Tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Lời nói đầu Cách đây 10 - 15 năm một hoạt động nào đó mang tính chất quốc tế, hay khu vực diễn ra tại nước ta đã trở thành sự kiện bất ngờ, lạ lẫm đối với người dân Việt Nam thì ngày nay, qua báo chí, truyền thanh truyền hình hàng ngày chúng ta có thể thấy các tổ chức quốc tế, khu vực, các hoạt động văn hoá thể thao, chính trị, đặc biệt là kinh tế diễn ra tại Việt Nam. Chính trị ngoại giao có sự kiện: Tổng thống Mỹ Biclintơn và gia đình đến Việt Nam vào tháng 4 - 2001 (bây giờ là cựu tổng thố

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng). Văn hoá thể thao có: Liên hoan quốc tế tại Việt Nam, thể thao Việt Nam quen thuộc với các huy chương vàng, bạc ngang tầm với khu vực quốc tế. năm 2002 Seagame 22 diễn ra tại nước ta... Nổi bật nhất là kinh tế: Các Hội nghị khu vực, quốc tế tại Việt Nam, đó là hội nghị EMM - 3 và ASM - 33, Việt Nam là thành viên của ASEAN, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ ký kết... Đồng thời nhìn ra thế giới ta cũng có thể thấy các quốc gia ngày càng gần nhau hơn: ta có ASEAN 10 thành viên đầy đủ, các quốc gia Châu Âu hình thành đồng tiền chung ERO. Trung Quốc gia nhập WTO,... toàn cầu hoá hay hội nhập quốc tế không còn xa lạ với chúng ta nữa. Và hơn bao giờ hết, bài toán hội nhập kinh tế quốc tế đã làm đau đầu không chỉ Chính phủ mà đối với mỗi một doanh nghiệp, mỗi một chủ thể tham gia vào nền kinh tế nước ta. Chúng ta không thể không hội nhập kinh tế quốc tế nhưng chung ta hội nhập như thế nào, chúng ta đang có những thuận lợi và phải khắc phục khó khăn nào để hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đảng và Nhà nước ta đã và đang từng bước đề ra phù hợp đúng đắn cho vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1997 Luật Đầu tư nước ngoài ra đời cũng thể hiển chủ trương của Đảng được xác định qua đại hội VIII (1996) "đẩy nhanh quốc tế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới". Đại hội Đảng (4/2001) vừa qua cũng đã xác định bối cảnh quốc tế trong giai đoạn 2000 - 2010, đó là "Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước... vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế" cũng chính vì vậy Đại hội Đảng IX cũng khẳng định quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế: "Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế". Như vậy ta có thể thấy nghiên cứu vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay đã trở thành mối quan tâm chung của tất cả mọi người, những người mà trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào nền kinh tế quốc dân. Là một sinh viên kinh tế tôi không dám đưa ra một cách nhìn tổng quát đầy đủ, sâu sắc về vấn đề chủ nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đây mới chỉ là cách nhìn còn mang nhiều ý kiến chủ quan, một kiến thức còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo. Chương I một số vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế 1. Khái niệm chung về toàn cầu hoá. Ngày nay, cụm từ "toàn cầu hoá" không còn xa lạ đối với chúng ta đặc biệt là giới tri thức trẻ và những người quan tâm đến các vấn đề của thế giới. Tuy nhiên có rất nhiều cách nhìn nhận về toàn cầu hoá. ở nét khái quát nhất, tổ chức OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) đã coi toàn cầu hoá là quá trình mở rộng tới "một hoạt vấn đề cũng mang lại sự đổi thay cho nền chính trị và kinh tế ngày nay trên quy mô toàn cầu". Đó là các vấn đề: Khả năng có thể tồn tại của hệ thống thương mại thế giới, nhu cầu ngày càng tăng của sự hội nhập có "chiều sâu" về chính sách quốc tế và sự giám sát rõ ràng tính độc lập tự chủ trong chính sách kinh tế quốc gia; sự tác động của cuộc cách mạng công nghệ; tầm quan trọng của sự đổi thay trong các hệ thống