tàng có thể hình thành nhiều bộ sưu tập khác nhau như các bộ sưu tập về trang phục, vũ khí, đồ dùng sản xuất, đồ vải và các loại trang phục dân tộc, đồ dùng sinh hoạt gia đình, phương tiện vận chuyển, lễ nghi tôn giáo, đồ trang sức…. Từ các hoạt động sưu tầm, trưng bày và lưu giữ nhằm giới thiệu cho du khách các nền văn hoá của các dân tộc để góp phần tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau và giúp cho khách có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về các giá trị văn hóa của một dân tộc, một quốc gia hay một cộng đồng. So với các bảo tàng khác ở Việt Nam, nét đặc biệt trong sưu tầm hiện vật tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là: Bảo tàng không chỉ quan tâm tới những cổ vật đắt tiền mà hiện vật của bảo tàng chủ yếu là những đồ vật rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân như con dao, cái dù, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu…chúng phản ánh mọi khía cạnh văn hoá vật thể, phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện mọi mặt cuộc sống và sự sáng tạo văn hoá của họ (các dân tộc như dân tộc Kinh, Hmông, Thái, GiaRai…) lại có những sưu tập riêng về các hiện vật tôn giáo, tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều hoạt động tinh thần xã hội khác. Một nét rất đặc biệt trong hoạt động sưu tầm hiện vật của bảo tàng là sưu tầm các hiện vật ngay từ trong hiện tại và ngược dần về quá khứ trong khả năng có thể. Đến với bảo tàng, người xem có cảm nhận đó như là một trung tâm thông tin có lượng thông tin nguyên gốc, chính xác và phong phú đồng thời lại dễ tiếp cận, dễ khai thác bằng các trực quan sinh động Ngoài ra bảo tàng còn là một dạng học đường đặc biệt và là một sân chơi bổ ích, chính vì thế mà hàng năm có hàng chục ngàn người đến bảo tàng để học tập, nghiên cứu. Đó là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên, các cơ quan thông tin và truyền hình đến với bảo tàng dân tộc học để nghiên cứu bản sắc văn hoá, phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt của các dân tộc. Bắt nguồn từ quan điểm bảo tàng là tiếp cận cái hôm nay, lý giải những vấn đề văn hoá, thẩm mỹ, tâm lý của các dân tộc cho đến thời điểm sưu tầm. Những hiện vật của quá khứ là những căn cứ để giải thích cho cái hiện nay, để thấyđược sự nối tiếp của truyền thống và hiện tại. Vì thế mà giờ đây du khách đến với bảo tàng ngoài việc tham quan giải trí người ta còn coi đó là một trung tâm văn hoá khoa học tổng hợp vừa mang tính cấp thiết kịp thời của triển lãm lại có tính hàn lâm. Trong một không gian và thời gian có hạn bằng những nỗ lực của bảo tàng thông qua các hoạt động thực tiễn như nghiên cứu sưu tầm, trưng bày đã đem lại hiệu quả cao nhất đối với người xem và giúp họ giảm bớt được những chi phí về kinh tế cũng như về thời gian. Thực tế cho chúng ta thấy rằng, khách du lịch lưu tại Việt Nam không lâu, với lượng thời gian có hạn, du khách phải chọn những địa điểm đến sao cho thoả mãn được nhu cầu hiểu biết về văn hoá truyền thống của một đất nước mà du khách đặt chân tới. Vì vậy Bảo tàng Dân tộc học là nơi cho họ có được cái nhìn tổng quát, đầy đủ và độ tin cậy cao. Đó là nơi cung cấp thông tin tốt nhất, chỉ trong vòng một đến hai tiếng đồng hồ du khách có thể thu nhận được một lượng thông tin khá tổng thể và bổ ích. Lượng khách đến với bảo tàng ngày một đông. Năm 2007, tính đến ngày 20/12, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đón hơn 327.000 lượt khách (không kể khách miễn vé), trong đó hơn 188.000 khách trong nước (57,5%)và 139.000 người nước ngoài (42,5%). Nếu so sánh với cùng thời gian năm trước, đây là số lượng khách tham quan cao nhất kể từ khi bảo tàng mở cửa phục vụ khách du lịch đến nay. Điều đó khẳng định sự tác động 2 chiều của nghành du lịch đối với bảo tàng.Và đó là những lợi thế giúp cho ngành du lịch trong đó có du lịch văn hoá phát triển ổn định và bền vững. Nghành du lịch càng phát triển bao nhiêu thì hoạt động bảo tàng càng phát triển bấy nhiêu. Mặc dù đây mới chỉ là bước đầu song du lịch văn hoá (trong đó có bảo tàng) sẽ mang lại rất nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động bảo tàng. Du lịch văn hoá phát triển sẽ làm cầu nối đưa khách đến với bảo tàng vì vậy bảo tàng phải được coi là thành tố trong hệ thống du lịch, một tiềm năng du lịch cần được nhận thức đầy đủ và khai thác nó như một lợi thế, một thế mạnh trong chiến lược phát triển du lịch và có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế. Bất cứ một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển đều phải có một chiến lược đúng đắn, một hướng đầu tư hợp lý và phương pháp quản lý phù hợp. Bảo tàng ở Việt Nam nói chung cũng như Bảo tàng Dân tộc học nói riêng cũng đòi hỏi phải được đầu tư phát triển bền vững, duy trì khả năng thu hút khách và về lâu dài phải hấp dẫn khách du lịch. Với quan niệm: “ Bảo tàng dành cho mọi người” , coi bảo tàng như một sản phẩm văn hoá đặc biệt mà sản phẩm muốn bán được phải đầu tư