Tiến trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean, thực trạng và giải pháp

MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đã và đang là một đặc điểm nổi bật, một xu hướng tất yếu của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài quá trình hội nhập nếu không muốn bị gạt ra ngoài sự phát triển kinh tế và bị tụt hậu. Phù hợp với xu thế này, Việt nam đang tham gia tích cực và có hiệu quả vào hiệp hội các nước. Đông Nam Á - (ASEAN) trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hợp tác kinh tế là lĩnh vực quan trọng nhất. Song song với việc thúc đẩy các q

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1209 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiến trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan hệ chính trị, các quan hệ kinh tế bắt đầu được đẩy mạnh, thông qua sự tăng trưởng về kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam - ASEAN và hoạt động đầu tư ngày càng nhộn nhịp của các nước ASEAN khác vào Việt Nam. Hiện tại Việt Nam đã tham gia vào một chương trình hợp tác kinh tế lớn nhất và được coi là có triển vọng nhất trong khuôn khổ ASEAN, đó là chương trình xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Việc tham gia AFTA là điểm khởi đầu trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế khu vực. Đây chính là điều kiện thuận lợi đối với Việt Nam trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, giảm bớt khoảng cách phát triển kinh tế với các nước khác. Tuy nhiên việc tham gia AFTA đối với Việt Nam còn rất mới mẻ, bởi vậy, để hội nhập nhanh chóng, đuổi kịp các nước trong ASEAN, chúng ta cần ý thức được rõ những thuận lợi, những cơ hội có được và những thách thức, những khó khăn cần vượt qua để đề ra những biện pháp, chính sách thích hợp với công cuộc đổi mới của đất nước. Cụ thể hơn là để xác định một kế hoạch thực hiện AFTA có lợi và phù hợp nhất với điều kiện của Việt Nam. Với đề tài: “ Tiến trình hội nhập của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN, thực trạng và giải pháp”, luận văn sẽ tập trung phân tích những khó khăn, những thuận lợi trong việc thực hiện những cam kết AFTA của Việt Nam, những vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong tiến trình thực hiện AFTA, để góp phần cung cấp thông tin về AFTA và về tiến trình hội nhập của Việt Nam vào AFTA . Về phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề vận dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, chứng minh. Về bố cục, ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề bao gồm ba chương: Chương 1 : Tổng quan về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Chương 2 : Tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam. Chương 3 : Một số giải pháp cơ bản của Việt Nam trong tiến trình thực hiện AFTA. Do trình độ và thời gian có hạn, hơn nữa đây là một vấn đề mới nên chuyên đề không thể tránh khỏi những điều sai sót. Rất mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến đề chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn cô giao thạc sĩ Ngô Thị Tuyết Mai cùng các thầy cô trong bộ môn kinh tế quốc tế nói riêng, khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế nói chung đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời qua và quá trình làm chuyên đề . Tôi cũng xin cảm ơn tất cả bạn bè, những người đã giúp đỡ tôi để hoàn thành chuyên đề. CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA) I. Sự ra đời và các mục tiêu của AFTA : 1. Sự ra đời của AFTA: Trước hết, AFTA ra đời như là kết quả tất yếu của những chuyển động về hợp tác kinh tế ASEAN được tính kể từ năm 1976 - năm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất tại Bali (Indonesia) và là bước đánh dấu sự chú trọng trở lại với các kế hoạch phát triển kinh tế mà các lĩnh vực ưu tiên chủ yếu là sản xuất và cung ứng các hàng hóa cơ bản, phát triển các xí nghiệp lớn, thực hiện các thỏa thuận thương mại ưu đãi và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại... Từ việc nhận thức tính kém hiệu quả, sự liên kết lỏng lẻo mang tính hình thức vì sự thiếu trách nhiệm lẫn nhau của các kế hoạch hợp tác kinh tế như: thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA), các dự án công nghiệp (AIP), các kế hoạch phối hợp công nghiệp ASEAN (AIC) và liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV).... các thành viên ASEAN đã thấy rõ sự cần thiết phải thiết lập một cơ chế hợp tác mang tính thể chế, thống nhất hành động và đồng nhất về các tiêu chí phối hợp, mức ưu đãi được mở rộng và các thủ tục phải được đơn giản hóa. Chính bằng cách tạo dựng nền tảng thuế quan chung trong khuôn khổ AFTA, các quốc gia thành viên sẽ có thể tạo ra được sự tương hợp và phát huy được các lợi thế so sánh của mình trong quá trình tổ chức sản xuất và phân công lao động khu vực. Sự ra đời của AFTA là kết quả phức hợp giữa sự tác động của các nhân tố bên trong và bên ngoài dưới đây: Về nhân tố bên trong, có thể thấy rằng công nghiệp hóa trong 2 thập kỷ qua đã làm tăng nhanh chóng quy mô buôn bán lẫn nhau giữa các nền kinh tế ASEAN. Người ta tính ra rằng vào đầu những năm 90, phần xuất khẩu nội bộ ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nhóm các nước này đã đạt tới khoảng 20% và điều đó chứng tỏ khuynh hướng liên kết thương mại khu vực đã ngày càng trở nên mạnh mẽ. Các nền kinh tế ASEAN đã mang đặc tính hướng ngoại dựa vào xuất khẩu và hơn bao giờ hết chúng có nhu cầu bức thiết trong việc tìm kiếm và liên kết thị trường, trước hết là các thị trường láng giềng kề cận. Điều này càng được thúc đẩy nhanh hơn nhờ ở sự tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế khu vực đối với các chiến lược phi điều chỉnh và các biện pháp tự do hóa thương mại và theo đó, các nước này dễ dàng đi đến chỗ mặc nhiên thừa nhận AFTA. Các chính phủ của từng nước ASEAN cũng đã thấy rõ trở ngại của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch trong chiến lược phát triển, đã đi đến nhất trí cởi bỏ nó bằng việc đeo đuổi các chiến lược tự do hóa theo hướng xuất khẩu. Do đó, về thực chất, chính sự chuyển đổi trong chiến lược phát triển và tình hình kinh tế của các nước ASEAN đã khiến cho đề xuất về một khu vực mậu dịch tự do ASEAN mang tính khả thi. Về các nhân tố bên ngoài, với sự kết thúc chiến tranh lạnh và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của hàng loạt các quốc gia, khu vực như Trung Quốc, Việt Nam và các nước Đông Âu.... các quốc gia ASEAN ngày càng có nhiều địch thủ cạnh tranh mới về thu hút đầu tư nước ngoài và thương mại. Hơn nữa, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh, các nền kinh tế ASEAN còn phải đứng trước những thách thức mới do sự xuất hiện của các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực hơn hẳn về quy mô, tiềm năng và trình độ phát triển như EU, NAFTA. Nói cách khác, trước sức ép của chủ nghĩa khu vực mở với sự xuất hiện của EU, NAFTA và những biến đổi của nền kinh tế thế giới theo hướng ngày càng có nhiều dấu hiệu có nguy cơ làm mất đi các lợi thế cạnh tranh của các nền kinh tế ASEAN. Vị thế và triển vọng tăng trưởng của các nền kinh tế này sẽ không được củng cố và thúc đẩy nếu như toàn hiệp hội không tạo dựng được sự nỗ lực chung. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự cấp thiết thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Ở đây, tiến trình hình thành AFTA được giải thích trên hai góc độ: Thứ nhất, việc liên kết thị trường khu vực như một trung tâm sản xuất và thương mại quốc tế là điều kiện căn bản để cải thiện thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - một nhân tố được coi là đông lực tăng trưởng và tạo ra sự năng động của châu Á trong những năm gần đây. Thứ hai, nhu cầu cải thiện thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và hội nhập vào nền kinh tế thế giới sẽ bắt buộc ASEAN không thể trở thành các nhà bảo hộ mậu dịch và hơn nữa, ASEAN cần phải mở cửa mạnh mẽ thị trường của mình với tất cả các thành phần còn lại của thế giới chứ không chỉ khuôn hẹp ở việc xóa bỏ các hàng rào thương mại trong nội bộ ASEAN. Như vậy, xuất phát từ tổng thể các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động, AFTA ra đời như một khái niệm hướng ngoại. Nó trở thành một bộ phận hợp thành của xu thế tự do hóa thương mại rộng lớn hơn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và toàn cầu. Do đó, tạo lập AFTA cho ASEAN cũng chính là tạo lập khu vực mở, một sự thích ứng mới cho sự phát triển của ASEAN trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để khẳng định ASEAN sẽ thành công trong việc tạo lập AFTA. Thứ nhất, từ giữa những năm 80, các thành viên ASEAN đã lần lượt thực hiện phi tập trung hóa và tự do hóa nền kinh tế của mình, đã cải thiện đáng kể (mặc dù chưa đồng bộ) về môi trường đầu tư và thương mại và trên cơ sở này, AFTA sẽ đặt từng quốc gia thành viên ASEAN trước những nhu cầu bức thiết phải tiến hành cải cách nền kinh tế quốc gia nhằm thích ứng với các tiêu chí hòa đồng khu vực. AFTA sẽ góp phần đáng kể vào việc cải thiện hiệu quả sản xuất cho mọi quốc gia thành viên với chi phí ít hơn. Hay nói đúng hơn, AFTA sẽ hỗ trợ cho các nền kinh tế này trở thành các nền kinh tế có hiệu suất thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa điều chỉnh cơ cấu kinh tế khu vực với cơ cấu kinh tế nội địa của từng nước. Thứ hai, tạo ra AFTA về thực chất ASEAN sẽ thực hiện một sự cam kết chính trị đầy đủ, nghĩa là các chính phủ ASEAN không chỉ thể hiện những nỗ lực của mình ở trong nước mà thông qua AFTA, họ còn muốn có sự điều hòa, giải quyết các khó khăn riêng cho từng quốc gia thành viên. Thứ ba, các nước ASEAN đã có những bài học kinh nghiệm trong việc thực Hiệp định thương mại ưu đãi ASEAN (PTA) không mấy thành công từ cuối những năm 70. Do vậy, có thể nói rằng AFTA là thành tựu và là nấc thang mới trong chiến lược hợp tác kinh tế ASEAN hiện nay. AFTA giúp các nhà xuất khẩu giảm chi phí đầu vào khi các thị trường ASEAN mở cửa giúp các nhà xuất khẩu chi phí đầu vào khi các thị trường ASEAN mở cửa. Mặt khác, các nhà sản xuất sẽ được kích thích bởi tiến trình tự do hóa nhập khẩu nhờ AFTA và đồng thời nhờ đó họ có thể được lợi do nhận được chi phí về các sản phẩm trung gian cấu thành đầu vào giảm. Cũng tương tự như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng lên do chỗ các nhà đầu tư nước ngoài muốn được thụ hưởng các ưu đãi của AFTA. 2. Mục tiêu của AFTA: AFTA được thiết lập nhằm vào các mục tiêu cơ bản như sau: Thứ nhất, tự do hóa thương mại nội bộ ASEAN bằng cách loại bỏ hàng rào thuế quan và phi quan thuế. Đây là mục tiêu đầu tiên song không phải là mục tiêu quan trọng nhất của AFTA. Vì lẽ, quy mô của thị trường ASEAN tương đối nhỏ so với các thị trường thương mại khu vực khác như Liên hiệp Châu Âu(EU) vàKhuvực mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA). Trong khi (theo số liệu năm 1990) NAFTA chiếm 27,8% sản lượng thế giới, 18,2% thương mại thế giới, trong đó buôn bán nội bộ khu vực chiếm 40% và EU lần lượt có các chỉ số tương ứng là 26,8%; 42,1% và 60% thì ASEAN chỉ có 1,5% sản lượng thế giới, 4,5% thương mại thế giới và buôn bán nội bộ khu vực là 20%. Mặc dù vậy, ASEAN luôn mong muốn trở thành một khu vực mậu dịch tự do trong xu thế tự do hóa thương mại toàn cầu. Hơn nữa, do đặc tính hướng ngoại của các nền kinh tế ASEAN với tỷ trọng ngoại thương trong GDP chiếm 96,4% trong khi các khu vực khác như: NAFTA chỉ chiếm 19,1% và EU: 46%, Các nền kinh tế ASEAN này sẽ rất thuận lợi trong việc tiến tới tự do hóa. Mặc dù không thể giúp các quốc gia thành viên đạt được những thỏa thuận thương mại lớn về thị trường khu vực như EU, NAFTA. Song AFTA sẽ hỗ trợ cho các quốc gia này đẩy mạnh tăng trưởng, thay đổi cơ cấu, bổ sung lẫn nhau theo hướng trở thành một thế lực cạnh tranh có ưu thế so với các thị trường khu vực khác. Thứ hai, thu hút các nhà đầu tư các nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo dựng một khối thị trường thống nhất đây là mục tiêu trung tâm của AFTA. AFTA sẽ tạo ra một nền tảng sản xuất thống nhất trong ASEAN, điều đó cho phép hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế thành viên khác nhau. Có 3 lý do: Một là, sự phân công quốc tế được đẩy mạnh trong nội bộ ASEAN, nghĩa là đầu tư vào bất kỳ quốc gia nào trong ASEAN đều được thụ hưởng mọi quyền ưu đãi của AFTA trên thị trường toàn khu vực. Hai là, đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN sẽ tăng vì kết quả chuyển hoàn mậu dịch giữa các quốc gia này sẽ tăng theo AFTA do đó sẽ kích thích các công ty Nhật, Mỹ, EU và các công nghiệp mới (NIEs) đầu tư nhiều hơn để giữ thị trường này thay vì trước đây họ thường cung ứng từ các cơ sở sản xuất ngoài ASEAN. Ba là, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN tăng nhờ sự lớn mạnh của chính thị trường nội địa khu vực và nhờ sự tăng lên của sức mua của thị trường khu vực ASEAN và theo đó, sẽ ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nhằm cung cấp sản phẩm cho các thị trường này. