Tiềm năng và định hướng phát triển bền vững thủy sản Bến Tre

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ---------------------------------- Lê Xinh Nhân TIỀM NĂNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY SẢN BẾN TRE Chuyên ngành: Địa Lý Học Mã số: 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN VĂN THÔNG Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CẢM ƠN Được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các Thầy Cô giáo, sự hổ trợ của các bạn bè, đồng nghiệp và sự động viên của gia đình. Sau ba năm học t

pdf147 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiềm năng và định hướng phát triển bền vững thủy sản Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ập và nghiên cứu đến nay tác giả đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ của mình. Để có được thành công này, tác giả luận văn xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến Thầy TS. Trần Văn Thông – người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn. Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu nhà trường, Phòng Khoa Học – Công Nghệ Sau Đại Học và Khoa Địa Lý trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập, trang bị kiến thức để hoàn thành luận văn. Đồng thời, xin chân thành cảm ơn Sở Giáo Dục và Đào Tạo tỉnh Bến Tre, trường THPT CheGuevara, trường THPT Chuyên Bến Tre, các thầy cô cùng các bạn bè, đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tác giả thực hiện công việc học tập và nghiên cứu của mình. Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng chân thành cảm ơn tới các Cơ Quan, Ban Ngành như: Cục Thống Kê Bến Tre, UBND tỉnh Bến Tre, Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tỉnh Bến Tre,… đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp các tư liệu, số liệu tham khảo quý báu, hữu ích để tác giả hoàn thành tốt luận văn. Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình và những người thân đã động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tác giả hoàn thành luận văn này. Tác giả luận văn Lê Xinh Nhân DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTC Bán thâm canh BTS Bộ thủy sản CoC Bộ Quy tắc ứng xử của FAO (Code of Conduct) CNH – HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long EU Liên minh châu Âu (European Union) FAO Tổ chức lương thực thế giới (Food anh Argiculture Organization of the united nation) GAP Thực hành nuôi tốt (Good Aquaculture Practice) GDP Tổng thu nhập quốc nội (Gross Domestic Product) HACCP Hệ thống phân tích mối nguy hiểm và kiểm soát điểm tới hạn (Hazard Analysis Crititical Control Point) HTX Hợp tác xã KT – XH Kinh tế – xã hội NN & PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn NTTS Nuôi trồng thủy sản RAP Thực hành nuôi có trách nhiệm (Responsible Aquaculture Practice) TACN Thức ăn công nghiệp UBND Ủy ban nhân dân TP Thành phố TX Thị xã VSATTP Vệ sinh an toàn thực phẩm WTO Tổ chức thương mại thế giới (World Trade Organization) MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, đời sống của người dân Bến Tre nói riêng, cả nước nói chung không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, trong xu thế phát triển, hòa nhập với các vùng miền trong cả nước và thế giới; nông nghiệp, nông thôn trong tỉnh vẫn còn lắm khó khăn. Sản xuất bấp bênh, luẩn quẩn cái vòng được mùa mất giá, được giá mất mùa, nhiều hộ nông dân ở vùng sâu, vùng xa thiếu vốn sản xuất, phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn; đời sống vật chất, tinh thần của nhiều bà con nông dân vùng sâu vùng xa chậm được cải thiện. Bến Tre là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) được ban tặng khá nhiều từ thiên nhiên, vùng đất mà người ta quen gọi với cái tên rất thân mật “đất lành”. Quả thật không phải hữu danh, đây là vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ được bồi đấp phù sa bởi các nhánh sông Tiền, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên trước khi nó lặng lẽ đổ vào biển lớn, đây là một vựa trái cây lớn, vùng tiềm năng nuôi trồng thủy sản (NTTS) của khu vực. Thế nhưng trong nhịp sống hối hả của cuộc sống hiện đại, người dân Bến Tre vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, luôn trăn trở với chính sản phẩm của họ làm ra mà chủ yếu là mặt hàng nông sản. Thủy sản là một trong những thế mạnh lớn của tỉnh trong quá trình hội nhập hiện nay. Toàn tỉnh hiện có khoảng 42.089 ha diện tích mặt nước nuôi thủy sản với tổng sản lượng nuôi trồng năm 2008 lên đến hơn 157.018 tấn, chiếm khoảng 65,7% tổng sản lượng thủy sản của tỉnh. Nhưng hiện nay nghề NTTS của tỉnh được đánh giá là phát triển không bền vững, hầu hết các hộ nuôi thủy sản của tỉnh vẫn đang loay hoay tự bươn chải để phát triển mà chưa có những quy hoạch cụ thể nào cho sự phát triển bền vững trong điều kiện đất nước đang trên đà hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay việc qui hoạch vùng nuôi thủy sản của tỉnh còn khá nhiều bất cập, tỉnh có qui hoạch nhưng lại không công bố rộng rãi cho dân biết để cho người nông dân thực hiện theo đúng qui hoạch, dẫn đến tình trạng nông dân mạnh ai nấy đầu tư NNTS theo hình thức tự phát, đến khi có thông báo vi phạm qui hoạch thì chuyện đã rồi, tỉnh đành phải điều chỉnh theo người dân. Trong lúc các địa phương đang loay hoay qui hoạch vùng nuôi thủy sản thì giữa người nuôi thủy sản và các nhà máy chế biến cũng nẩy sinh rất nhiều mâu thuẩn, trên lý thuyết giữa người nuôi thủy sản và nhà máy chế biến phải luôn luôn cùng nhau nhìn về một hướng để phát triển nhưng thực tế không như vậy, người thu mua và người nuôi luôn vì cái lợi của bản thân mà không hề để ý tới sự phát triển trong tương lai. Trong khi bài toán “phát triển thủy sản của tỉnh như thế nào là bền vững?” vẫn chưa có lời giải thì những ngày gần đây người nuôi và doanh nghiệp chế biến thủy sản lại đối mặt với một vấn nạn: giá thức ăn chăn nuôi tăng lên từng ngày, chất lượng thủy sản và môi trường nuôi ngày càng suy thoái dần, khiến cho giá cả nhiều mặt hàng thủy sản của tỉnh giảm sút rất mạnh trên thị trường. Hằng ngày trên các phương tiện truyền thông đại chúng như: báo chí, đài phát thanh truyền hình cũng đã đề cập rất nhiều về vấn đề này thế nhưng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu khoa học thật sự nào đi sâu vào việc nghiên cứu làm sao để ngành hàng thủy sản Bến Tre thực sự có một chổ đứng vững chắc trên thị trường trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề phát triển thủy sản Bến Tre hiện nay là rất cần thiết và thiết thực. Kết quả những nghiên cứu mang tính định hướng này sẽ là cơ sở để xác định giá trị thực sự của mặt hàng thủy sản ĐBSCL nói chung và của Bến Tre nói riêng. Nếu điều này được thực thi sẽ là một động lực rất lớn cho vấn đề qui hoạch phát triển thủy sản tỉnh trong tương lai, đồng thời nó sẽ góp phần tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo cho người dân Bến Tre. Trong thực tế đó, các vấn đề nghiên cứu được đặt ra như sau: - Đánh giá các tiềm năng và thực trạng phát triển thủy sản của tỉnh. - Phân tích các mặt đã đạt được cũng như các mặt còn hạn chế. - Giải thích nguyên nhân dẫn tới những yếu kém trong năng lực cạnh tranh mặt hàng thủy sản như hiện nay. - Đề xuất các định hướng và giải pháp cần thiết nhằm nâng cao giá trị mặt hàng thủy sản đồng thời đảm bảo sự phát triển bền vững của môi trường sinh thái tự nhiên đa dạng của tỉnh trong tương lai. Để giải quyết các vấn đề nêu trên, tác giả luận văn đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Tiềm năng và định hướng phát triển bền vững thủy sản Bến Tre”. 2. Mục đích nghiên cứu Tổng quan có chọn lọc các cơ sở lý luận về những thời cơ và thách thức của ngành thủy sản nước ta trong thời kỳ hội nhập mà cụ thể hơn là ngành thủy sản tỉnh Bến Tre. Khái quát có hệ thống về điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của tỉnh và đồng thời đưa ra những nhận xét, đánh giá chung. Tổng hợp và đánh giá các tiềm năng, thành tựu cũng như các yếu kém của ngành thủy sản Bến Tre trong giai đoạn gần đây. Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và thực trạng phát triển của ngành thủy sản hiện nay trên địa bàn tỉnh. Hướng vào phân tích, đánh giá thực trạng phát triển ngành thủy sản tỉnh so với tiềm năng hiện có và đồng thời nêu lên một số giải pháp mang tính định hướng nhằm phát triển ngành thủy sản Bến Tre phát huy lợi thế là một trong những ngành kinh tế thế mạnh của tỉnh, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cao về mặt kinh tế xã hội và môi trường sinh thái trong tương lai. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu và vận dụng lý thuyết phát triển bền vững để phân tích thực trạng phát triển ngành thủy sản tỉnh Bến Tre (khai thác, nuôi trồng và chế biến tiêu thụ sản phẩm thủy sản) những năm qua theo quan điểm phát triển bền vững. Tìm hiểu vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế xã hội và môi trường sinh thái của Việt Nam nói chung và Bến Tre nói riêng. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành thủy sản của tỉnh đồng thời nêu lên các mâu thuẫn phát sinh giữa phát triển kinh tế thủy sản với bảo vệ môi trường, cũng như các vấn đề thủy sản đang bức xúc hiện nay. Nghiên cứu hiện trạng phát triển ngành thủy sản Bến Tre. Đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng cho việc phát triển bền vững ngành thủy sản Bến Tre đến năm 2020. 4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là các loại thủy sản đặc trưng có thế mạnh của tỉnh, hiện nay mang lại giá trị xuất khẩu cao chủ yếu là tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm càng xanh, cá da trơn (tra, basa). Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu trong giới hạn các huyện có tiềm năng và thế mạnh cho việc phát triển thủy sản, phân tích các tiềm năng về tài nguyên tự nhiên – kinh tế xã hội (KT – XH) để phát triển ngành thủy sản, đánh giá thực trạng phát triển của ngành trong thời gian gần đây. Trên cơ sở phân tích tiềm năng, đánh giá thực trạng phát triển. Đề xuất các giải pháp, phương hướng phát triển cho ngành thủy sản của tỉnh trong thời gian tới, phát triển nhưng đảm bảo không gây tác hại đến môi trường, làm hủy hoại tính đa dạng sinh học của các giống loài, cũng như sự đa dạng của môi trường sinh thái của tỉnh. Về không gian, đề tài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi các huyện trong tỉnh có tiềm năng và thế mạnh cho việc phát triển thủy sản như: Ba Tri, Bình Đại, Thạnh Phú, Chợ Lách, Mỏ Cày Nam,… Về thời gian, đề tài tập trung, điều tra, thu thập số liệu, nghiên cứu và phân tích trong giai đoạn từ năm 2000 trở lại đây. 5. Lịch sử nghiên cứu ĐBSCL nói chung và tỉnh Bến Tre nói riêng có rất nhiều lợi thế và tiềm năng cho việc phát triển ngành thủy sản. Trong những năm gần đây, thủy sản của vùng đã khẳng định là một trong những những ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu thế mạnh, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội rất cao, góp phần tích cực vào công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở các vùng ven biển, tạo ra nhiều việc làm, góp phần giải quyết được nguồn lao động nhàn rỗi ở nông thôn, tăng nguồn thu nhập cho người dân, đồng thời tạo điều kiện cho việc phát triển một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Cùng với nhiều tỉnh thành khác trong khu vực như An Giang, Cà Mau, Kiên Giang, Đồng Tháp,… Bến Tre là một tỉnh cuối nguồn sông Cửu Long, với rất nhiều tiềm năng cho việc phát triển ngành thủy sản đặc biệt là ngành NTTS với cả 3 hệ sinh thái ngọt, lợ, mặn. Hiện nay, sản phẩm thủy sản của tỉnh đã từng bước khẳng định trên thị trường không những trong nước mà còn cả các thị trường khó tính như Tây Âu, Hoa Kỳ,… Nhưng chính vì do sự phát triển phần nhiều còn mang tính tự phát, nên ngành thủy sản sự phát triển thủy sản của tỉnh chưa mang lai hiệu quả kinh tế đúng với tiềm năng, chưa đảm bảo được tính bền vững trong tương lai. Tiềm năng phát triển thủy sản là rất lớn, song về lâu dài cũng cần tính đến hiệu quả kinh tế với sự phát triển bền vững. Sự phát triển bền vững cần phải thể hiệu đầy đủ cả 3 mặt: hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Trên cơ sở đó, chúng ta cần phải có những giải pháp mang tính khả thi cho ngành thủy sản trong tương lai. Do đó, những năm gần đây đã có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề thủy sản Việt Nam, ĐBSCL.  “Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam thời kỳ 1999 – 2010” do thủ tướng chính phủ phê duyệt Quyết định số 224/1999 ngày 08/12/1999.  Đề án “Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội ngành thủy sản thời kỳ 2000 – 2010” của Bộ Thủy sản.  Đề tài khoa học cấp bộ “Những giải pháp về thị trường cho sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam” của PGS – TS. Võ Thanh Chu (chủ biên) cùng nhóm tác giả thuộc trường Đại học Kinh tế Thành phồ Hồ Chí Minh thực hiện.  “Quy hoạch phát triển NTTS ở ĐBSCL đến năm 2015 và định hướng năm 2020” Viện Kinh tế và quy hoạch thủy sản thuộc Bộ Thủy sản.  Luận án tiến sĩ “Phát triển bền vững ngành thủy sản Đồng bằng Sông Cửu Long đến năm năm 2015” của Ths. Lâm Văn Mẫn. Một số bài tham luận có liên quan đến việc phát triển bền vững ngành thủy sản tại các cuộc Hội thảo khoa học như:  “Hoạt động khoa học công nghệ thủy sản vì sự phát triển Đồng bằng sông Cửu Long” của Bộ Thủy sản.  “Để nuôi trồng thủy sản xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn ở Đồng bằng Sông Cửu Long” của PGS – TS. Hà Xuân Thông – Nguyên Viện trưởng Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản.  “Đẩy nhanh phát triển nuôi trồng thủy sản phát triển hiện đại, hiệu quả bền vững” của PGS – TS. Hà Xuân Thông – Nguyên Viện trưởng Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản.  “Khoa học công nghệ trong sự phát triển thủy sản bền vững ở Đồng bằng Sông Cửu Long” của Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Duy Hòa – Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II.  “Những bước phát triển mới trong kinh tế Nông – Lâm – Ngư nghiệp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long – Một số giải pháp chủ yếu” của Nguyễn Thị Vân, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.  “Vai trò của thủy sản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vùng lũ Đồng bằng Sông Cửu Long” của Nguyễn Thanh Phong – khoa thủy sản, trường Đại học Cần Thơ.  “Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo và thủy sản – Những sản phẩm chủ lực của Đồng bằng Sông Cửu Long” của TS. Trần Xuân Hiển, trường Chính trị Tôn Đức Thắng, tỉnh An Giang.  “Liên kết trong sản xuất kinh doanh thủy sản – Tiền đề cho sự phát triển bền vững” của Nguyễn Thị Trâm Anh và Nguyễn Thị Kim Anh – khoa kinh tế, trường Đại học Nha Trang.  “Môi trường và vấn đề phát triển bền vững ngành thủy sản” của Hoàng Hoa Hồng – trường Đại học Nha Trang.  “Quá trình phát triển và định hướng của ngành thủy sản Bến Tre sau hai năm gia nhập WTO” của Trần Thị Thu Nga – PGĐ Sở Nông nghiệp và PTNT Bến Tre. Ngoài ra, hiện nay ngành thủy sản cũng được quan tâm và thực hiện nghiên cứu từ các dự án, hãng thông tấn báo chí, viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản, đài phát thanh truyền hình tỉnh, trung tâm truyền hình Việt Nam tại thành phố Cần Thơ hoặc của sinh viên các trường: Đại học Nông Lâm Tp. HCM, Đại học Thủy Sản Nha Trang, khoa nông nghiệp trường Đại học Cần Thơ, Đại học Huế, Đại học Trà Vinh,… Tuy nhiên, phần lớn các công trình đó chưa đi sâu khai thác và nghiên cứu kỹ về vấn đề phát triển thủy sản trong điều kiện đất nước đang hội nhập quốc tế mà chỉ bước đầu cho việc nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của vấn đề thủy sản – chủ yếu là nhằm mục đích nâng cao năng suất cho việc nuôi trồng thủy sản (NTTS). Diễn hình như các công trình: “Bệnh học thủy sản” công bố năm 2008, của Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I; “Quản lý chất lượng nước nuôi trồng thủy sản” công bố 2008 của Đại học Cần Thơ; “Kỹ thuật nuôi nhuyễn thể” công bố 2008,… Ngày nay, với việc Việt Nam chính thức gia nhập WTO, chúng ta không phải chỉ sản xuất sản phẩm mà chúng ta có tiềm năng mà cần tạo ra sản phẩm thị trường cần, sản phẩm phải đáp ứng được nhu cầu thị trường. Do đó, vấn đề nghiên cứu về thủy sản hướng xuất khẩu của Bến Tre thật là một đề tài khá hấp dẫn cần phải được quan tâm đầy đủ trong tình hình hiện nay. Riêng vấn đề phát triển thủy sản Bến Tre trong thời kỳ hội nhập hiện nay thì vẫn chưa có một công trình thật sự nào được nghiên cứu một cách chi tiết, tuy nhiên cũng có rất nhiều bài viết của sinh viên, định hướng quy hoạch của huyện về các vấn đề có liên quan đến thủy sản như:  “Khảo sát mô hình nuôi tôm sú thâm canh tại huyện Bình Đại tỉnh Bến Tre” của Phạm Nguyễn Phương Thảo, 2005. Luận văn tốt nghiệp khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Nông Lâm, Tp Hồ Chí Minh.  “Quy hoạch chi tiết nuôi thủy sản đến năm 2010 của huyện Ba Tri – Bến Tre” của Phòng Thủy sản huyện Bình Đại.  “Quy hoạch chi tiết nuôi trồng thủy sản huyện Thạnh Phú – Bến Tre gia đoạn 2003 – 2010” của Hội đồng nhân dân huyện Thạnh Phú. Các công trình nghiên cứu, đề tài khoa học trên là những tư liệu tham khảo quý giá cho tác giả khi thực hiện luận văn: “Tiềm năng và định hướng phát triển bền vững thủy sản Bến Tre”. 6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu 6.1. Quan điểm nghiên cứu 6.1.1. Quan điểm hệ thống Đối tượng nghiên cứu của địa lý KT – XH khá rộng lớn, liên quan tới nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh có quy mô và bản chất khác nhau, nhưng lại tương tác chặt chẽ với nhau. Vì vậy các nhà nghiên cứu địa lý KT – XH phải sử dụng thường xuyên nhất quán các quan điểm tiếp cận hệ thống. Kinh tế thủy sản nghiên cứu tổng hợp thể lãnh thổ sản xuất trong một hệ thống các mối quan hệ tác động qua lại với nhau với môi trường xung quanh. Vì vậy khi nghiên cứu vấn đề thủy sản tỉnh Bến Tre được coi là một hệ thống KT - XH thống nhất, được xem xét đánh giá quá trình phát triển KT - XH của tỉnh và sự kết hợp hài hòa với vùng ĐBSCL và cả nước. Ở đây lãnh thổ Bến Tre với tư cách là một hệ thống lớn, bao gồm nhiều phân hệ có quy mô khác nhau tùy từng cấp huyện, xã,… Dù ở quy mô nào, trên mỗi bộ phận lãnh thổ cũng đều có ít nhất 3 phân hệ tác động qua lại, quy định và phụ thuộc lẫn nhau. Đó là các phân hệ tự nhiên, dân cư và kinh tế. 6.1.2. Quan điểm tổng hợp – lãnh thổ Địa lý KT - XH là một khoa học tổng hợp nghiên cứu không gian lãnh thổ KT – XH liên quan tới nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó khi nghiên cứu các nguồn lực nhằm phát triển KT – XH của tỉnh Bến Tre chúng ta cần phải xem xét nó trong một chỉnh thể chung của vùng và cả nước; giải quyết mối quan hệ giữa sự phát triển với việc nâng cao chất lượng, cũng như việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong tương lai. Đồng thời tìm kiếm những mặt tối ưu, định ra các giải pháp cụ thể nhằm phát huy lợi thế của ngành thủy sản dưới cái nhìn khách quan và tổng hợp tạo động lực phát triển KT – XH của tỉnh nhà. 6.1.3. Quan điểm lịch sử - phát triển Ngành thủy sản cũng như bao ngành kinh tế khác, nó cũng luôn luôn vận động và phát triển không ngừng theo thời gian. Tùy theo từng giai đoạn nhất định mà nó có các nguồn lực và thế mạnh khác nhau tạo nên những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngảnh. Đánh giá đúng chiều hướng phát triển, sự thay đổi của ngành qua từng giai đoạn trong quá khứ, hiện tại đó là một tiền đề thuận lợi cho phép chúng ta dự báo viễn cảnh cho sự phát triển của ngành trong tương lai. 6.1.4. Quan điểm kinh tế và phát triển bền vững Quan điểm kinh tế được coi trọng trong nghiên cứu địa lý KT – XH. Quan điểm này thể hiện thông qua một chỉ tiêu kinh tế cụ thể như tốc độ tăng trưởng, hiệu quả kinh tế,… Trong cơ chế thị trường, sản xuất phải đem lại lợi nhuận song cần tránh xu hướng phải đạt cái mục tiêu kinh tế bằng mọi giá. Kinh tế thủy sản cũng không nằm ngoài mục tiêu trên chúng ta thúc đẩy sự phát triển thủy sản nhằm góp phần phát triển kinh tế tỉnh nhà nói riêng và cả nước nói chung, nhưng chúng ta cũng cần phải tính đến mục tiêu lâu dài, sự phát triển bền vững trong tương lai chứ không phải chỉ vì mục tiêu trước mắt mà bất chấp tất cả. Quán triệt quan điểm phát triển bền vững đòi hỏi phải đảm bảo sự bền vững về cả 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường. 6.2 Phương pháp nghiên cứu 6.2.1. Phương pháp phân tích tổng hợp và nghiên cứu hệ thống Đối tượng nghiên cứu của địa lý KT – XH nói chung và của ngành thủy sản nói riêng là những hệ thống động phức tạp, bao gồm nhiều phần tử có bản chất khác nhau, thường xuyên tác động qua lại, mang tính thang cấp rỏ rệt. muốn hiểu rõ những đặc điểm và tính quy luật vận động, hành vi của chúng, cần phân tích các mối liên hệ đa dạng, đa chiều bên trong và bên ngoài hệ thống về các mặt số lượng, cường độ, mức độ chặt chẽ,… Đây là phương pháp cơ bản được sử dụng trong đề tài nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng nghiên cứu những đối tượng có mối quan hệ đa chiều và thường xuyên có sự biến động theo thời gian và không gian như ngành sản xuất và nuôi trồng thủy sản. 6.2.2. Phương pháp điều tra thực địa Đây là một phương pháp truyền thống, đặc trưng của ngành địa lý học. Sử dụng phương pháp này giúp cho ta tránh được những kết luận, quyết định chủ quan, vội vàng, thiếu cơ sở thực tiễn. Phương pháp này nhằm bổ sung và kiểm tra, đánh giá lại những thông tin cần thiết cho quá trình phân tích, xử lý số liệu trước thực hiện đề tài nhằm đảm cao tính chính xác khoa học cao cho đề tài. Trên thực tế, số liệu thống kê của ngành thủy sản đôi khi còn nhiều bất cập, chồng chéo và chưa thống nhất giữa các địa phương, đồng thời bổ sung kịp thời những nội dung mới được phát hiện trong quá trình khảo sát thực địa. 6.2.3. Phương pháp thống kê toán học Phương pháp này nghiên cứu về mặt định định lượng của các chỉ tiêu phát triển trong ngành thủy sản. Những thông tin, số liệu có liên quan tới ngành của vùng được thu thập làm cơ sở cho việc xử lý, phân tích và đánh giá nhằm thực hiện những mục tiêu của đề tài đã đề ra. Phương pháp này cho phép tổng hợp hóa, đơn giản hóa các thông số hoạt động, các mối liên hệ đa dạng, phức tạp của các đối tượng nghiên cứu ngành thủy sản trong thực tiễn, làm nổi bậc các đặc trung cơ bản, quy luật vận động của đối tượng và điều khiển tối ưu, phương hướng phát triển của chúng. 