tiền bạc, những giá trị vô hình khác để gây ấn tượng với khách và tác động vào thị trường. Như vậy, Bảo tàng Dân tộc học phải được coi là thành tố trong hệ thống du lịch, một tiềm năng du lịch cần được nhận thức đầy đủ và khai thác như một lợi thế. Chúng ta hy vọng trong một tương lai không xa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam sẽ trở thành một địa chỉ du lịch văn hoá hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế. chương II: Nội dung trưng bày và hiện trạng hoạt động của Bảo tàng dân tộc học. 2.1 Nội dung của hệ thống trưng bày. Từ cổng vào, đi qua một khoảng sân rộng và hồ nhân tạo, du khách sẽ bước vào nhà trưng bày. Kiến trúc nhà trưng bày được thiết kế theo mô hình trống đồng, xây dựng trong một quần thể kiến trúc hình tròn dưới một mái duy nhất, kiến trúc nhà bảo tàng vừa mang nét cổ truyền dân tộc vừa mang tính hiện đại.Trong nhà trưng bày phần lớn diện tích được bố trí dành cho trưng bày thường xuyên, bên cạnh đó còn dành một không gian nhỏ để trưng bày theo chuyên đề. Bố cục phổ biến của mỗi không gian trưng bày có phần tái tạo. Hiện tại, khu trưng bày thường xuyên trong nhà được chia làm 9 không gian lớn. 2.1.1. Những hình ảnh chung về dân tộc Việt Nam. Trước tiên người xem có thể tiếp cận ngay với một panô có nhan đề”Việt Nam- những chặng đường lịch sử- văn hoá” qua đó có được thông tin về các thời kì lịch sử của đất nước, sự hội nhập của các dân tộc và các nền văn hoá văn minh vào Việt Nam. Một tấm bản đồ lớn được in màu chỉ ra sự phân bố của các dân tộc ở nước ta theo các nhóm ngôn ngữ. Đồng thời có ba mặt cắt ở các vị trí Bắc, Trung, Nam để thấy được đặc điểm cư trú của các dân tộc theo độ cao và các vùng lãnh thổ. Bên cạnh đó, có 5 panô giới thiệu chân dung người của 54 dân tộc theo 5 ngữ hệ: Nam á, Nam Đảo, Hmông- Dao, Thái- Kađai, Hán- Tạng. Cũng ở đây người xem chỉ trong khoảnh khắc có thể cảm nhận được tiếng nói của từng dân tộc. 2.1.2. Đây là phần giới thiệu về không gian văn hoá của người Việt- dân tộc chủ thể ở Việt Nam. Ngay bên lối vào phòng trưng bày có panô giới thiệu một số thông tin chung nhất về dân tộc Việt cùng với ảnh và bản đồ. Một không gian rộng rãi, sáng sủa và đầy ấn tượng dành cho việc tái tạo quá trình làm nón và hoạt động của người đan Đó. Nón là một vật dùng gắn bó sâu sắc với người phụ nữ từ lâu đời. Nghề làm Nón ở làng Chuông cũng như nghề đan Đó ở làng Thủ Sỹ được tái tạo không chỉ thể hiện sự tinh tế, khéo léo, cần mẫn trong các nghề thủ công này mà còn chứng minh Làng ở Đồng Bằng Bắc Bộ từ lâu đã có mối quan hệ kinh tế và xã hội rộng rãi trong việc làm ra sản phẩm. Cảnh làm Nón và chợ bán Nón, cảnh làm Đó và vận chuyển Đó đi bán được thể hiện trên màn hình. Một số nét văn hoá cổ truyền người Việt được giới thiệu trong 11 tủ kính trưng bày với các chủ đề: Múa rối nước, nhạc cụ, tín ngưỡng thờ mẫu, các đồ chơi dân gian của trẻ em, thờ tổ nghề hát bội. Một số nghề thủ công tiêu biểu: nghề đúc đồng, chạm khắc gỗ, nghề sơn, nghề làm tranh Đông Hồ... được chọn lọc giới thiệu trong các tủ kính. Người xem vừa thấy được một số sản phẩm của nghề thủ công vừa được biết công cụ, dụng cụ và quy trình sản xuất ra các sản phẩm ấy. Không gian trưng bày về thờ cúng tổ tiên là nét văn hoá tiêu biểu của người Việt được thể hiện qua việc trưng bày bàn thờ tổ tiên ở một gia đình nông dân. ở không gian này, người xem như đựơc tận mắt chứng kiến sự khéo léo của người dân đang cần mẫn tạo ra những sản phẩm truyền thống của làng quê mình. Từ bước đầu hình thành sản phẩm đến giai đoạn phân bổ sản phẩm qua phiên chợ. Không gian văn hoá cổ truyền thể hiện chân thực cuộc sống đời thường của người nông dân thật bình dị, tươi đẹp. Phong tục tín ngưỡng thờ cúng mang giá trị văn hoá truyền thống qua bàn thờ cúng tổ tiên. 2.1.3. Phần giưới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc Mường, Thổ, Chứt. Ngay bên lối vào phòng trưng bày, ba dân tộc có ba panô giới thiệu những nét chung nhất về từng dân t._.ộc cùng với ảnh và bản đồ. Song song với các panô này là 4 tủ kính giới thiệu một số hiện vật đẹp để tạo nên cái nhìn khái quát về nội dung phòng trưng bày. Chủ đề tập trung giới thiệu ở 6 tủ kính của phòng này là hoạt động săn bắt và hái lượm của người Chứt nghề đan gai của người Thổ, công việc săn bắt, dệt vải, sinh hoạt đời thường bên bếp lửa và nhạc cụ của người Mường. ở không gian tái tạo có cảnh đám ma người Mường. Thông qua một đám ma, người ta thể hiện quan niệm về cõi sống, cõi chết, thế giới quan, nhân sinh quan truyền thống của người Mường. Minh hoạ cho phần tái tạo là phim video về đám tang Mường. Từ nét sinh hoạt đã có từ lâu đời, không gian trưng bày này đã mang đến hình ảnh đầu tiên trong sinh hoạt của loài người. Cách kiếm ăn và tạo ra sản phẩm để dùng hàng ngày, tiếp đến là hình ảnh đám tang của người Mường. Người xem được tận mắt tìm hiểu và cảm nhận theo giác quan của mình như một điều bí ẩn mà bây giờ mới tìm ra lời giải. 2.1.4. Phần giưới thiệu về không