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, các thành viên ASEAN còn phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của ASEAN trở nên hấp dẫn hơn so với các khu vực khác. Vấn đề đáng lưu ý ASEAN cần phải đón bắt được các dòng đầu tư quốc tế đang trong xu hướng chuyển mạnh từ các khu vực Châu Âu, Mỹ trở lại Châu Á. Dĩ nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ASEAN không phải là một hiện tượng mới, song những tác động của tiến trình AFTA sẽ nâng cao và thúc đẩy chúng khởi sắc. Với định hướng phát triển ra ngoài khu vực trên cơ sở liên kết thị trường bên trong AFTA, ASEAN hoàn toàn có thể kỳ vọng tới khả năng đẩy mạnh thế thương lượng cạnh tranh về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thứ ba, AFTA ra đời sẽ làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc đang thay đổi, đặc biệt là trong sự phát triển của xu thế tự do hóa thương mại thế giới. AFTA sẽ đưa ASEAN đi đến chủ nghĩa khu vực mở và là sự phản ứng đáp lại với các mô hình bảo hộ mậu dịch ở cả trong và ngoài khu vực. Theo xu thế tự do hóa nền sản xuất toàn cầu, AFTA là nấc thang đầu tiên trong xu thế tiến tới thực hiện sự hợp tác toàn diện. Trước những biến động của bối cảnh quốc tế, AFTA buộc phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện và không chỉ dừng lại ở một khu vực mậu dịch hay liên minh quan thuế mà trong tương lai nó sẽ tiếp tục được phát triển thành một liên minh tiền tệ, một liên minh kinh tế. Nhờ tăng buôn bán trong và ngoài khu vực. AFTA sẽ trợ giúp cho các quốc gia thành viên ASEAN thích ứng được với chế độ thương mại đa biên tăng lên ngày càng nhanh chóng. II. Cơ chế và các đặc trưng về tổ chức của tiến trình thực hiện AFTA. 1. Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). Các mục tiêu của AFTA sẽ được thực hiện thông qua một loạt các thỏa thuận trong Hiệp định AFTA như là: Sự thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hóa hàng hóa giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hóa của nhau, xoá bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thương, hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô... trong đó CEPT là cơ chế thực hiện chủ yếu. CEPT về thực chất là một thỏa thuận giữa các thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0 - 5% thông qua "cơ cấu thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung" đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng 10 năm, được bắt đầu từ 01/01/1993 và hoàn thành vào 01/01/2003. Hiệp định này sẽ được áp dụng đối với mọi loại sản phẩm công nghiệp chế biến, bao gồm cả các hàng hóa tư bản và các sản phẩm công nghiệp nông nghiệp đã qua chế biến. Tuy vậy, trong khung hiệp định đó, CEPT được nhấn mạnh cho các mặt hàng công nghiệp chế biến là đối tượng chủ yếu được thụ hưởng các ưu đãi của chương trình giảm thuế quan. Việc cắt giảm thuế quan cho được áp dụng trong một lịch trình cụ thể theo 2 kênh giảm nhanh và giảm thông thường đồng tuyến, nghĩa là trong vòng 7 đến 10 năm, phải đưa được khoảng 90% trong số hơn 44.000 dòng thuế của các nước ASEAN xuống mức thuế dưới 5% vào năm 2000 và sau đó sẽ đưa được mức thuế quan bình quân của toàn ASEAN vào năm 2003 khoảng 2,63%. Kênh giảm thuế nhanh (còn gọi là kế hoạch giảm thuế quan tăng tốc) sẽ được áp dụng cho 15 nhóm sản phẩm công nghiệp chế biến của ASEAN như: xi măng, hóa chất, phân bón, chất dẻo, hàng điện tử, hàng dệt, dầu thực vật, sản phẩm da, sản phẩm cao su, giấy, đồ gốm và thuỷ tinh, đồ dùng bằng gỗ và song mây, dược phẩm với khoảng 3200 mặt hàng, chiếm tới 34% tổng số danh mục giảm thuế của toàn ASEAN. Lịch trình giảm thuế nhanh sẽ được phân định thành hai nấc: các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào 01/01/2000 và các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống còn 0 - 5% vào 01/01/1998. Kênh giảm thuế bình thường (còn gọi là chương trình giảm thuế quan theo lịch trình thông thường) sẽ áp dụng cho tất cả các sản phẩm công nghiệp chế biến còn lại. Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, việc giảm thuế ở kênh này sẽ được tiến hành theo hai nấc: sẽ giảm thuế suất của chúng xuống tới 20% vào năm 1998 và sau đó sẽ tiếp tục giảm xuống còn 0 - 5% vào năm 2003. Đối với sản phẩm đã có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm thuế đến 0 - 5% trong vòng 7 năm, tức là kết thúc vào năm 2000. Các danh mục giảm thuế theo kênh thông thường hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số các danh mục hàng hóa tham gia CEPT với 59%. Với các tỷ lệ lớn của hai danh mục giảm thuế trong chương trình thực hiện CEPT (khoảng 93%), các lịch trình giảm thuế này nếu được thực hiện. Về căn bản chúng đã gần như hoàn thành tỷ suất tự do hóa thương mại nội bộ ASEAN. Điều đáng lưu ý ở đây là sau một số năm thực hiện CEPT, các nước thành viên ASEAN đã có đề xuất về một lịch trình giảm thuế linh hoạt, nghĩa là không nhất thiết phải tuân thủ theo hai kênh đồng tuyến với các quy định rạch ròi cho các suất thuế cần cắt giảm qua từng thời kỳ. Tuỳ theo đặc điểm cơ cấu thuế của từng nước để xây dựng lịch trình cắt giảm miễn sao đẩy nhanh được mục đích giảm thuế quan xuống còn 0 - 5% càng sớm càng tốt trước năm 2003. Hiện nay Hội đồng AFTA đã chấp nhận đề xuất đó như một sáng kiến nhằm đáp ứng các yêu cầu về việc tạo dựng một khu vực tự do hóa thương mại ASEAN trước thời hạn đã định. Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (15 - 16/12/1998), với sáng kiến thực hiện các thỏa thuận đa phương và song phương, đã khẳng định một lần nữa việc đẩy nhanh tiến trình AFTA, chí ít là phải hoàn thành AFTA vào năm 2000 đối với 6 nước thành viên ASEAN đã kết nạp trước năm 1995. Cũng xuất phát từ hoàn cảnh đặc biệt của từng quốc gia thành viên mà CEPT còn quy định danh mục các sản phẩm tạm thời chưa tham gia giảm thuế (còn gọi là danh mục loại trừ tạm thời) để tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này có thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể như: tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế hoạch CEPT hoặc có thời gian để hỗ trợ cho sự ổn định thương mại hoặc để chuyển hướng sản xuất đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu trong buổi đầu tham gia CEPT. Các sản phẩm trong danh mục này sẽ không được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên và chỉ tồn tại mang tính chất tạm thời. Nghĩa là sau 5 năm, chúng sẽ buộc phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo hai kênh đồng tuyến đã định. Do đó, kể từ 01/01/1996 đến 01/01/2000, danh mục loại trừ tạm thời sẽ phải chuyển sang danh mục giảm thuế theo CEPT bình quân 20% mỗi năm. Dĩ nhiên, loại danh mục này không nhiều, chỉ chiếm khoảng 8% tổng số các danh mục tham gia giảm thuế. Một số vấn đề gây tranh luận nhiều nhất trong việc xây dựng chương trình CEPT là vấn đề đưa hay không đưa các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến vào danh mục giảm thuế. Theo Hiệp định CEPT năm 1992, các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến không đưa vào danh mục giảm thuế theo CEPT. Nhưng đến tháng 09/1994 các thành viên ASEAN đã đồng ý đưa chúng vào danh mục này. Do dó cùng với các danh mục giảm thuế và loại trừ thuế tạm thời, phạm vi sản phẩm tham gia tiến trình tự do hóa thương mại theo CEPT đã được mở rộng tới 98% tổng số dòng thuế của toàn khối ASEAN. Các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến cũng sẽ được phân định thành ba danh mục: danh mục giảm thuế, danh mục loại trừ hoàn toàn và một danh mục đặc biệt khác là danh mục các sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm. Trừ một số nhỏ hàng nông nghiệp chưa qua chế biến được đưa vào danh mục loại trừ hoàn toàn, hiện hàng nông nghiệp chưa qua chế biến toàn bộ ASEAN bao gồm 1823 dòng thuế, chiếm 4% tổng số dòng thuế sẽ giảm theo CEPT của các quốc gia này. Các sản phẩm thuộc danh mục nhạy cảm là đối tượng cần có cơ chế tự do hóa riêng phù hợp với các quy định của Hiệp định về nông sản của WTO. Tuy nhiên, mức cam kết giảm thuế của các sản phẩm thuộc danh mục này ở ASEAN sẽ cao hơn mức mà các nước thành viên đã cam kết tại vòng đàm phán Urugoay. Đến nay, theo đề xuất của các quốc gia thành viên, những mặt hàng này đã được phép kết thúc lịch trình giảm thuế từ 0 - 5% vào ngày 01/01/2010. Như vậy, xét một cách tổng quát cấu trúc CEPT bao gồm 3 danh mục chính: danh mục giảm thuế, danh mục các sản phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến và danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế. Tuy nhiên, để vận dụng đúng hơn về CEPT, các thành viên ASEAN đã thống nhất xây dựng một danh mục loại trừ hoàn toàn một số sản phẩm ra khỏi lịch trình giảm thuế theo CEPT, tức là việc cắt giảm thuế cũng như xóa bỏ các biện pháp phi quan thuế đối với những sản phẩm này sẽ không được áp dụng theo các quy định của CEPT. Đó là những sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống và sức khỏe của con người, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, các di tích lịch sử, khảo cổ... Khi vận dụng CEPT, chúng ta không được quên một điều kiện bổ sung cho cơ chế giảm thuế theo CEPT. Đó là những nhượng bộ trao đổi giữa các quốc gia ASEAN khi thực hiện CEPT trên các nguyên tắc có đi có lại. Nguyên tắc bắt buộc các nước thành viên để được hưởng các ưu đãi về thuế quan của nhau khi xuất khẩu theo CEPT cần đảm bảo đúng các yêu cầu sau đây: Thứ nhất, sản phẩm đó phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của các nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và phải có mức thuế quan tối đa là 20%. Thứ hai, sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông qua. Thứ ba, sản phẩm có hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN với ít nhất là 40%. Nếu một sản phẩm bảo đảm được ba yêu cầu đó, chúng sẽ được hưởng ưu đãi hoàn toàn từ phía các quốc gia nhập khẩu. Để xác định các sản phẩm có đủ điều kiện hưởng thuế quan ưu đãi theo chương trình CEPT hay không, mỗi thành viên phải công bố “tài liệu trao đổi ưu đãi CEPT” trong đó cần thể hiện được mức thuế quan của các sản phẩm theo CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện ưu đãi. Tóm lại, CEPT được thực hiện sẽ đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại trong nội bộ ASEAN. Bởi vì dựa vào kế hoạch giảm thuế đã được các nước thành viên ASEAN cam kết theo chương trình CEPT, đến năm 2000 là 87,7% tổng số các dòng thuế tham gia giảm thuế sẽ có mức thuế 0 - 5%. Điều này hoàn toàn có cơ sở khi mà hiện nay các sản phẩm CEPT đã tăng rất nhanh trong tổng kim ngạch xuất khẩu nội bộ ASEAN, từ 81,38% năm 1994 lên 84,7% năm1995. 