quản lý các tập đoàn Công ty lớn, hay trong hệ thống tổ chức công nghệ hoá là cơ sở cho sức cạnh tranh của các nước, các Công ty; sự đa dạng hoá ngày càng tăng giữa các nước phát triển, nạn đói nghèo và nguy cơ một tỷ lệ lớn dân số trên trái đất bị loại trừ; những vấn đề nghiêm trọng về nạn thất nghiệp và những khác biệt về tiền lương về mức thu nhập đang ngày càng tăng lên ở những nước phát triển nhất, sự thay đổi của vai trò Chính phủ.... Để có cái nhìn rõ ràng hơn ta có thể hiểu quá trình toàn cầu hoá bao gồm: Thứ nhất: là sự gia tăng mạnh mẽ, vượt khỏi các đường biên giới quốc gia tới quy mô quốc tế, của các luồng giao lưu hàng hoá, dịch vụ thương mại, đầu tư, tài chính, công nghệ, công nghệ nhân lực. Thứ hai là: sự hình thành và phát triển các thị trường thống nhất trên phạm vi toàn cầu và khu vực, cũng như sự hình thành và phát triển các định chế và các cơ chế điều tiết quốc tế để quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế quốc tế. Thực tế không phải bây giớ toàn cầu hoá mới bắt đầu hình thành và phát triển, mà nó đã có tiền đề từ rất lâu trong lịch sử. Có người cho rằng những tiền đề này đã có từ thời kỳ mở đầu của chủ nghĩa tư bản, trên cơ sở quá trình xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên qui mô thế giới. Chính vì thế phải khẳng định lại rằng toàn cầu hoá là một quá trình. Hơn nữa, đây là một xu thế khách quan là quy luật tất yếu trong sự phát triển của xã hội loài người. Khẳng định trên dựa vào những căn cứ, cơ sở thực tế sau: Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp : lần thứ I: từ thế kỷ XVIII, lần thứ II từ cuối thế kỷ XIX và lần thứ III từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây. Những tiến bộ về khoa học - kỹ thuật và công nghệ của ba cuộc cách mạng này đã làm giảm chi phí vận tải quốc tế xuống cả chục lần và giảm chi phí liên lạc viễn thông xuống vài trăm lần; đã có tác động cực kỳ quá trình đến toàn bộ quan hệ kinh tế quốc tế, đã biến các công nghiệp mang tính quốc gia thành công nghiệp toàn cầu. Lấy công nghiệp may mặc làm ví dụ. Trước đây với một máy may dù có hiện đại đến đâu thì sản phẩm cũng chỉ bán trong một địa phương, một quốc gia hay một khu vực chi phí vận chuyển liên lạc quá cao đã làm mất hết lợi thế so sánh nếu đưa sản phẩm này đến thị trường xa xôi. Nhưng ngày nay, Công ty NIKE chỉ nắm hai khâu: sáng tạo, thiết kế và phân phối toàn cầu, còn sản xuất do Công ty các nước thực hiện cũng đã làm cho công nghiệp may mặc có tính toàn cầu. Hàng loạt công nghệ sản xuất xe máy, ô tô, máy tính điện tử máy bay... ngày càng toàn cấu hoá sâu rộng. Tính toàn cầu ở đây thể hiện ngay từ khâu sản xuất, đó là phân công chuyên môn hoá cho nhiều nước, đến khâu phân phối; tiêu thụ trên toàn cầu. Từ việc giảm chi phí và cước phí giao thông liên lạc, vận chuyển nhờ vào việc tạo ra đường sắt, tàu hoả, và tàu biển chạy bằng hơi nước, ô tô, máy bay... cho đến những thập niên gần đây một cuộc giảm cước phí giao thông liên lạc và viễn thông mới lại diễn ra dựa trên cơ sở điện toán, số hoá, truyền thông vệ tinh, soi quang học mạng Internet đã khuếch đại mạnh mẽ lân sóng toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là kinh tế. Như vậy, nhờ có công nghệ toàn cầu phát triển, sự hợp tác giữa các tập đoàn kinh doanh, các quốc gia có thể mở rộng từ sản xuất đến phân phối trên phạm vi toàn cầu, những quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau cùng có lợi phát triển. Đây là cơ sở đầu tiên của nền kinh tế toàn cầy thống nhất. Chính nền công nghệ toàn cầu phát triển mạnh mẽ đã trở thành cơ sở cho các quan hệ kinh tế toàn cầu. Trước hết là quan hệ thương mại, chi phí vận tải liên lạc giảm đi thì khả năng buôn bán trao đổi giữa địa phương quốc gia, khu vực tăng lên. Cùng với nó quá