gian văn hoá các ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tày, Thái, Ka Đai. Có 5 panô giới thiệu những thông tin chung về các cư dân này: Giới thiệu chung về hai nhóm ngôn ngữ Tày, Thái,Ka Đai, về kiến trúc Tày- Nùng, nhà ở của người Thái, cảnh quan vùng cư trú. Nét nổi bật nhất trong phòng trưng bày là tái tạo căn nhà sàn Thái ở Sơn La (nhóm Thái Đen). Người xem có thể thấy được đặc trưng của kiến trúc nhà Thái Đen qua mái nhà hình mu rùa, khau cút, lan can nhà.... Những hiện vật về văn hoá của người Tày, Thái, Nùng, Sán Chay (Cao Lan- Sánchỉ), Giáy, Bố y, Lào, Lự (thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Thái) được trưng bày trong các tủ kính đều nằm chung dưới mái nhà này. Có tủ giới thiệu chữ viết, có tủ về thổ cẩm Tày, có tủ chuyên về nghề thủ công của người Nùng, có tủ về trang phục của các nhóm địa phương Tày như Thu Lao, Pa Dí,... Nghi thức về đám Then của người Tày được chọn làm chủ đề tái tạo ở đây. Ngay cạnh đó có màn hình video mô tả lễ làm Then. Các dân tộc La Chí, Cờ Lao, Pu Péo, La Ha (thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai) có những bốn y phục sặc sỡ bên cạnh những hiện vật của điệu múa sinh thực khí theo Tục người La Ha và cái kèn của người Cờ Lao. 2.1.5. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hmông- Dao, Tạng- Miến và người Sán Dìu, Người Ngái. Sau những thông tin chung nhất về các dân tộc này qua 4 tấm panô và một số ít hiện vật ở hai bên lối vào là hai nhóm tủ trưng bày. Một nhóm gồm những tủ về 3 dân tộc: H’mông, Dao, Pà Thẻn với các chủ đề như kỹ thuật tạo hoa văn bằng sáp ong, đồ gia dụng của người Pà Thẻn. Còn nhóm kia có một tủ dành cho người Sán Dìu và người Ngái. Các tủ khác giới thiệu trang phục phụ nữ, công cụ săn bắn, đời sống thường ngày và nhạc cụ của 6 dân tộc nhóm Tạng- Miến, Lô Lô, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Si La, Cống. Không gian tái tạo dành cho phần giới thiệu sản phẩm dệt của người Mông, các kỹ thuật như in sáp ong lên vải, ghép vải tạo hoa văn, một không gian tái tạo lễ cấp sắc của người Dao. Đi từ quá khứ đến hiện tại là một chặng đường lịch sử . Từ kỹ thuật thủ công thô sơ, những bàn tay khéo léo đã vẽ lên nét hoa văn tinh sảo trên những tấm vải được thể hiện trên trang phục và đồ dùng sinh hoạt của các dân tộc. Đến không gian này người xem đựơc thả hồn vào tìm hiểu và khám phá. 2.1.6. Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khơme ở Miền Núi. Đây là phần trưng bày về văn hoá 5 dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khơme ở Miền Bắc (Khơ mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu) và 15 dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme ở vùng Trường Sơn- Tây Nguyên (Bru-Vân Kiều, Tà Ôi, Cơ Tu, Hre, Co, Gié- Triêng, Xơ Đăng, Ba Na, Rơ Măm, Brâu, Hmông, Cơ Ho, Mạ, Xtiêng, Chơ Ro). Thuộc không gian trưng bày này có 6 pa nô giới thiệu về các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn- Khme ở Miền Bắc- ở Trường Sơn- Tây Nguyên, về nông nghiệp nương rẫy,về nhà cửa và tín ngưỡng của họ. Bên các tủ kính còn có hiện vật để trên các giá đỡ và treo ở tường.Văn hoá truyền thống của các cư dân này đa dạng, có nhiều nét rất đặc sắc. Người ta còn thấy được các dấu ấn của văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh trên miền thượng. Mặc dù cách bố trí trưng bày có tạo nên sự phân cách nhất định giữa các tộc người ở miền Bắc và các tộc người ở Trường Sơn- Tây Nguyên nhưng vẫn dễ nhận ra những thống nhất tương đồng bên cạnh các đặc điểm tộc người và khu vực của các cư dân Môn-Khơ me ở Miền Nam. Các chủ đề chính ở đây là: trang phục phụ nữ Khơ Mú, Mảng, các vật dụng hàng ngày của các dân tộc Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu ...Vỏ bầu trong đời sống vật dụng bằng vỏ cây, các loại gùi, nghề dệt vải, nhạc cụ... Có 3 tủ giới thiệu về từng tiểu vùng: Bắc Trường Sơn, Bắc Tây Nguyên, Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Có riêng một tủ lớn giới thiệu về người Xơ Đăng. Lễ hội lớn nhất của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên là lễ hội đâm trâu cúng thần. Do đó lễ hội đâm trâu của người Ba Na được lấy làm chủ đề tái tạo ở đây và được thể hiện trên băng video. 2.1.7:Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo ở miền núi. Phần này giới thiệu 4 dân tộc người: GiaRai, Êđê, Rálai, Churu. Giữa họ với cư dân nhóm ngôn ngữ Môn- Khơ me láng giềng có nhiều điểm giống nhau. Song ở họ còn bảo lưu được khá rõ nét yếu tố văn hoá biển và còn duy trì chế độ mẫu hệ rộng khắp. Tượng mồ, lễ bỏ mả: nhạc cụ, công cụ, đồ dùng, đồ đan lát ... là những hiện vật phản ánh về văn hoá vật chất cũng như văn hoá tinh thần của cư dân này. Chúng được trình bày trong 4 tủ kính và trên 2 bệ đỡ, ở phần này có 2 panô: một panô giới thiệu chung và một panô về lễ bỏ ma của người GiaRai. “ Chế độ mẫu hệ là gì?’’, “ lễ bỏ mả là gì?”