2.Vấn đề loại bỏ các hàng rào phi quan thuế. Đây là cơ chế quan trọng thứ hai được tiến hành đồng thời với thực hiện chương trình CEPT. Các nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm CEPT trên cơ sở chế độ ưu đãi thuế quan áp dụng cho các sản phẩm đó. Các hàng rào phi quan thuế khác cũng sẽ được xóa bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. Đây là sự hỗ trợ cực kỳ quan trọng cho tiến trình AFTA vì lẽ cắt giảm thuế là biện pháp cần thiết, đầu tiên song đó không phải là biện pháp duy nhất của chương trình tổng hợp về tự do hóa thương mại: Các kênh giảm thuế đồng tuyến, danh mục loại trừ tạm thời, danh mục hàng nông nghiệp chưa qua chế biến... chỉ là những khía cạnh khác nhau cấu thành nên mặt kỹ thuật và cơ chế điều hoà thuế quan của chính sách tự do hóa thương mại. Còn một mặt khác rất quan trọng cấu thành nên sự tác động có tính chất hành chính, pháp lý giữa các biện pháp về giấy phép xuất nhập khẩu, hạn ngạch, các hạn chế về tỷ giá hối đoái, các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật hàng hóa... Những rào cản này thể hiển trong thực tiễn hoạt động thương mại ở các nước thường rất “bảo thủ”, nó gắn chặt với các chính sách bảo hộ mậu dịch năng nề và theo đó, việc loại bỏ chúng sẽ không dễ dàng nếu không có sự cải cách toàn diện ở tầm vĩ mô nền kinh tế của từng nước. Hơn nữa, hiện nay, những biện pháp này còn rất không đồng nhất giữa các nước thành viên ASEAN. Do vậy, để chuẩn bị tốt tiến trình xóa bỏ các hàng rào phi quan thuế, Uỷ ban phối hợp thực hiện CEPT/AFTA của ASEAN đã tiến hành các bước như sau: Bước 1: các nước thành viên cùng thống nhất định nghĩa về các biện pháp phi quan thuế dựa trên sự phân loại của UNCTAC. Bước 2: tập trung trước tiên việc giảm các hàng rào phi thuế quan đối với các sản phẩm có tỷ trọng lớn trong chu chuyển thương mại nội bộ ASEAN. Bước 3: ban thư ký ASEAN sẽ tập hợp thông tin các hàng rào phi quan thuế của các nước thành viên từ nhiều nguồn, gồm: báo cáo của các quốc gia thành viên, bản đánh giá chính sách thương mại của GATT, báo cáo của Phòng Thương mại - công nghiệp ASEAN, hệ thống thông tin và phân tích dữ liệu thương mại của UNTAC...để có một chính sách điều hoà thích hợp. Trừ một số lý do được phép duy trì các hàng rào phi quan thuế như: sự cần thiết phải bảo hộ một số sản phẩm thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, sự bảo hộ đối với một số sản phẩm trong thời gian còn được hưởng chế độ miễn trừ tạm thời...Việc xóa bỏ các hàng rào phi quan thuế cần được phối hợp đồng bộ với chương trình CEPT, trong đó quan trọng nhất và khó khăn nhất là việc thống nhất các tiêu chuẩn về hàng hóa và việc thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên. Hiện tại, Uỷ ban về Tiêu chuẩn Chất lượng của ASEAN(ACCSQ) đang tiến hành thống nhất hóa các tiêu chuẩn về kỹ thuật của các sản phẩm CEPT thuộc nhóm những hàng hóa có kim ngạch buôn bán lớn giữa các nước ASEAN. Tất nhiên, ở đây cần phân biệt rõ giữa các hàng rào phi quan thuế và các biện pháp phi quan thuế vì lẽ rất nhiều biện pháp phi quan thuế lại có tác dụng tốt cho việc tạo dựng môi trường thương mại. Ví dụ, chính sách trợ giá xuất khẩu của chính phủ, biện pháp chống bán phá giá... Dĩ nhiên, việc thống nhất và xóa bỏ các hàng rào phi quan thuế là một công việc khó khăn vì ba lẽ: Một là, các hàng rào phi quan thuế đa dạng và thường ẩn dấu đằng sau các chính sách (ví dụ chính sách kiểm dịch, chính sách duy trì hạn ngạch để hỗ trợ công nghiệp, chính sách đánh giá cao giá trị của đồng bản tệ...). Hai là, các bộ luật thuế quan của các nước ASEAN vẫn còn chưa được điều hòa. Việt Nam theo hệ thống điều hoa thuế quan (HS) 6 chữ số, Thailand là HS - 8, Malaisia và Singapore là HS - 9..., và theo đó, cơ quan hải quan trong từng nước thành viên khó có thể áp dụng đúng thuế, đúng sản phẩm. Ba là, các nguyên tắc về xuất xứ sản phẩm cũng sẽ làm phức tạp các tình thế xử lý về mặt phi quan thuế theo CEPT khi đầu tư thương mại giữa các nước ASEAN đã chuyển hoàn cho nhau một cách thường xuyên, mật thiết. Để giải quyết các vấn đề này, Phòng Thương mại - Công nghiệp ASEAN có nhiệm vụ đẩy nhanh quá trình điều hoà các bộ luật thuế quan với sự ưu tiên trước hết giành cho các sản phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch buôn bán nội bộ ASEAN và những sản phẩm thuộc 15 danh mục hàng hoá tham gia kênh giảm thuế nhanh của CEPT đã tán thành kế hoạch hành động để điều hoà về các tiêu chí luật thuế và phi quan thuế trên toàn khu vực vào năm 1997. Bên cạnh việc tiến hành cắt giảm thuế quan, vấn đề loại bỏ các hạn chế số lượng nhập khẩu và các rào cản phi thuế quan khác là hết sức quan trọng để có htể thiết lập được khu vực mậu dịch tự do. Các hạn chế về số lượng nhập khẩu có thể được xác định một cách dễ dàng, do đó được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình CEPT được hưởng các nhượng bộ từ các nước thành viên khác. Tuy nhiên, đối với các rào cản thuế quan khác, vấn đề phức tạp hơn rất nhiều và việc loại bỏ chúng sẽ có rất nhiều cách và ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn đối với các phụ thu thì đơn giản chỉ cần phải loại bỏ, song đối với các tiêu chuẩn chất lượng lại không thể được loại bỏ một cách đơn giản như vậy, bởi vì có rất nhiều lý do để duy trì chúng như các lý do về an ninh xã hội, bảo vệ môi trường, sức khoẻ,… Trong các trường hợp này việc loại trừ các hàng rào cản phi quan thuế khác (NTBs) sẽ có nghĩa là phải thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa, hay các nước phải thỏa thuận để đi đến công nhận về tiêu chuẩn của nhau. Và trong trường hợp về các biện pháp độc quyền nhà nước, việc loại bỏ chúng sẽ có nghĩa là phải tạo điều kiện cho các nước thành viên khác có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường. Vì vậy Hiệp định CEPT đã quy định: Các nước thành viên sẽ xóa bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó. Các hàng rào phi thuế khác sẽ được xóa bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. Các hạn chế ngoại hối các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối với các sản phẩm thuộc CEPT. Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa nhận các chứng nhận chất lượng của nhau. Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu. Như vậy mặc dù tinh thần chung của các nước ASEAN là mong muốn thực hiện sớm CEPT, giảm tối đa các hàng rào thuế quan và phi thuế quan song do thực tiễn cơ cấu sản xuất của các nước ASEAN tương đối giống nhau, trình độ phát triển cũng còn kém,… nên quá trình hợp tác mở cửa thị trường vẫn còn nhiều khó khăn. Tiến trình cắt giảm hàng rào phi quan thuế theo quy định hiện nay có nhiều khả quan song đối với các mặt hàng nhạy cảm thì vấn đề bảo hộ còn rất tiềm ẩn và các hàng rào phi quan thuế sẽ là những công cụ hết sức quan trọng của các ASEAN để bảo hộ sản xuất nội địa trong thời gian tới. 3. Vấn đề hài hoà các thủ tục hải quan. Phối hợp hải quan là cơ chế thực hiện của chương trình CEPT khi nó hỗ trợ các nước thành viên thống nhất biểu thuế quan theo Hệ thống điều hoà (HS) của nó. Hơn nữa, nó tạo thuận lợi cho việc thực hiện giảm thuế và phi quan thuế khi hệ thống tính giá hải quan được thống nhất, các luồng ưu đãi cho hàng hoá theo CEPT của ASEAN được hình thành và đặc biệt thủ tục hải quan được thống nhất. Như vậy, tiến trình ASEAN nhanh hay chậm, được điều chỉnh hay bổ sung đều tuỳ thuộc đáng kể vào các chương trình hợp tác hải quan. Thống nhất biểu thuế quan: Các nước thành viên hiện đang sử dụng biểu thuế quan theo Hệ thống điều hòa của Hội đồng hợp tác Hải quan (HS) ở các mức độ khác nhau, từ 6 đến 10 chữ số. Hội nghị hợp các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26 tháng 9 năm 1994 đã quyết định sẽ thống nhất biểu thuế trong khối ASEAN ở mức 8 chữ số và hiện nay các nhóm kỹ thuật về danh mục biểu thuế vẫn đang xúc tiến các công việc để đạt được mục tiêu này. Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Các nước thành viên ASEAN đã cam kết trong Vòng đàm phán Uruguay của GATT là (trừ Việt Nam chư._.a là thành viên của GATT/WTO) vào năm 2000 sẽ thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT - GTV (GATT Transactions value) được nêu trong Hiệp định thực hiện điều khoản VII của hiệp định chung về thương mại và thuế quan 1994 để tính giá hải quan. Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 7 đã quyết định rút ngắn thời gian thực hiện hệ thống tính giá hải quan theo GATT vào năm 1997. Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan: Để tạo thuận lợi cho việc thực hiện Chương trình CEPT, Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 8 đã thông qua khuyến nghị của Hội nghị Tổng cục trưởng Hải quan ASEAN xây dựng hệ thống Luồng xanh hải quan và thực hiện từ 01/01/1996 nhằm đơn giản hóa hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hóa thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Chương trình CEPT. Thống nhất thủ tục hải quan: Do có sự khác biệt giữa hàng hóa được hưởng nhượng bộ theo Chương trình CEPT và các hàng hóa khác như tiêu chuẩn về hàm lượng xuất xứ, mức thuế suất… nên cần thiết phải đơn giản hóa và thống nhất thủ tục hải quan giữa các nước thành viên. Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu tiên trong việc thống nhất thủ tục hải quan là: Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hóa thuộc diện CEPT: tất cả các hàng hóa giao dịch theo Chương trình CEPT trước tiên bắt buộc phải có Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) hoặc Mẫu D để xác định mặt hàng đó có ít nhất 40% hàm lượng ASEAN. Sau đó, hàng hóa này phải được hoàn thành thủ tục xuất nhập khẩu (Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu). Do các tờ khai hải quan của các nước thành viên tương tự như nhau nên thủ tục có thể được đơn giản hóa bằng cách gộp 3 loại tờ khai trên thành một mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hóa CEPT. Thủ tục xuất nhập khẩu chung: để xây dựng thủ tục xuất nhập khẩu chung tỏng khối ASEAN, các nước thành viên đang tập trung vào các vấn đề: a). Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hóa xuất khẩu. b). Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hóa nhập khẩu. c). Các vấn đề về giảm định hàng hóa. d). Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau và có hiệu lực hồi tố. 4. Các thể chế phối hợp trong tiến trình thực hiện AFTA. Thiết lập các thể chế phối hợp giữa các nước thành viên ASEAN là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa quyết định đối với việc duy trì xu hướng và đảm bảo thực hiện thành công CEPT. Cơ quan đặc trách để duy trì, phối hợp và điều chỉnh các hoạt động của AFTA là Hội đồng AFTA. Hội đồng này bao gồm đại diện các Bộ trưởng từ các nước thành viên và tổng thư ký ASEAN có thực hiện các điều tiết vĩ mô về tiến trình thực hiện AFTA. Hội đồng chỉ họp khi cần thiết nhưng ít nhất mỗi năm một lần. Hội đồng AFTA có trách nhiệm báo cáo lên Hội đồng các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM). Để giúp cho Hội đồng AFTA thực hiện nghĩa vụ của mình với AEM, Hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN (SEOM) họp đều đặn hàng quý để phối hợp thực hiện CEPT giữa các nước thành viên. Dưới SEOM lại có Uỷ ban điều phối CEPT để thực hiện AFTA (CCCA) và các thành viên tham gia uỷ ban này là đại diện từ các cơ quan chính phủ khác nhau liên quan trực tiếp đến việc thực hiện Hiệp định CEPT. Trong mô hình tổ chức này, Ban thư ký ASEAN có chức năng hỗ trợ hội đồng AFTA, SEOM và CCCA thông qua việc giảm sát tiến trình và các ảnh hưởng của việc thực hiện chương trình CEPT. Cơ quan điều hành trực tiếp cụ thể các hoạt động thường xuyên của tiến trình AFTA là cơ quan AFTA thuộc Ban thư ký ASEAN và các cơ quan AFTA quốc gia tại từng nước thành viên, được thành lập theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26. Mặc dù cách thức tổ chức của các cơ quan AFTA quốc gia không thống nhất (cơ quan AFTA quốc gia của Indonesia, Malaisia được đặt ở Bộ công nghiệp - thương mại của Thailand được đặt ở Vụ chính sách tài chính thuộc Bộ tài chính và của Việt Nam được đặt ở tổng cục Thuế thuộc Bộ Tài chính), chúng đều phải tuân thủ các nguyên tắc hoạt động chung là: Thứ nhất, đảm bảo thực hiện CEPT trôi chảy. Thứ hai, làm đầu mối cho các hoạt động phối hợp giữa Ban thư ký ASEAN, cơ quan AFTA của ASEAN với các quốc gia thành viên. Thứ ba, trình những vấn đề nảy sinh trong tiến trình thực hiện CEPT tại các cuộc hội nghị ASEAN tương ứng để có thể đưa ra được những giải pháp hợp lý. Gần đây, để tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan AFTA quốc gia với cơ quan AFTA của ASEAN, Ban Thư ký ASEAN và Hội đồng ý đưa các mối quan hệ này vào mạng thông tin Internet. Hầu hết các thành viên ASEAN đều nhận rõ khu vực tư nhân đóng vai trò quan trọng trong tiến trình thực hiện AFTA. Cơ quan AFTA của ASEAN và các cơ quan AFTA quốc gia thành viên sẽ trở thành những kênh quan trọng để cung cấp thông tin cho khu vực tư nhân cũng như tiếp nhận những yêu cầu, than phiền, thắc mắc từ phía họ. Nói một cách chính xác các cơ quan này cần làm mọi việc từ cung cấp số liệu, các biểu mẫu đến liên hệ với các phòng công nghiệp thương mại các nước, đến tổ chức các cuộc hội thảo về AFTA... để có thể huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào tiến trình AFTA một cách có hiệu quả nhất. Tuy vậy, cơ quan có tác động trực tiếp đến khu vực tư nhân lại là phòng Thương mại - Công nghiệp của từng quốc gia thành viên. Cũng vì vậy, bắt đầu từ năm 1995, Phòng thương mại - Công nghiệp ASEAN (CCI) được thành lập như một thể chế phối hợp tất yếu để thúc đẩy tiến trình khuyến khích tư nhân tham gia thực hiện CEPT. Những điều khoản an toàn cũng nằm trong nội dung các thể chế điều chỉnh AFTA. Có ba điều khoản an toàn quan trọng: Một là, nếu việc nhập khẩu một sản phẩm nào đó theo CEPT được thực hiện theo một phương thức gây sức ép hoặc làm tổn thương đến các khu vực tạo ra các sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong các nước nhập khẩu thì các nước này, ngoài việc lúc đó cần phải khắc phục các thương tổn, là việc có thể đình chỉ các điều khoản ưu đãi. Hai là, một nước thành viên thấy cần thiết hoặc tăng cường các hạn chế về số lượng hoặc các biện pháp thu hẹp nhập khẩu vì mục đích ngăn chặn các sức ép làm giảm sút nghiêm trọng dự trữ tiền tệ của họ thì trong trường hợp đó, những nỗ lực của họ đã tuân thủ theo phương thức bảo toàn giá trị chuyển nhượng đã thỏa thuận. Ba là, khi có các biện pháp cấp bách đặt ra, các thành viên phải lập tức thông báo ngay cho Hội đồng AFTA. Như vậy, các điều khoản an toàn được đặt trong sự phối hợp hoạt động giữa Hội đồng AFTA với các cơ quan hữu quan của các nước thành viên. Trong tiến trình thực hiện AFTA, tất yếu sẽ xảy ra những bất đồng giữa các nước thành viên do giữa các nền kinh tế quốc gia có sự khác biệt về đặc điểm phát triển, trình độ tăng trưởng và cơ chế điều tiết. Do đó, các thành viên ASEAN rất quan tâm đến việc thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp. Về nguyên tắc, cơ chế này sẽ giúp các thành viên nhấn mạnh đến những lợi ích to lớn của AFTA với tư cách là một thể chế phối hợp hơn là việc đeo đuổi các mục tiêu riêng rẽ. Điều này cũng giúp cho ASEAN có sức mạnh đoàn kết trên bàn thương lượng với EU, NAFTA, APEC và WTO. Do đó, cơ chế giải quyết tranh chấp về CEPT/AFTA cũng có thể được coi là cơ chế giàn xếp tất cả những tranh chấp nảy sinh từ các hiệp định của ASEAN về hợp tác kinh tế. Để nhất thể hóa các nền kinh tế ASEAN hơn nữa, các quốc gia thành viên đã đồng ý khai thác các biện pháp hợp tác cả trong và ngoài khuôn khổ AFTA nhằm bổ sung và thúc đẩy nhanh hơn tiến trình tự do hóa thương mại. Đó là các biện pháp về sự thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn hàng hóa, về giấy xác nhận xuất xứ sản phẩm, về việc dỡ các loại rào cản đầu tư trực tiếp nước ngoài, về vấn đề tư vấn kinh tế vĩ mô giữa các nước thành viên, về các nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, về việc thúc đẩy đầu tư nội bộ khu vực... Hơn nữa, việc điều hòa các hoạt động hợp tác khu vực giữa các thành viên AFTA chắc chắn sẽ được mở rộng sang các lĩnh vực khác như: tài chính, ngân hàng, giao thông, thông tin viễn thông, sở hữu trí tuệ... III. Việt Nam tham gia vào AFTA: Ngày 28/07/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN đồng thời cam kết tham gia thực hiện các hiệp định của ASEAN trong đó nội dung quan trọng nhất về lĩnh vực hợp tác kinh tế là việc thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN. 1. Tính tất yếu của việc Việt Nam tham gia vào AFTA. Trước hết, Việt Nam hội nhập ASEAN là một tất yếu khách quan. Là một nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế trường mở, gia nhập ASEAN về thực chất là sự “bắt kịp” với “hiệu ứng lan tỏa” của xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa. Tham gia ASEAN, Việt Nam sẽ bắt đầu một thời kỳ hợp tác mới với các nước láng giềng trong Hiệp hội về mặt kinh tế, tức là sẽ có điều kiện dung hợp với các nền kinh tế vốn đã thành công trên con đường công nghiệp hóa… Các nền kinh tế ASEAN có tốc độ tăng trưởng cao, giá lao động đang đắt lên và rất tích cực tìm thị trường đầu tư cho những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động… sẽ tìm thấy ở Việt nam một thị trường dung lượng lớn, có thể đáp ứng được các yêu cầu về dịch chuyển cơ cấu kinh tế của họ. Mặt khác, với những lợi thế so sánh đang có của mình về lao động, tài nguyên và thị trường, Việt nam sẽ có địa vị thuận lợi hơn trên con đường phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Do đó, có thể nói rằng Việt nam gia nhập ASEAN, tham gia AFTA là phù hợp với xu thế chung của thế giới và nguyện vọng bổ sung lẫn nhau của các quốc gia trong khu vực. Việt nam hội nhập ASEAN là mẫu hình mới của sự hội nhập giữa các nền kinh tế có trình độ phát triển không đều, đi theo những chế độ chính trị - xã hội khác biệt nhưng có cùng bản sắc văn hóa và sự tương đồng nhiều điểm về địa lý - kinh tế. Đây cũng có thể coi là sắc thái mới của sự phát triển thế giới trong cái gọi là “kỷ nguyên châu Á” đặt tất cả các nước trong khu vực trước sự cần thiết phải tham gia vào các tổ chức hợp tác khu vực vì mục đích tạo ra sức mạnh và ảnh hưởng chung nhằm nâng cao thế thương lượng cạnh tranh của nhau trên trường quốc tế… Những lý giải trên cho thấy Việt nam gia nhập ASEAN là một sự kiện có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đây có thể còn là một bước tiến đáng kể trong việc thực hiện chủ trương của Việt nam là đa phương hóa các quan hệ đối ngoại, góp phần ổn định và xây dựng một Đông Nam Á hòa bình, ổn định và phồn vinh. Cùng với việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, ký kết Hiệp định hợp tác với liên minh châu Âu (EU), việc trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN đã báo hiệu một thời kỳ phát triển mới của Việt nam: thời kỳ hội nhập khu vực và thế giới, chấm dứt những năm tháng bị bao vây cô lập với bên ngoài. Với việc gia nhập ASEAN, Việt nam không chỉ mở cửa mà thực sự đã bước ra thế giới. Mặt khác, việc ASEAN kết nạp Việt nam với tư cách là thành viên đầy đủ của tổ chức này đã góp phần khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Việt nam đồng thời cũng thể hiện sự đánh giá cao của công đồng quốc tế đối với những thành tựu to lớn của công cuộc đối mới Việt nam. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trên 8% hàng năm liên tục nhiều năm qua trong điều kiện chính trị ổn định, Việt nam đã trở thành một gương mặt sáng giá trong sự hợp tác khu vực Đông Nam Á. Hơn nữa, tham gia ASEAN và thực hiện AFTA, Việt nam sẽ có điều kiện thuận lợi trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộg quan hệ thương mại, tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ ASEAN và các nước phát triển cao hơn để thúc đẩy tiến trình chuyển đổi nền kinh tế của mình. Đồng thời, gia nhập ASEAN là cơ hội, môi trường thuận lợi để Việt nam đối chiếu, tham khảo và thúc đẩy công cuộc cải cách và theo tư cách mới, Việt nam sẽ có điều kiện đóng góp có hiệu quả vào các nỗ lực chung của cả Hiệp hội. 2. Những cơ hội và thách thức đối với Việt nam khi tham gia AFTA. Ngày 28/07/1995 Việt nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, với tư cách là thành viên của hiệp hội, tháng 12 năm 1995 tại Hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN lần thứ 5, Việt Nam đã thực hiện chương trình ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung CEPT bắt đầu từ 01/01/1996, công bố danh mục và tiến trình cắt giảm thuế quan cho cả lộ trình 1996 - 2000. Việt nam tham gia ASEAN, thực hiện AFTA/CEPT trong hoàn cảnh kinh tế không giống các nước thành viên khác. Hiện nay, Việt nam đang ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Mức tăng tổng sản phẩm trong nước từ 6% năm 1991 lên 8,8% năm 1994 và đạt 9,5% năm 1995. Mức tăng GDP bình quân cả thời kỳ 1991 - 1995 là 8,2%/năm. Trong đó GDP bình quân trong ngành nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp tăng 13,3%/năm và dịch vụ tăng 12%/năm. Cơ cấu kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế cũng thay đối lớn. GDP trong sản xuất công nghiệp cũng tăng từ 22,6% năm 1990 lên 29,1% năm 1995 và thương mại dịch vụ tăng từ 38% năm 1990 lên 41,9% năm 1995, trong đó GDP trong sản xuất nông nghiệp giảm từ trên 38% xuống còn 29% năm 1995. Trong lúc phải duy trì một nền kinh tế tăng trưởng tương đối mạnh thì Việt Nam đã kiểm soát và kiềm chế được lạm phát một cách có hiệu quả từ 67% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992, 5,2% năm 1993, 14,4% năm 1994, 12,7% nă m 1995 và dự kiến năm 1996 lên đến 10%. Tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam 1991 - 1995 là 19,3 tỷ USD. Tính đến 13/08/1996 cả nước đã có 55 nước đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn là 22 tỷ USD trong đó vốn đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt nam đạt gần 4 tỷ USD chiếm 17% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Các dự án đầu tư của ASEAN tập trung vào một số lĩnh vực như công nghiệp lắp ráp, xây dựng, khách sạn, du lịch… với công nghệ thích hợp tạo nhiều công ăn việc làm. Dự báo trong thời gian tới đầu tư trực tiếp của các thành viên ASEAN khác vào Việt nam có thể còn tăng nhanh trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, công nghiệp chế biến với quy mô vừa và nhỏ. Thu nhập bình quân đầu người của Việt nam năm 1995 là 230 USD/người. Đây là nước có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất so với tất cả các nước hiện là thành viên của ASEAN. Dự trữ ngoại tệ của Việt nam còn rất thấp, năm 1995 đạt 1 tỷ đôla trong khi đó của Singapore là 53 tỷ đôla, Thailand 37 tỷ đôla. Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng và phát triển Việt nam đã có quan hệ thương mại với trên 105 nước và bạn hàng trên thế giới. Tổng giá trị xuất khẩu trong 5 năm đạt trên 17 tỷ đôla với mức tăng xuất khẩu đạt bình quân 20%/năm. Tổng giá trị nhập khẩu 1991 - 1995 đạt 21 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt nam là nông lâm hải sản, hàng may mặc và một số hàng hóa công nghiệp khác. Việt nam chú trọng nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất công nghiệp, nguyên liệu, phụ liệu phục vụ cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng của nhân dân như điện tử, hàng gia dung , may mặc…. Trong khoảng 5 năm lại đây thị trường các nước ASEAN thông thường chiếm 1/3 tổng kim ngạch ngoại thương của nước ta. Dự báo những năm tới tỷ trọng này có thể giảm xuống nhưng không dưới 1/4 kim ngạch ngoại thương Việt nam. Tham gia AFTA nếu thuế quan được cắt giảm còn 0 - 5%, hàng rào phi thuế quan được giảm bớt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nước trong khu vực tăng nhanh kim ngạch mậu dịch nội bộvà Việt nam cũng trở thành nơi cung cấp lượng hàng hóa khá hơn cho khu vực thị trường có hơn 400 triệu dân này. Tóm lại, Việt Nam gia nhập ASEAN và tham gia AFTA là phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và quá trình phát triển kinh tế thế giới, mặc dù có những khác biệt với các thành viên khác nhau về chính trị, kinh tế, xã hội… Những khác biệt đó cản trở lịch trình tham gia AFTA và thực hiện CEPT của Việt Nam . Để hội nhập nhanh chóng và có điều kiện phát triển kịp với các nước trong ASEAN Việt nam cần ý thức được rõ những thuận lợi, những cơ hội có được, những thách thức, những khó khăn cần vượt qua để đề ra những quyết sách thích hợp với công cuộc đổi mới của đất nước. Việt nam đang từng bước tham gia cắt giảm thuế theo chương trình CEPT vừa phát triển kinh tế thương mại vừa bảo đảm nguồn thu ngân sách và hỗ trợ sản xuất trong nước. Riêng về vấn đề loại bỏ các biện pháp phi thuế quan theo hiệp định CEPT thì Việt Nam đang nghiên cứu để ban hành bổ sung các biện pháp tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng thay vì các biện pháp phi thuế quan ở Việt Nam còn rất đơn giản, chủ yếu là đang ở dạng hạn ngạch và giấy phép. Gia nhập ASEAN trong lĩnh vực hải quan đang chuẩn bị mọi mặt để sớm ký kết hiệp định hải quan với các nước thành viên khác của ASEAN, thống nhất các biện pháp để kiểm tra hải quan, để xác định giá hải quan và tính thuế. Thực hiện các văn bản mẫu tờ khai và quy trình làm thủ tục hải quan, thống nhất triển khai hệ thống hành lang xanh cho các sản phẩm CEPT nhằm đơn giản hóa và thuận lợi hóa các thủ tục cho các sản phẩm CEPT khi tham gia quan hệ mậu dịch giữa các nước là thành viên ASEAN. Tác động của AFTA đối với hoạt động thương mại và đầu tư của Việt Nam. a). Nhìn từ góc độ thương mại. AFTA tạo môi trường đồng thời cũng tạo sức ép để các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng sức cạnh tranh của mình ngay trên thị trường trong nước, trước khi bước ra thị trường ASEAN và thị trường thế giới. Khả năng cạnh tranh của hàng hóa phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là chất lượng, chủng loại, mẫu mã, giá cả...Tham gia AFTA sẽ có một tác động trực tiếp nhất tới yếu tố giá cả của hàng hóa bởi vì với việc cắt giảm thuế, đơn giản hóa các thủ tục buôn bán thì giá bán của hàng hoá sẽ hạ hơn. Các yếu tố khác như chất lượng, mẫu mã cũng sẽ thay đổi thách ứng do sức ép của cạnh tranh trong nội bộ ASEAN. Vận dụng cụ thể điều này vào Việt Nam có thể thấy như sau: Về nhập khẩu: Trong những năm gần đây, hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN vào Việt Nam chiếm 30% tổng kim ngạch nhập khẩu, trong đó nguyên vật liệu dùng cho sản xuất và hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn (máy móc thiết bị: 39%, nguyên, nhiên liệu: 32% và hàng tiêu dùng: 9%- theo số liệu năm 1995). Trong điều kiệnViệt Nam đang thi hành chính sách đổi mới công nghệ để đẩy mạnh công nghiệp hóa, các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT. Do vậy, tham gia AFTA không gây tác động trực tiếp đối với việc nhập khẩu những mặt hàng này. Tuy nhiên, AFTA sẽ gián tiếp có tác động đến những sản xuất sử dụng các nguồn gnuyên liệu nhập khẩu. Điều đặc biệt đáng lưu ý là một số các mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy...vì chưa đưa vào danh mục giảm thuế theo CEPT nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của AFTA. Hiện nay 857 mặt hàng là những hàng hóa vật tư phục vụ sản xuất và tiêu dùng thiết yếu thuộc một nửa tổng số nhóm mặt hàng hiện có thuế xuất nhập khẩu ở mức 0-5% đã được đưa vào danh sách tham gia CEPT kể từ1/1/1996. Như vậy, về thực chất Việt Nam vẫn đang "bên lề" của AFTA, nghĩa là AFTA hầu như không có ảnh hưởg gì đến sản xuất trong nước cũng như buôn bán. Về xuất khẩu: theo lý thuyết, việc Việt Nam tham gia AFTA có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các nước ASEAN khi các hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước này cắt giảm. Một thị trường rộng lớn, kề bên, có đòi hỏi về chất lượng không quá cao cộng với các ưu đãi buôn bán theo AFTA sẽ là cơ hội lớn mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nói cách khác, có được thị trường tiêu thụ mới sẽ là một yếu tố giúp huy động tiềm năng lao động và tài nguyên dồi dào của Việt Nam vào phát triển xuất khẩu. Do vậy, trong mấy năm vừa qua, tốc độ tăng bình quân kim ngạch buôn bán của Việt Nam với các nước ASEAN là 27%/ năm. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đã chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với thế giới. Ở đây có một vấn đề nảy sinh là liệu khi thực hiện AFTA, tốc độ và tỷ trọng của kim ngạch buôn bán của Việt Nam với ASEAN có tăng đáng kể và có ảnh hưởng lớn đối với sản xuất trong nước không? Xét về cán cân buôn bán, Việt Nam luôn ở thế nhập siêu với ASEAN vì kim ngạch xuất sang ASEAN chỉ chiếm 1/4 tổng kim ngạch xuất khẩu, còn kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN lại chiếm chừng 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu. Mặc dù xuất khẩu đã có gia tăng nhờ xuất khẩu mạnh dầu thô sang Singapore và một số nông sản sang các nước ASEAN khác, song triển vọng gia tăng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN chưa có gì hứa hẹn đáng kể về phương diện thay đổi cơ cấu mặt hàng. Vì lẽ những mặt hàng chủ lực xuất khẩu của Việt Nam như dầu thô, hàng nông sản đều là những mặt hàng hiện các nước ASEAN không đưa vào danh mục cắt giảm thuế và do vậy không được thụ hưởng các ưu đãi của AFTA. Tuy nhiên, trong số các mặt hàng nông sản cũng có những mặt hàng được các nước thành viên ASEAN bổ sung vào CEPT để áp dụng ngay, song tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại rất nhỏ. Trong khi đó, tác động kích thích chủ yếu của CEPT là đối với các mặt hàng công nghiệp chế biến mà điều này Việt Nam lại chưa có ưu thế so với các nước có trình độ phát triển cao trong khu vực như Singapore, Malaisia, Thailand. Những mặt hàng công nghiệp chế biến của Việt Nam chỉ mới chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu, dầu thô, nhiên liệu: 48%, nông sản thực phẩm: 34% (theo số liệu năm 1993) và phần lớn không có khả năng cạnh tranh. Ngay cả sau khi đã thực hiện giảm thuế theo AFTA với thuế suất dưới 5% cho những mặt hàng công nghiệp chế biến mà Việt Nam có thể tăng cường xuất khẩu trong tương lai như đồ nhựa, da ,cao su, dệt máy, đá quý... mức tăng xuất khẩu về chúng cũng sẽ không lớn. Như vậy, xét theo cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam hiện nay và trong vòng vài năm tới, lợi ích mà Việt Nam thu được từ AFTA là không đáng kể. Điều khó khăn nhất cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong việc thụ hưởng các ưu đãi AFTA là sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam so với hàng hóa các nước ASEAN còn rất yếu ớt. Sự yếu kém này được thể hiện trên hai phương diện: Một là, hàng công nghiệp Việt Nam đã và đang sản xuất tương đối giống về chủng loại với hàng hóa của các nước ASEAN. Hai là, với trình độ công nghệ thua kém hơn, Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của chủng loại, mẫu mã và do đó chỉ có ý nghĩa bổ sung vào cơ cấu kinh tế của các nước này. Cũng vì lẽ đó, giảm thuế nhập khẩu của các nước ASEAN sẽ không làm tăng rõ rệt sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường khu vực. Từ lập luận trên, có thể rút ra kết luận rằng: Việt Nam chỉ thể tận dụng các ưu đãi của AFTA để mở rộng thị trường xuất khẩu sau khi tập trung đầu tư nâng cao chất lượng, giảm giá thành và đổi mới cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, cũng do sự giống nhau về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, cả Việt Nam và các nước ASEAN, cần xem xét một cách nghiêm túc và điều chỉnh một cách linh hoạt cơ cấu mặt hàng xuất khẩu trong tiến trình thúc đẩy quan hệ thương mại. Xét về mặt bạn hàng, 2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN là được thực hiện với Singapore, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Singapore và được tiếp tục tái xuất sang các nước khác. Do Singapore là cảng trung chuyển của thương mại quốc tế, hệ thống thuế xuất nhập thấp, gần như bằng 0 nên 98% tổng số mặt hàng đã nằm trong khung CEPT với mức thuế suất bằng 0, tức là miễn thuế hoàn toàn. Do vậy, khi thực hiện CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch buôn bán còn lại của Việt Nam với các nước khác ngoài Singapore sẽ chưa làm thay đổi được bao nhiều đối với cục diện xuất khẩu của Việt Nam nếu xét theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu thấp. Chỉ khi nào mà Việt Nam thực hiện được sự dịch chuyển cơ cấu sản xuất khẩu theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm được các thuận lợi về yếu tố giá cả khi muốn xuất khẩu sang ASEAN. Như vậy, nhìn chung AFTA không có những tác động trực tiếp đáng kể tới xuất nhập khẩu của Việt Nam. Nói cụ thể hơn, AFTA sẽ không tạo ra được những bước nhảy vọt hoặc thay đổi về chất đối với ngoại thương Việt Nam nếu không thay đổi căn bản về cơ cấu sản xuất hàng hóa trong nước. Dĩ nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng và quy mô sức mua của thị trường trong nước sẽ có những biến đổi lớn. Khi sức mua của nhân dân được nâng cao, những ưu đãi của AFTA, hàng hóa của ASEAN sẽ xác lập được các vị trí xứng đáng trên thị trường Việt Nam, ít nhất cũng tạo ra đối trọng và thay thế dần hàng Trung Quốc hiện đang tràn ngập với giá thấp và chất lượng không cao. Đối với việc mở rộng các quan hệ buôn bán ra ngoài ASEAN, AFTA đồng nghĩa với việc giành cho các nước ASEAN nhiều ưu đãi về thuế và phi quan thuế. Cụ thể đối với Việt Nam, lợi ích mà AFTA mang lại cho sản xuất để xuất khẩu ra ngoài ASEAN là giảm giá thành sản xuất nhờ mua được vật tư đầu vào với giá hạ hơn từ các nước ASEAN. Mặt khác, khi tham gia AFTA với tư cách là một thành viên chính thức, Việt Nam có điều kiện để khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với các nước lớn. Chẳng hạn trong tương lai Việt Nam có thể được thụ hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập của Mỹ(GSP) quy định "giá trị một sản phẩm được sản xuất ở tại nước thành viên của một hiệp hội kinh tế, khu vực mậu dịch tự do (kiểu ASEAN) thì được coi là sản phẩm của một nước" và một sản phẩm được nhập khẩu vào Mỹ được hưởng GSP nếu " giá trị nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản phẩm sau khi hoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ". Điều đó cũng có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các nước thành viên khác để sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ và hàng xuất khẩu sẽ được hưởng GSP nếu giá trị nguyên liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Hơn nữa, Việt Nam tham gia AFTA là thực tế, là bước chuẩn bị và cũng là một chứng minh đầy tính thuyết phục để APEC và WTO sớm kết nạp Việt Nam, tức là Việt Nam có điều kiện để hội nhập vào tiến trình tự do hóa thương mại quốc tế trên quy mô ngày càng rộng lớn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, các nước ASEAN cũng xuất khẩu sang thị trường thế giới những hàng hóa tương tự như Việt Nam và với AFTA họ cũng được hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, trong việc mở rộng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ngoài ASEAN, Việt Nam phải chấp nhận có sự cạnh tranh không kém phần quyết liệt với các nước thành viên trong hiệp hội. b). Tác động của AFTA nhìn từ góc độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Đầu tư từ các nước thành viên ASEAN khác vào Việt Nam. Cho đến nay ASEAN vẫn là khu vực tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài từ các nền kinh tế phát triển nhanh và