trình phân công chuyên môn hoá sản xuất diễn ra giữa các quốc gia, liên tục càng dễ dàng. Các linh kiện của máy bay Boing, ô tô, máy tính... đã không phải là sản phẩm của một bước mà của rất nhiều nơi trên thế giới. Thương mại toàn cầu, sản xuất chuyên môn hoá toàn cầu đã kéo theo đồng vốn, tiền tệ, dịch vụ... vận động trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, lượng buôn bán tiền tệ toàn cầu đã vượt xa con số 1500 tỷ USD. Trong đó, ta thấy rằng, thương mại điện tử xuất hiện và phát triển với tốc độ chóng mặt. Sự phát triển của công nghệ toàn cầu và các quan hệ kinh tế toàn cầy đã ngày càng xung đột với các thể chế quốc gia, rào cản quốc gia. Các quốc gia các khu vực, xích lại gần nhau hơn qua các tổ chức liên kết kinh tế. mang bản chất chính trị nhiều hơn, những thập niên 40, xuất hiện khối liên kết kinh tế giữa Mỹ - Tây Âu - Nhật và Hội đồng tương trợ kinh tế SEV giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa. Cho đến nay lại hình thành nên các tổ chức như APEC, AFTA, NAFTA,... Đặc biệt quá trình quốc tế hoá về tài chính đẩy mạnh nhanh chóng: hình thành nên Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên nước kinh tế và tiền tệ Châu Âu gần 11 nước thành viên với đồng tiền chung là đồng EURO. Cùng với các tổ chức liên kết kinh tế là sự ra đời các cam kết này đã, đang và sẽ công kích mạnh mẽ vào các bức tường thành quốc gia, rào cản quốc gia. Các nước thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng đã cam kết một lộ trịnh giảm bỏ hàng rào. Ngay cả đối với Mỹ, trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay gây sức ép thương mại đối với các nước có vẻ như đã mất hiệu lực, với dấu hiệu là Mỹ đã ký tối huệ quốc (MFN) đối với Trung Quốc. Ba là: những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều trở nên bức xúc và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu. Không có khó khăn gì để có thể nhận ra các vấn đề nổi cộm hiện nay của kinh tế toàn cầu. Môi trường ngày càng bị phá hoại, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; dân số thế giới tăng nhanh đến mức nảy sinh nguy cơ bùng nổ dân số; đồng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự điều tiết là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc khủng hoàng liên tiếp Châu Âu, Châu Mỹ, Châu á trong thời gian vừa qua; chiến tranh lạnh chấm dứt, đồng nghĩa với nó là kết thúc sự đối đầu giữa các siêu cường, mở ra thời kỳ hợp tác, hoà bình, phát triển mới... Những vấn đề này đã trở thành tất yếu khách quan đẩy đến toàn cầu hoá kinh tế với những đặc trưng chủ yếu: Thứ nhất là, các hàng rào quan thuế và phi thuế quan đang giảm dần và sẽ bị xoá bỏ theo các cam kết quốc tế đa phương và toàn cầu, tức là các biên giới quốc gia về thương mại đầu tư đang tiên vong. Thứ hai là, các Công ty của các quốc gia có quyền kinh doanh tự do ở mọi quốc gia, trên các lĩnh vực cam kết, không phân biệt đối xử; thực chất là sự xoá bỏ các biên giới về đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực kinh tế khác. Tuy nhiên, đến đây chúng ta lại phải đối mặt với hàng loạt câu hỏi: làm thế nào để giải quyết sự trói buộc của hệ thống tiền tệ quốc gia với hàng trăng đồng tiền khác nhau, trao đổi theo các tỷ giá thả nổi bấp bênh? Làm thế nào để dung hợp được với hệ thống luật pháp các quốc gia thủ cựu? Có cấn đến "một bàn tay hữu hình toàn cầu" không? Và như vậy toàn cầu hoá kinh tế không thể tránh khỏi toàn cầu hoá về chính trị, an ninh, văn hoá, xã hội....? Có người đã cho rằng: toàn cầu hoá là con dao hai lưỡi. Thực tế cũng đã cho thấy khi diễn ra hội nghị, diễn đàn bàn về vấn đề đẩy mạnh toàn cầu hoá thì bên cạnh sự ủng hộ của một bộ phận quần chung là thái độ kịch liệt phản đối, biểu tình gay gắt của không ít người lao động khác. Tại