Tìm hiểu bộ máy tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam

Lời nói đầu Lịch sử ở nhiều nước trên thế giới đã cho thấy, Kiểm toán Nhà nước ra đời rất sớm, đảm nhận chức năng quan trọng, không thể thiếu được của nhà nước pháp quyền trong quá trình kiểm soát, quản lý việc sử dụng nguồn tài chính công.Tại Việt Nam, Kiểm toán Nhà nước được thành lập theo Nghị Định số 70/CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 của Chính phủ nhằm giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán c

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu bộ máy tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử kinh phí do Ngân sách Nhà nước cấp; đánh giá sự tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được kiểm toán. Sau hơn 10 năm hoạt động, Kiểm toán Nhà nước đã góp phần tăng cường đáng kể công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động tài chính công. Đã cung cấp cho các cơ quan quản lý Nhà nước các thông tin về thực trạng thu - chi ngân sách và công tác điều hành Ngân sách Nhà nước của các cấp, các ngành. Kiến nghị nhiều giải pháp nhằm xử lý các sai phạm phát hiện được trong quá trình kiểm toán để giúp Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có liên quan điều hành hiệu quả hoạt động quản lý của mình, góp phần tích cực ngăn chặn các tệ nạn tham ô, lãng phí, thất thoát công quỹ và tài sản quốc gia. Giúp cho Chính phủ, Quốc hội đưa ra các quyết định kịp thời trong việc lập lại kỷ cương đối với hoạt động tài chính nói riêng, trong quản lý nói chung. Tuy vậy, những kết quả đạt được của Kiểm toán Nhà nước so với yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ và yêu cầu của nền kinh tế còn rất khiêm tốn. Nền kinh tế vẫn đang đứng trước nhiều thử thách, tệ nạn tham ô, lãng phí, tài sản công vẫn còn diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Chính vì vậy, đòi hỏi Kiểm toán Nhà nước phải tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động của mình, phải đổi mới cả về cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật kiểm toán và nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm toán viên.. Có như vậy mới đáp ứng được những đòi hỏi của tình hình mới. Thấy được tầm quan trọng trong việc nghiên cứu Bộ máy tổ chức và hoạt động cũng như những mặt đã đạt được và chưa đạt được của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam, em đã chọn đề tài: “Tìm hiểu bộ máy tổ chức và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam” làm đề án cho môn học chuyên nghành của mình. Ngoài lời nói đầu và kết luận đề tài bao gồm 3 phần chính: Phần I: Lý luận chung về Kiểm toán Nhà nước Phần II: Tổ chức bộ máy và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam Phần III: Một số kiến nghị với hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo, Thạc sỹ Đinh Thế Hùng đã trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Mặc dù đã có cố gắng trong quá trình thực hiện nhưng do thời gian và kiến thức thực tế còn hạn chế nên chắc hẳn đề tài còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Thầy giáo để đề tài hoàn thiện hơn. Phần I: Lý luận chung về Kiểm toán Nhà nước I. Lịch sử hình thành Kiểm toán Nhà nước trên thế giới 1. Tất yếu hình thành Kiểm toán Nhà nước Sự hình thành, ra đời và phát triển của Kiểm toán Nhà nước gắn liền với sự hình thành, ra đời và phát triển của tài chính công mà chủ yếu là Ngân sách Nhà nước, xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của việc kiểm tra, kiểm soát việc chi tiêu ngân sách và công quỹ quốc gia từ phía Nhà nước. Các cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới đã lần lượt được hình thành theo tinh thần của Tuyên bố Lima (Peru-10/1977): “Việc