. Nếu người xem đang thắc mắc về những câu hỏi còn đang hoài nghi hay chưa hiểu thì đến không gian này, người xem sẽ trả lời được những băn khoăn thắc mắc của mình thông qua hiện vật và panô giới thiệu và trưng bày tại đây. 2.1.8:Phần giới thiệu về không gian văn hoá các dân tộc Chăm, Hoa, Khơme. Người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo, người Hoa nói ngôn ngữ Hán, người Khơme thuộc ngữ hệ Nam á. Mỗi dân tộc được giới thiệu trên một panô riêng và có thêm một panô thứ 4 về kiến trúc chùa tháp và đạo phật tiểu thừa. Một số nét văn hoá của mỗi dân tộc được giới thiệu thích hợp. Với người Chăm đó là: tôn giáo, nghề dệt, nghề gốm, hình thức vận chuyển bằng xe bò.... Với người Hoa: đám cưới, hội múa lân...Với người Khơme: tôn giáo, chữ viết, nghề nhuộm vải và lụa, nông cụ...Văn hóa của 3 dân tộc này giữ vai trò quan trọng và hiện diện tập trung ở ven biển Nam Bộ. Tại không gian này người xem được thưởng thức không khí nhộn nhịp của đám cưới Hoa, nét văn hoá truyền thống của dân tộc vùng này. 2.1.9: Phần giới thiệu về sự giao lưu giữa các dân tộc. ở tất cả các dân tộc đều đã và đang có sự chuyển biến về văn hoá. Trong thời kỳ mở rộng các quan hệ giao lưu và tăng cường phát triển kinh tế-xã hội như ngày nay, quá trình ấy càng diễn ra nhanh và mạnh hơn. Trong các nhân tố tác động đến việc giao lưu và biến đổi văn hoá chợ đóng vai trò quan trọng, đáng kể từ xưa tới nay. Phần này dành tái tạo cho chủ đề phiên chợ vùng cao biên giới phía Bắc. Sự khác nhau giữa phiên chợ vùng cao với phiên chợ của các vùng miền khác được miêu tả chân thực qua phần trưng bày giới thiệu chủ đạo của không gian giao lưu văn hoá giữa các dân tộc. 2.2. Quan điểm và phương pháp trưng bày, giới thiệu. Trưng bày là bộ mặt của bảo tàng, trưng bày phản ánh công tác sưu tầm đặc biệt phản ánh công tác nghiên cứu khoa học của bảo tàng, hơn nữa hoạt động trưng bày còn phản ánh sự kết hợp nhuần nhuyễn, tâm huyết của cán bộ trưng bày và các hoạ sỹ thiết kế trưng bày. Ngay từ đầu bảo tàng đã xác định phương hướng của mình là: “Dưới mọi hình thức hoạt động phải nhanh chóng làm giàu thêm số lượng hiện vật”. Có thể thấy đây là hướng đi đúng đắn và bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp, số lượng hiện vật của Bảo tàng tăng lên đáng kể. Tính đến năm 2000, đã tích luỹ được 15000 hiện vật, 42000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRoom. Đồng thời đây là một trung tâm nghiên cứu dân tộc học với các chuyên gia về các dân tộc các lĩnh vực chuyên nghành. Người ta đến đây không chỉ để tham quan mà còn để tìm hiểu nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng dân tộc. Vì vậy, từ nhân dân khắp các miền trong đất nước đến khách nước ngoài, từ học sinh, sinh viên đến nhà khoa học đều có thể tìm thấy sự hấp dẫn ở đây. Với kiến trúc mô phỏng hình trống đồng- một biểu tượng chung của nền văn minh Việt Nam, cùng chiếc cầu đá granite dẫn vào toà nhà bảo tàng tạo cảm giác như chúng ta bước lên căn nhà sàn phổ biến ở nhiều vùng núi. Mặt nền sảnh lớn toà nhà này được trang trí bằng đá granite với biểu trưng hình thể của Tổ Quốc có đất liền và biển cả. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được triển khai theo nhiều quan niệm mới phù hợp với sự tiến bộ khoa học kỹ thuật. Trước hết đó là quan niệm bảo tàng dành cho tất cả mọi người. Quan niệm này được thể hiện trong cả kiến trúc lẫn trong kỹ thuật trưng bày. Bảo tàng có lối đi riêng thích hợp cho thương binh hay những người khuyết tật phải di chuyển bằng xe đẩy và có thang máy để họ lên tầng 2. Các bậc lên xuống đều có tay vịn cho người già yếu tiện đi lại. Trong trưng bày hiện vật không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền mà chủ yếu bao gồm những thứ vật bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu.... Kết hợp với bài viết bằng chữ thường để người xem ở các lứa tuổi dễ đọc, không mỏi mắt. Các tấm panô cũng được treo ở tầm cao có tính toán phù hợp với tất cả mọi lứa tuổi. Phần trưng bày của bảo tàng có hiện vật, có ảnh, bài viết có băng hình, có các tư liệu tham khảo... mà người xem tuỳ trình độ và nhu cầu khác nhau có thể khai thác nhiều hay ít. Trong bảo tàng không có tranh minh hoạ - Nếu cần minh chứng cho những sinh hoạt nào đó ở đây chỉ dùng hình ảnh hay băng ghi hình ghi lại cuộc sống thực của các dân tộc. Một quan điểm xuyên suốt là: trang trí thật đơn giản, không cầu kỳ để người xem có thể cảm thụ nhiều nhất cái hay cái đẹp, cái tinh tế của mỗi hiện vật rất bình dị đời thường là cách khác biệt của bảo tàng. Phần trưng bày thường xuyên của bảo tàng hiện nay chỉ trưng bày một số lượng hiện vật hạn chế: gần 700 hiện vật khối và 280 ảnh- Quan điểm chung là không tham đưa quá nhiều hiện vật vào các tủ trưng bày bởi sẽ gây cảm giác dư thừa hoặc khó tiếp cận được một cách tập trung. Phương pháp bố trí nội dung trong trưng bày của bảo tàng là kết hợp giữa cộng đồng ngôn ngữ và vùng lãnh thổ. Hầu hết hiện vật trưng bày là hiện vật gốc được lựa chọn chủ yếu phô bày trong 97 tủ kính lớn nhỏ khác nhau: có loại tủ một mặt, có loại bốn