sao vậy? Quả thực, toàn cầu hoá không mang lại cơ hội phát triển cho tất cả quốc gia, tất cả người lao động trên thế giới. Toàn cầu hoá không hẳn là một tương lai rực sáng không phải là một thiên đường cho các nền kinh tế mà toàn cầu hoá là lò lửa, là một quá trình thử thách, đấu tranh sinh tồn. Mỗi mặt tích cực mà nó mang lại luôn đi với mặt hạn chế nảy sinh từ đó. Toàn cầu hoá đưa ra một thị trường tiêu thụ mở rộng cho hàng hoá dịch vụ. Thị trường không hạn chế một nước, một khu vực, hay một châu lục nữa mà đã là thị trường toàn cầu. Lúc này không ai khác chính bản thân sản phẩm quyết định sự tồn tại của nó. Mỗi hàng hoá và dịch vụ phải đứng trước một môi trường cạnh tranh gay gắt. Nền kinh tế của các quốc gia riêng lẻ chịu sức ép vô cùng lớn từ bên ngoài. Không nhìn đâu xa, Việt Nam là một ví dụ phù hợp cho vấn đề này. Quả thực, hàng hoá Việt Nam ngày nay đã có mặt nhiều nơi trên thế giới và ban đầu đã gây uy tín không nhỏ thị trường nước ngoài ở Việt Nam không chỉ là gạo, cà phê, thuỷ hải sản... mà còn là sản phẩm may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ... không ít các Công ty TNHH tư nhân Việt Nam có nhiều chi nhánh ở nước ngoài. Đây là dấu hiệu của khả năng cạnh tranh lành mạnh của hàng hoá, dịch vụ nước ta. Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam đã đang và sẽ xuất hiện ngày càng nhiều hàng hoá mang nhãn hiệu của các nước khu vực và thế giới, đặc biệt là Trung Quốc. Việt Nam đang phải cạnh tranh với những ưu thế của người bạn láng giềng "khổng lồ", đó là: giá rẻ, mẫu mã đẹp, phong phú đa dạng và với cả tâm lý "thích dùng đồ ngoại" của người dân nước ta. Với những khó khăn đang phải đối mặt liệu các doanh nghiệp Việt Nam có đứng bên bờ "phá sản" hay không? Một tác động tích cực của toàn cầu hoá mà không thể không nhắc đến. Có thể nói đây là lợi ích hiện diện rõ ràng nhất đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Đó là dòng chuyển vốn, công nghệ, kỹ thuật, phương pháp quản lý tiên tiến từ các nước phát triển. Cơ hội này mở ra khả năng cho các nước nhận rút ngắn khoảng cách về thời gian và tiết kiệm tiền bạc cho giai đoạn từ nghiên cứu cho đến khi triển khai, ứng dụng. Đây cũng là lợi thế cho các nước đang phát triển có điều kiện đi tắt, đơn đầu mọi phương tiện. Nhưng cũng chính dòng chảy vốn, công nghệ, kinh tế, phương pháp quản lý tiên tiến này tạo ra một thế lực cạnh tranh đối với các nền kinh tế quốc gia trì trệ, kém hiệu quả. Trong một giới hạn nào đó, dòng di chuyển này là nguyên nhân đẩy các doanh nghiệp Nhà nước vào tình trạng phá sản, đi kèm là tỷ lệ thất nghiệp tăng lên, nảy sinh hàng loạt vấn đề cho xã hội Chính phủ cần giải quyết. Một biểu hiện của toàn cầu hoá hiện nay là hình thành các khối liên kết kinh tế cùng với cam kết, thoả thuận nhằm dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan. Đây là điều kiện quá trình thực hiện nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử trong kinh tế trong các quan hệ mua bán và giao lưu quốc tế. Không những thế các nước chậm phát triển được hưởng ưu đãi đặc biệt, chế độ tối huệ quốc, được cung cấp thông tin tự do mậu dịch, liên minh thuế quan, được bảo đảm các quyền thông qua các tổ chức quám sát, giám định quốc tế. Chính vì vậy, các nước chậm phát triển có điều kiện cải thiện quốc tế hoá không, liệu các chính sách tài chính có bắt kịp yêu cầu của xu thế thời đại? Các cuộc khủng hoảng Đông Nam á, Brazin, Nga, trong những năm 1997 - 1998 vẫn còn là những bài học sâu sắc cảnh báo cho các nước có tình hình tương tự. Điểm cuối cùng như phần tất yếu của xu thế toàn cầu hoá đã trình bày, đó là các vấn đề mang tính toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tự mình giải quyết đơn lẻ. Xu thế toàn cầu hoá tạo nền sự liên kết, hợp tác giữa