sử dụng hợp lệ và hợp lý các nguồn kinh phí công là một trong những tiền đề cơ bản đối với việc sử dụng đúng đắn các nguồn tài chính công và hiệu lực của các quyết định do các cơ quan có thẩm quyền ban hành. Để đạt được mục đích nêu trên, nhất thiết mỗi quốc gia phải có một Cơ quan Kiểm toán tối cao mà tính độc lập của nó phải được xác lập bằng luật pháp. Sự tồn tại của một cơ quan như vậy càng cần thiết hơn vì các hoạt động của Nhà nước ngày càng mở rộng sang lĩnh vực xã hội và kinh tế; do vậy, sẽ vượt ra khỏi những giới hạn của nền tài chính công…”. 2. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước Kinh nghiệm nhiều năm của các nước đã khẳng định rằng, sự hiện diện và hoạt động của cơ quan Kiểm toán Nhà nước đã góp phần hữu hiệu vào việc thiết lập và giữ vững kỷ cương, kỷ luật tài chính, chấp hành Luật Ngân sách Nhà nước, phát hiện và ngăn chặn các hành vi tham nhũng, lạm dụng, tiêu xài phung phí tiền của Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước thực sự đã trở thành bộ phận hợp thành không thể thiếu được trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước. Vị trí, tác dụng của nó đã được xã hội công nhận và không một cơ quan chức năng nào khác thay thế được trong việc tăng cường kiểm soát, thực hiện mục đích sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tài chính của các cơ quan công quyền, các tổ chức, đơn vị có sử dụng Ngân sách Nhà nước. 3. Sự hình thành Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước trên thế giới đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm nay nhất là ở các nước phát triển (Thí dụ: ở Cộng hòa Liên bang Đức đã có trên 280 năm, ở Pháp là 190 năm, ở Mỹ trên 150 năm, ấn Độ trên 100 năm…). Kiểm toán Nhà nước được khẳng định như một chức năng, một công cụ quan trọng không thể thiếu được của hệ thống quyền lực nhà nước hiện đại. Nhận thức được tầm quan trọng đó, ở các nước trước đây quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung nay đang chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường đã rất quan tâm đến địa vị và vai trò của Kiểm toán Nhà nước. Chẳng hạn như ở Trung Quốc, Kiểm toán Nhà nước đã được thành lập khoảng 20 năm nay, có địa vị pháp lý là cơ quan ngang Bộ, ở Cộng hoà Liên bang Nga, Kiểm toán Nhà nước đã ra đời năm 1994, được giao những quyền hạn rất lớn, được đãi ngộ rất cao… Tại Việt Nam, trong những năm áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc xét duyệt các báo cáo tài chính do các Vụ tài vụ của các Bộ chủ quản, phòng tài chính của các Sở chủ quản tiến hành. Từ 11/7/1994, Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam được chính thức thành lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. II. Khái niệm, chức năng, nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán Nhà nước 1. Khái niệm Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc cơ cấu bộ máy Nhà nước, là công cụ kiểm tra tài chính của Nhà nước thực hiện chức năng kiểm toán việc quản lý và sử dụng các nguồn lực tài chính thuộc sở hữu Nhà nước hoặc Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. ở thời kỳ trung đại, Kiểm toán Nhà nước đã xuất hiện để đối soát tài sản của vua chúa. Qua quá trình phát triển cho đến nay, Kiểm toán Nhà nước ở các nước phát triển đều thực hiện chức năng kiểm toán các đơn vị ở khu vực công cộng. *Trong quan hệ với hệ thống bộ máy nhà nước, Kiểm toán Nhà nước là một phân hệ thực hiện chức năng kiểm toán. * Xét trong một hệ thống kiểm toán nói chung, Kiểm toán Nhà nước lại là phân hệ thực hiện chức năng kiểm toán với một đối tượng cụ thể là tài sản nhà nước, trong đó có Ngân sách Nhà nước. *Xét trong quan hệ với kiểm toán viên nhà nước, Kiểm toán Nhà nước là một hệ thống tập hợp các kiểm toán viên này theo một trật tự xác định để thực hiện chức năng kiểm toán ngân sách và tài sản công. 2. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước 2.1. Chức năng kiểm tra, kiểm soát Kiểm toán Nhà nước có chức năng xác nhận tính đúng đắn trung thực, hợp pháp của các số liệu kế toán, báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán về thu chi, sử dụng Ngân sách Nhà nước và việc thi hành pháp luật về kinh tế, tài chính, ngân sách, kế toán của nhà nước. Đây là chức năng vốn có và mang tính truyền thống. 2.2. Chức năng tư vấn Kiểm toán Nhà nước tư vấn giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm Quốc gia. Tham gia với Quốc hội trong việc quyết định các chính sách về Tài chính Ngân sách, trong việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến Tài chính, Ngân sách. Thông qua công tác kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước nghiên cứu đề xuất các kiến nghị và giải pháp góp phần giữ vững kỉ cương pháp luật, ngăn ngừa các hành vi vi phạm, sử dụng kém hiệu quả, lãng phí công quỹ, vốn và tài sản quốc gia. Kiểm toán Nhà nước tham gia với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan quản lý nhà nước trong việc quyết định các vấn đề quốc gia có liên quan đến Ngân sách Nhà nước và tài sản công, quyết định các chính sách tài chính, ngân sách, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về các vấn đề tài chính, ngân sách. Ngoài ra, với tư cách là cơ quan Kiểm toán tối cao của quốc gia, Kiểm toán Nhà nước còn có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực mà nó được phụ trách. 3. Nguyên tắc hoạt động của Kiểm toán Nhà nước Để thực hiện được các chức năng, Kiểm toán Nhà nước phải tuân thủ những nguyên tắc hoạt động nhất định. Sau đây là 5 nguyên tắc căn bản của hoạt động Kiểm toán Nhà nước: Tuân thủ pháp luật, chuẩn mực và quy trình kiểm toán đã được Nhà nước hoặc pháp luật thừa nhận. Bảo đảm tính độc lập, không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Bảo đảm tính trung thực, khách quan và giữ gìn bí mật Nhà nước, bí mật của đơn vị được kiểm toán. Không gây cản trở hoạt động và can thiệp vào công việc điều hành của đơn vị được kiểm toán. Đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động kiểm toán. III. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước 1. Nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước ở mỗi quốc gia khác nhau thì có các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể khác nhau, song có thể khái quát một số nhiệm vụ và quyền hạn chung nhất của các cơ quan Kiểm toán Nhà nước trên thế giới như sau: 1.1. Thực hiện kiểm toán Kiểm toán Nhà nước thường tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ và chế độ của Nhà nước tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Ngoài ra, Kiểm toán Nhà nước còn thực hiện kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Để thực hiện được nhiệm vụ này Kiểm toán Nhà nước cần thực hiện: Lập kế hoạch kiểm toán hàng năm trình cơ quan có thẩm quyền duyệt. Tổ chức thực hiện kế hoạch kiểm toán hàng năm đã được phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất theo yêu cầu của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp lí của các tài liệu liên quan đến Ngân sách Nhà nước. Kiểm tra các thông tin, tài liệu kế toán, tài chính của các tổ chức, đơn vị sử dụng kinh phí Nhà nước; xem xét việc chấp hành các chế độ chính sách tài chính, ngân sách, kế toán của Nhà nước. Tham gia gián tiếp hoặc trực tiếp vào việc sửa chữa, xử lí những sai phạm của các đơn vị được kiểm toán để chấn chỉnh công tác quản lí tài chính, ngân sách, chế độ kế toán. Quản lí hồ sơ kiểm toán, giữ gìn bí mật thông tin, tài liệu, số liệu kế toán và hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật. 1.2. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật Trước hết, Kiểm toán Nhà nước có nhiệm vụ soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh về Kiểm toán Nhà nước, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác về lĩnh vực Kiểm toán Nhà nước theo thẩm quyền. Kiểm toán Nhà nước đóng góp ý kiến với cơ quan Nhà nước trong việc xây dựng các văn bản pháp luật về ngân sách, tài chính, kế toán và kiểm toán. 1.3. Chỉ đạo và hướng dẫn nghiệp Vụ Kiểm toán Kiểm toán Nhà nước chỉ đạo và hướng dẫn chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán, quy trình, chuẩn mực và phương pháp kiểm toán trong hệ thống Kiểm toán Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ đối với tổ chức kiểm toán nội bộ thuộc các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội có sử dụng kinh phí của Nhà nước. 2. Quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước Thứ nhất, yêu cầu đơn vị được kiểm toán cung cấp và giải trình về các vấn đề liên quan đến hoạt động kiểm toán. Thứ hai, phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong việc thu thập tài liệu, bằng chứng. Thứ ba, phối hợp với các tổ chức Kiểm toán độc lập, các tổ chức tư vấn kiểm toán trong việc thực hiện hoạt động kiểm toán. Thứ tư, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền trong việc: - Xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về Tài chính, Ngân sách, Kế toán của Nhà nước. - Xử lý các tổ chức, cá nhân gây cản trở công việc kiểm toán hay cung cấp thông tin sai sự thật. - Chịu trách nhiệm soạn thảo, sửa đổi, ban hành, bổ sung các văn bản pháp luật về quản lí kinh tế - tài chính, về kế toán - kiểm toán. Ngoài ra, cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở mỗi quốc gia có những nhiệm vụ và quyền hạn riêng theo quy định của pháp luật của quốc gia đó, thí dụ: * Toà Thẩm kế của Cộng hoà Pháp còn có quyền xét xử như một quan toà đối với các cá nhân, đơn vị, tổ chức vi phạm pháp luật tài chính, ngân sách, kế toán. * ở Canada, Tổng Kế toán trưởng không chỉ đánh giá tính chính xác của báo cáo tài chính của Chính phủ mà còn được phép báo cáo về việc điều hành của Chính phủ, kiểm toán báo cáo của hơn 100 ban ngành Chính phủ Liên bang, hơn 40 tập đoàn thuộc sở hữu của Chính phủ Liên bang, vấn đề nhân sự và trang bị của Chính phủ, vấn đề liên quan nhiều bộ phận như nhập cư… và có quyền báo cáo về bất kì người, tổ chức nào có nhận kinh phí của Chính phủ. IV. Mô hình tổ chức bộ máy Kiểm toán Nhà nước Bộ máy Kiểm toán Nhà nước là một hệ thống tập hợp những cơ cấu hợp thành. Trong hàng loạt các mối liên hệ phức tạp với bộ máy nhà nước, hệ thống kiểm toán và với kiểm toán viên Nhà nước, đã hình thành nhiều mô hình tổ chức khác nhau của Kiểm toán Nhà nước tuỳ theo phạm vi các mối liên hệ. 1. Xét trong quan hệ với bộ máy nhà nước ở mỗi quốc gia có quy định khác nhau về quan hệ trách nhiệm và vị trí của Kiểm toán Nhà nước với các cơ quan quyền lực nhà nước khác, về quan hệ trực thuộc của Kiểm toán Nhà nước, có thể quy vào 3 mô hình sau: 1.1. Mô hình cơ quan Kiểm toán Nhà nước được tổ chức độc lập Cơ quan Kiểm toán Tối cao (SAI) được tổ chức một cách độc lập với cơ quan Lập pháp và Hành pháp, được ứng dụng phổ biến ở hầu hết các nhóm nước có nền kinh tế phát triển, Nhà nước pháp quyền được xây dựng có nền nếp, hệ thống kiểm toán hoạt động lâu đời và phát triển cao. Nhờ được tổ chức như vậy mà kiểm toán phát huy được đầy đủ tính độc lập trong hoạt động kiểm toán (Đức, Pháp…). Điển hình của mô hình này là Kiểm toán Liên bang của Cộng hoà Liên bang Đức. 1.2. Mô hình tổ chức cơ quan Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan Hành pháp (Chính phủ) Mô hình này được thể hiện ở mỗi nước một nét khác biệt: ở Trung Quốc, Kiểm toán Nhà nước được tổ chức thành cơ quan hành chính song có quyền kiểm soát các bộ phận của Chính phủ; ở Nhật Bản, Kiểm toán Nhà nước được tổ chức thành cơ quan chuyên môn bên cạnh nội các Chính phủ. Việc tổ chức cơ quan Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan hành pháp giúp Chính phủ kiểm soát điều hành nhanh nhạy quá trình thực hiện ngân sách và các hoạt động khác có liên quan đến việc vận hành nền tài chính quốc gia. Tuy vậy, khi thực hiện chức năng phản biện của Chính phủ, tính độc lập của Kiểm toán Nhà nước chừng nào đó còn bị hạn chế. 1.3. Mô hình Kiểm toán Nhà nước trực thuộc cơ quan Lập pháp (Quốc Hội) Cơ quan Kiểm toán Tối cao (SAI) là một cơ cấu trực thuộc Quốc hội (hoặc Thượng viện, hoặc Hạ viện), là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của cơ quan quyền lực tối cao. Mô hình này tạo điều kiện tối đa để Kiểm toán Nhà nước độc lập và có thể thực hiện chức năng phản biện của Chính phủ (cơ quan hành pháp trực tiếp vận hành nền tài chính quốc gia), giúp Quốc hội - đại diện cho quyền lực và ý chí của toàn dân, thực thi quyền kiểm soát các hoạt động tài chính của Chính phủ. Tuy nhiên mô hình này cũng khiến cho cơ quan Kiểm toán Nhà nước không có cơ hội trực tiếp tiếp xúc thường xuyên với sự điều hành của Chính phủ và do đó, làm chậm đi công tác kiểm toán (bao gồm kiểm toán trước và kiểm toán trong khi vận hành nền tài chính công). Do đó, cần có Luật và các văn bản chế định chặt chẽ để đảm bảo cho hoạt động Kiểm toán Nhà nước được thường xuyên và không bị giới hạn nào. Điển hình của mô hình này là Kiểm toán Nhà nước Anh và Mỹ. Nhìn chung, cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở hầu hết các nước trên thế giới được đặt ở vị trí độc lập với cơ quan hành pháp. Khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, Kiểm toán Nhà nước chỉ tuân thủ pháp luật và được pháp luật bảo vệ tránh khỏi sự chi phối và tác động của các can thiệp từ bên ngoài. Ngoài ra, cơ quan Kiểm toán Nhà nước còn được tổ chức trực thuộc người đứng đầu Nhà nước - Tổng thống như Kiểm toán Nhà nước Hàn Quốc. Khi Kiểm toán Nhà nước trực thuộc Chính phủ hoặc Tổng thống thì ít nhiều có sự hạn chế tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện chức năng của nó, vì người kiểm tra và người bị kiểm tra đều đặt dưới sự kiểm soát của một chủ thể. Xét về mối liên hệ nội bộ Cơ quan Kiểm toán Nhà nước có thể phân loại theo mô hình quan hệ chiều dọc và mô hình liên hệ chiều ngang: Liên hệ ngang: Là mối liên hệ nội bộ trong cơ quan kiểm toán cùng cấp (Trung ương hoặc địa phương), liên hệ này có thể trực tuyến hoặc chức năng. Liên hệ dọc: Là liên hệ trong tổ chức Kiểm toán Nhà nước, có 2 mô hình chính: Dạng I: Cơ quan Kiểm toán Nhà nước có mạng lưới ở tất cả các địa phương. Mô hình này thích hợp với các nước có quy mô lớn, các địa phương phân bố phân tán, khối lượng tài sản công ở mỗi địa phương lớn, tương đối đồng đều và có quan hệ phức tạp. Tình hình đó đòi hỏi phải có tổ chức Kiểm toán Nhà nước ngay tại địa phương. Dạng II:Mô hình Kiểm toán Nhà nước có mạng lưới kiểm toán ở Trung ương và ở từng khu vực. Những khu vực này trước hết có khối lượng công sản đủ lớn và thường xa trung tâm nên đòi hỏi có tổ chức Kiểm toán Nhà nước ngay tại nơi thực tế thực hiện chức năng Kiểm toán Nhà nước . Loại hình này tương đối thích hợp với quy mô nhỏ song địa hình tương đối phân tán. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước chứa đựng rất nhiều mối liên hệ về tổ chức tuỳ thuộc vào đặc điểm của đối tượng, phạm vi, khách thể kiểm toán, tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức bộ máy nhà nước và hàng loạt quan hệ khác bên trong và bên ngoài hệ thống kiểm toán. Phần II: Tổ chức bộ máy và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam I. Hoàn cảnh ra đời Kiểm toán Nhà nước Việt Nam 1. Sự cần thiết phải thành lập Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam Trong quá trình đổi mới, mặt trái của nền kinh tế thị trường càng bộc lộ rõ và sâu sắc, nổi cộm và nhức nhối nhất là nạn tham nhũng, việc lãng phí tài sản quốc gia có xu hướng tăng thêm; tình trạng trốn lậu thuế, nợ đọng chiếm dụng thuế còn phổ biến; việc chi tiêu lãng phí sai mục đích, sai chế độ vẫn không giảm mà còn gia tăng…, đòi hỏi phải tăng cường sự kiểm soát của Nhà nước trong việc quản lí, sử dụng Ngân sách Nhà nước & tài sản Quốc gia. Việc ra đời Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam là tất yếu, là sản phẩm của quá trình đổi mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Ngày 11-7-1994 Kiểm toán Nhà nước Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 70/CP của Chính phủ. Theo đó, Kiểm toán Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ và là cơ quan kiểm tra nền tài chính công của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các việc kiểm toán đối với các cơ quan nhà nước các cấp, các đơn vị có nhiệm vụ thu chi Ngân sách Nhà nước và các tổ chức đơn vị có quản lí, sử dụng công quỹ, tài sản quốc gia. 2. Vai trò, vị trí của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam Kiểm toán Nhà nước Việt Nam là cơ quan mới ra đời trong công cuộc đổi mới của đất nước & tiến trình cải cách nền hành chính quốc gia; là một cơ quan nằm trong cơ cấu tổ chức Nhà nước Việt Nam, là một công cụ mạnh của quản lí nhà nước, cung cấp những căn cứ thực tiễn để Nhà nước thực hiện việc quản lí vĩ mô nền kinh tế nói chung và quản lí Ngân sách Nhà nước, công quỹ quốc gia nói riêng. Cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam không có một tổ chức tiền thân, không có tiền lệ trong cơ cấu tổ chức nhà nước, nhưng nó vẫn có chức năng kiểm tra tài chính công cao nhất. Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước có tác động mạnh đến quá trình ra quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà lãnh đạo, các nhà quản lí, các chủ đầu tư, các nhà tài trợ… Mặc dù chúng ta có cả một hệ thống thanh tra, kiểm tra, kiểm soát từ Trung ương đến các địa phương và ngay cả trong nội bộ các cấp, các ngành, nhưng không có một cơ quan nào có chức năng, chuyên môn, tính hiệu lực và hiệu quả hoạt động như Kiểm toán Nhà nước. Trên một số mặt công tác nào đó thì hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước và hoạt động thanh tra có thể nói là rất gần nhau. Do vậy, thường gặp sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước với Thanh tra Nhà nước, nhất là thanh tra tài chính. Có thể nói ngay là thời gian qua đã xuất hiện hiện tượng này, nguyên nhân chính là do có một số cơ quan thanh tra chỉ lấy nhiệm vụ thanh tra tài chính, ngân sách là chính, xem nhẹ và không thực hiện đầy đủ thanh tra trách nhiệm của người quản lí, hoặc ngược lại có những vụ việc cơ quan thanh tra đã tiến hành thanh tra các mặt hoạt động của doanh nghiệp, trong đó có cả nội dung tài chính nhưng Kiểm toán Nhà nước vẫn tiến hành kiểm toán lại. 3. Cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam Quyết định số 61/TTg ngày 24-1-1995 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định về điều lệ tổ chức, hoạt động của Kiểm toán Nhà nước, về nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức và những vấn đề có liên quan khác khi mới thành lập Kiểm toán Nhà nước. Theo đó, Kiểm toán Nhà nước