năng động của thế giới các nền kinh tế thuộc ASEAN đã tạo điều kiện cho các nước này có thêm khả năng và nhu cầu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Theo số liệu của Ban thư ký ASEAN, vốn đầu tư ra nước ngoài của ASEAN đạt xấp xỉ 3 tỷ USD mỗi năm, trong đó đầu tư trong nội bộ ASEAN chiếm khoảng 15% con số này. Các nhà đầu tư ASEAN chiếm vị trí đáng kể và khá quan trọng ở Việt Nam. Tính đến quý I/1996, các dự án đầu tư từ ASEAN được cấp giấy phép đã lên tới 3,2 tỷ USD, chiếm 17% tổng số dự án và tổng vốn đầu tư. Các dự án đầu tư ASEAN, trừ lĩnh vực khai thác và lọc dầu, đều tập trung vào một số lĩnh vực công nghiệp lắp ráp, xây dựng và kinh doanh khách sạn... là những dự án không đòi hỏi công nghệ cao. Các nhà đầu tư ASEAN tìm thấy ở Việt Nam thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng, nguồn nhân công rẻ và cũng là nơi để thực hiện chuyển giao lại những công nghệ đơn giản, sử dụng nhiều lao động không còn thích hợp ở nước họ. Những định hướng này được thúc đẩy thông qua việc tham gia AFTA và chính các quan hệ hợp tác trên phạm vi quốc gia, ngành và ở cấp doanh nghiệp giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN đã tạo cho các nhà đầu tư ASEAN những lợi thế đáng kể so với các nhà đầu tư nước ngoài khác. Các quyết định về thương mại, hải quan trong AFTA cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư ASEAN, đặc biệt đối với các dự án đòi hỏi sự trao đổi, phối hợp về sản phẩm giữa các cơ sở sản xuất trong nước của họ với các cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Hơn nữa, sự tham gia của Việt Nam vào AFTA ít nhất cũng sẽ tạo ra một số thuận lợi về thủ tục hành chính và về tâm lý cho các nhà đầu tư ASEAN. Về đầu tư của ASEAN vào Việt Nam dưới tác động của AFTA có thể thấy là trong điều kiện của Việt Nam hiện nay nó tác động tới tăng trưởng kinh tế. Những công nghệ thích hợp ở trình độ trung bình được chuyển giao theo mô thức"hiệu ứng làn sóng" từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ có tác dụng tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Mặc dù thế mạnh của các nước ASEAN trong đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải nằm ở các ngành công nghiệp có công nghệ cao, thậm chí không phải ở các lĩnh vực công nghiệp chế biến quy mô lớn, người ta vẫn có thể dự báo rằng đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tiếp tục được khuyến khích mạnh trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, công nghiệp vừa và nhỏ. Điều này sẽ được đẩy nhanh nhờ Hiệp định bảo hộ đầu tư, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và chương trình thiết lập khu vực. - Đầu tư từ các nước bên ngoài ASEAN vào Việt Nam. Việc thực hiện AFTA chắc chắn cũng sẽ làm tăng nhanh nguồn đầu tư nước ngoài trực tiếp từ các nước bên ngoài ASEAN vào khu vực này nói chung, vào Việt Nam nói riêng. Đây là mục tiêu chủ yếu và lâu dài của tiến trình thực hiện AFTA. Đối với các nhà đầu tư ngoài ASEAN, Việt Nam có một thị trường tiềm năng lớn với gần 80 triệu dân, chi phí lao động thấp, có khả năng tiếp nhận nhanh chóng kỹ thuật mới, vị trí địa hình thuận lợi và những khuyến khích về tài chính hấp dẫn. Với chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường chính trị ổn định, hiện nay Việt Nam đã thu hút được gần 20 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngoài những tác động tích cực của xu thế Việt Nam từng bước mở cửa ra thị trường thế giới theo phương thức đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Việc Việt Nam hội nhập ASEAN và tham gia AFTA còn tạo ra những lợi thế cụ thể , đặc thù để khuyến khích và thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài . Vì rằng, theo quy định của AFTA , một sản phẩm được coi là có xuất xứ từ các nước ASEAN , tức là điều kiện cần để được hưởng ưu đãi của AFTA, nếu 40% hàm lượng giá trị của sản phẩm này có xuất xứ từ một nước ASEAN bất kỳ . Yêu cầu này thấp hơn so với yêu cầu tương tự ở các khối mậu dịch tự do khác. Việc đầu tư để sản xuất tại một nước nằm bên trong AFTA và bán sản phẩm cho các nước thuộc AFTA rõ ràng sẽ đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư .Vì vậy, các dự án đầu tư Việt Nam không chỉ được các nh._.uan tâm đến thị trường đầu tư của Việt Nam . Quy mô bình quân của dự án ở mức trung bình khoảng 25 triệu USD. Trong quy mô bình quân của dự án của đầu tư trực tiếp của cả nước là 16,6 triệu USD. Tuy nhiên cuộc khủng khoảng tài chính Đông Nam á làm giảm mạnh dòng vốn đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam. Điều đó chứng tỏ năng lực tài chính của các chủ đầu tư ASEAN chưa mạnh. Từ những đặc điểm trên có thể đi đến nhận xét rằng dòng vốn của các nước ASEAN vào Việt Nam tuy nhanh nhưng không ổn định. CHƯƠNGIII MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN CỦAVIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH THỰC HIỆN AFTA I. Triển vọng của tình hình thực hiện AFTA. 1. Những vấn đề đặt ra trong tiến trình AFTA. Như đã phân tích, AFTA ra đời là phù hợp với quy luật vận động nội tại của các nền kinh tế ASEAN trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hóa. Song với tính cách là một tổ chức hợp tác kinh tế có thế chế, AFTA dường như là một dạng của" mô hình phát triển rút ngắn" của liên kết kinh tế khu vực và trên thực tế, nó không có được những điều kiện chuẩn bị chín muồi các bước liên kết khu vực giống như EU, NAFTA. Do đó, AFTA hình thành trước tiên chỉ như là một hiệp định khung, có phần hơi đơn giản còn các nội dung và lịch trình của Hiệp định lại chỉ được soạn thảo, sửa đổi và bổ sung đồng thời với tiến trình tổ chức và thực hiện chúng. Chẳng hạn, tại Hội nghị các Bộ trưởng Kinh tế lần thứ 28 vào ngày 26/9/1996 tại Jakarta (Indonesia) các quan chức cao cấp ASEAN mới đề cập đến một loạt vấn đề mà các hội nghị trước đó chưa dự tính đến như: xác lập cơ chế đối thoại với các khối thương mại ngoài ASEAN, vấn đề khu vực tư nhân trong việc phát triển các sáng kiến thúc đẩy các xí nghiệp vùa và nhỏ trong tiến trình AFTA, việc sử dụng các tiêu chuẩn chuyển đổi để điều chỉnh nguyên tắc xuất xứ đối với các sản phẩm hàng dệt v.v... Đó là những bước hoàn chỉnh Hiệp định là hoàn toàn cần thiết và dễ hiểu vì lẽ các vấn đề chỉ nảy sinh và được phát triển trong quá trình thực hiện. Song sẽ là khó khăn và bất lợi nếu một trong các quyết định bổ sung đó lại có ảnh hưởng lớn tới sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu thương mại và đầu tư của các nước thành viên và trong những trường hợp này, khó có thể tính hết được các phản ứng tiêu cực từ phía các nước gặp bất lợi. Cũng xuất phát từ thực tế đó, chiều hướng một số các nước ASEAN có đề xuất về một kế hoạch hoàn thành AFTA khẩn trương hơn vào nămsau 2000 đang gây ra một sự lo ngại đáng kể cho những thành viên còn lại. Những nước có chính sách điều chỉnh bảo hộ công nghiệp nặng nề trước đây như Indonesia, Philippine và có trình độ phát triển còn thấp như Việt Nam chắc chắn sẽ không thích ứng ngày được với những chuyển đổi quá nhanh như vậy khi mà hiện nay, ngay cả theo lôgíc thực hiện bình thường, họ đang là những nước gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng lịch trình giảm thuế cho đến năm 2003. Việc kết thúc nhanh AFTA trên ý nghĩa là sự "bắt kịp" với các chuyển đổi nhanh chóng của APEC, WTO và nâng cao thế thương lượng cạnh tranh của ASEAN với EU, AFTA, cũng cần phải tính đến sự lớn mạnh của bản thân từng quốc gia thành viên. Các nước có trình độ phát triển như Singapore, Malaisia, Thailand cũng không thể "kéo" được các quốc gia khác khi mà các nước đó không đủ năng lực để tiếp nhận tự do hóa. Tính bất cập của sự liên kết nội bộ ASEAN còn được nhân lên khi mà theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi quốc gia thành viên, lộ trình AFTA ở các nước thành viên ASEAN được bắt đầu và kết thúc không cùng lúc. Vì dụ, Singapore và Malaisia bắt đầu thực hiện AFTA từ 01/01/1993, Bruney từ năm 1994, Indoneisia từ năm 1995, Philippine bắt đầu từ 01/01/1996, và Việt Nam được phép hoàn thành AFTA muộn hơn vào năm 2006. Lào và Mianma còn muộn hơn nữa, vào năm 2008 hoàn thành AFTA. Ngoài sự khác biệt về tiến trình chung, trong từng nội dung cũng còn tồn tại những quy định không đồng nhất. Chẳng hạn, Indonesia bắt đầu đưa gạo và đường vào chương trình giảm thuế của AFTA vào năm 2003 trong khi từ 01/01/1996 Philippine đã phải cung cấp các số liệu ban đầu về tỷ lệ thuế suất cuối cùng và vấn đề an toàn nông phẩm cho Hội nghị các Bộ trưởng Kinh tế, mặc dù chương trình này các nước đều được phép kết thúc vào năm 2010. Tính không đồng nhất này sẽ đưa đến một tình hình là điều kiện được hưởng ưu đãi AFTA giữa các nước sẽ có sự khác nhau về trật tự mức độ, thời gian. Điều này có thể gây khó khăn cho việc phối hợp thực hiện và đồng thời có thể gây nguy cơ dẫn tới sự phân rã sức mạnh của Hiệp hội. Hiện nay, Hội nghị các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 28 đang đề nghị các quan chức kinh tế cấp cao vạch ra mô hình hợp tác kinh tế thích hợp sau năm 2003, tức là khi lịch trình AFTA đã hoàn thành. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với hợp tác kinh tế ASEAN nhằm tăng cường sức mạnh của nó cũng như hạn chế những bất đồng có thể xảy ra trong sự tiến triển còn thiếu tính đồng nhất về nhiều mặt của cấu thành thể chế AFTA. Các nền kinh tế ASEAN có cấu tạo về lợi thế so sánh tương đối giống nhau mặc dù trên thực tế trong ASEAN đang hình thành hai loại dù trên thực tế trong ASEAN đang hình thành hai loại nhóm nước: những nước có lợi thế về công nghệ và công nghiệp chế biến như Singapore, Malaisia, Thailand và những nước có lợi thế về tài nguyên và lao động như Việt Nam, Indonesia, Philippine và Bruney. Hơn nữa, sản phẩm hàng hoá của ASEAN nhìn chung mang tính cạnh tranh chưa cao mặc dù xét về mặt cơ cấu, chúng tương đối giống nhau. Đây là hai khía cạnh khiến mức độ chuyển hoàn mậu dịch giữa các nước ASEAN chưa cao. Nếu giữa các nền kinh tế ASEAN không có sự phân công lao động hợp lý dựa vào lợi thế thực sự của từng nước, AFTA dù có hoàn thành vẫn không thể mang lại cho ASEAN được những mục tiêu đã định. Mặt khác, từ hai lý do trên, các công ty đa quốc gia bên ngoài ASEAN sẽ chỉ đầu tư trực tiếp nhiều hơn vào những nước nào có môi trường đầu tư thuận lợi. Do đó, để cho toàn khu vực ASEAN trở nên hấp dẫn đầu tư và phát huy được lợi thế so sánh của tất cả các nước, các thành viên ASEAN phải có một chiến lược sắp xếp cơ cấu sản xuất hợp lý, tham gia vào sự phân công lao động khu vực ASEAN theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, từng bước nâng cao các lợi thế thị trường khu vực và thế giới. Vấn đề này còn được quy định trực tiếp bởi hai khía cạnh của AFTA. Thứ nhất, theo quy định của AFTA một sản phẩm được coi là có xuất xứ ASEAN nếu 40% hàm lượng giá trị của sản phẩm này có xuất xứ từ một nước ASEAN bất kỳ. Theo đó, việc đầu tư để sản xuất tại một nước nằm bên trong AFTA và bán sản phẩm cho các nước thuộc AFTA sẽ mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư nhờ được thụ hưởng các ưu đãi của nó. Vì vậy, khi đầu tư vào các nước ASEAN, các nhà đâu tư nước ngoài đã không chỉ xem xét thị trường tiêu thụ của nước đó mà còn tính tới thị trường tiêu thụ của nước đó mà còn tính tới thị trường của cả ASEAN. Thứ hai, việc xem xét thị trường ASEAN còn giúp các nhà đầu tư nước ngoài có chiến lược xây dựng các cơ sở của mình ở các nước ASEAN theo một mạng lưới chung nhằm “tối ưu hóa” việc khai thác các lợi thế so sánh của từng quốc gia và việc sử dụng các nguồn lực theo hướng chuyên môn hóa. Tuy nhiên, cũng từ đây nảy sinh một vấn đề rất đáng quan tâm là việc thị trường ASEAN sẽ gặp phải một khả năng là các nhà đầu tư thay vì phải đầu tư vào một nước nào đó để chiếm lĩnh thị trường nước này thì hiện nay có thể đầu tư mới