các quốc gia để cùng có lợi, tạo ra sức mạnh tổng hợp chống lại sự phân biệt đối xử sự đan xen phụ thộc lẫn nhau có còn có tác động hai mặt, các nền kinh tế sẽ nhạy cảm hơn với các biến động quốc tế, nhưng đồng thời những rủi ro có tính chất cá biệt cũng được phân tán. Do đó các nước đang phát triển có thể đạt được sự ổn định tương đối vốn hết sức cần thiết. Trong thương mại và giải quyết tranh chấp dựa trên những định chế kinh tế tài chính bình đẳng. Đây là điều kiện để các nước chậm phát triển phát huy tối đa lợi thế của mình. Tuy nhiên nền kinh tế toàn cầu hoá sẽ phụ thuộc ngày càng nhiều vào các tổ chức quốc tế và khu vực: các hiệp định đa phương, Công ty xuyên quốc gia, liên minh kinh tế, tài chính... mà trong một chừng mực nhất định nằm ngoài tầm kiểm soát của các Chính phủ. Như vậy, mặt khác, một mặt trái của nền kinh tế tài chính là sự suy giảm bản sắc dân tộc, chủ quyền kinh tế song lại gia tăng sức ép kinh tế, chính trị. Sự hạn chế về khả năng kiểm soát của các cổ phần còn biểu hiện ở tình trạng tội phạm xuyên quốc gia, việc truyền bá nền văn hoá phi nhân bản... Toàn cầu hoá là con dao hai lưỡi, nhưng là xu thế tất yếu khách quan mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng không thể đứng ngoài cuộc. Vì vậy việc sử dụng nó như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất là cả một nghệ thuật tinh xảo. 2. Những đặc trưng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng ta biết rằng bằng CNTB đã tạo ra sự phát triển của sản xuất mà chưa nền văn minh nào trước đó đạt được. Cùng với sự phát triển của CNTB, các cuộc chiến tranh giành giật thị trường cũng không ngừng bùng nổ. Chính qua các cuộc chiến tranh này các quốc gia tư bản Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và đặc biệt là Anh từ thế kỷ XVIII đã triển khai một sức mạnh kinh tế, hàng hải quân sự bao chùm thế giới như vậy có thể nói thời đại quốc tế hóa dù mở ra và được triển khai trong vũ lực, bóc lột đối với các vùng thuộc địa. Vào thế kỷ thứ XI đế quốc Anh có sự phát triển mạnh, khống chế gần như toàn bộ thế giới cho đến thế kỷ XX nước Anh kiểm soát các đường giao thông hàng hải quốc tế và khống chế nhiều vùng thuộc địa với 1/5 diện tích trái đất, 428 triệu dân. Sự hội nhập của các thuộc địa vào thị trường thế giới đã đưa đến sự biến động luồng di dân, thúc đẩy gia tăng dân số và giao lưu kinh tế. Hoạt động thương mại phát triển mạnh mẽ, mậu dịch giữa các nước mà trung tâm đặt tại Luân Đôn đã trở thành một hệ thống thống nhất sau khi các quốc gia Châu Âu thừa nhận chế độ bản vị vàng. Từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay quá trình quốc tế hóa đã trải qua ba thời kỳ hay ba làn sóng. Làn sóng đầu tiên diễn ra vào khoảng những 50 năm trước chiến tranh. Trong thời kỳ này sự trao đổi quốc tế và liên lục địa đã phát triển nhanh hơn cả sự sản xuất trên toàn thế giới. Những dòng tài chính tăng lên nhanh hơn nhiều trên quy thế giới. So với sự tăng trưởng của việc trao đổi và sản xuất trên toàn thế giới. Làn sóng thứ hai của quốc tế hóa diễn ra vào những năm 50, 60, 70 của thế kỷ tức là thời kỳ có sự giảm bớt quan trong của các rào cản kinh tế. Nhất là trong những nền kinh tế phát triển. Làn sóng thứ ba vào cuối những năm 80 trở đi và lúc này khái niệm về êôị nhập quốc tế đã trở nên quen thuộc. ở giai đoạn này người ta thấy có sự co hẹp rõ rệt các hàng rào thương mại. Sự tăng trưởng mạnh mẽ về tài chính và dân sư quốc tế trên bình diện không cân bằng giữa nội bộ các nước và các nước khác nhau. Để thấy rõ sự tăng trưởng của Mậu dịch quốc tế còn nhanh hơn cả sự tăng trưởng kinh tế. Ta hãy khảo sát những số liệu sau. Trong thời gian 1900 - 1947 thương mại thế giới tăng chưa đều hai lần thì từ sau chiến tranh thế giới II đến 1990 tăng 50 lần. Có