6.2.4. Phương pháp dự báo định hướng Phương pháp này giúp ta định hướng chiến lược, xác định các mục tiêu và kịch bản phát triển trước mắt và lâu dài của các đối tượng nghiên cứu ngành thủy sản một cách khách quan, có cơ sở khoa học, phù hợp với các điều kiện và xu thế phát triển thực tại. Để đánh giá và xác định các vấn đề trong nội dung có liên quan, dựa trên các nguyên nhân, hệ quả và tính chất hệ thống trong việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ nông nghiệp, từ đó dự báo sự phát triển của ngành trong tương lai. 6.2.5. Phương pháp bản đồ - biểu đồ Phương pháp truyền thống này cũng được sử dụng phổ biến trong quá trình nghiên cứu địa lý học nối chung và nhiều môn khoa học cơ bản khác trong đó nó được xem là một phương pháp khá hữu dụng và trực quan trong nghiên cứu thủy sản. Các quá trình nghiên cứu có thể khởi đầu và kết thúc bằng một bản đồ - biểu đồ. Vì đây là “ngôn ngữ” tổng hợp, ngắn gọn, trực quan của các đối tượng nghiên cứu. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn gồm có 3 chương chính sau: Chương 1: Cơ sở lý luận Chương 2: Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển thủy sản ở tỉnh Bến Tre. Chương 3: Định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ ngành thủy sản tỉnh Bến Tre đến năm 2020. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan về ngành thủy sản 1.1.1. Các khái niệm cơ bản về thủy sản Thủy sản là những loại động vật sống dưới nước như cá, nhuyễn thể, giáp xác,… có thể qua hay không thông qua khâu nuôi trồng và dùng làm thực phẩm. Ngư nghiệp là những công việc có liên quan đến quá trình khai thác, nuôi trồng và phát triển nguồn lợi các sinh vật trong nước. Khi nói tới ngư nghiệp thì phải hiểu nó gồm 3 hoạt động cơ bản: khai thác, NTTS và chế biến tiêu thụ sản phẩm thủy sản. Hộ Thủy sản là những hộ có toàn bộ hoặc phần lớn lao động thường xuyên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy sản. Ngành thủy sản bao gồm nuôi trồng và đánh bắt là việc tiến hành khai thác, nuôi trồng, vận chuyển thủy sản khai thác; bảo quản, chế biến, mua bán, xuất nhập khẩu thủy sản; dịch vụ trong hoạt động thủy sản; điều tra bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Khai thác và đánh bắt thủy sản Khai thác thủy sản là việc khai thác nguồn lợi thủy sản trên biển, sông, hồ, đầm, phá và các vùng nước tự nhiên khác. Nuôi trồng thủy sản Nuôi trồng thủy sản: là hình thức nuôi trồng các giống loài động thực vật sống ở trong nước, đem lại cho con người về dinh dưỡng, y dược, thưởng ngoạn,… Nuôi thủy sản thâm canh: là phương thức nuôi trồng thủy sản chủ yếu dựa trên việc đầu tư tư liệu sản xuất và kỹ thuật cho một đơn vị diện tích thủy vực nhằm đạt năng suất cao. Nuôi thủy sản quảng canh: là phương thức nuôi trồng thủy sản chỉ dựa vào thức ăn tự nhiên có sẵn trong vùng nước, áp dụng trong điều kiện hạn chế về đầu tư vốn và kỹ thuật. Nuôi lồng bè: là hình thức nuôi thủy sản thường áp dụng ở các vùng trung và hạ lưu các sông nước ngọt; hoặc nuôi thủy sản ở các eo, vịnh kín thuộc vùng nước nông gần bờ và ven các đảo. Là phương thức nuôi tập trung theo hướng công nghiệp, tạo ra sản phẩm hàng, năng suất cao, sản lượng lớn. Nuôi thủy sản xen canh: là hình thức nuôi trồng kết hợp trong cùng một môi trường, có thể tận dụng nhiều đối tượng nuôi trong cùng một môi trường nuôi, hay NTTS xen canh với lúa hoặc cây ăn trái, cùng một môi trường nuôi tùy vào điều kiện thời tiết có thể nuôi các đối tượng nuôi khác nhau (chẳng hạn khu vực ven biển ở môi trường nước lợ mùa khô nuôi tôm sú, mùa mưa có thể nuôi cá kèo hay cua biển). Đây là hình thức nuôi mang lại hiệu quả kinh tế khá cao trong thời gian gần đây. Chế biến và tiêu thụ sản phẩm thủy sản Công nghiệp chế biến là hoạt động nối tiếp sản phẩm của ngành khai thác, nuôi trồng, nó không chỉ bảo tồn, giữ gìn chất lượng nguyên liệu mà còn nâng cao giá trị động thời tạo ra những sản phẩm có giá trị sử dụng cao. Nhờ đó đáp ứng được nhu cầu và thị hiếu thị trường tốt hơn, thu được nhiều lợi nhuận hơn. Sản phẩm thủy sản là thực phẩm trong đó thủy sản là thành phần đặc trưng. Sản phẩm thủy sản tươi là sản phẩm thủy sản còn nguyên con, hoặc đã qua sơ chế, chưa được xữ lý với bất kỳ hình thức nào để bảo quản, ngoài việc làm lạnh. Sản phẩm thủy sản chế biến là những sản phẩm thủy sản đã qua các hình thức chế biến như xữ lý nhiệt, hun khói, ướp muối, sấy khô hoặc kết hợp các hình thức trên, có phối chế hoặc không phối chế với phụ gia, thực phẩm khác. Sản phẩm thủy sản đông lạnh là sản phẩm thủy sản cấp động, khi đã ổn định nhiệt độ trung tâm sản phẩm 8 – 180c hoặc thấp hơn. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của ngành thủy sản Thủy sản là một bộ phận của nông nghiệp theo nghĩa rộng, cho nên ngành thủy sản có những đặc điểm tương tự những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nói chung. Tuy nhiên do tính chất đặc thù của đối tượng lao động nên ngoài những đặc điểm chung trong ngành thủy sản còn có những nét đặc thù riêng. 1.1.2.1. Đối tượng sản xuất là các sinh vật sống trong nước. Các loài động thực vật sống trong môi trường nước mặt là đối tượng sản xuất của ngành thủy sản. Môi trường nước mặt cho sản xuất thủy sản gồm có biển và các mặt nước trong lục địa. Những sinh vật sống trong môi trường nước, với tính cách là đối tượng lao động của ngành thủy sản, có một số điểm đáng lưu ý như sau: - Khó xác định chính xác trữ lượng thủy sản có trong một ao hồ hay ngư trường. Đặc biệt ở các vùng nước mặt rộng lớn, các sinh vật có thể di chuyển tự do trong ngư trường hoặc di cư từ nơi này đến nơi khác không phụ thuộc vào ranh giới hành chính. Hướng di chuyển của các luồng tôm cá chịu tác động của nhiều nhân tố như thời tiết, khí hậu, dòng chảy và đặc biệt là nguồn thức ăn tự nhiên. - Các loài sinh vật trong nước sinh trưởng và phát triển chịu sự tác động nhiều của điều kiện thời tiết, khí hậu, dòng chảy và địa hình thủy văn,… Trong NTTS, cần có những điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loài thủy sản như: tạo dòng chảy bằng máy bơm, tạo oxy bằng quạt sục nước,… Trong hoạt động khai thác và đánh bắt thủy hải sản, tính mùa vụ của từng loại thủy sản như sinh sản theo mùa, di cư theo mùa,… phụ thuộc vào thời tiết, điều kiện thủy văn đã tạo nên tính phức tạp về mùa vụ cả về không gian và thời gian. Điều này tạo nên cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển nhiều ngành nghề khai thác khác nhau của ngư dân. - Các sản phẩm thủy sản sau khi được thu hoạch hoặc đánh bắt đều rất dễ bị ươn thói, hư hỏng vì chúng là sản phẩm sinh vật đã bị tách khỏi môi trường sống. Để tránh tổn thất trong sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến và kinh doanh tiêu thụ sản phẩm. - Cần có nghiên cứu cơ bản để nắm vững các quy luật sinh trưởng và phát triển từng giống, loài thủy sản như quy luật sinh sản, sinh trưởng, di cư, quy luật cạnh tranh quần đoàn, các tập tính ăn hay tự vệ,… 1.1.2.2. Thủy vực là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế Các loại mặt nước bao gồm: sông, hồ, ao, mặt nước ruộng, cửa sông, biển,… gọi chung là thủy vực được sử dụng vào việc nuôi trồng và đánh bắt thủy sản. Tương tự như ruộng đất sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, thủy vực là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ yếu không thể thay thế của ngành thủy sản. Không có thủy vực sẽ không có sản xuất thủy sản. 1.1.2.3. Ngành thủy sản là ngành sản xuất vật chất có tính hỗn hợp, tính liên ngành cao Với tính cách là ngành sản xuất vật chất, ngành thủy sản bao gồm nhiều ngành sản xuất cụ thể có tính chất tương đối khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: khai thác, nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ thủy sản. Khi trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, các hoạt động sản xuất nói trên chưa có sự tách biệt rõ ràng, thậm chí còn lồng vào nhau. Ngày nay, dưới tác động mạnh mẽ của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội làm cho các hoạt động sản xuất thủy sản được chuyên môn hóa ngày càng cao. Các hoạt động chuyên môn hóa khai thác, nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ thủy sản có trình độ và quy mô khác nhau phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường và mỗi hoạt động lại dưa trên nền tảng nhất định về cơ sở vật chất kỹ thuật và phương pháp công nghệ, tạo nên những chuyên ngành chuyên môn hóa hẹp có tính độc lập tương đối. Tuy vậy do đặc điểm của sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thủy sản, tính liên kết vốn có của các hoạt động khai thác, nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ thủy sản lại đòi hỏi phải gắn bó các ngành chuyên môn hóa hẹp nói trên trong một thể thống nhất, ở trình độ cao hơn mang tính liên ngành. Tính hỗn hợp và tính liên ngành cao của những hoạt động sản xuất có tính chất khác nhau tạo thành cơ cấu sản xuất của ngành thủy sản. Cơ cấu sản xuất ngành thủy sản hay còn gọi._. là cơ cấu ngành. Cơ cấu ngành thủy sản được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa sản xuất, hình thành nên hai bộ phận sản xuất chủ yếu là NTTS và công nghiệp thủy sản với những chức năng khác nhau:  NTTS là bộ phận sản xuất có tính chất nông nghiệp, thường được gọi là ngành NTTS, có chức năng duy trì, bổ sung tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản để cung cấp sản phẩm trực tiếp cho tiêu dùng và là nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến.  Công nghiệp thủy sản là bộ phận sản xuất có tính công nghiệp bao gồm khai thác và chế biến thủy sản. Những hoạt động này có nhiệm vụ khai thác nguồn lợi thủy sản và chế biến chúng thành các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội và xuất khẩu. Ngoài ra, để phục vụ cho sản xuất kinh doanh còn có các hoạt động sản xuất phụ trợ và phục vụ khác như: đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, sản xuất nước đá, sản xuất bao bì, ngư cụ,… Tất cả các hoạt động sản xuất phụ trợ và phục vụ cùng với nuôi trồng và công nghiệp thủy sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành cơ cấu ngành thủy sản. (xem thêm phần phụ lục 2. Cơ cấu chuyên môn hóa hẹp trong cơ cấu ngành thủy sản Việt Nam) 1.1.2.4. Sản xuất kinh doanh thủy sản đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn, độ rủi ro cao Hầu hết các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt chế biến thủy sản đều đòi hỏi đầu tư ban đầu khá lớn như đầu tư vào đào ao, giống, tàu thuyền đánh bắt. Do vậy, nhà nước cần phải xây dựng và thực hiện chính sách cho vay vốn theo các chương trình phát triển riêng của ngành. Sản xuất nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên nhất là điều kiện về thủy văn, bão, lũ,… Đối với những quốc gia như nước ta các hoạt động của thiên tai gây thiệt hại rất lớn cho các hoạt động của ngành thủy sản. Từ đó cho thấy việc sản xuất kinh doanh thủy sản có mức độ rủi ro trong đầu tư tương đối lớn. 1.1.3. Vai trò của ngành thủy sản Đối với hầu hết các nước, ngành thủy sản có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt đối với những quốc gia có vùng biển và vùng nội địa phong phú. Việt Nam là nước có mặt biển rộng với hơn 3200km chiều dài đường bờ biển, tổng diện tích biển nước ta khoảng 1 triệu km2, hệ thống sông, hồ, suối khá phong phú trên đất liền. Phát triển ngành thủy sản có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta. 1.1.3.1. Ngành thủy sản cung cấp những thực phẩm quý cho tiêu dùng của người dân, cung cấp nguồn nguyên liệu cho sự phát triển của các ngành khác. Các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về dinh dưỡng đã khẳng định hầu hết các loại thủy sản đều là loại thực phẩm giàu đạm, dễ tiêu hóa, phù hợp với sinh lý dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi. Càng ngày thủy sản càng được tin tưởng như một loại thực phẩm ít gây bệnh (tim mạch, béo phì, ưng thư,…). Xét