hoặc mở rộng những cơ sở đầu tư đã có ở một nước ASEAN khác thuận lợi hơn để xuất khẩu hàng hóa sang nước kia mà vẫn được hưởng ưu đãi AFTA. Nghĩa là, trong xu thế thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng lớn vào ASEAN, giữa các nước sẽ có sự khác nhau về mức độ và những nước nào có môi trường đầu tu không thuận lợi, giá lao động càng cao thì mức độ thu hút đầu tư càng thấp. Điều này có thể dẫn đến tình trạng thay vì hợp tác trong đầu tư, nguy cơ về cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài của ASEAN sẽ ngày càng quyết liệt và ở chừng mực nào đó, AFTA có thể bị làm chậm lại. AFTA không phải là cơ chế thành lập hàng rào chống lại các nước ngoài ASEAN khi việc hình thành AFTA dẫn đến xóa bỏ thuế nhập khẩu và các hàng rào phi quan thuế trong nội bộ ASEAN nhưng vẫn giữ nguyên thuế nhập khẩu đối với các nước bên ngoài. Tác động của cơ chế này là việc phân bố lại các luồng buôn bán với bên ngoài khu vực cũng sẽ thay đổi. Dĩ nhiên, trên một mạng lưới thương mại và đầu tư thống nhất, sự kiểm soát và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước AFTA sẽ hình thành nên một tương quan mới trong quan hệ với các nước bên ngoài ASEAN. AFTA sẽ không phải là một khối thương mại khép kín, đối lập với các nước bên ngoài ASEAN mà trái lại, nó là bước chuyển về chất để nâng cao hiệu quả hợp tác với các nền kinh tế ngoài ASEAN. Khi các nền kinh tế ASEAN có năng lực cạnh tranh cao, chúng sẽ ngày càng có lợi thế trong các xu thế tự do hóa thương mại đa biên. Hơn nữa, trên thực tế, các nền kinh tế hướng ngoại của ASEAN lại rất nhạy cảm trong việc đeo đuổi các chính sách thương mại ngoài khu vực. Có hai lý do quy định vấn đề này: một là, thị trường bên trong ASEAN tương đối nhỏ và bản thân sự tăng trưởng của các nền kinh tế ASEAN lại lệ thuộc đáng kể vào các thị trường Mỹ, Nhật và NIEs Đông Á. Do đó, có thể nói rằng, AFTA không phải là một sự chọn lựa để hội nhập vào thị trường thế giới. Song đó là con đường tốt nhất để cải thiện năng lực cạnh tranh của ASEAN cũng như thúc đẩy thương mại và đầu tư của nó. Hiện tại, hầu hết các thành viên ASEAN, đặc biệt là các nước có trình độ phát triển cao như Singapore, Malaisia… đang hướng mạnh vào con đường phát triển chế độ thương mại đa biên - một xu hướng chung của tự do hóa thương mại và đầu tư toàn cầu. Điều này không hề mâu thuẫn với AFTA song vẫn hoàn toàn có thể gây trở ngại cho AFTA nếu một nước nào đó trong khi đeo đuổi các quan hệ thương mại đa biên sẽ xa rời dần với các nguyên tắc của AFTA. Đó là chưa kể đến các tình trạng trì hoãn hoặc đi ngược lại với các quy định của AFTA khi họ đang thực hiện các tư cách thành viên trong các quan hệ Hiệp định thương mại khác. Do đó, để tiến hành vững chắc lộ trình AFTA, các thành viên ASEAN còn phải luôn luôn tính đến các tiêu chí, các yêu cầu và các chiều hướng phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới. Các cam kết của AFTA phải nhất quán với các cam kết của WTO và cần tránh tạo ra những hàng rào mới cho các nước không phải là thành viên. Có quan điểm cho rằng, để hạn chế những mạo hiểm về thương mại từ AFTA, chiến lược tốt nhất đối với các thành viên ASEAN là cần phải tiếp tục tiến trình tự do hóa thương mại không ưu đãi (tức là tự do hóa thương mại với cả các nước ngoài ASEAN). Vấn đề cuối cùng cũng là vấn đề rất dễ dàng ngăn trở tiến trình AFTA đó là những quy định tạm thời cho phép các nước thành viên ASEAN được tiếp tục duy trì bảo hộ thị trường trong nước ở những mức độ nhất định. Chúng ta đều biết AFTA được sử dụng như một công cụ để cách tân thị trường nội địa, để cải tiến các thể chế điều tiết trong nước cho từng thành viên và ngược lại, chính những đổi mới từ bên trong thị trường mỗi nước là điều kiện để thực hiện AFTA thành công. Do vậy, AFTA là một quá trình mà trong đó từng nước được phép có lịch trình giảm thuế và phi quan thuế cụ thể của mình . Thực tế cho thấy rằng trong lộ trình AFTA của mỗi nước, những mặt hàng nào có giá trị xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hoặc có khối lượng tiêu thụ lớn trong nước đều được phép tạm thời chưa đưa vào danh mục giảm thuế vừa để tạo nguồn thu, vừa để có thời gian chuyển hướng sản xuất và do đó, nghiễm nhiên chúng đã được thực hành bảo hộ. Tuy nhiên, là sự bảo hộ có tính chất tạm thời, sự bảo hộ ở đây không phải là chính sách, chiến lược mà chỉ là sự điều chỉnh chiến thuật hỗ trợ ở chừng mực nhất định cho các ngành sản xuất trong nước. Nó sẽ bị triệt tiêu khi thời hạn hoàn tất lịch trình giảm thuế được thực hiện đồng thời ở tất cả các nước. Có thể nói, sự bảo hộ bằng duy trì thuế quan cao là sự bảo hộ công khai, dễ nhận biết. Còn cái mà chúng tôi muốn nhấn mạnh đến là các biện pháp bảo hộ phi quan thuế khó xác định, thường ẩn dấu đằng sau các chiến thuật điều chỉnh vĩ mô của các quốc gia như chính sách tỷ giá hối đoái, chính sách về kiểm định hàng hóa, chính sách về tiêu chuẩn kỹ thuật….là những nội dung khó có thể tạo ra được sự thống nhất hoàn toàn. Ở đây, nếu không giải quyết được một loạt các vấn đề về đầu tư, tài chính, dịch vụ, sở hữu trí tuệ…. Thì AFTA chỉ là một hiệp định thương mại đơn thuần và nếu không có sự hỗ trợ của các lĩnh vực này, AFTA sẽ gặp khó khăn do một số quốc gia vẫn tiếp tục lạm dụng những góc độ không có quy định và chưa có nguyên tắc phối hợp để thực hành các biện pháp bảo hộ mậu dịch. 2. Triển vọng của tính hình thực hiện AFTA: Cho dù còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục được làm sáng tỏ, AFTA đã thể hiện một bước chuyển đổi chiến lược đúng đắn của sự hợp tác kinh tế ASEAN. AFTA là cơ sở để xây dựng khu vực mở và là một đóng góp quan trọng vào tiến trình tự do hóa thương mại toàn cầu. Bản thân AFTA là bước mở đầu để đưa hiệp hội các quốc gia Đông Nam á đi từ liên minh thương mại đến các liên minh về thuế quan, liên minh tiền tệ, liên minh kinh tế. Các quốc gia thành viên được thụ hưởng các điều kiện ưu đãi do AFTA mang lại: có thị trường chung rộng lớn, các yếu tố đầu vào giảm, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và thông qua AFTA từng bước hội nhập vào các nền kinh tế thế giới. Trên các cơ sở này, các nước thành viên ngày càng phát huy được các lợi thế so sánh của mình. Cũng vì vậy, người ta có dự báo rằng trong những năm đầu của thế kỷ XXI, ASEAN vẫn là những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất vẫn là những kinh tế có hiệu suất của khu vực phát triển năng động nhất thế giới. Với việc Việt Nam gia nhập APEC vào năm 1998, ASEAN ngày càng có ảnh hưởng đáng kể đối với Diễn đàn Hợp tác kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hiện tại, Hiệp hội ASEAN đã quyết định kết nạp thành viên cuối cùng của Đông Nam Á - Cambodia vào tổ chức của mình. Từ ASEAN - 9 đến ASEAN - 10 và theo đó là việc nghiễm nhiên, Cambodia tham gia AFTA, khu vực mậu dịch tự do ASEAN sẽ được mở rộng về quy mô, đa dạng về trình độ, và là sự bổ sung về mặt cơ cấu để cả khu vực ASEAN thành một thế chế kinh tế thống nhất. Những kinh nghiệm và các vấn đề bức xúc đặt ra trong tiến trình thực hiện AFTA hiện nay sẽ là những bài học quý giá cho các thành viên đi sau. Nhìn chung, triển vọng ở AFTA không phải chỉ là hiệu quả thương mại và đầu tư nội bộ khu vực mà là ở việc AFTA đã đặt tất cả các nền kinh tế thành viên trước những sự chuyển đổi cần thiết từ bên trong, tìm ra được những điểm hòa đồng, bổ sung và thúc đẩy nhau với tư cách là một thể chế thống nhất có sức mạnh và ảnh hưởng lớn tới các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu khác. AFTA với tư cách là một sự nhất thể hóa thị trường khu vực, sẽ làm tăng sự lệ thuộc lẫn nhau vì sự cần thiết phải phối hợp với nhau về các chính sách kinh tế. Mọi sự chênh lệch về mức thuế quan sẽ được thu hẹp và khả năng mở ra cho một khu vực thương mại tự do hơn sẽ được đẩy mạnh. Những nhân tố chủ yếu quy định sự thành công của AFTA là: thứ nhất, với sự hội tụ của công nghiệp hóa, giảm thuế quan và các hàng rào phi quan thuế, phi điều chỉnh và tư nhân hóa, nguồn gốc tiềm tàng của xung đột và các vấn đề nảy sinh trong khu vực thương mại tự do sẽ bị thu hẹp. Thứ hai, với chương trình giảm thuế CEPT được kết hợp chặt chẽ với chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO), các lợi ích thu được từ AFTA sẽ được nhân lên gấp bội. Cùng với các chương trình hợp tác rộng rãi về nhiều lĩnh vực: tài chính, tiền tệ, sở hữu trí tuệ…và hợp tác theo vùng kinh tế khu vực như là với các tam giác, từ giác tăng trưởng ASEAN, thương mại và đầu tư nội bộ ASEAN sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ. Thứ ba, sự hài hòa trong khu vực về các tiêu chuẩn công nghiệp, luật đầu tư và các chính sách nội địa khác sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình nhất thể hóa. Thứ tư, với những thành công của vòng đàm phán Urugoay và sự tăng cường của WTO, APEC, Hiệp hội ASEAN nhất thiết phải cố gắng giảm thuế quan và phi quan thuế nhanh cho cả đối với các nước thành viên và không phải thành viên. Việc giảm thuế quan cho các thành viên bên ngoài ASEAN không chỉ ngăn cản sự chệch hướng thương mại trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN mà còn hỗ trợ cho tiến trình thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư của khu vực và thế giới. Mặt khác, nếu không có tự do hóa đầu tư và thương mại khu và thế giới, việc thực hiện AFTA sẽ vấp phải những trở ngại nghiêm trọng. Do đó, thực hiện AFTA trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa hiện nay đang tạo cơ hội tốt nhất cho các nước thành viên ASEAN tiếp tục mở rộng sự tăng trưởng năng động của nó. Một số giải pháp cơ bản của Việt Nam trong tiến trình thực hiện AFTA. II. Một số giải pháp cơ bản của Việt Nam trong tiến trình thực hiện AFTA: 1.Một số giải pháp từ phía nhà nước: Để tham gia hợp tác ASEAN và AFTA có hiệu quả đồng thời giữ vững được định hướng phát triển kinh tế, chính phủ Việt Nam cần tiếp tục phát hiện và hệ thống hóa những điểm khác biệt về cơ cấu, chính sách kinh tế, thủ tục hành chính trong nước so với nhu cầu thực hiện các chương trình hợp tác của ASEAN. Đây là cơ sở để xem xét, điều chỉnh, bổ sung một cách khoa học nhằm tạo môi trường pháp lý và điều kiện thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính và cải cách kinh tế của Việt Nam theo các phương hướng đã lựa chọn. Ngoài việc cung cấp thông tin một cách đầy đủ, có hệ thống phục vụ bộ máy làm công tác ASEAN ở tất cả các bộ, ngành, cần phổ biến rộng rãi các thông tin về ASEAN, về các nước thành viên ASEAN nhằm giúp các tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về đường lối hội nhập thế giới và khu vực của đất nước, trên cơ sở đó có thể tập hợp được những ý kiến đóng góp quý báu góp phần vào việc đề ra chính sách, giải pháp cụ thể nhằm tham gia có hiệu quả hơn vào các hoạt động của ASEAN. Để có thể tận dụng được các lợi thế so sánh của đất nước và thụ hưởng được các ưu đãi của AFTA về khả năng tăng xuất khẩu và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính phủ Việt Nam cần có một định hướng chiến lược phát triển các ngành kinh tế phù hợp với xu thế Việt Nam hội nhập ngày càng rộng và sâu vào kinh tế khu vực và thế giới. Chính sự hội nhập này là một nhân tố quan trọng tạo ra sức bật mưói cho cả nền kinh tế. Định hướng chiến lược phát triển các ngành kinh tế này phải là định hướng về xuất khẩu. Tất cả các biện pháp vĩ mô như thuế, thương mại, tài chính.... cần được thay đổi nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thành công định hướng chiến lược này. Cụ thể là chính phủ sẽ xác định ngành nào sẽ là ngành tạo ra được những ngành đó. Điểm đặc biệt đáng lưu ý là, do cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam chỉ có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh nếu đạt được các ưu thế về chất lượng và giá cả. Các biện pháp vĩ mô