mặt, có tủ chứa nhiều hiện vật, có tủ chỉ đặt một vài ba hiện vật. Trong số đó, hơn 50 tủ có bài viết giới thiệu kèm theo. Mỗi hiện vật đều có phụ đề ghi rõ tên gọi hiện vật, đồng thời cho biết dân tộc và sứ sở sản sinh ra nó. Bảo tàng cũng sử dụng manơcanh, bản đồ, biểu đồ, sách, ảnh, phim, video, băng, âm thanh, một số mô hình và 33 panô trong trưng bày. Mặc dù diện tích không lớn nhưng trong nhà vẫn có một số điểm nhấn được trưng bày theo hình thức tái tạo về một tập tục hay một nét văn hoá nào đó. Người xem có thể hiểu được nội dung tái tạo không chỉ thông qua hệ thống hiện vật, mà còn có cả phim video nữa. Bảo tàng chủ trương tăng cường lời giải thích để phục vụ người xem. Hơn 100 bài viết trên panô và gắn với tủ kính hoặc với tái tạo đều cố gắng cung cấp những thông tin cần thiết và ảnh minh hoạ, nhiều panô có cả bản đồ. Tuy nhiên, do hạn chế về khuôn khổ nên phải viết dưới dạng ngắn gọn và cô đọng. Với mục đích phục vụ cả khách nước ngoài, các bài viết đó cũng như các phụ đề của hiện vật không chỉ dùng tiếng việt, mà còn in bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Vì vậy dù không cần thuyết minh người xem vẫn có thể hiểu được đáng kể về các phần, các từ, các hiện vật trưng bày. Bảo tàng cố gắng tìm các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong phương pháp thể hiện trưng bày như việc xử lý ánh sáng, dùng đèn chuyên dụng chiếu vào từng hiện vật làm nổi lên vẻ đẹp cần gây sự chú ý quan sát. Trong điều kiện hiện nay, bảo tàng đã lựa chọn phương án thông khí cho toàn bộ khu trưng bày. Từng tủ kính đều được lắp hệ thống thông khí để đảm bảo cho hiện vật không bị mốc. 2.3. Trưng bày ngoài trời Việt Nam là cái nôi của văn hoá các vùng miền. Văn hoá của các dân tộc ở Việt Nam rất phong phú, đa dạng, với những sắc thái tộc người và vùng miền vừa có sự tương đồng, thống nhất, vừa có nét khác biệt nhau ít nhiều. Chính vì vậy việc xây dựng một bảo tàng dân tộc học có hai phần trưng bày trong nhà và ngoài trời là cần thiết và hợp lý. Trong khuôn khổ diện tích ngót 3,30 ha đất được nhà nước cung cấp, bảo tàng đã dành được 20 ha ở phía sau toà nhà trống đồng để xây dựng khu trưng bày ngoài trời rất có ý nghĩa và cần thiết không thể thiếu được đối với bảo tàng này. Nhờ có các trưng bày ngoài trời, việc giới thiệu về các dân tộc và văn hoá các dân tộc được tăng cường và mở rộng đáng kể nội dung cũng như hình thức, khắc phục được phần nào sự hạn chế do điều kiện trưng bày trong nhà quy định. Từ đầu thập niên 80 của thế kỷ vừa qua nhà bảo tàng học Phan Khanh đã có hy vọng: “ Bảo tàng Dân tộc học ngoài trời sẽ là những công trình văn hoá khoa học tổng hợp để bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, để nghiên cứu dân tộc học và văn hoá Việt Nam trên nhiều bình diện, đồng thời góp phần trực tiếp vào việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam”. Khu trưng bày ngoài trời là một phần không thể thiếu được của bảo tàng dân tộc học, một trong những thế mạnh của bảo tàng này là tạo cho công chúng những không gian văn hoá tiệm cận với thực tế. Qua đó làm cho hiện vật trưng bày có sức hấp dẫn hơn và công chúng cảm thụ sâu sắc hơn về nền văn hoá mà họ đang được tận mắt xem và tìm hiểu. Nhưng do diện tích đất không rộng nên bảo tàng chỉ trưng bày ở khu ngoài trời các công trình kiến trúc nhà của các dân tộc: Nhà ở của người H’mông, kèm theo là chuồng ngựa lò rèn, máng nước. Nhà ở của người HàNhì Nhà ở, kho thóc và cối giã gạo dùng sức nước của người Dao. Nhà ở và cọn nước của người Tày. Nhà mồ của người GiaRai. Nhà mồ của người CơTu. Nhà Rông của người BaNa. Giàn nhạc cụ ống nứa vận hành bằng sức nước của người XơĐăng. Nhà ở của người ÊĐê Nhà ở của người Chăm Nhà ở của người Việt. Quả thật, so với nhu cầu của hoạt động bảo tàng cũng như mong muốn của chúng ta, rõ ràng là không gian nhỏ hẹp, trưng bày ít ỏi. So với nhiều bảo tàng ngoài trời trên thế giới: Bảo tàng Brivơđabá ở Latvia rộng 97 ha là Bảo tàng kiến trúc gỗ với 30.000 hiện vật, bảo tàng kiến trúc dân gian và lối sống ở Grudia 50 ha, bảo tàng làng Satulai ở Rumania có một trăm ngôi nhà nông dân với 11.000 hiện vật,.... Song ở nước ta hiện nay, điều kiện mới cho phép Bảo tàng dân tộc học Việt Nam xây dựng khu trưng bày ngoài trời nho nhỏ như vậy. Tuy không gian nhỏ hẹp, trưng bày ít ỏi, nhưng qua đó đã chuyển tải được đến công chúng không ít thông tin và tri thức về loại hình kiến trúc: có nhà ở, có nhà mồ, có nhà công cộng của làng, có nhà dựng bằng kỹ thuật gá lắp và chằng buộc, có nhà đã phát triển các hình thức dùng mộng. Trong khi người H’mông, người Hà Nhì, người Việt, người Chăm ở nhà trệt, thì người Êđê, người BaNa, người Tày ở nhà sàn, còn nhà của người Dao họ nửa sàn nửa trệt. Kiến trúc nhà người H’mông, Chăm, Tày,... thuộc dạng nhà bốn mái thì nhà người Êđê thuộc dạng hai mái. Mái lợp cũng nhiều kiểu cách. Nhà người H’mông dùng ván gỗ Pơmu, nhà người Tày dùng lá cọ, nhà người Việt và người Chăm lợp ngói, nhà người Hà Nhì, người