về thành phần dinh dưỡng cho thấy: so với các loại thực phẩm từ thịt khác thì thủy sản có chứa ít chất mỡ hơn, nhiều chất khoáng hơn nhưng chất đạm vẫn cao. Chúng ta có thể nhận thấy như sau: Bảng 1.1. So sánh thành phần các chất dinh dưỡng của thịt bò so với một số loại thủy sản. Loại thực phẩm Tỉ lệ đạm (%) Tỉ lệ mỡ (%) Chất khoáng (%) Thịt bò 16.2 – 19.2 11 – 28 0.8 – 1.0 Cá thu 18.6 0.4 1.2 Cá mối 16.4 1.6 – 2.3 1.2 Cá hồng 17.8 5.9 1.4 Nguồn: Kết quả nghiên cứu của các chuyên gia dinh dưỡng Ngành thủy sản còn cung cấp nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến và một số ngành công nghiệp khác. Nguồn nguyên liệu phục vụ cho ngành chế biến thực phẩm gồm tôm, cá, nhuyễn thể, rong biển,… Các nguyên liệu thủy sản còn được sử dụng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp dược phẩm, mỹ nghệ,… Ngoài ra, ngành thủy sản cung cấp một phần thức ăn cho chăn nuôi, đặc biệt cho chế biến thức ăn trong công nghiệp. Bột cá và các phế phẩm, phụ phẩm thủy sản chế biến là nguồn thức ăn giàu đạm được sử dụng làm thức ăn phục vụ cho chăn nuôi gia súc, gia cầm. Theo tính toán của FAO, hàng năm có khoảng trên 25% sản lượng thủy sản được sử dụng trực tiếp vào chế biến thức ăn cho chăn nuôi. Ở nước ta, nhu cầu sử dụng bột cá cho chế biến thức ăn gia súc ngày càng tăng. Năm 1996, các cơ sở sản xuất thức ăn gia súc ở nước ta sản xuất được 10.000 tấn bột cá làm thức ăn cho chăn nuôi, đến năm 2000 con số này đã đạt gần 40.000 tấn. 1.1.3.2. Ngành thủy sản phát triển sẽ đóng góp quan trọng trong tăng trưởng của toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp nói chung. Ngành thủy sản là ngành kinh tế có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Vì vậy, phát triển mạnh ngành thủy sản, đặc biệt phát triển công nghiệp chế biến thủy sản sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Trong những năm qua, tỷ trọng đóng góp của của khu vực nông – lâm – thủy sản vào tốc độ tăng trưởng chung có xu hướng giảm dần và hiện chỉ còn đóng góp khoảng 10%. Đây là xu hướng phù hợp với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) đất nước. Mặc dù, tỉ trọng đóng góp của ngành nông nghiệp nhưng tỉ trọng đóng góp của ngành thủy sản lại tăng lên. Đó là kết quả của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực nông – lâm – thủy sản theo hướng tích cực. Bảng 1.2. Giá trị và cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (GDP) phân theo ngành kinh tế qua các năm Ngành kinh tế Năm 2000 2005 2008 2009 Nghìn tỷ đồng % Nghìn tỷ đồng % Nghìn tỷ đồng % Nghìn tỷ đồng % Nông nghiệp 108.4 24.54 176.0 20.97 329.9 22.21 346.8 20.88 Trong đó: NN – L.Nghiệp Thủy sản 93.5 14.9 21.17 3.37 143.0 33.0 17.04 3.93 219.4 110.5 14.77 7.44 220.9 125.9 13.30 7.58 Công nghiệp 162.2 36.72 344.2 41.02 591.6 39.84 667.3 40.16 Dịch vụ 171.1 38.74 319.0 38.01 563.5 37.95 647.3 38.96 Tổng 441.7 100.0 839.2 100.0 1485.0 100.0 1661.4 100.0 Nguồn: Niên giám thống kê 2009 – Tổng cục thống kê. 1.1.3.3. Thủy sản tham gia vào xuất khẩu, thu ngoại tệ cho đất nước Đối với các quốc gia có tiềm năng về thủy vực và nguồn lợi thủy sản, phát triển ngành thủy sản sẽ tạo ra một nguồn hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao, tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Năm 2009 kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta đạt trên 4.3 tỷ USD (gấp 40 lần so với năm 1986, tăng bình quân 17%/năm, trong vòng 24 năm qua Việt Nam đã xuất khẩu được 34 tỷ USD, thủy sản trở thành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 4 của nước ta (sau dầu thô, dệt may và giày da). (Xem thêm phần phụ lục 3. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam năm 2008) Hiện nay, sản phẩm thủy sản Việt Nam có mặt trên thị trường hơn 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên Thế giới, trong đó có cả những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản,… Tuy nhiên, thì quy mô còn nhỏ bé, vì vậy chúng ta cần phải tiếp tục khai thác mạnh các thị trường này, đồng thời tìm kiếm mở rộng các thị trường khác. Như vậy, ngành thủy sản có thể coi là ngành tuyên phong trong quá trình đổi mới, gặt hái nhiều thành công và đã có một vị trí khá quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta. Bảng 1.3. Tổng sản lượng và giá trị xuất khẩu của thủy sản Việt Nam Năm Tổng sản lượng thủy sản (nghìn tấn) Giá trị sản xuất thủy sản Giá trị xuất khẩu thủy sản tỷ đồng % tăng trưởng so với năm 2000 triệu USD % tăng trưởng so với năm 2000 2000 2250.5 26498.9 100.0 1.5 100.0 2004 3142.5 53977.7 203.7 2.4 160.0 2005 3465.9 63549.2 239.8 2.7 180.0 2007 4197.8 89509.7 337.8 3.8 253.3 2008 4602.0 110510.4 417.0 4.5 300.0 2009 4847.6 125930.0 475.2 4.3 286.7 Nguồn: Niên giám thống kê 2009 – Tổng cục thống kê. 1.1.3.4. Phát triển ngành thủy sản góp phần vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước Với nhiều lợi thế thuận lợi về diện tích mặt nước và nguồn lợi thủy sản. Do đó, phát triển mạnh mẽ ngành thủy sản nước ta sẽ góp phần vào việc phát triển KT – XH đất nước nói chung và KT – XH nông thôn nói riêng. - Về mặt kinh tế, những địa phương thuộc duyên hải Trung Bộ và Tây Nam Bộ, phát triển thủy sản là con đường làm giàu của các chủ trang trại NTTS, các chủ tàu cá. Ở các địa phương không có tiềm năng về biển, đặc biệt là vùng nông thôn ngoại thành phát triển chăn nuôi thủy đặc sản là bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn đem lại hiệu quả khá cao. - Về mặt xã hội, ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng cao, phát triển chăn nuôi thủy sản ao, hồ, sông, suối tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc; trợ giúp cho việc xóa bỏ tập quán du canh du cư của đồng bào. Việc sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thủy sản tại chổ ở các vùng này còn góp phần trực tiếp cải thiện dinh dưỡng bữa ăn, làm tăng sức khỏe cho người lớn và giảm suy dinh dưỡng cho trẻ em. Ngoài ra, phát triển các trạm tàu khai thác thủy sản xa bờ còn góp phần tăng cường an ninh quốc phòng cho vùng biên giới biển đảo của Tổ quốc. Đối với một số vùng biển, vùng ngập nước ven biển hay trong đất liền, phát triển thủy sản cũng góp phần vào phát triển ngành du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái, ẩm thực trong du lịch và du lịch văn hóa. Trong tương lai, việc NTTS theo hướng bền vững còn có những đóng góp quan trọng trong vấn đề vệ sinh môi trường (ăn ấu trùng muỗi, ăn các hợp chất hữu cơ, tham gia diệt trừ sâu bệnh trong mô hình lúa – cá, lúa – tôm,…). NTTS còn là bộ phận quan trọng trong các mô hình vườn – ao – chuồng (VAC), vườn – rừng – ao – chuồng (VRAC),… Nói tóm lại, ngành thủy sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong đời sống hàng ngày của nhân dân nói riêng. Tầm quan trọng của nó thể hiện ở việc tham gia vào cải thiện cơ cấu bữa ăn với các thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao; đóng góp vào nền kinh tế, tạo ra các mặt hàng xuất khẩu tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, đồng thời góp phần vào trong vấn đề giải quyết việc làm cho một bộ phận người lao động của xã hội. 1.1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển thủy sản 1.1.4.1. Các nhân tố tự nhiên Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa ẩm, một số vùng có khí hậu cận nhiệt (khu vực miền Bắc nước ta), có đường bờ biển dài hơn 3260 km từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang), diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng hơn 226.000 km2, có diện tích vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2, trong vùng biển Việt Nam có hơn 4000 hòn đảo lớn nhỏ, là nơi có thể cung cấp các dịch vụ hậu cần cơ bản, trung chuyển sản phẩm đánh bắt, đồng thời làm nơi neo đậu cho tàu thuyền trong những chuyến ra khơi; Ở một số đảo có các rạn đá, là nơi tập trung nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế,… Dọc bờ biển nước ta còn có những bãi triều, đầm phá, cửa sông (trong đó hơn 10.000 ha đang quy hoạch NTTS) và ven bờ biển có trên 400.000 ha rừng ngập mặn; Ven bờ có nhiều đảo và vụng, vịnh tạo điều kiện hình thành các bãi cho cá đẻ. Bên cạnh đó, trong đất liền còn có khoảng 1.5 triệu ha diện tích mặt nước, có thể NTTS trong đó có 120.000 ha hồ ao nhỏ, mương vườn, 244.000 ha hồ chứa mặt nước lớn, 446.000 ha ruộng úng trũng, nhiễm mặn, cấy lúa 1 hoặc 2 vụ bấp bệnh, và 635.000 ha vùng triều. Sự phát triển của ngành thủy sản phụ thuộc rất nhiều vào mức độ an toàn của môi trường tài nguyên thủy sinh vật. Nước ta được quốc tế coi là điểm nóng về đa dạng sinh học, có khoảng 10% tổng số các loài được mô tả trên thế giới (xấp xỉ 12.000 loài thực vật và 7.000 loài động vật đã được xác định). Đa dạng sinh học của Việt Nam có giá trị đặc biệt với mức độ đặc hữu cao của nó và tập trung chủ yếu ở các vùng biển và ven biển, điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước nói chung và ngành thủy sản nói riêng. Vùng biển nước ta được đánh giá là có nguồn lợi thủy sản khá phong phú. Tổng sản lượng hải sản khoảng 3.9 – 4.0 triệu tấn, cho phép khai thác hàng năm khoảng 1.9 triệu tấn. Biển nước ta có hơn 2000 loài cá, trong có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế; 1647 loài giáp xác, có hơn 100 loài tôm, trong đó có nhiều loài có giá trị xuất khẩu cao; nhuyển thể có hơn 2500 loài, rong biển hơn 600 loài. Ngoài ra còn nhiều loài đặc sản khác. Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư trường trọng điểm đã được xác định là: ngư trường Cà Mau – Kiên Giang (ngư trường vịnh Thái Lan), ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng Tàu, ngư trường Hải Phòng – Quảng Ninh (ngư trường vịnh Bắc Bộ) và ngư trường quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa. Đây được coi là tiền đề khá thuận lợi cho sự phát triển ngành thủy sản nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi cũng có những khó khăn do điều kiện địa hình và thuỷ vực phức tạp, hàng năm có nhiều mưa bão, lũ, vào mùa khô lại hay bị hạn hán đã gây không ít những khó khăn và cả những tổn thất to lớn cho ngành thuỷ sản. 1.1.4.2. Các nhân tố xã hội 1.1.4.2.1. Đường lối chính sách phát triển thủy sản Nghề thuỷ sản đã được hình thành từ lâu. Nước ta có nguồn lao động giàu kinh nghiệm đánh bắt và nuôi trồng, giá nhân công thấp hơn so với khu vực và thế giới. Hiện nay Nhà nước đang coi thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn, do đó có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư để đẩy mạnh sự phát triển của ngành. Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra 3 mục tiêu chương trình kinh tế lớn là: sản xuất lương thực – thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Vận dụng quan điểm, chủ trương này trong thời gian qua ngành thủy sản đã tích cực đầu tư cho các hoạt động nuôi trồng cũng như chế biến các sản phẩm thủy sản, tạo ra được một khối lượng hàng hóa lớn có chất lượng, đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng thực phẩm trong nước, góp phần vào việc xuất khẩu tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia. Từ năm 1995 đến nay, ngoài văn kiện của 2 kỳ Đại hội Đảng khóa VIII và khóa IX nêu rỏ chủ trương, đường lối phát triển của thủy sản, còn có hàng trăm văn bản, chính sách có liên quan đến phát triển ngành thủy sản được ban hành. Cụ thể các chính sách này có thể diễn giải như sau: Các chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trong đó Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng CNH – HĐH”. Với đường lối chỉ đạo này đã có sự tác động rất lớn đến ngành thủy sản, đó là nâng cao giá trị của ngành thủy sản trong việc phát triển toàn diện ngành nông nghiệp. Ngày 15/06/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 09/2000/NQ-CP về một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Nghị quyết đã đánh giá các thành tựu trong sản xuất nông nghiệp, bao gồm nông – lâm – thủy sản, đồng thời đề ra những định hướng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của nước ta trong 10 năm tới. Trong đó, kinh tế thủy sản phát triển theo định hướng là chú trọng vào việc nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ thủy sản, đặc biệt là NTTS theo hướng phát triển bền vững. Định hướng phát triển các ngành kinh tế và các vùng trong chiến lược phát triển KT – XH 2001 – 2010 tại Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX cũng đã đề cập: Phát huy lợi thế về thủy sản tạo thành một ngành kinh tế mũi nhọn, vươn lên vị trí hàng đầu trong khu vực. Phát triển mạnh các ngành NTTS nước ngọt, mặn, lợ, nhất là nuôi tôm theo phương thức tiến bộ, hiệu quả và bền vững môi trường. Chính sách khuyến khích phát triển giống thủy sản, từ khi có Quyết định 103/2000/QĐ-TTg về một số chính sách phát triển giống thủy sản và Quyết định 112/2004/QĐ- TTg về phê duyệt Chương trình phát triển giống thủy sản đến năm 2010 thì số lượng trại tôm giống và cá giống tăng lên nhanh chóng trong cả nước, nhất là ở khu vực ĐBSCL. Đặc biệt với sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương, công tác kiểm dịch, quản lý trại tôm, cá giống được coi trọng hơn. Chính sách phát triển NTTS, ngày 08/12/1999 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 – 2010” với mục tiêu phát triển NTTS sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2.000.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 2.500.000.000 USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2 triệu người; góp phần tích cực vào phát triển KT – XH đất nước và an ninh ven biển. Chính sách khuyến ngư, hiện nay hầu như tỉnh nào cũng có Trung tâm khuyến ngư. Trong các năm qua, thông qua các cuộc hội thảo, tập huấn, thực hiện các điểm trình diễn, cấp phát các tiều liệu hướng dẫn kỹ thuật NTTS đã hỗ trợ đắc lực cho việc phát triển ngành thủy sản. Chính sách hỗ trợ vốn đầu tư cho ngành thủy sản, theo Quyết định 02/2001/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ vốn đầu tư từ quỹ hổ trợ phát triển đối với các dự án sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu nông nghiệp, theo đó các dự án NTTS khi được xem xét hiệu quả và khả năng trả nợ sẽ quyết định mức cho vay nhưng tối đa không vượt quá 90% tổng vốn đầu tư của dự án. Ngoài ra, đối với các dự án thuộc chương trình 224 và chương trình 112 còn được đầu tư cho quy hoạch NTTS và giống thủy sản, xây dựng các khu bảo tồn biển, bảo tồn thủy sản nội địa. Tổng số vốn đầu tư NTTS cả nước là 1.382.2 tỷ đồng, riêng ĐBSCL chiếm 27,43% tổng số vốn đầu tư của cả nước. Ngoài các chính sách trên, ngày 04/02/2005 Bộ trưởng Bộ thủy sản đã ban hành Quyết định 219/QĐ-BTS Phê duyệt Chương trình hành động của ngành thủy sản về “Chất lượng và thương hiệu cá tra, cá basa Việt Nam 2005 – 2010”. Mục tiêu của chương trình là phấn đấu đến năm 2010 đạt sản lượng 1 triệu tấn cá tra, cá basa và giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm từ cá tra, cá basa đạt 800 triệu USD, chiếm tỉ trọng trên 30% kim ngạch xuất khẩu của thủy sản nước ta. Chương trình hành động quốc gia về phát triển bền vững ngành thủy sản trong điều kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) giai đoạn 2010 – 2020, chương trình hành động này ban hành kèm theo Quyết định số 3298/QĐ-BNN-HTQT ngày 16/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Mục tiêu của chương trình này là nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả của ngành thủy sản trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng thực phẩm thủy sản, tăng lợi thế cạnh tranh của thủy sản Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế; góp phần công tác xóa đói, giảm nghèo cho các hộ nông dân sinh sống bằng nghề thủy sản ở các vùng nông thôn và ven biển. Gần đây, ngày 26/02/2010 Bộ NN & PTNT đã ban hành Thông tư số 09/2010/TT- BNNPTNT về yêu cầu đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) trong chế biến các sản phẩm cá tra, basa xuất khẩu. Thông tư này sẽ tạo một bước đột phá cho việc xâm nhập hàng thủy sản của nước ta vào các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,… Nói tóm lại, chúng ta có thể thấy rằng, ngành thủy sản rất được Đảng và nhà nhà nước ta quan tâm phát triển nhằm vào mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần đáng kể vào xuất khẩu. Mục tiêu là phát triển ngành thủy sản theo hướng bền vững môi trường sinh thái, bảo đảm sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn. 1.1.4.2.2. Dân cư và nguồn lao động Năm 2008 nước ta có 44.915,8 nghìn lao động trong đó lao động trực tiếp trong ngành thủy sản là 1.684,3 nghìn lao động chiếm 3.75% cơ cấu lao động của cả nước. Nhìn chung, lực lượng lao động trong ngành thủy sản có truyền thống về đánh bắt và nuôi trong thủy sản, trong đó cũng có không ít đội ngũ là chuyên gia kỹ sư có trình độ tay nghề cao. Lực lượng lao động này đã đóng góp không nhỏ vào việc phát triển của ngành thủy sản trong thời gian qua. Tuy nhiên, nguồn lao động tuy số lượng đông nhưng chất lượng lao động vẫn còn rất nhiều bất cập và hạn chế, trình độ tay nghề thấp, rất ít lao động đã qua các lớp đào tạo chuyên sâu chủ yếu là do nghề truyền nghề, thiếu kiến thức về đánh bắt, nuôi trồng, chế biến theo hướng bền vững ngành thủy sản. 1.1.4.2.3. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất – kỹ thuật Phương tiện đánh bắt thủy sản Tàu thuyền đánh bắt: trong khai thác thủy sản, từ một nghề thủy công, quy mô nhỏ, hoạt động gần bờ chuyển sang một nghề kinh tế lớn, kinh tế hàng hóa. Do đó, việc bắt nhịp của chúng ta còn khá nhiều hạn chế, đa phần là các loại tàu đánh bắt thủy sản gần bờ, con số tàu đánh bắt thủy sản xa bờ trong những năm gần đây tuy có tăng lên đến năm 2008 cả nước có 22.529 chiếc với tổng công suất là 3.326,1 nghìn CV nhưng đa phần là tàu gỗ, số lượng tàu cá có đủ điều kiện đánh bắt trên các hải phận quốc tế còn hạn chế. Ngư cụ: hiện nay chưa có một chương trình nào thống kê đầy đủ và chi tiết các loại ngư cụ dùng để khai thác thủy sản của nước ta hiện nay, nhưng trên thực tế số loại ngư cụ dùng để đánh bắt thủy hải ở nước ta rất là đa dạng và phong phú nhất là đối với khai thác thủy sản nội địa như: câu, chày, lưới, vó, đăng, đáy,… còn đối với khai thác hải sản thì chủ yếu là các loại lưới kéo, lưới vây ánh sáng, lưới rê, nghề câu. Giống thủy sản Giống thủy sản của nước ta trong thời gian qua đã có những bước tiến đáng kể, chúng ta đã có khả năng tự chủ động được một số giống có chất lượng tốt như cá tra, cá rô phi đơn tính, cá điêu hồng,… Việc sản xuất thành công một số loại giống thủy sản đã đáp ứng cơ bản phần nào về nhu cầu giống thủy sản. Bên cạnh đó, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất giống thủy sản; đào tạo cán bộ chuyên gia đầu ngành như: thành lập Trung tâm quốc gia giống thủy sản, trung tâm giống thủy sản cấp 1, trung tâm giống thủy sản các tỉnh, các khu vực sản xuất giống tập trung. Công tác sản xuất giống thủy sản đang từng bước được xã hội hóa. Ở ĐBSCL thì khoa thủy sản thuộc Đại học Cần Thơ là một trung tâm có sự hổ trợ rất lớn cho nghề nuôi thủy sản của ĐBSCL trong thời gian qua không những về giống và cả việc áp dụng thử nghiệm và chuyển giao các quy trình kỹ thuật nuôi có hiệu quả kinh tế cao cho bà con NTTS. 1.1.4.2.4. Thị trường Từ khi mặt hàng thủy sản nước ta đã tìm được sân chơi trên thị trường thế giới thì thị trường xuất khẩu thủy sản nước ta đã ngày càng được mở rộng không ngừng. Cả nước hiện nay đã có hơn 200 doanh nghiệp được đưa vào danh sách được phép xuất khẩu vào thị trường EU, Hoa Kỳ; hơn 300 doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc; có 34 cơ sở được phép xuất khẩu vào thị trường Nga. Hiện nay, sản phẩm thủy sản nước ta không những có mặt tại các quốc gia Bắc Mỹ, EU mà còn góp mặt tại các thị trường khác như Nhật Bản, một số nước châu Phi, Nam Mỹ,… Bên cạnh thị trường nước ngoài thì thị trường thương mại thủy sản nội địa gần đây cũng có những dấu hiệu phát triển khả quan với hàng nghìn chợ đầu mối chuyên cung cấp và phân phối hàng thủy sản các loại, với quy mô và loại hình rất đa dạng và phong phú như: chợ trên biển, chợ bán lẻ truyền thống, hệ thống các siêu thị,… đã tạo thành mạng lưới tiêu thụ thủy sản, đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng đa dạng của hơn 83 triệu dân Việt Nam mỗi ngày. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn và vướng mắc đặt ra cho ngành thuỷ sản nước ta đó là hoạt động sản xuất vẫn còn mang tính tự cấp, tự túc, công nghệ sản xuất thô sơ, lạc hậu, sản phẩm tạo ra chất lượng chưa cao. Nguồn lao động tuy đông nhưng trình độ văn hoá kỹ thuật không cao, lực lượng được đào tạo chiếm tỷ lệ nhỏ, hầu hết chỉ dựa vào kinh nghiệm do đó khó theo kịp sự thay đổi của điều kiện tự nhiên và nhu cầu thị trường. Cuộc sống của lao động trong nghề vẫn còn nhiều vất vả và bấp bênh, không tạo được sự gắn bó với nghề. Nhưng về cơ bản có thể khẳng định rằng nước ta có tiềm năng dồi dào để phát triển ngành thuỷ sản thành một ngành kinh tế quan trọng. 1.1.5. Xu hướng phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới Ngành thủy sản thế giới, đặc biệt là NTTS thế giới trong mấy chục năm gần đây lại là ngành cung cấp thực phẩm có tốc độ phát triển nhanh nhất. Năm 1950 chỉ đạt sản lượng chưa đầy 1 triệu tấn thì năm 2004 đạt gần 60 triệu tấn và chiếm 1/2 sản lượng thủy sản làm thực phẩm của thế giới và đóng góp giá trị khoảng 70,3 tỷ USD (FAO, 2006). Sản lượng NTTS của thế giới chủ yếu nằm trong các nước đang phát triển. Các nước này đã chiếm tới 90% sản lượng NTTS của thế giới, trong đó riêng Trung Quốc đã chiếm tới 67%. NTTS đã được phát triển trong mọi môi trường nuôi, với rất nhiều giống loài được nuôi, tuy nhiên nuôi biển phát triển mạnh mẽ nhất. Trong sản lượng nuôi thủy sản thế giới năm 2004 thì sản lượng nuôi biển chiếm 30,2 triệu tấn (50,9%), nước ngọt 25,8 triệu tấn (43,4%), nuôi nước lợ 3,4 triệu tấn (5,7%).  Trong nuôi nước lợ thì tôm chiếm 63,1%, cá chiếm 34% mà chủ yếu là cá măng biển và cá rô phi.  Trong nuôi nước ngọt, sản lượng nước ngọt chủ yếu là cá (94%).  Trong sản lượng nuôi trồng biển thì nhuyễn thể chiếm 42,9%, rong tảo chiếm 45,9%, sản lượng cá nuôi không đáng kể 2,2%. Về giá trị sản phẩm nuôi trồng:  Cá chiếm 47,4% về sản lượng nhưng cho giá trị 53,9%.  Giáp xác chiếm 6,2% về sản lượng nhưng cho giá trị 20,4%.  Nhuyễn thể chiếm 22,3% về sản lượng nhưng cho giá trị 14,2%.  Rong tảo chiếm 23,4% về sản lượng nhưng cho giá trị 9,7%.  Năm 2004 đã có tới 246 họ và 336 loài thủy sản được nuôi trồng, trong đó số loài nuôi đa dạng nhất là ở châu Á (86 họ, 204 loài).  Rất nhiều loài thủy sản được nuôi trồng cho mục đích tiêu dùng tại thị trường nội địa và chỉ có một số loài nuôi phục vụ xuất khẩu.  Những loài cá nuôi quan trọng nhất: các loài truyền thống, rô phi,… Bên cạnh thủy sản nuôi làm thực phẩm, nuôi cá dùng làm vật trang trí và phục vụ giải trí cũng ngày càng gia tăng và có vị trí đáng kể trong thương mại thủy sản thế giới. Giá trị cá cảnh năm 2000 (FAO) ở thị trường bán buôn đã lên tới 900 triệu USD và trên thị trường bán lẻ đã lên tới 3 tỷ USD. Sở dĩ NTTS gia tăng mạnh mẽ một phần cũng vì nhờ sản phẩm của NTTS ngày nay cũng giống như nhiều loại hàng thủy sản khai thác được cuốn hút vào quá trình toàn cầu hoá. Theo dự báo của Trung tâm thủy sản thế giới, đến năm 2010 nhu cầu thủy sản toàn thế giới vào khoảng 156.723 ngàn tấn, trong đó nhu cầu thủy sản thực phẩm chiếm 81,8% và nhu cầu thủy sản phi thực phẩm chiếm 18,2%; đến năm 2020 nhu cầu khoảng 183.357 ngàn tấn. Nhu cầu thủy sản bình quân đầu người trên toàn thế giới là 18,4 kg/người/năm vào năm 2010 và 19,1 kg/ngưòi/năm vào năm 2015. Trong đó các loại cá là 13,7 kg và 14,3 kg/người/năm; nhuyễn thể và thủy sản khác là 4,7 – 4,8 kg/người/năm. Trong số các mặt hàng thủy sản, các mặt hàng cá da trơn, cá hồi, cá ngừ và cá biển vẫn đóng vai trò chính và sẽ tăng ở mức 3,8%. Tôm cũng sẽ tăng nhưng chỉ ở mức 2,5% trong giai đoạn đến năm 2010, sau đó tăng ít hơn. Cá rô phi có cơ hội mở rộng thị trường do nhu cầu ngày càng cao và giá bán ổn định. Nhu cầu tiêu thụ thủy sản thế giới từ nay đến 2020 tiếp tục tăng mạnh. Riêng sản phẩm cá tra được nhiều nước nhập khẩu quan tâm vừa là nguồn thực phẩm vừa là nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu sang các thị trường khác. Đồng thời, một số thị trường thủy sản trên thế giới đang ngày càng được mở rộng: Ba Lan, Nga, các nước Nam Mỹ, khu vực châu Á,… sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam phát triển nuôi tôm, cá tra và nhiều loại thủy sản có giá trị kinh tế khác. Trong mọi tình huống phát triển dự tính có thể xảy ra, nhu cầu thực phẩm thủy sản trên toàn thế giới ngày càng gia tăng và số lượng xuất khẩu ra ngày càng giảm. Trong đó, lượng cung gia tăng ở hầu hết các vùng trên thế giới đều trong chờ được đáp ứng bởi sản phẩm từ NTTS. Sự thiếu trầm trọng hàng thủy sản cung cấp cho thị trường thế giới, đặc biệt là cho các nước phát triển, thậm chí cả đối với những nước hiện nay đang xuất khẩu rất lớn sản phẩm thủy sản thì đến năm 2020 họ cũng sẽ phải nhập nhiều hơn xuất nếu như môi trường suy thoái và nghề cá của họ phát triển chậm lại so với vài thập kỷ qua. Điều đó hoàn toàn có thể xảy ra vì ở các nước khi có thu nhập cao thì tỷ trọng người làm nông nghiệp trong đó có người làm nghề cá sẽ giảm đi rất nhanh do những cơ hội làm việc và thu nhập khác nhiều hơn, mặt khác dân chúng lại có nhiều tiền để gia tăng lượng thủy sản tiêu dùng, nhất là đối với những hàng hoá thủy sản có giá trị cao, vốn vẫn được coi là các thực phẩm sa xỉ cao cấp. 1.1.6. Thực trạng phát triển ngành thủy sản Việt Nam 1.1.6.1. Những thành tựu Hơn 20 năm qua, thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, ngành thuỷ sản Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, toàn diện, cả về khai thác, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu, liên tục tăng trưởng với tốc độ cao. Thuỷ sản đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Năm 2009 sản lượng đã đạt trên 4,8 triệu tấn (gấp hơn 6 lần năm 1986) lớn hơn sản lượng thịt từ chăn nuôi gia súc và gia cầm, nuôi trồng tăng mạnh, đạt trên 2,5 triệu tấn (gấp hơn 20 lần năm 1986, tăng bình quân 14%/năm trong 24 năm qua), không những cung cấp khối lượng thực phẩm lớn, có giá trị dinh dưỡng cao cho nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng tăng, mà còn đẩy mạnh chế biến xuất khẩu. Với sự năng động sáng tạo của hàng trăm doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt ở 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 4,2 tỷ USD (gấp 40 lần so năm 1986, tăng bình quân 17%/năm, 24 năm qua chúng ta đã xuất khẩu được 34 tỷ USD), trở thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 4 của nước ta (sau dầu thô, dệt may và giày da). Kết quả này đã đưa Việt Nam trở thành 1 trong 5 nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới. Cùng với những thành quả của công cuộc đổi mới và những chính sách hỗ trợ của nhà nước, thu nhập và đời sống của lao động nghề cá ngày càng được cải thiện, góp phần tích cực vào xoá đói, giảm nghèo, phát triển nông thôn vùng ven biển. Nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng sự phát triển của thủy sản Việt Nam là điều kỳ diệu, với các bằng chứng sau:  Sản lượng cá tra nuôi đạt 1 triệu tấ._. trong chuỗi cung ứng, cụ thể giữa nhà mua bán trung gian và nhà chế biến hoặc giữa hiệp hội và nhà chế biến. Nếu như liên kết ngang nhằm chia sẻ rủi ro thì liên kết dọc nhằm thiết lập mối quan hệ tin cậy. Trong đó, cơ chế để thúc đẩy liên kết ngang là hình thành hiệp hội nghề nghiệp, còn cơ chế thúc đẩy liên kết dọc là thông qua hợp đồng kinh tế. Điều kiện cần và đủ để thực hiện liên kết dọc là phải có vai trò đầu tàu của các doanh nghiệp chế biến và sự tham gia của các chủ thể khác như: Viện/Trường nghiên cứu, Ngân hàng, Tổ chức bảo hiểm, Cơ quan cấp giấy chứng nhận,… đây là đòn bẩy hữu ích cho việc trải rộng rủi ro và nâng cao việc đổi mới. Để chủ động có nguồn nguyên liệu dồi dào, đảm bảo chất lượng đưa vào chế biến cũng như sản phẩm sau chế biến được thị trường chấp nhận và thuận lợi trong việc mở rộng kênh tiêu thụ, yêu cầu đặt ra là thành phẩm phải đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giá cả hợp lý. Muốn được điều đó, các doanh nghiệp chế biến thủy sản Bến Tre phải chủ động xây dựng mối liên kết chặt chẽ với người sản xuất ra nguyên liệu, dịch vụ cung cấp thức ăn, dịch vụ thú y, giống,… là người đầu tàu của mối liên kết đó trên cở sở đồng thuận giữa người cung cấp nguyên liệu và nhà máy chế biến, một sự đồng thuận tự nguyện. Sự đồng thuận đó dựa trên một tiêu chuẩn quốc tế được áp dụng và chứng nhận độc lập để có thể đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi của hệ thống truy xuất nguồn gốc xuất xứ, đòi hỏi của thị trường. Hiệp hội NTTS nhằm liên kết các hộ nuôi theo đối tượng cùng loài và có thể đảm nhận thêm chức năng quản lý các khâu từ đầu vào đến đầu ra gồm nguồn nước, con giống, thức ăn, thuốc thú y thủy sản, môi trường, phòng trừ dịch bệnh, đồng thời thực hiện liên kết tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp chế biến sẽ tạo được sự chủ động và kiểm soát được vùng nuôi, quản lý chất lượng con giống, thức ăn, tăng khả năng phòng dịch, ổn định năng suất nuôi, tăng hiệu quả kinh tế, tạo việc làm ổn định, nâng cao đời sống và duy trì hoạt động thủy sản lâu dài. Thực hiện yêu cầu “sạch từ ao nuôi đến bàn ăn” dựa trên 4 hợp phần khác nhau: - Về kinh tế: liên kết chuỗi dựa trên quan điểm lợi ích – chi phí và hướng về người tiêu dùng. Để đạt hiệu quả và có khả năng sinh lời, các công ty phải thiết lập liên kết với các chủ thể trong chuỗi, nhờ vậy việc sản xuất và phân phối sẽ đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, có khả năng thiết lập hệ thống kiểm soát chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh. - Về môi trường: phương pháp sản xuất, thương mại và phân phối sản phẩm thủy sản phải gắn với bảo vệ môi trường (bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ hệ sinh thái, xử lý chất thải, vật liệu đóng gói,…) - Về công nghệ: áp dụng công nghệ trong sản xuất, dịch vụ hậu cần, thông tin và truyền thông nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và kiểm soát dòng chảy của sản phẩm thủy sản thông qua quản lý chuỗi cung ứng như GAP, GMP, HACCP, ISO. - Về luật pháp và xã hội: chấp hành các quy định về sản xuất, thương mại và phân phối có tính quốc gia và quốc tế. Kinh tế Nhà bán buôn Nhà bán lẻ Nhà bán lẻ Người nuôi Nhà mua bán trung gian Nhà chế biến Thị trường nội địa Thị trường TG Môi trường Xã hội – pháp luật Công nghệ Hình 3. Chuỗi giá trị sản phẩm nuôi trồng thủy sản Việt Nam trong môi trường kinh doanh 3.5.2. Tăng cường năng lực khuyến ngư và thông tin Thông tin là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng trong điều kiện hội nhập hiện nay, thông tin giúp cho nhà sản xuất tìm kiếm được những thị trường phù hợp, thông tin giúp cho người sản xuất, nhất là những người nông dân biết mình cần phải sản xuất vật nuôi gì, số lượng bao nhiêu là phù hợp với tình hình thực tế, thông tin còn là điều kiện sống còn đối với các bà con ngư dân đi biển. Vì vậy, tăng cường năng lực khuyến ngư và thông tin việc làm tỉnh cần phải thực hiện ngay nếu muốn sản phẩm thủy sản tỉnh nhà đủ năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới hiện nay. Để thực hiện tốt công tác trên thì tỉnh cần phải thực hiện triệt để các chính sách như: - Tiếp tục xây dựng các mô hình khuyến ngư, nhân rộng các mô hình tốt trong sản xuất; thực hiện tốt các chính sách khuyến khích các nhà khoa học trong và ngoài ngành chuyển giao kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả. - Thành lập các trạm khuyến ngư cấp huyện ở tất cả các huyện trong tỉnh, ở các xã nên có đội kỹ thuật thủy sản và cán bộ khuyến ngư, mỗi ấp nên có 1 mô hình trình diễn mẫu cho nhân dân làm theo. - Tăng cường đáng kể nhân viên khuyến ngư được huấn luyện có bài bản và thường xuyên được đổi mới kiến thức, các nhân viên này vừa có nhiệm vụ hướng dẫn vừa có nhiệm vụ theo dõi môi trường, chất lượng nước và tình hình sức khoẻ tôm, cá ở địa bàn hoạt động của mình (<100 ha). Chi phí cho nhân viên khuyến ngư (có thể chọn từ nông dân sản xuất giỏi) do người nuôi đóng góp, có sự hỗ trợ một phần từ chính quyền địa phương. - Cần xây dựng Chương trình khuyến ngư ở các đài truyền thanh huyện và truyền hình tỉnh, lắp đặt hệ thống truyền thanh và tăng cường các biện pháp truyền thông như bản tin nhanh, loa phóng thanh công cộng, vô tuyến địa phương theo giờ hàng ngày truyền bá kiến thức thông tin về công nghệ và kỹ thuật NTTS. - Thành lập hoặc củng cố các chi hội nuôi thủy sản để nhanh chóng thu thập thông tin từ cơ sở và phản hồi cũng như tham gia công tác khuyến ngư và tín dụng cho các hội viên. - Khuyến khích các khu vực nuôi tập trung thành lập các phòng thí nghiệm chuẩn đoán dịch bệnh và kiểm soát môi trường các ao nuôi, nước các kênh rạch, chẩn đoán dịch bệnh (tổ kỹ thuật của xã). - Tăng cường năng lực, cập nhật và nâng cao kiến thức thường xuyên cho cán bộ khuyến ngư cấp cơ sở, bổ sung cán bộ kỹ thuật, xây dựng mạng lưới cộng tác viên khuyến ngư, đầu tư nâng cấp trang thiết bị phục vụ công tác khuyến ngư. - Xây dựng mạng lưới khuyến ngư để cập nhật và trao đổi thông tin về kỹ thuật, công nghệ, quản lý, dịch bệnh,… về NTTS. - Hỗ trợ phát hành các tờ tin NTTS, tạp chí thủy sản của Hội nghề cá đến các cơ sở và địa phương trên địa bàn toàn tỉnh (theo mạng lưới bưu điện văn hoá). 3.5.3. Giải pháp thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản Do tính chất của ngành thủy sản tỉnh hiện nay đang có xu hướng chuyển dần sang hướng chuyên môn hóa và tập trung cao ở một số khu vực nhất định nhằm đem lại số lượng sản phẩm lớn và sạch bệnh. Do đó, để đáp ứng được nhu cầu trên nên công tác thủy lợi cũng là một trong các công trình có ý nghĩa chiến lược trong việc phát triển NTTS tỉnh, việc tập trung đầu tư xây dựng và hoàn thiện hạ tầng cơ sở phục vụ NTTS đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng theo hướng sản xuất hàng hóa, đặc biệt hoàn thiện hệ thống thủy lợi phục vụ NTTS, đồng thời phục vụ mục tiêu bảo vệ môi trường sinh thái là một nhiệm vụ thiết yếu cũng cần nên thực hiện ngay. Một số giải pháp chung về thủy lợi phục vụ NTTS trong giai đoạn tới như sau:  Đầu tư và vận hành hiệu quả hệ thống kiểm soát nước mặn và nước ngọt cố định và tạm thời ở các huyện Bình Đại, Ba Tri, một phần của Giồng Trôm (chủ yếu là thông qua cống đập Ba Lai).  