Tiểu luận Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và môn kinh tế chính trị (Mẫu 10)

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐẢNG BỘ KHỐI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC- CAO ĐẲNG HÀ NỘI ĐẢNG ỦY TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ------------------------------------------------------- BÀI THU HOẠCH LỚP BỒI DƯỠNG CẢM TÌNH ĐẢNG TÊN ĐỀ TÀI: CƯƠNG LĨNH NĂM 1991( ĐẠI HỘI VII) ĐÃ ĐƯỢC ĐẠI HỘI X ( 2006) CỦA ĐẢNG BỔ SUNG VÀ PHÁT TRIỂN NHƯ THẾ NÀO VỀ MỤC TIÊU CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, MÔ HÌNH, CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM. ĐỒNG CHÍ PHẢI LÀM GÌ ĐỂ THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG Hà Nội, Ngày 26 tháng

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1544 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tiểu luận Nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và môn kinh tế chính trị (Mẫu 10), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
06 năm 2010 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được Đại hội VII của Đảng thông qua năm 1991 có giá trị to lớn cả về lý luận, chính trị, tư tưởng và chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Sau gần 20 năm thực hiện, cương lĩnh đã từng bước hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, góp phần bổ sung, phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề này. Tuy nhiên, trước tình hình mới, một số vấn đề trong Cương lĩnh năm 1991 cần được bổ sung, phát triển. Đại hội X đã quyết định “Sau Đại hội X, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển cương lĩnh làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên CNXH”. Việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991 được thực hiện theo tinh thần tiếp tục đổi mới, bám sát thực tiễn của đất nước và thời đại, kế thừa những nội dung vẫn còn nguyên giá trị của Cương lĩnh năm 1991. Bài thu hoạch “Cương lĩnh năm 1991(Đại hội VII) đã được Đại hội X (2006) của Đảng bổ sung và phát triển như thế nào về mục tiêu của CNXH, về mô hình, về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đồng chí phải làm gì để góp phần thực hiện cương lĩnh của Đảng” sẽ làm rõ hơn về sự bổ sung và phát triển trên và trách nhiệm của Đảng viên đối với việc thực hiện cương lĩnh của Đảng. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ của các thầy cô đã giúp em hoàn thành bài thu hoạch này. PHẦN I SỰ BỔ SUNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠI HỘI X CỦA ĐẢNG VỚI CƯƠNG LĨNH NĂM 1991 (ĐẠI HỘI VII) I.Khái quát về cương lĩnh năm 1991(Đại hội VII) 1. Hoàn cảnh lịch sử nổi bật về sự ra đời của cương lĩnh Cương lĩnh ra đời trong bối cảnh CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã sụp đổ, nhiều Đảng Cộng Sản đã bế tắc, mất phương hướng về chính trị. Đối với nước ta, một bộ phận cán bộ Đảng viên và nhân dân dao động niềm tin, các thế lực thù địch tiến công một cách quyết liệt Nước ta bước vào thời kỳ quá độ gặp khó khăn rất lớn không thể khắc phục một sớm một chiều được. Đó là lực lượng sản xuất rất thấp vì nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến, chiến tranh kéo dài hậu quả nặng nề, các thế lực thù địch tăng cường chống phá. Bên cạnh những khó khăn trên nước ta cũng có những thuận lợi rất cơ bản như đất nước đã thống nhất, ổn định và hòa bình, có chính quyền của nhân dân có Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Nhân ta cần cù lao động có ý chí vươn lên, tự lực, tự cường mạnh mẽ, đã có một số cơ sở vật chất bước đầu. Với những thuận lợi và khó khăn trên, cương lĩnh khẳng định chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, mở rộng hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức, biện pháp thích hợp xây dựng thành công CNXH 2. Nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Nguyễn Văn Linh đã đọc Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội VII. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Báo cáo chính trị, Báo cáo xậy dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương khóa VI. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, được Đại hội thông qua đã trình bày: Đánh giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên năm bài học kinh nghiệm lớn; quá độ đi lên CNXH ở nước ta; những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại; hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng. II. Sự bổ sung và phát triển của Đại hội X (2006) với cương lĩnh năm 1991(Đại hội VII) 1. Về mục tiêu chủ nghĩa xã hội Trong cương lĩnh năm 1991 (Đại hội VII), mục tiêu của chủ nghĩa xã hội do nhân dân ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa”. Để đạt được mục tiêu trên điều quan trọng nhất cương lĩnh nêu ra là: - Phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển - Phải chiến thắng được các lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó, trước hết là các thế lực thù địch chống lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo là nhân tố quyết định hàng đầu sự nghiệp cách mạng Việt Nam . Để đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng phải chăm lo xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, và tổ chức thường xuyên đổi mới phương pháp lãnh đạo đáp ứng yêu cầu tình hình thực tế do cuộc sống đặt ra. Cương lĩnh khẳng định lịch sử thế giới đang trải qua bước quanh co xong loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử. Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản cơ sở kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính trị và kiến thức văn hóa phù hợp làm cho nước ta trở thành nước CNXH phồn vinh. Đến Đại hội VIII (6/1996) mục tiêu CNXH mà nước ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đại hội đã bổ sung thêm “xã hội công bằng, văn minh”. Đến Đại hội IX (4/2000) mục tiêu CNXH mà Đảng và nhân ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội đã bổ sung thêm “dân chủ”. Đại hội X (4/2006) tiếp tục khẳng định mục tiêu CNXH mà nhân ta xây dựng và thống nhất mục tiêu mà Đại hội IX nêu ra là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội đã nêu lên mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước 5 năm 2006- 2010, trong đó mục tiêu và phương hướng tổng quát là: “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị- xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội cũng đã xác định những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu đã đề ra là: - Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển nền kinh tế tri thức. - Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ. - Tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. - Phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. - Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bổ sung, sửa đổi điều lệ Đảng. 2. Về mô hình a/ Mô hình CNXH do nhân dân ta xây dựng Trong cương lĩnh năm 1991 Đảng ta đã lược hóa mô hình CNXH mà nhân dân ta xây dựng có sáu đặc trưng: Một là, xây dựng xã hội do nhân dân lao động làm chủ, đây là đặc trưng cơ bản khác biệt về chất với chủ nghĩa tư bản Hai là, xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu Ba là, có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Bốn là, con người được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân Năm là, các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ Sáu là, có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những bài học kinh nghiệm được rút ra, Đại hội X đã bổ sung thêm hai đặc trưng và có một số bổ sung nhỏ trong các đặc trưng của cương lĩnh năm 1991. Đó là: Một là, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Trong cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Hai là, do nhân dân làm chủ. Cương lĩnh 1991 viết do nhân dân lao động làm chủ. Đại hội X điều chỉnh là do nhân dân làm chủ. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ba là, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triền của lực lượng sản xuất. Đại hội điều chỉnh, bỏ đoạn nói về “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu” Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đặc trưng này giống như cương lĩnh 1991. Năm là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ “bóc lột” và còn sửa chữa cụm từ “có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” thành “phát triển toàn diện”. Sáu là, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991 nhưng có bổ sung thêm cụm từ “tương trợ”, phù hợp hơn với thực thế phát huy phát triển của từng vùng miền, từng dân tộc. Bảy là, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tám là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991. b/ Mô hình về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội : Đại hội VII đã nêu rõ mô hình phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam là “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đến Đại hội IX nó được khái quát ngắn gọn hơn thành “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội IX làm rõ hơn nền kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với nền kinh tế thị trường TBCN về mục đích phát triển kinh tế, chế độ sở hữu, vai trò của các thành phần kinh tế, chế độ quản lý, chế độ phân phối. Đến Đại hội X xác định đây là quá trình tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội X đã làm rõ hơn nội dung cơ bản về định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nước ta. Nội dung của nền kinh tế thị trường XHCN nước ta: - Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giải phón mạnh mẽ và không ngừng phát triến sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. - Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc cuả nền kinh tế quốc dân. - Thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách, tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Đảng viên được làm kinh tế tư nhân nhưng phải theo quy định của Trung ương. - Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. 3. Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam Đại hội VII đã nêu lên bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bảy phương hướng đồng thời là những định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước: Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy lien minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Bốn là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, thực hiện chính sách hòa bình hữu nghị với dân tộc các nước. Sáu là, xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nâng cao, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tổ quốc và các thành quả cách mạng. Bảy là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng XHCN ở nước ta. Đến Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung thành 8 quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta. Đó là: Một là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội. Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc. Năm là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sáu là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Bảy là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia. Tám là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội X khẳng định: “Qua tổng kết lý luận- thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”. PHẦN II TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN TRONG THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH CỦA ĐẢNG I. Trách nhiệm nhận thức về Cương lĩnh1991 của đảng viên Trải qua 15 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua những thử thách, khó khăn, dành được thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã thay đổi toàn diện. Cương lĩnh 1991 và các văn kiện bổ sung sau này có ý nghĩa rất to lớn đối với chặng đường phát triển của đất nước ta. Vì vậy, bản thân mỗi người công dân nước Việt Nam đều phải có nhận thức đúng đắn con đường của Đảng đã lựa chọn. Bản thân những người đảng viên, đoàn viên ưu tú thì trọng trách này càng phải được chú trọng hơn, không những trau dồi, bổ sung kiến thức, tư tưởng cho mình mà còn phải có trách nhiệm phổ biến cho quần chúng nhân dân hiểu và làm theo. Đoàn viên ưu tú muốn đứng vào hàng ngũ của Đảng thì bên cạnh phẩm chất, đạo đức tốt thì yếu tố không kém phần quan trọng đó là phải thừa nhận và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ Đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng. Trước hết, hiểu thế nào là thừa nhận Cương lĩnh? Thông qua quá trình học tập và tìm hiểu, công dân đó phải có giác ngộ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Có giác ngộ thì mới có thể xác định được mục tiêu, phương hướng chính trị và động cơ hành động đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Từ việc có được quan điểm, lập trường chặt chẽ mới có thể sẵn sàng nhận và thực hiện được những nhiệm vụ mà Đảng tin cậy giao phó, mới có thể là chiến sỹ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân. Người vào Đảng không chỉ thừa nhận mà còn phải tự nguyện thực hiện Cương lĩnh. Thừa nhận mà không tự nguyện thực hiện thì chưa phải đã là thừa nhận thực sự. Hành động thực tế là thước đo nhận thức, tư tưởng và ý thức phấn đấu của người vào Đảng. Bên cạnh đó, cần phải thừa nhận và thực hiện điều lệ Đảng một cách vô điều kiện. Điều này cũng thể hiện giác ngộ chính trị và ý thức phấn đấu, ý thức tổ chức kỷ luật, tính tiên phong, gương mẫu, ý thức cầu thị, tinh thần đoàn kết, khiêm tốn, gắn bó với tập thể… Thừa nhận và tự nguyện phấn đấu theo tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, tự nguyện hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng để có thể được đào tạo, quản lý, giáo dục, rèn luyện trong một môi trường tốt, nhân cách và nhận thức ngày càng được bồi dưỡng cao hơn. Phấn đấu vào Đảng là để được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn, cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng, tích cực góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra; thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của người chiến sỹ cách mạng. Nếu người vào Đảng không có động cơ trong sáng thì sẽ không thể vượt qua nổi những thử thách, cám dỗ vật chất và những thủ đoạn “ diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch. II. Những việc mà Đảng viên cần làm để thực hiện Cương lĩnh 1991 và mục tiêu hiện tại a/ Rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng Bản lĩnh chính trị thể hiện ở nhận thức đúng đắn và kiên định mục tiêu, lý tưởng của đã lựa chọn, trong bất kỳ tình huống nào cũng không dao động , giảm sút niềm tin và ý chí. Đồng thời, bản lĩnh còn thể hiện ở tinh thần độc lập sáng tạo, không thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ. Hiện nay, kiên định thực hiện Cương lĩnh 1991 và con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đồng thời sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để có bản lĩnh chính trị vững vàng phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ vững niềm tin. Trước khó khăn thử thách không nao núng tinh thần, không mất phương hướng chính trị và có thái độ, chính kiến rõ ràng, kiên định. Bản lĩnh chính trị được hình thành chủ yếu bằng nỗ lực của bản thân trong quá trình học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực học tập, nâng cao vốn hiểu biết. Cần thường xuyên rèn luyện mình qua thực tế sản xuất, công tác, hoạt động chính trị- xã hội. Cần thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, được nhân dân quý mến, tin cậy. Ngày nay, đạo đức cách mạng còn là ý chí quyết tâm và góp sức đưa đất nước ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Lợi ích của cá nhân được tôn trọng khi nó không trái với lợi ích chung của cộng đồng. Kiên quyết chống những hành động đặt lợi ích của bản thân lên trên hết, lên trước lợi ích của tập thể và toàn xã hội. b/ Nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao Đảng viên phải hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác, chiến đấu, học tập giỏi. Để xứng đáng với vai trò tiên phong, gương mẫu “ đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Để trở thành đảng viên, cần phải hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác của mình và nhiệm vụ được tổ chức Đảng, đoàn thể giao cho, bảo đảm đạt chất lượng, hiệu quả cao. Hiện nay, ngoài nhiệt tình cách mạng cần đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực trí tuệ và năng lực thực tiễn. Phải coi trọng học tập chính trị cùng với chuyên môn, nghiệp vụ. c/ Gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội Đảng viên phải giữ vững, phát huy truyền thống gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân dân, trước hết thể hiện sự gắn bó với quần chúng nơi mình đang sống và làm việc. Phải hòa mình vào quần chúng, tin tưởng, lắng nghe và am hiểu quần chúng. Thường xuyên chăm lo đời sống, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chính sách, đường lối của Đảng và nhà nước. Người phấn đấu vào Đảng phải gắn bó với tập thể, nhân dân, đồng nghiệp, bạn bè trong đơn vị công tác, tôn trọng, chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ lẫn nhau. Hòa mình vào quần chúng nhưng không bị động theo những suy nghĩ, việc làm tiêu cực, mà luôn luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, vận động mọi người đoàn kết, thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra. Nhiệt tình tham gia sinh hoạt đoàn thể mà mình là thành viên. Chú trọng mở rộng quan hệ xã hội và tích cực tham gia công tác xã hội, gương mẫu, vận động gia đình, người thân tham gia các hoạt động phong trào tốt đẹp. Chống lãng phí, tiêu cực, tệ nạn xã hội, quan liêu. d/ Tích cực tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở Tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm của người phấn đấu vào đảng và cả đảng viên. Tham gia xây dưng Đảng ở cơ sở bao gồm các nội dung sau: + Quan tâm, đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ. + Tích cực hưởng ứng các phong trào do đảng bộ, chi bộ đề ra. + Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, kịp thời phản ánh, đề xuất với tổ chức Đảng. + Tích cực mạnh dạn tham gia góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. + Tham gia ý kiến khi được hỏi về các đảng viên ưu tú đủ tiêu chuẩn để tổ chức đảng xem xét, bầu vào cấp ủy. Giới thiệu những quần chúng ưu tú đủ điều kiên để tổ chức xét kết nạp. + Góp phần xây dựng cơ sở chính trị trong sạch, vững mạnh. + Tích cực đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị- xã hội ở cơ sở, đơn vị. Góp phần làm thất bại âm mưu và thủ đoạn phá hoại của các phần tử xấu, thế lực chống đối, thù địch. KẾT LUẬN Sau 20 năm thực hiện đổi mới đất nước trong đó có 15 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, chính trị xã hội ổn định. Quốc phòng an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Như vậy Cương lĩnh 1991 là cơ sở để Đảng và nhân dân ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước xây dựng CNXH đi đến thắng lợi. Đại hội X của Đảng đã khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh 1991, điều chỉnh, bổ sung một số điểm và đặt yêu cầu phải nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển Cương lĩnh chính trị, phù hợp với tình hình và yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu học tập chính trị dành cho học viên lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng (Bài 2 và bài 5) – Nhà xuất bản chính trị quốc gia Cương lĩnh năm 1991 Văn kiện Đại hội X của Đảng Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25757.doc
Tài liệu liên quan