Êđê, người BaNa lợp cỏ tranh, nhà người Dao lợp bằng lứa ống bổ đôi, nhà mồ nhóm Giarai Arát có mái nan đan cùng lợp cỏ tranh. Nhà mồ của người Cơtu có hình con trâu, trên có hình con rồng. Mỗi dân tộc có một tín ngưỡng thờ khác nhau, cách thức lợp không giống nhau. Cùng lợp ngói nhưng ngói nhà người Việt khác ngói nhà người Chăm. Tường nhà cũng đa dạng: có loại thủng bằng ván gỗ ( H’mông), hay bằng phên lứa (Dao, Êđê, BaNa), thậm chí còn đan theo lối cải nan tạo hoa văn rất đẹp (Tày), có loại xây gạch (Việt), có loại là đất nện (Hà Nhì), ... Về khía cạnh văn hoá xã hội có nhà của cư dân phụ hệ, có nhà của cư dân mẫu hệ, có nhà của tiểu gia đình, có nhà của đại gia đình. Bên cạnh các cư dân ở kiểu nhà tổng hợp: chỉ một ngôi nhà nhưng đa chức năng, có cư dân theo tập quán dựng riêng ra những ngôi nhà lớn nhỏ với các chức năng khác nhau. Điển hình như người Chăm: một hộ có tới năm ngôi nhà quây quần nhau... Các trưng bày ngoài trời được coi là những không gian văn hoá của các dân tộc, vừa nhằm giới thiệu cái vỏ kiến trúc, vừa để giới thiệu về sinh hoạt văn hoá gắn với nó. Các yếu tố văn hoá vật thể và phi vật thể liên quan cũng được giới thiệu tổng hợp bên trong mỗi ngôi nhà. Thực tế ở Việt Nam hầu như tộc người nào cũng không chỉ có một kiểu loại nhà cửa với các yếu tố văn hoá dân gian. Sự khác nhau giữa các vùng miền, nó có sự chuyển biến nhất định, thích ứng và phản ánh về điều kiện môi trường sinh thái, hoàn cảnh kinh tế. hoàn cảnh xã hội, quan hệ tộc người... Ví dụ, cùng một cộng đồng Tày nhưng nhà ở khu vực phía Đông khác với nhà ở khu vực phía Tây. Trong dân tộc Dao, có nơi ở nhà sàn, có nơi ở nhà trệt, có nơi ở nửa nhà sàn nửa nhà trệt. Cùng một dân tộc BaNa, nhà Rông có một số kiểu khác nhau với tên gọi phân biệt riêng, hình dáng nhà giữa các vùng Mang Giang, Kon Chơro, Kon Tum không hẳn giống nhau. Nhà mồ GiaRai cũng thế: ở nhóm ARát không giống nhóm Cror, nhóm Mthur. Nhà người Việt ở xứ Thanh do phải đối phó với gió bão gần biển nên thường thấp hơn nhà ở xứ Bắc, xứ Đoài,... Đó là chưa kể tới những khác biệt giữa nhà người nghèo với nhà người khá giả, nhà đông người với nhà ít người... Mỗi kiểu loại có nét riêng nhất định. Với diện tích còn hạn hẹp cho nên yêu cầu trong trưng bày của bảo tàng chỉ lựa chọn một số ngôi nhà điển hình để giới thiệu một phần nhỏ trong bức tranh vô cùng đa dạng và phong phú ấy của 54 dân tộc cũng như của từng dân tộc. Khu trưng bày ngoài trời thể hiện trưng bày về 11 tộc người (Việt, Tày, Hà Nhì. H’mông, Dao, BaNa, XơĐăng, Chăm, GiaRai, CơTu, Êđê) thuộc 6 nhóm ngôn ngữ (Việt- Mường, Tày- Thái, Tạng – Miến, H’mông- Dao, Môn- Khơme, Mãlai- Đa đảo). Có thể nói, mỗi ngôi nhà ví như một bảo tàng nhỏ, và đây cũng là điểm đặc thù của bảo tàng, khác với nhiều công viên văn hoá - du lịch. Bảo tàng dân tộc học Việt Nam đã không biến các ngôi nhà trưng bày ngoài trời thành kiốt hay quầy hàng lưu niệm. Như vậy là để giữ cho những trưng bày này đậm không khí bảo tàng dân tộc học, tập trung vào đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu của du khách, không làm phân tán và nhạt nhoà đi bản sắc văn hoá muốn truyền đạt đến người xem. Với mục tiêu bảo tồn di sản văn hoá, các nhà hay công trình trưng bày ngoài trời đều tôn trọng tính nguyên mẫu cả về vật liệu, kiểu dáng, bài trí, không gian bên ngoài ngôi nhà (Vườn, nơi nuôi gia súc....) ngay cả kỹ thuật xây dựng cũng nguyên mẫu và do những người thợ là người dân tộc xây dựng... Khu trưng bày ngoài trời của bảo tàng được triển khai dần từng bước trong 8 năm qua mỗi năm lại có thêm những công trình mới và những hoạt động mới, khu trưng bày này trở thành một điểm hấp dẫn đặc biệt của bảo tàng dân tộc học Việt Nam. 2.4 Phòng khám phá dành cho trẻ em. Bảo tàng chính là một dạng trường học, một thành tố không thể thiếu trong hoạt động giáo dục, trong sự nghiệp trồng người. Với khối lượng trí thức đa dạng, những tài liệu khoa học phong phú, tin cậy và bằng trực quan sinh động, bảo tàng sẽ là một cơ sở vật chất tốt tham gia và nâng cao chất lượng tri thức, tình cảm, nhân cách người xem. Nhưng có một thực tế là mặc dù ở nước ta có khá nhiều bảo tàng nhưng không có một bảo tàng nào dành riêng cho trẻ thơ. Lâu nay bảo tàng vẫn quan tâm nhiều tới đối tượng người lớn, điều này lý giải tại sao trẻ em ít tự nguyện tới bảo tàng, chúng thường tới theo sự tổ chức của nhà trường. Với cách tham quan như vậy thì hiệu quả giáo dục rất thấp. Từ thực tế đó, ngay từ đầu bảo tàng đã nhìn nhận trẻ em như một lực lượng rất to lớn không thể vắng bóng trong hoạt động giáo dục của mình và bảo tàng không thể đứng ngoài sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ. Quan tâm và đầu tư cho trẻ em không chỉ là trách nhiệm góp phần cho sự nghiệp trồng người mà chính là dần dần từng bước tạo lên một lực lượng khách tham quan đông đảo, tự giác, thường xuyên và có chất lượng trong tương lai. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã xác định giáo dục trẻ em trở thành chiến lược lâu dài và liên tục. Bước đầu bảo tàng đã hợp tác với một số trường học để dần thay đổi cách thức các em tới bảo tàng, từ chỗ tổ chức một cách ồ ạt chuyển sang cách thức đưa các em tới bảo tàng với số lượng nhỏ hơn và thành nhiều đoàn, thời gian lâu hơn, xem kỹ hơn. Các nhân viên phòng giáo dục của bảo tàng trực tiếp liên hệ với phòng giáo dục ở các quận, huyện tổ chức cho học sinh tham quan học tập tại bảo tàng. Bảo tàng cũng tổ chức một số chương trình như: Tết trung thu cho trẻ em với chủ đề: “ Ngày hội văn hoá Việt Hàn, trưng bày tết trung thu Hàn quốc”, Chương trình “truyền thống dân gian của chúng ta”, mở các khoá học về phương pháp tiếp cận nhân học về tôn giáo, nghi lễ và ma thuật. Khoá học “Liên kết bảo tàng và cộng đồng” giảng viên là ông Amareswar Galla, giáo sư trường đại học Queensland (úc) đồng thời là phó chủ tịch hội đồng bảo tàng thế giới. Đã thu hút được 26 học viên đến từ những bảo tàng khác nhau và từ trường đại học văn hoá Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian qua bảo tàng dân tộc học đã tổ chức thành công nhiều cuộc trưng bày không thường xuyên: Trưng bày: “Cuộc sống đồng bằng sông Cửu Long: câu chuyện của 6 cộng đồng”, trình diễn “Ngày hội đèn đúc của các dân tộc Nùng, H’mông, Việt”, trưng bày “ 100 năm đám cưới Việt”, trưng bày “ Vũ điệu trên cát - ảnh lễ hội thổ dân Ôtraylia” trưng bày “Ngày hội tre trúc của các dân tộc ở tiểu vùng sông Mêkông”... trong đó một số buổi trình diễn có những nội dung dành cho trẻ em đã thu hút được hàng trăm học sinh cấp I, cả học sinh trường quốc tế đến tham gia và vui chơi. Với những thành công đó, bảo tàng tiếp tục xây dựng phòng khám phá dành cho trẻ em dưới 12 tuổi với mục đích tạo ra nhiều cuộc trưng bày nhỏ, giúp các em từng bước làm quen với kiến thức và hiện vật văn hoá dân tộc, kích thích khả năng tìm tòi, sáng tạo, khám phá của các em trên cơ sở những nội dung có tính giáo dục và thẩm mỹ cao. Nội dung phòng khám phá được xây dựng theo một vài chủ đề với cách chơi khác nhau để các em có quyền lựa chọn trò chơi theo ý muốn của mình, nhằm tạo ra nhiều hoạt động cho các em: như hộp khám phá về nghề dệt, kỹ thuật khắc và in tranh Đông Hồ, xếp các hình ngôi nhà trưng bày ngoài trời, nghe nhạc và nhận biết nhạc cụ dân tộc, lặn đồ chơi 12 con giáp,... Trẻ em cũng có phòng đọc cùng nhiều ấn phẩm khác. Phòng khám phá vừa học vừa mang tính giải trí, được thiết kế trưng bày hoàn chỉnh. Các bàn ghế đủ cho 20 đến 30 em ngồi vẽ, ánh sáng, đường đi được tính toán hợp lý, an toàn và mỗi em sẽ có diện tích 1,5 m2 cho các trò chơi khám phá của mình. Dư luận xã hội, nhất là từ phía nhà trường và gia đình đánh giá cao những chương trình giáo dục dành cho trẻ em. Họ coi đây là cách làm mới mẻ, thành công của Bảo tàng Dân tộc học. Nhìn vào số lượng các em nhỏ đến với bảo tàng để tham quan, đăng ký học tại các lớp học do bảo tàng tổ chức, chúng ta thấy rằng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã có một chiến lược thật đúng đắn, bảo tàng đã trở thành một trường học thú vị hấp dẫn, có các hoạt động đa dạng, sôi nổi và luôn thu hút người xem. 2.5. Các hoạt động trình diễn. Bảo tàng Dân tộc học luôn đặt mục tiêu trước mắt và lâu dài trong các hoạt động của mình là hướng tới sự đa dạng để có nhiều nội dung, nhiều sản phẩm và nhiều không gian văn hoá cho người xem. Hay nói theo quan điểm của chúng ta “Bảo tàng vị nhân sinh”. Xu thế ngày nay đặt ra cho sự nghiệp bảo tàng phải đổi mới, luôn tiếp cận được với hơi thở cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu dân trí, giao lưu khoa học, văn hoá, du lịch ngày càng cao của nhân dân, qua đó bảo tàng còn khẳng định được uy tín và vị thế của mình trong đời sống xã hội. Tuy còn non trẻ nhưng Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã khẳng định được mình và sớm có được vị trí riêng trong đời sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội và cả nước. Với trên 1.134.858 lượt khách tham quan, trong đó 489.882 lượt khách quốc tế đến từ hơn 40 nước và vùng lãnh thổ, 634.976 lượt khách Việt Nam (tính đến ngày 23/9/2007). Bảo tàng luôn là địa chỉ thường xuyên cho sự lựa chọn của tất cả du khách trong và ngoài nước. Đến đây người xem luôn tìm thấy những bài học và tri thức quý giá về sự đa dạng của ngôn ngữ, văn hoá, tộc người, mối quan hệ tương đồng giữa văn hoá, lịch sử tộc người ở Việt Nam và các nước Đông Nam á . Truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc đã trở thành tài sản và sức mạnh chung của Việt Nam trong quá khứ và hiện tại. Hoạt động trình diễn luôn hướng tới sự đa dạng có nhiều nội dung, nhiều sản phẩm, mang lại nhiều không gian văn hoá cho người xem, là mục tiêu trước mắt và lâu dài của bảo tàng dân tộc học. Một trong những hoạt động mang tính đổi mới thành công và có ảnh hưởng xã hội rộng lớn - dựa trên kết quả của việc xây dựng và mở rộng mối quan hệ giữa Bảo tàng Dân tộc học với các cộng đồng là hoạt động trình diễn nằm trong