Chủ động xây dựng hệ thống xử lý nước cấp và thoát ngay tại vùng nuôi, quy định tạm thời về chế độ xử lý môi trường trước khi xả ra ngoài môi trường tự nhiên. Quy định ao nuôi phải có ao bùn, ao xử lý nước thải, nước thải phải được xử lý trước khi thải ra ngoài môi trường tự nhiên, vì phần lớn hệ thống kênh dẫn nước là hệ thống hở, vì thế nếu không thực hiện tốt khâu này thì khả năng lang tràn dịch bệnh là rất lớn.  Xây dựng hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ theo từng yêu cầu của các mô hình tôm sú – lúa, cá/tôm nước ngọt kết hợp kinh tế vườn và chuyên thủy sản. Bên cạnh đó, cần thực hiện một số giải pháp cụ thể như sau: - Đẩy mạnh việc nạo vét, mở rộng kênh tiêu và kênh cấp nước phục vụ NTTS. - Đối với các huyện ven biển (đặc biệt vùng nuôi lúa – tôm) có kênh cấp thoát nước chung nhưng cấp và thoát tách biệt theo thời gian và tạo dòng chảy cấp và thoát trên kênh chỉ có một chiều. Khi nước thủy triều lên, cống đầu kênh sẽ mở cho nước vào kênh, lúc này các ao nuôi sẽ lấy nước vào ao vì có nguồn nước sạch và nước có cao độ lớn. Đồng thời cống cuối kênh sẽ đóng không cho nước vào kênh. Dòng chảy trong kênh lúc này có chiều từ đầu kênh đến cuối kênh. Khi nước thủy triều rút, cống đầu kênh sẽ đóng lại, còn cống cuối kênh sẽ mở, nước sẽ từ trong kênh chảy ra, các ao nuôi sẽ đồng loạt thoát nước ra kênh vì mực nước trong kênh hạ. Dòng chảy trong kênh lúc này cũng có chiều từ đầu kênh tới cuối kênh. - Cải tạo các cống ngăn mặn thành các cống tự động hai chiều hoặc xây dựng cống hai chiều mới lấy nước mặn vào mùa nuôi tôm và trữ nước ngọt vào mùa trồng lúa tạo dòng chảy trong kênh một chiều. Hiện tại các cống ngăn mặn có nhiệm vụ là cho tiêu thoát nước từ trong đồng ra, ngăn không cho nước mặn vào đồng. Do vậy muốn lấy nước mặn vào để nuôi tôm là không thực hiện được. Nếu như cải tiến cống có thể mở được chiều ngược lại cho nước biển vào thì dùng một cống cho nước biển vào đồng theo một chiều chảy vào. Nước mặn sẽ cung cấp cho các ao nuôi và thải ra một kênh nhưng không quay được chiều ngược lại vì cống chỉ có một chiều lấy nước và có một cống khác chỉ cho thoát một chiều ra biển (cống hiện tại đang vận hành). Như vậy, quy trình nước sẽ đi một chiều trên tất cả các kênh. Khi vào mùa cấy lúa thì cống lại làm nhiệm vụ ngược lại. - Giải pháp dùng hệ thống thủy lợi nối kết các ao nuôi và ruộng lúa, vườn cho các mô hình nuôi cá tra, tôm càng xanh tạo môi trường sinh thái, phát triển bền vững: xây dựng hệ thống kênh cấp cho hoạt động NTTS, đồng thời xây dựng hệ thống kênh thoát nước, sau đó sử dụng nguồn nước để tưới cho các hoạt động nông nghiệp, các ruộng lúa hoặc cây trồng khác sẽ lấy nguồn nước và bùn trên vừa để canh tác vừa làm nhiệm vụ xử lý chất thải cho NTTS. 3.6. Đề xuất, kiến nghị Hỗ trợ nâng cao năng lực: đối tượng chủ yếu là cộng đồng ngư dân, nhà sản xuất, nhà quản lý nhằm hiểu rõ luật pháp và thông lệ quốc tế; áp dụng tốt qui trình, qui chuẩn, qui phạm để phát triển sản xuất bền vững; áp dụng có hiệu quả mô hình đồng quản lý và chuỗi liên kết giá trị trong sản xuất; đào tạo cán bộ có đủ năng lực, trình độ để tiếp cận với khoa học công nghệ và thị trường. Hợp tác đầu tư: Hợp tác nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ trên nhiều lĩnh vực phát triển thủy sản bền vững: Các cơ sở sản xuất giống, cơ sở kiểm nghiệm, cơ sở chế biến thủy sản, cơ sở sản xuất thức ăn với hàm lượng công nghệ cao. Chuyển giao khoa học công nghệ xử lý thải từ các vùng nuôi tôm công nghiệp, các cơ sở chế biến, chuyển giao công nghệ sản xuất giống, nuôi các đối tượng mới thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghiên cứu bảo tồn hệ đa dang sinh học vùng cửa sông ven biển Bến Tre Thể chế - chính sách: Hoàn thiện đồng bộ khung pháp lý chuyên ngành và phân giao trách nhiệm rõ ràng, dứt khoát tránh chồng chéo. Quan tâm hơn đối với chính sách quản lý cộng đồng, xây dựng chuỗi liên kết sản xuất nhằm quản lý và quảng bá thương hiệu sản phẩm; hợp tác đầu tư; xúc tiến thương mại, tạo mọi điều kiện thuận lợi để ngư dân tiếp cận với thị trường trong nước và quốc tế; phát triển mô hình quản lý cộng đồng theo cơ chế đồng quản lý để phát triển bền vững. Mọi nỗ lực của ngành thủy sản Bến Tre trong thời gian qua cũng chỉ là bước đầu góp phần cùng ngành thủy sản của Việt Nam, trong tư thế vươn mình cùng trăm sông đỗ về biển lớn. Hiện tại và trong tương lai ngành thủy sản Bến Tre vẫn luôn sẵn sàng tiếp nhận mọi sự quan tâm hợp tác đầu tư, hổ trợ của các cấp các ngành, các tổ chức kinh tế, khoa học, xã hội trong và ngoài nước đã, đang và sẽ tiếp sức cùng Bến Tre vượt qua những thách thức trước mắt và trong chặng đường tương lai, để mãnh đất nghèo khó nhưng giàu tiềm năng này sớm vượt qua khó khăn thách thức, vững bước đi lên cùng cả nước, cả thế giới bước vào thời đại mới văn minh và phát triển. PHẦN KẾT LUẬN Qua thực tế tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích tiềm năng và thực tế phát triển của ngành thủy sản của tỉnh, tác giả luận văn rút ra ra được các kết luận sau: Bến Tre là một tỉnh thuộc ĐBSCL với sự đa dạng về môi trường sinh thái, với 3 vùng nước ngọt, lợ, mặn, cả 3 vùng đều có thể phát triển nghề nuôi trồng thủy sản với nhiều đối tượng nuôi khác nhau. Bên cạnh đó, với chiều dài đường bờ biển là 65km, vùng biển tương đối giàu về các giống loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, đây cũng là một tiềm năng rất lớn cho các hoạt động đánh bắt thủy sản. Có thể nói Bến Tre là tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển ngành thủy sản cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Kinh tế thủy sản đang đem lại một diện mạo mới cho bộ mặt các làng quê Bến Tre. Thủy sản đã góp phần nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, là động lực thúc đẩy sự phát triển KT – XH của tỉnh, chuyển dịch theo hướng CNH – HĐH và nâng cao vị trí của tỉnh trong khu vực, đồng thời phát triển ngành thủy sản còn góp phần rất lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân cư địa phương. Mặc dù, trong quá trình phát triển ngành kinh tế thủy sản tỉnh nhà cũng gặp không ít những khó khăn, thực tế ngành thủy sản của tỉnh chưa thực sự phát huy hết lợi thế của tỉnh, những khó khăn trong việc phát triển thủy sản của tỉnh xuất phát từ việc chúng ta thiếu vốn, yếu kém về trình độ khoa học công nghệ hiện đại, sự cạnh tranh gây gắt ttrong quá trình hội nhập của một quốc gia yếu như nước ta hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái. Từ đó ảnh hưởng đến công tác tổ chức quy hoạch sản xuất hợp lý mang lại giá trị kinh tế cao, hài hòa với công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản và phát triển bền vững trong tương lai. Bước vào giai đoạn mới, ngành thủy sản của tỉnh cũng có rất nhiều cơ hội để phát triển đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới, đặc biệt là trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hóa như hiện nay, với nhiều đạo lực khắc khe trong khâu xuất khẩu, mà xuất khẩu là một khâu góp phần rất lớn nâng cao giá trị kinh tế của ngành. Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững ngành thủy sản, cân bằng giữa lợi ích kinh tế và môi trường sinh thái trong tương lai. Nhất thiết chúng ta cần có những giải pháp đồng bộ khoa học, trước hết là xác định đúng tiềm năng của tỉnh, loại thủy sản chủ lực cho mỗi thời kỳ, hiện nay là con tôm sú, tôm càng xanh, tôm thẻ chân trắng, cá da trơn, nghiêu; kế đến cần phải tính đến việc quy hoạch vùng nuôi phù hợp tránh trường hợp xâm hại, hủy hoại tính đa dạng môi trường sinh thái của tỉnh. Nâng cao giá trị thủy sản xuất khẩu, nghiên cứu ứng dụng những thành tựu tiên tiến trong sản xuất thủy sản đảm bảo cung cấp những sản phẩm sạch, chất lượng cao, đồng thời tranh thủ việc thu hút nguồn vốn từ các thành phần kinh tế đầu tư cho phát triển của ngành cũng là những giải pháp mà chúng ta cần phải quan tâm thực hiện triệt để. Với những thành tựu mà ngành thủy sản Bến Tre đã đạt được trong thời gian qua, một phần là nhờ vào những tiềm năng của tỉnh cùng với những chính sách chỉ đạo sáng suốt và tận tình quan tâm giúp đỡ của các cấp lãnh đạo tỉnh, bên cạnh đó là nhờ vào sự cần cù lao động, học hỏi và sáng tạo của bà con nông dân những người trực tiếp tham gia nuôi trồng, ngày đêm bám giữ ngư trường, những người công nhân miệt mài lao động trong các nhà máy chế biến. Trong thời đại mới nếu chúng ta nếu nắm bắt các cơ hội và hạn chế tối đa những thách thức đặt ra thì tin chắc rằng, ngành thủy sản Bến Tre sẽ có những bước phát triển bền vững, ngày càng đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển KT – XH của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung, thủy sản thật sự xứng đáng với tiềm năng vốn có của Bến Tre. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Trâm Anh, Nguyễn Thị Kim Anh (2008), “Liên kết trong kinh doanh thủy sản – Tiền đề cho sự phát triển bền vững”, Khoa kinh tế - trường Đại học Nha Trang. 2. Nguyễn Văn Âu (1999), “Địa lý tự nhiên biển Đông”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 3. Bộ NN & PTNT (04/2009), “Quy hoạch và phát triển nuôi trồng thủy sản vủng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”, Bộ NN & PTNT. 4. Bộ NN & PTNT (11/2009), “Chương trình hành động quốc gia về phát triển bền vững ngành thủy sản trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới giai đoạn 2010 – 2012”, Bộ NN & PTNT. 5. Các tổ chức Liên Hợp Quốc tại Việt Nam: Tài liệu thảo luận số 1, “Hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh và đời sống nông thôn ở Việt Nam”, Hà Nội, tháng 04/2002. 6. GS. TSKH. Lê Huy Bá (chủ biên) – Vũ Chí Hiếu – Võ Đình Long (2006), “Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững”, Nxb Khoa học và kỹ thuật. 7. Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc – Ngân Hàng Thế Giới (1993), “Quy hoạch tổng thể Đồng bằng Sông Cửu Long – Việt Nam”. 8. Cục thống kê Bến Tre (2009), “Niên giám thống kê”, Bến Tre 9. Dự án VIE/07/030, “Hướng dẫn phát triển quản lý nuôi trồng thủy sản dựa vào tổ cộng đồng tự quản”, Hà Nội tháng 07/2004. 10. Nguyễn Minh Đức (2001), “Vai trò của việc phát triển nuôi thủy sản quy mô nông hộ nhỏ trong xóa đói giảm nghèo – Một nghiên cứu từ chương trình mở rộng thủy sản ở nông thôn Việt Nam”, Khoa thủy sản, Đại học Nông Lâm. 11. Hứa Thị Phượng Liên (2005), “Thủy sinh đại cương”, Khoa Nông nghiệp và TNTN, Đại học An Giang. 12. TS. Phạm Xuân Hậu (2002), “Địa lý kinh tế – xã hội Việt Nam”, Khoa Địa lý, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ CHí Minh. 13. Hoàng Hoa Hồng (2007), “Môi trường và vấn đề phát triển bền vững ngành thủy sản”, trường Đại học Nha Trang. 