được các nhà kinh tế Việt Nam đưa ra hỗ trợ cho tiến trình này, đặc biệt là các đề xuất của giới nghiên cứu thuộc Bộ Tài chính và Viện kinh tế thế giới là hoàn toàn phù hợp . Thứ nhất, Về chính sách thuế: - Thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu để sản xuất xuất khẩu sẽ giảm đến mức thấp nhất, mặt hàng xuất khẩu này phải đưa ngay vào danh mục giảm thuế theo CEPT để hưởng ưu đãi khi xuất khẩu. - Thuế tiêu thụ đặc biệt đối với những mặt hàng này trong nhập khẩu sẽ nâng cao lên ở mức bảo hộ để các ngành sản xuất trong nước có điều kiện đẩy mạnh sản xuất những mặt hàng đó. - Không có thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm này. Do đó, cần có sự sửa đổi về cơ bản thuế nhập khẩu. Mức thuế nhập khẩu có thể hạ thấp phù hợp với yêu cầu của CEPT và có thể hạ đến mức thấp nhất để đáp ứng yêu cầu khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Còn các mức thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu không phải chịu cam kết giảm thuế sẽ được điều chỉnh phù hợp, đáp ứng được yêu cầu bảo hộ gián tiếp và đảm bảo cho nguồn thu ngân sách. Hơn nữa, để đáp ứng được yêu cầu của nguyên tắc đối sử quốc gia (NT) mức thuế tiêu thụ đặc biệt áp dụng cho hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước là như nhau, nếu có khác nhau để hỗ trợ sản xuất trong nước chỉ là khác về quy định tính giá thuế giữa sản phẩm nhập khẩu và sản xuất trong nước. Thứ hai, về chính sách thương mại: - Cần có sự điều chỉnh các biện pháp phi quan thuế theo hướng hỗ trợ cho việc thúc đẩy sản xuất trong nước những mặt hàng xuất khẩu. Các biện pháp phi quan thuế được áp dụng để bảo hộ cao nhất cho các mặt hàng xuất khẩu sẽ là các biện pháp kỹ thuật phúc tạp, tinh vi, những biện pháp về nhất lượng sản phẩm... có khả năng bảo hộ có hiệu quả, tránh được những khiếu nại của nước xuất khẩu. - Tập trung đầu mối xuất khẩu để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Có thể tập trung đầu mối xuất khẩu vào các tổng công ty chuyên ngành lớn để giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất nhập khẩu và vị thế đàm phán của các nhà xuất khẩu Việt Nam. Thứ ba, về chính sách đầu tư vốn: Đầu tư vốn để đổi mới công nghệ, đáp ứng các yêu cầu sản xuất xuất khẩu có thể thương lượng cạnh tranh cao là một giải pháp mang tính quyết định. Do đó chính sách vốn phải đạt ở mức ưu đãi nhất các ngành này theo hướng: - Cấp vốn lưu động, để lại khấu hao cơ bản nhằm tiếp tục thực hiện tái đầu tư trong các doanh nghiệp nhà nước. - Cho vay vốn với lãi suất ưu đãi nhất, sử dụng vốn ODA.... với nguyên tắc mức lãi suất của vốn vay này đảm bảo không được cao hơn mức lãi của vốn vay làm xí nghiệp nước ngoài sản xuất sản phẩm tương tự phải trả. - Cần công bố danh mục các lĩnh vực ưu tiên đầu tư nước ngoài, nhất là trong đầu tư vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu đồng thời sửa đổi các thủ tục xét duyệt và cho phép đầu tư nước ngoài nhanh chóng và thuận lợi nhất. - Để tham gia có hiệu quả vào các chuơng trình hợp tác của ASEAN và AFTA cần tìm ra các biện pháp khuyến khích để hàng hóa - dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập được vào thị trường của các nước ASEAN. Mặt khác, chính phủ cũng phải có các biện pháp để khuyến khích và quản lý một cách hợp lý của các doanh nghiệp ASEAN trên thị trường trong nước. Bên cạnh việc xây dựng chính sách phát triển của từng ngành, từng doanh nghiệp trên thị trường khu vực, Phòng Công nghiệp Thương mại Việt Nam cần có sự hỗ trợ để các doanh nghiệp tư nhân giữa các nước ASEAN có điều kiện tiếp xúc, trao đổi kinh nghiệm và xây dựng được những nền móng xâm nhập thị trường của nhau một cáhc vững chắc. 2. Một số giải pháp từ phía các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp phải nhận thức rõ rằng hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và hội nhập AFTA nói chung về bản chất là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh mở rộng thị trường cho hàng hoá và thương nhân Việt Nam vươn mạnh ra thị trường quốc tế và khu vực. Đồng thời, tạo cơ hội tranh thủ những tiến bộ về khoa học công nghệ mới phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà, trong đó nâng cao sức cạnh tranh của chính mình là yếu tố quyết định thành công. Các doanh nghiệp phải tổ chức nghiên cứu quán triệt các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung Ương Đảng để có định hướng đúng đắn, đồng thời đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu rõ nội dung cụ thể của các chương trình hợp tác của tổ chức ASEAN. Trong quá trình hội nhập kinh tế vươn ra thị trường quốc tế và khu vực, nhà nước chỉ hỗ trợ, tạo môi trường pháp lý thông thoáng và thuận lợi. Sự thành công tới đâu trong quá trình này là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc, vì sự sống còn của mình. Tư tưởng trông chờ vào nhà nước hỗ trợ tất yếu sẽ dẫn tới sự đào thải. Như vậy, các doanh nghiệp phải kết hợp chặt chẽ sản xuất với kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược riêng. Một mặt, quy hoạch sản xuất, điều chỉnh cơ cấu, ưu tiên tập trung đầu tư cho sản xuất các mặt hàng chủ lực có thế mạnh, có khả năng cạnh tranh của đơn vị, của địa phương mình. Không nên đầu tư dàn trải, cần chuyên sâu theo thế mạnh. Một mặt, cần đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, khai thác lợi thế từ các cam kết trong hội kinh tế AFTA, tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư. Xem thị trường trong nước là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm nhập thị trường nước ngoài. Cần nghiên cứu, nắm vững cam kết cụ thể của các nước trong khu vực đối với nước ta, và của nước ta đối với các nước về vấn đề ưu đãi thuế quan, các cam kết cắt giảm hàng rào phi thuế quan, cắt giảm quota, chế độ giấy phép, thủ tục và chế độ hải quan, các quy định về tiêu chuẩn chất lượng, kiểm dịch động thực vật,…Các doanh nghiệp cần đảm bảo rằng các thông tin, tư liệu trên đây phải luôn luôn cập nhật tới tay đơn vị mình kịp thời. Mỗi doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ cần lập ngay bộ phận chuyên trách, thu thập nghiên cứu các tài liệu thông tin nói trên để biến các cam kết chung thành chương trình hành động của đơn vị mình. Các doanh nghiệp phải có chương trình đào tạo cán bộ. Đây là vấn đề được thường xuyên nhấn mạnh bởi con người là yếu tố quyết định. Đào tạo cán bộ ở các doanh nghiệp cần được quy hoạch, phân loại, để đào tạo theo năng lực, sở trường dựa trên yêu cầu công việc. Đào tạo lại và đào tạo mới cần kết hợp để đáp ứng nhu cầu mới phát sinh trong quá trình hội nhập. KẾT LUẬN ASEAN là một khối kinh tế, đã và đang có tác dụng nhất định đối với sự phát triển kinh tế, thương mại của mỗi nước thành viên và góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị ở khu vực Đông Nam Á và thế giới. Là một nước thành viên của ASEAN, Việt Nam đã tham gia tích cực và có hiệu quả vào hiệp hội cũng như khu vực mậu dịch tự do AFTA. Tham gia AFTA thông qua thực hiện Hiệp định CEPT, mở ra cho Việt Nam cơ hội đẩy mạnh hợp tác kinh tế và thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đaị hoá đất nước. Cùng với những cơ hội đang mở ra, việc hội nhập của Việt Nam vào AFTA còn gặp không ít khó khăn, trở ngại đặc biệt là nền kinh tế nước Việt Nam còn ở tình trạngnghèo nàn lạc hậu, thu nhập quốc dân đầu người còn rất thấp, nhiều nguồn lực của nền kinh tế chưa có đủ điều kiện để khai thác, kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ bé, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới còn thấp và chưa thích ứng với luật pháp của các quốc gia trong khu vực. Một thách thức hết sức to lớn là các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh tăng lên từ ASEAN, khi không còn bảo hộ bằng các biện pháp thuế và phi thuế quan. Do đó, việc Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập và thực hiện AFTA đòi hỏi một sự chủ động không chỉ từ các bộ, ngành quản lý Nhà nước, mà quan trọng hơn là sự chủ động tự điều chỉnh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và tham gia có hiệu quả vào quá trình thực hiện AFTA. Chúng ta tin tưởng rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA cùng với những nỗ lực chủ động điều chỉnh cả ở cấp vĩ mô và vi mô sẽ góp phần kích thích nền kinh tế Việt Nam phát triển, nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế Việt Nam thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Nguyễn Xuân Thắng. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN và tiến trình hội nhập của Việt nam. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội - 1999. 2. Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Việt nam và các tổ chức kinh tế quốc tế . Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội - 2000. 3. Bộ thương mại. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN, Hà Nội tháng 05/1998. 4. Trần Quang Lâm - Nguyễn Khắc Thân, Hội nhập kinh tế Việt nam -ASEAN . Nhà xuất bản thông kê, Hà Nội -1999. 5. Bộ thương mại. Lộ trình Việt nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA), Hà Nội tháng 05 năm 1997. 6. PTS Đỗ Như Khuê - Nguyễn Thị Loan Anh. Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt nam và ASEAN. Nhà xuất bản thông kê, Hà Nội - 1997. 7. PGS Võ Thanh Thu, Kỹ Sư Nguyễn Cương, TS. Bùi Lê Hà. Quan hệ thương mại - đầu tư giữa các nước thành viên ASEAN. Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội - 1998. 8. Giáo trình kinh tế quốc tế. GS - PTS Tô Xuân Dân biên soạn. 9. Chuyên đề ASEAN - AFTA Tạp chí tài chính số 7 năm 1997. 10. Việt nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA), Bộ tài chính. 11. Bộ tài trình. Danh mục hàng hóa và thuế suất các mặt hàng của Việt nam thực hiện hiệp định về ưu đãi thuê quan có hiệu lực chung (CEPT)của các nước ASEAN cho năm 2000. Nhà xuất bản tài chính tháng 06/2000. MỤC LỤC Trang Mở đầu…………………………………………………………………… Chương I. Tổng quan về khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA)….. I. Sự ra đời và các mục tiêu của AFTA………………………………… Sự ra đời của AFTA…………………………………………………… Mục tiêu của AFTA…………………………………………………… II. Cơ chếvà các đặc trưng về tổ chức của tiến trình thực hiện AFTA. Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT)……………….. Vấn đề loại bỏ các hàng rào phi quan thuế……………………………. Vấn đề hải hòa các thủ tục hải quan…………………………………... 4. Các cơ chế phối hợp trong tiến trình thực hiện AFTA…………………. III. Việt nam tham gia vào AFTA……………………………………… Tính tất yếu của việc Việt nam tham gia vào AFTA………………….. Những cơ hội và thách thức đối với Việt nam khi tham gia AFTA…… Chương II. Tiến trình thực hiện AFTA của Việt nam ………………... I. Tình hình thực hiện AFTA của các nước ASEAN………………….. II. Tình hình thực hiện AFTA của Việt nam………………………….. Tình hình cắt giảm thuế nhập khẩu của Việt nam theo CEPT(AFTA) đến năm 2000…………………………………………………………. Vấn đề loại bỏ các hàng rào phi quan thuế và vấn đề hài hòa thủ tục hải quan. ……………………………………………………………… Vấn đề xây dựng và công bố lịch cắt giảm thuế quan cho giai đoạn 2001 - 2006……………………………………………………………. III. Tác động của AFTA đến các hoạt động thương mại và đầu tư giữa Việt nam và các nước ASEAN…………………………………….. Tác động đến các hoạt động thương mại……………………………… Tác động đến các hoạt động đầu tư. ………………………………….. Chương III. Một số giải pháp cơ bản của Việt nam trong tiến trình thực hiện AFTA…………………………………………………………. I. Triển vọng của tình hình thực hiện AFTA………………………….. Những vấn đề đặt ra trong tiến trình AFTA…………………………… Triển vọng của AFTA…………………………………………………. II. Một số giải pháp cơ bản của Việt nam trong tiến trình thực hiện AFTA…………………………………………………………………….. 1. Một số giải pháp từ phía nhà nước……………………………………... 2. Một số giả pháp từ phía các doanh nghiệp……………………………... Kết luận………………………………………………………………….. 1 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8422.doc