chương trình: “ Truyền thống dân gian của chúng ta”. Tháng 12 năm 2007 trưng bày: “ Chúng tôi ăn rừng G.Condominas ở làng Sar Luk”. Liên hoan rối nước với sự tham gia của nhiều phường rối địa phương như: Nghĩa Hưng – Nam Định, Hồng Phong – Hải Phòng, Minh Tâm – Hải Phòng. Tháng 1 năm 2008 triển lãm ảnh Việt Nam 80 – 00; Thuyết trình: từ dân tộc học đến bảo tàng học. Tháng 2 năm 2008 triển lãm ảnh của dân làng Lai Xá; hoạt động vui xuân Mậu Tý. Tháng 3 năm 2008 thuyết trình: Sử thi, con người và văn hoá Tây Nguyên. Ngoài ra bảo tàng cũng thực hiện một số trưng bày chuyên đề khác: Chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, sống trong bí tích – văn hoá công giáo đương đại Việt Nam... trong thời gian tới bảo tàng tiếp tục thực hiện chương trình, dự án: Chương trình cơ sở dữ liệu hiện vật và ảnh; dự án FSP (phát huy di sản bảo tàng Việt Nam), khoá mùa hè nghiên cứu và thực hành bảo tàng, nghiên cứu - sưu tầm về những tác động của đường 9; tham gia dự án tập huấn về phương pháp, kỹ năng và kỹ thuật làm phim cộng đồng... Tổ chức và xây dựng các hoạt động này cũng chính là cơ hội giúp người dân hiểu biết và trân trọng những giá trị văn hoá đặc sắc của dân tộc. trình diễn giúp thế hệ trẻ hôm nay luôn thấy được sức sống văn hoá lâu bền và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, rung cảm trước những giá trị văn hoá hiện hữu ở những miền quê như một dòng chảy truyền thống không ngừng. Riêng đối với người nước ngoài thì trình diễn là cuộc hành trình ngắn nhất, có sức thu hút lớn nhất để họ hiểu biết văn hoá Việt Nam. Có thể nói, thành công lớn nhất qua trình diễn mang lại cho công chúng: Trình diễn luôn trở thành một nhu cầu, một sự quan tâm thường xuyên của người xem vì mỗi lần bảo tàng dân tộc học tổ chức với họ như một lần nhận thức, khám phá và phát hiện những điều mới lạ và mỗi lần đưa người xem trở về với lịch sử cội nguồn. Với việc tổ chức nghiên cứu và khai thác di sản văn hoá vật thể và phi vật thể còn tiềm ẩn và giàu tiềm năng tại làng quê trong các cộng đồng của các chủ thể văn hoá, phục vụ cho các hoạt động trình diễn là một quan điểm mới quan trọng của bảo tàng dân tộc học Việt Nam để bảo tàng luôn gắn liền và phản ánh cuộc sống đời thường mang đậm khuynh hướng dân dã. Nhờ đó mà nhịp sống của bảo tàng trở lên đa dạng, phong phú và hấp dẫn đối với công chúng. Bằng việc mời những người dân – những chủ thể văn hoá giữ vai trò quyết định trong hoạt động trình diễn, trực tiếp nói lên tiếng nói của mình, khắc phục tâm lý mặc cảm tự ti dân tộc, giao lưu với công chúng như một hoạt động quảng bá văn hoá sâu rộng, sẽ là những cơ hội giúp người dân nâng cao ý thức tự hào, sự bình đẳng văn hoá, bảo tồn và phát triển nhưng không làm mất bản sắc của mình. Đặc biệt với những sản phẩm thủ công truyền thống- một tiềm năng kinh tế to lớn của làng xã, qua trình diễn sẽ là dịp để người dân kích thích sự phục hồi sản xuất, vượt qua tình trạng tự cung, tự cấp, phát triển truyền thống cho thích ứng với cơ chế hàng hoá thị trường, tạo thêm việc làm nhằm tăng thêm thu nhập về kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí ở các khu vực nông thôn và miền Núi.” Đó chính là mối quan hệ biện chứng giữa tái sản xuất xã hội và tái sản xuất văn hoá. Qua đó góp phần khẳng định truyền thống là nguồn lợi vật chất có thể khai thác và sử dụng một cách tích cực có hiệu quả trong đời sống hiện tại”. (Nguyễn Văn Huy). Không những qua hoạt động trình diễn, con người - chủ thể còn tham gia vào hoạt động của bảo tàng dưới rất nhiều hình thức và sản phẩm khác nhau: cung cấp tư liệu hiện vật, xây dựng phim dân tộc học (khoảng 150 ảnh và 15 phim video), ghi âm các truyện kể và những tri thức bản địa liên quan đến việc khai thác, sử dụng môi trường và những biến đổi, biến động có liên quan đến lịch sử xã hội, văn hoá tại địa phương... Mục tiêu của bảo tàng là hướng tới khách tham quan, muốn thực hiện được mục tiêu đó thì không thể không tiến hành các hoạt động giới thiệu, quảng bá. Cuộc triển lãm ảnh của dân làng Lai Xá: “Người Lai Xá tự kể chuyện làng mình” đã giới thiệu các bức ảnh do chính những người dân làng chụp về cuộc sống đương đại ở một làng quê ven đô đang trong quá trình đô thị hoá - làng Lai Xá (Kim chung - Hoài Đức - Hà Tây). Có 7 người dân làng Lai Xá tham gia chính, họ đã chụp 80 cuộn phim, gần 2500 bức ảnh, chọn giới thiệu hơn 130 ảnh, cùng với những câu chuyện của người dân kể về làng mình, về những thuận lợi, khó khăn và thách thức đối với họ trong việc thích ứng với cuộc sống hiện tại. Bằng phương pháp photovoice, Bảo tàng mong muốn những người dân làng hiểu hơn về vai trò của họ trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong cuộc sống sôi động của ngày hôm nay. Triển lãm giúp cho thế hệ trẻ luôn thấy sức sống văn hoá lâu bền và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, biết rung cảm trước những giá trị vă._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36792.doc
Tài liệu liên quan