14. Hội khoa học đất Việt Nam (2000), “Đất Việt Nam”, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 15. Trần Thị Thu Nga (11/2008), “Quá trình phát triển và định hướng của ngành thủy sản Bến Tre sau hai năm gia nhập WTO”, Sở NN & PTNT Bến Tre. 16. PGS. TS. Đặng Văn Phan (2007), “Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội Việt Nam”, Tài liệu lưu hành nội bộ. 17. PGS. TS. Đặng Văn Phan (2008), “Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam”, Nxb Giáo dục. 18. PGS. TS. Đặng Văn Phan (chủ biên) – PGS. TS. Nguyễn Kim Hồng (2007), “Địa lý KT – XH thời kỳ hội nhập”, Nxb Giáo dục. 19. Nguyễn Thanh Phương, “Vai trò của thủy sản trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vùng lũ Đồng bằng sông Cửu Long”, Hội thảo chuyển dịch sản xuất ngày 05/11/2002 tại Cần Thơ. 20. Nguyễn Thanh Phương và Ts Trần Ngọc Hải (2005), “Tổng quan hiện trạng và xu hướng phát triển tôm càng xanh thế giới và Việt Nam”, Khoa Thủy Sản – Đại học Cần Thơ 21. Nguyễn Xuân Thắng chủ biên (07/2007), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 22. PGS. TS. Vũ Đình Thắng, GVC. KS. Nguyễn Viết Trung (2005), “Giáo trình kinh tế thủy sản”, Nhà xuất bản LĐ – XH, Hà Nội. 23. PGS. TS. Hà Xuân Thông (2007), “Đẩy nhanh phát triển nuôi trồng thủy sản phát triển hiện đại, hiệu quả bền vững”, Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản. 24. Thông tin chuyên đề (03/2001), “Một số thông tin về nuôi và kinh doanh thủy sản thân mềm hai vỏ”, Trung tâm Tin học – Bộ Thủy sản. 25. Thông tin chuyên đề (01/2002), “Khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản thế giới: Tình hình hiện tại và xu hướng phát triển”, Trung tâm Tin học – Bộ Thủy sản. 26. Thông tin chuyên đề (02/2003), “Một số vấn đề về sử dụng và phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản”, Trung tâm Tin học – Bộ Thủy sản. 27. Thông tin chuyên đề (02/2004), “Tác động của phát triển thủy sản đến nền kinh tế Việt Nam”, Trung tâm Tin học – Bộ Thủy sản. 28. Thông tin chuyên đề (03/2004), “Phát triển bền vững định nghĩa, đánh giá định tính và định lượng”, Trung tâm Tin học – Bộ Thủy sản. 29. Thông tin chuyên đề (02/2005), “Phát triển nuôi tôm bền vững. Hiện trạng, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam”, Trung tâm Tin học – Bộ Thủy sản. 30. Tổng cục thống kê, “Niên giám thống kê”, 2006, 2007, 2008. 31. UBND tỉnh Bến Tre (07/2003), “Quyết định số 2108/2003/QĐ-UBND về việc khai thác thủy sản tại vùng nước ven biển và nội địa tỉnh Bến Tre”, Bến Tre. 32. UBND tỉnh Bến Tre (08/2004), “Chỉ thị số 10/2004/CT-UB về việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh thủy sản”, Bến Tre. 33. UBND tỉnh Bến Tre (08/2005), “Chỉ thị số 20/2005/CT-UBND về việc quản lý tàu thuyền nhỏ hoạt động khai thác thủy sản ven bờ”, Bến Tre. 34. UBND tỉnh Bến Tre (07/2008), “Chỉ thị số 3034/UBND-CNLTS về việc tăng cường kiểm soát chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản”, Bến Tre. 35. UBND tỉnh Bến Tre (11/2008), “Chỉ thị số 14/2008/CT-UBND về việc cho phép tiếp tục sản xuất, kinh doanh và thả nuôi tôm biển trên địa bàn tỉnh Bến Tre”, Bến Tre. 36. UBND tỉnh Bến Tre (12/2008), “Quyết định số 2440/QĐ-UBND về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết nuôi cá da trơn tỉnh Bến Tre đến năm 2020”, Bến Tre. 37. UBND tỉnh Bến Tre (02/2009), “Quyết định số 02/2009/QĐ-UBND về việc sản xuất giống và nuôi tôm thẻ chân trắng trên địa bàn tỉnh Bến Tre”, Bến Tre. 38. UBND tỉnh Bến Tre (09/2009), “Quyết định số 16/2009/QĐ-UBND về việc quản lý sản xuất, ương giống và nuôi nghiêu thương phẩm trên địa bàn tỉnh Bến Tre”, Bến Tre. 39. Vụ nuôi trồng thủy sản (2007), “Hiện trạng và các giải pháp phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững tại các tỉnh Nam Bộ”, Vụ NTTS. Tài liệu được đăng tải trên các website 1. Bài viết của Bộ trưởng Bộ NN & Phát triển Nông thôn, Nông nghiệp Đồng bằng Sông Cửu Long chủ động hội nhập kinh tế Thế Giới, 18/07/08. 2. GS. Nguyễn Văn Luật – Cử nhân. Nguyễn Thị Thu Hiền, Nông nghiệp cạnh tranh thời hội nhập WTO. 3. Thời báo kinh tế Việt Nam, Nông sản Việt Nam bất lợi vì tỷ giá, 10/11/2008. 4. thongtinthuongmaivietnam.com.vn, Nông sản chủ lực cũng lao đao, 20/10/2008. 5. www.un.org.vn, Hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng cạnh tranh và đời sống nông thôn ở Việt Nam. 6. www.fistenet.gov.vn, Trung tâm tin học thủy sản. 7. www.bentre.org.vn, UBND tỉnh Bến Tre. Tài liệu từ các CD-Rom - World Development Indicators 2007. - Niên giám thống kê năm 2006. PHỤ LỤC Phụ lục 1. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HOẠT ĐỘNG THỦY SẢN CỦA TỈNH Cá tra giống Tôm càng xanh khi thu hoạch Tôm thẻ chân trắng khi thu hoạch Mô hình tổng thề cấu tạo của lưới vây Cấu tạo và hệ thống bố trí đèn trong lưới đăng Mô hình tổng quát cấu tạo của lưới rê tầng đáy Ao nuôi tôm sú Bè nuôi cá da trơn Thu hoạch nghiêu tại Thới Thuận – Bình Đại Thu hoạch tôm sú tại Ba Tri Công nhân đang chế biến thủy sản tại nhà máy FAQUIMEX – Bến Tre Món ăn từ nghiêu Món cá tra fillet Phụ lục 2 CƠ CẤU CHUYÊN MÔN HÓA HẸP TRONG CƠ CẤU NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM Ngành nuôi trồng thủy sản Ngành công nghiệp thủy sản Ngành khai thác Ngành chế biến Các ngành phụ trợ và phục vụ Nuôi thủy sản nước ngọt Khai thác các sản phẩm nuôi trồng Chế biến đông lạnh - Đóng sửa tàu thuyền - Sản xuất sửa chữa ngư cụ Nuôi trồng nước lợ Chế biến hỗn hợp - Dịch vụ vận chuyển - Dịch vụ cảng, kho lạnh Nuôi trồng hải sản Đánh bắt hải sản Chế biến hàng khô - Sản xuất nước đá - Sản xuất bao bì Chế biến nước mắm Sản xuất thức ăn cho nuôi trổng Phụ lục 3 KIM NGẠCH XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG CHỦ YẾU CỦA VIỆT NAM NĂM 2008 Mặt hàng Giá trị (triệu USD) Cơ cấu (%) Tổng số Trong đó: 1. Dầu thô 2. Dệt, may 3. Giày dép 4. Thủy sản 5. Gỗ, sản phẩm từ gỗ 6. Điện tử, máy tính 7. Cà phê 8. Gạo 9. Cao su 10. Than đá 48561.4 8487.6 7732 3999.5 3763.4 2384.6 2165.2 1916.7 1490.2 1393.8 999.8 100 17.5 15.9 8.2 7.7 4.9 4.5 3.9 3.1 2.9 2.1 Nguồn: Niên giám thống kê 2008 – Tổng cục thống kê. Phụ lục 4 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA CHƯƠNG TRÌNH NUÔI ĐẾN NĂM 2007 Nội dung Đơn vị Chỉ tiêu 2010 Thực hiện 2007 (**) 2007 so với 2010 (%) Diện tích nuôi trồng Ha 1.000.000 1.065.000 106,5 Sản lượng nuôi trồng Trong đó: Tấn 2.000.000 2.093.220 104,66 - Tôm nước lợ Tấn 360.000 375.000 104,16 - Cá biển Tấn 200.000 15.000 7,50 - Nhuyễn thể Tấn 380.000 230.000 60,52 - Rong biển Tấn 50.000* 25.000* 50,00 - Tôm càng xanh Tấn 60.000 22.000*** 36,67 - Thủy sản nước ngọt Tấn 870.000 1.316.220 152,28 - Thủy sản khác Tấn 110.000 120.000 109,1 Giá trị kim ngạch XK 1000 USD 2.500.000 2.600.000 104,0 Lao động Người 2.000.000 (*) Sản lượng khô, tỷ lệ tươi/khô=11*** (**) Theo báo cáo số 206/BCKH-NTTS của Cục Nuôi Trồng Thủy sản ngày 28/4/2008 Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu thống kê của Bộ NN & PTNT Phụ lục 5 KÍCH THƯỚC MỘT SỐ LOẠI LỒNG BÈ NUÔI THỦY SẢN Loại bè Kích thước Dài x rộng x cao (m) Lượng cá thả (con) Loài cá thả Truyền thống 15 x 5 x 2.5 12 x 4.5 x 2.5 10 x 4 x 2 8 x 3.5 x 2 30.000 20.000 15.000 12.000 Cá da trơn, lóc lông, lăng chỉ vàng,… Hiện đại 15 x 12 x 3 20 x 10 x 4.5 50.000 100.000 Cá hú, cá da trơn, lăng chỉ vàng,… Lồng 3 x 2 x 1.5 4 x 3 x 1.75 6 x 4 x 2 1.500 3.000 4.000 Cá bóng tượng, cá chình,… Nguồn: tổng hợp Phụ lục 6 QUI ĐỊNH KÍCH THƯỚC MẮT LƯỚI NHỎ NHẤT TẠI PHẦN TẬP TRUNG CÁ CỦA NGƯ CỤ KHAI THÁC THỦY HẢI BIỂN (Kèm theo Thông tư 01/2000/TT-BTS ngày 28-4-2000 của Bộ Thủy sản) STT CÁC LOẠI NGƯ CỤ KÍCH THƯỚC MẮT LƯỚI 2a (mm) KHÔNG NHỎ HƠN 1 Rê trích 28 2 Rê thu ngừ 90 3 Rê mòi 60 4 Rê tôm he: - rê 3 lớp lưới Rê tôm he: - rê 1 lớp dưới 44 44 5 Rê tôm hùm 120 6 Vây rút chì, vó mành, rút, rùng, xăm bãi hoạt động ngoài vụ cá cơm 18 7 Các loại lưới đánh cá cơm (gồm có dây rút chì, vó mành, rút, rùng, xăm bãi, pha xúc hoạt động trong vụ cá cơm 10 8 Lưới kéo cá: - Thuyền thủ công và tàu lắp máy dưới 60cv - Tàu lắp máy từ 60cv đến 150cv - Tàu lắp máy từ 150cv trở lên 23 34 40 9 Lưới kéo tôm: - Thuyền thủ công và tàu lắp máy dưới 33cv - Tàu lắp máy từ 33cv trở lên 20 30 10 Các loại đăng 20 11 Đáy hàng cạn, đáy cửa sông, te, xiệp, xịch 18 12 Đáy biển hàng khơi 20 Phụ lục 7 QUI ĐỊNH KÍCH THƯỚC MẮT LƯỚI NHỎ NHẤT TẠI PHẦN TẬP TRUNG CÁ CỦA NGƯ CỤ KHAI THÁC THỦY SẢN NƯỚC NGỌT (Kèm theo Thông tư 01/2000/TT-BTS ngày 28-4-2000 của Bộ Thủy sản) STT CÁC LOẠI NGƯ CỤ KÍCH THƯỚC MẮT LƯỚI 2a (mm) KHÔNG NHỎ HƠN 1 Lưới vây (lưới giựt, bao cá...) 18 2 - Lưới kéo (thủ công, cơ giới) - Lưới kéo cá cơm 20 10 3 - Lưỡi rê (lưới bén...) - Lưới rê (cá cơm) - Lưới rê (cá linh) 40 10 15 4 Vó (càng, gạt...) 20 5 Chài các loại 15 6 Đăng 18 7 Đáy 18 Phụ lục 8 HIỆU QUẢ MỘT SỐ MÔ HÌNH NUÔI THỦY SẢN 1. Mô hình nuôi xen canh tôm càng xanh trong vườn dừa (vườn cây ăn trái) Diện tích vườn: 5000 m2 Diện tích ao mương có thể tận dụng thả nuôi là khoảng 650 – 670 m2 Chi phí cho việc cải tạo ao nuôi: 200.000 – 250.000 đồng Yêu cầu đối với tôm thả nuôi phải có kích thước lớn (khoảng 40 con/kg) Mật độ thả nuôi khoảng 1.5 con/m2 Số lượng thả nuôi khoảng 1000 con tức khoảng 25 kg tôm giống Chi phí tiền giống: 1.2 – 1.5 triệu đồng Thời gian nuôi: 90 – 100 ngày Tỉ lệ sống: 70 – 75% Chi phí tiền thức ăn: 2.1 – 2.5 triệu đồng Tổng chi phí cho một vụ nuôi: 3.5 – 4 triệu đồng/vụ nuôi (tổng chi phí cho một vụ nuôi trên thực tế thường nhỏ hơn so với với mức dự toán do hầu hết các hộ nuôi đều sử dụng một lượng lớn nguồn con giống và thức ăn tự nhiên). Sản lượng tôm thu hoạch: Loại I: 50 kg, với giá hiện nay khoảng 200.000 đồng/kg (10 triệu) Loại II: 20 kg, với giá hiện này khoảng 125.000 đồng/kg (2.5 triệu) Lãi trung bình cho một vụ nuôi sau khi hết tất cả các chi phí là khoảng 8.5 triệu/vụ nuôi. Mỗi năm nuôi được 3 vụ, do đó người làm vườn ngoài khoảng thu nhập từ vườn thì có thêm thu nhập từ 24 – 25 triệu đồng nhờ vào nuôi xen tôm càng xanh dưới các mương vườn. 2. Mô hình nuôi tôm trong ruộng lúa Nuôi tôm trong ruộng lúa là hình thức canh tác kết hợp giữa trồng trọt và thủy sản. Phương thức nuôi này không những làm giảm diện tích sản xuất mà còn góp phần tăng thu nhập trên một mảnh đất, nuôi tôm trong ruộng lúa chẳng những không giảm năng suất lúa mà còn có sản phẩm tôm. Yêu cầu đối với hình thức nuôi này như sau: - Ruộng nuôi cần có bờ chắc chắn giữ được nước, ngăn chặn sự xâm nhập của địch hại, mặt ruộng thấp dể dàng cấp và tiêu nước. Thời gian ngập nước trên ruộng (10 – 30 cm) càng dài càng tốt để tôm có thời gian lên ruộng sinh trưởng nhưng cũng tùy theo giai đoạn phát triển của cây lúa mà mức nước giữ sẽ khác nhau. - Ruộng nuôi tốt nhất là hình chữ nhật diện tích từ 0.1- 1 ha, thông thường 0.2 – 0.5 ha Mỗi ruộng có ít nhất là một cống sao cho thay được càng nhiều nước vào lúc nước rong thì càng tốt. Bên cạnh đó có thể dùng cống để thu thêm tôm giống từ bên ngoài vào. Hệ thống mương bao rất quan trọng đây sẽ là nơi trú của tôm lúc nhiệt độ cao hay phun thuốc trừ sâu, mương bao có kích thước cỡ 2 – 3m, sâu 1 – 2m dốc về phía cống, ngoài ra cũng nên đào thêm các mương phụ theo dạng bàn cờ rộng 1 – 1.5m, sâu 0.8 – 1m tổng diện tích mương so với diện tích ruộng nên từ 15 – 25 % là phù hợp. Mùa vụ: trong năm có 2 vụ lúa chính là Đông – Xuân và Hè – Thu Mật độ thả: ở ruộng nuôi do diện tích mương giới hạn nên mật độ thả thấp 3 – 4 con/m2 (tôm giống 25 – 30g/con). Đối với mô hình nuôi tôm trong ruộng lúa chúng ta có thể kiểu thu tỉa sau 4 – 5 tháng nuôi kể từ khi thả giống hay thu toàn bộ. Năng suất nuôi đạt trung bình khoảng 350 – 800 kg/ha/vụ hay đôi khi đạt trên 1 tấn/ha/vụ tùy mô hình. Lãi trung bình cho một vụ nuôi sau khi hết tất cả các chi phí cũng tương tự như mô hình nuôi xen trong vườn dừa (vườn cây ăn trái) vì cũng tuong tự chi phí cho một vụ nuôi thấp do có thể tận dụng nguồn thức ăn trong tự nhiên hay bổ sung một số phụ phẩm nông nghiệp như khoai mì, tấm, gạo,… Tuy nhiên thì đối với mô hình nuôi này chỉ thực hiện được khoảng 2 vụ/năm. 08 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5192.pdf
Tài liệu liên quan