nghĩa là tăng gấp 3 lần tốc độ tăng GDP thế giới. Năm 1950 giá trị thương mại chiếm 7% GDP thế giới thì nay đã là 23%. Tốc độ tăng trưởng Kinh tế hàng năm và mức thay đổi khối lượng mậu dịch thế giới. Các năm Mức tăng mậu dịch thế giới Mức tăng trưởng kinh tế thế giới 1981 - 1990 TB trong cả thời kỳ 4,7 3,4 1991 4,6 1,8 1992 4,7 2,5 1993 3,9 2,7 1994 9,1 4,0 1995 9,4 3,8 1996 6,8 4,2 1997 9,9 4,2 1998 3,6 2,5 1999 4,3 3,0 2000 6,2 3,5 Nguồn: World Economic Outlook Thứ hai trong làn sóng thứ ba có sự gia tăng mạnh mẽ quá trình tự do hóa, toàn cầu hóa thị trường tài chính. Tự do hóa thị trường tài chính là một quá trình nhưng không phải quá trình phát triển theo đường thẳng mà là quá trình có những đợt phát triển tăng vọt và những bước thang lùi. Sự quốc tế hóa hay hội nhập thị trường tài chính phát triển nổi bật từ cuối thế kỷ XIX khoảng từ năm 1980 đến năm 1914. Sau đó có giai đoạn nhảy vọt chính, đặc biệt vào thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Thứ ba cùng với sự gia tăng toàn cầu hóa thị trường tài chính là việc tập trung ngày càng lớn nguồn vốn vào các Công ty hàng đầu thông qua làn sóng sát nhập với qui mô lớn và cường độ cao chưa từng có. Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia là nguyên nhân đẩy mạnh xu hướng hội nhập quốc tế như trên. Đồng thời sự gia tăng, tập trung mạnh tài chính ngày càng lớn vào các Công ty đầu sỏ trong mọi lĩnh vực là một điểm đáng chú ý của làn sóng toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. Các Công ty trong nền kinh tế thị trường phát triển gắn liền với quá trình tích tụ và tập trung tư bản. Trong những làn sóng trước đây của quốc tế hóa không phải không có sự gia tăng tích tụ và tập trung tư bản. Song từ những năm 80 trở lại đây, nhất là những năm 90 quá trình diễn ra khá đặc trưng, nhiều chuyên gia kinh tế xem như là những cơn sốt sát nhập hay hội chứng sát nhập. Thứ tư là thị trường lao động quốc tế được mở rộng do nhiều nước chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường, thực hiện mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài đã mở rộng dung lượng thị trường lao động quốc tế. Trong xu thế hội nhập kinh tế trước đây thường gắn liền với dòng di cư lớn của đội quân lao động. Chẳng hạn vào cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX có sự di cư khá cao về lao động trong nền kinh tế thế giới. Tính ra có khoảng 40 triệu người Châu Âu chuyển tới Bắc Mỹ. Hàng triệu người từ các vùng ôn hòa tới Nam bán cầu. Với làn sóng thứ ba này kinh tế thế toàn cầu ngày càng trở nên một hệ thống gắn bó chặt chẽ. Mỗi bộ phận của nó đều phụ thuộc vào tổng thể và ngược lại, cái tổng thể chi phối cái bộ phận trong thời kỳ này nhiều dịch chế toàn cầu và khu vực xuất hiện. Thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế xuất hiện, sử dụng phổ biến thay thế cho quốc tế hóa. Nó phát ảnh bước phát triển cao hơn của quốc tế hóa. 2. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay mọi hoạt động kinh tế đang được tự do hóa. Trong giai đoạn quốc tế hóa trước đây. Việc hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, mà thực chất là sự bành trường của các hoạt động kinh tế vượt ra khuôn khổ của biên giới quốc gia không gắn với việc tự do hóa các hoạt động kinh tế. Đôi khi cùng với quá trình bành chướng của hoạt động kinh tế lại có sự gia tăng của các biện pháp bảo hộ thị trường. Thực tế sự phát triển các quốc gia TB phát triển cho thấy rõ điều đó Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ II đã nhanh chóng khôi phục kinh tế, bành chướng thế lực kinh tế ra bên ngoài nhanh và mạnh. Tuy vậy nền kinh tế Nhật trong thập kỷ 60, 70 là một trong những nền kinh tế có tính bảo hộ cao nhất thế giới TBCN. Trên thực tế cho mãi tới nửa sau thập kỷ 70 Nhật mới hoàn thành quá trình tự do hóa thị trường vốn, và cũng mới gần đây Nhật mới mở cửa thị trường gạo. Vào những nửa năm 1974 tỷ lệ nhập khẩu hàng chế tạo so với GDP của Nhật là 2%. So với mức 15% của các nước TB phát triển khác. Sự tách rời giữa tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc điểm của giai đoạn quốc tế hóa trước đây. Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế gắn liền với việc tự do hóa kinh tế các thể chế, thị trường kinh tế... Không thể hội nhập kinh tế quốc tế nếu không tự do hóa kinh tế. Đây là đặc điểm mới của xu thế quốc tế hóa hiện nay. Đương nhiên hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mức độ nó gắn liền với mức độ của tự do hóa. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hội nhập kinh tế càng sâu thì tự do hóa càng mạnh. Cơ sở của sự gắn bó chặt chẽ giữa hội nhập và tự do hóa chính là do sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế. Với cơ chế thị trường thống nhất các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế làm cho các nền kinh tế có sự gắn kết với nhau. Mỗi nền kinh tế là một bộ phận của chính thể toàn cầu. Chỉ có hội nhập mới là cách thức để phát huy những thế mạnh những lợithês so sánh trong phân công lao động quốc tế. Bổ sung những điểm yếu của các nền kinh tế có thể. Như vậy vấn đề còn lại chỉ là ở chỗ xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hóa như thế nào cho phù hợp với trình độ nền kinh tế. Đây là điều cần tính toán, cần nhắc với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan nhưng đang chịu tác động lớn từ Mỹ. Và một số nước TB phát triển. Hiển nhiên là quá trình toàn cầu hóa gắn liền với sự phát triển của CNTB. CNTB lợi dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ. Và chínhtrong sự phát triển sản xuất với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc quyền cạnh tranh với nhau gay gắt. Kết quả là hình thành những liên manh độc quyền không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế. Chúng cấu kết với nhau chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy khó có thể thay thế ngay thời kỳ đầu quá trình quốc tế hóa đã chịu sự chi phối của CNTB. Chương II. tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 1. Tiến trình hội nhập trong thời gian vừa qua của Việt Nam Nghiên cứu vấn đề này ta mới nhận thấy rằng: chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều hoàn toàn mới mẻ đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó chính là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo và từng hoàn cảnh, từng giai đoạn của đất nước những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 nă, 1945, Người đã nói: "Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác.... Chúng ta sẽ mời những nàh chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong việc kiến thiết quốc gia..." cuối năm 1946 trong "Lời kêu gọi Liên hiệp quốc" Người lại viết "Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây": 1) Đối với Lào và Miên (Campuchia), nước Việt Nam luôn tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền. 2) Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: Một là nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Hai là, nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế. Ba là, nước Việt Nam tham gia một tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc. Tuy nhiên trong thời gian đó, do hoàn cảnh lịch sử, quan hệ quốc tế của nước ta chỉ giới hạn trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) khối liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là Việt Nam chỉ có quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu là nước ta dựa vào sự giúp đỡ của họ, đặc biệt là Liên Bang Xô Viết. Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ thần thánh chống Pháp và chống Mỹ của dân ta. Mọi nguồn lực, sức người, sức của đểu được tập trung tối đa cho chiến tranh, các vấn đề khác tạm thời gác lại. Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nước ta lại tập trung khôi phục nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung có sự giúp đỡ to lớn của xã hội chủ nghĩa trong Hợp đồng tương trợ kinh tế (SEV)? Đồng thời nhận thấy xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng tăng lên, các quốc gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc vào nhau, do đó nếu nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế của thời đại mà mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển. Đại hội VI của Đảng (12 - 1986), trong khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Tuy nhiên trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó tiếp diễn, Mỹ vẫn ngoan cố kéo dàu việc bao vây, cấm vận chống lại nước ta thì việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhậ kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tiếp theo đó chủ yếu nghiêng về một phía - Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEU). Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu vận hành có kết quả, đồng thời đứng trước thực tế của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trượt dài tới bờ vực của sự tan rã, đại hội VII của Đảng (6 - 1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo, tổng quát cho việc thị trường chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi ở nước ta. "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"; "Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi". Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6- 1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm trên và quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhậ kinh tế khu vực và thế giới" Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ IV khoá VIII (12 - 1997) cũng đã đưa ra nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Một là, trên vấn đề phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút nguồn lực bên ngoài. Hai là, tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, gia nhập APEC và WTO. Ba là, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khu vực AFTA. Gần đây nhất, Đại hội IX của Đảng (4 - 2001) tiếp tục vạch ra phương châm cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian 10 năm tới 2001 - 2010: "... nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam keets quốc tế đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế". Nghị quyết Đại hội Đảng lần này lại nhấn mạnh thêm: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo hành động của Đảng, 15b năm qua cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước ta lần lượt thi hành một loạt biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tháng 12 - 1987, Quốc hội nước ta thông qua Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam và cho đến nay vẫn liên tục được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế từng giai đoạn. Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) và đến tháng 10 - 1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này. Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, và từ ngày 01/01/1999 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN tức AFTA, cũng tháng 7 này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định chung về hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật, và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu (nay là Liên minh Châu Âu EU), đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM). Tháng 11/1998, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết và sau bao._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33640.doc