tuy là một cơ quan mới nhưng chỉ trong thời gian ngắn đã nhanh chóng xây dựng cơ sở vật chất, ổn định và kiện toàn bộ máy tổ chức, thực hiện tốt kế hoạch kiểm toán hàng năm. Nhằm hoàn thiện hơn nữa Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm toán, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2003/NĐ - CP ngày 13/8/2003 có bổ sung và sửa đổi, thay thế Nghị định số 70/CP ngày 11-7-1994, đã quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước. Địa vị pháp lí của Kiểm toán Nhà nước đã ngày càng được nâng cao, hoàn thiện. II. Chức năng & nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam 1. Chức năng của Kiểm toán Nhà nước Nghị định số 70/CP ngày 11-7-1994 và Nghị định số 93/2003/NĐ-CP của Chính phủ khẳng định rằng: Kiểm toán Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của báo cáo quyết toán Ngân sách Nhà nước các cấp, báo cáo tài chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng Ngân sách Nhà nước; kiểm toán tính tuân thủ pháp luật, tính kinh tế trong việc quản lí, sử dụng Ngân sách Nhà nước và tài sản công theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. Cụ thể: Kiểm toán các báo cáo tài chính, ngân sách của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trước khi trình ra Hội đồng nhân dân. Kiểm toán tổng quyết Ngân sách Nhà nước của Chính phủ trước khi trình Quốc hội. Kiểm toán báo cáo quyết toán của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan thuộc Quốc hội, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các đơn vị sự nghiệp công, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí nhà nước. Kiểm toán báo cáo quyết toán các chương trình, dự án, các công trình đầu tư của nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước… Theo kế hoạch kiểm toán hàng năm được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các nhiệm vụ đột xuất do Thủ tướng Chính phủ giao hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. 2. Nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước Theo quy định tại Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05-11-2002, Nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 1/4/2003 của Chính phủ, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thuộc Chính phủ. Đồng thời, căn cứ Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13-8-2003, Kiểm toán Nhà nước có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: 2.1. Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng được Thủ tướng Chính phủ phân công các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm toán Nhà nước, chiến lược quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn 5 năm, hàng năm về Kiểm toán Nhà nước; tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch và kế hoạch sau khi được phê duyệt. 2.2. Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Định kì báo cáo việc thực hiện chương trình, kế hoạch và kết quả kiểm toán lên Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng quản lí ngành, lĩnh vực theo quy định của Chính phủ. 2.3. Quản lí hồ sơ, tài liệu đã được kiểm toán theo quy định của nhà nước; giữ gìn bí mật tài liệu, số liệu kế toán và thông tin về hoạt động của đơn vị được kiểm toán theo quy định của pháp luật; cung cấp kết quả kiểm toán cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và công khai báo cáo kết quả kiểm toán hàng năm theo quy định của pháp luật. 2.4. Ban hành, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và các phương pháp chuyên môn nghiệp Vụ Kiểm toán áp dụng trong các tổ chức, đơn vị trực thuộc Kiểm toán Nhà nước. 2.5. Khi thực hiện nhiệm Vụ Kiểm toán, cơ quan Kiểm toán Nhà nước độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận kiểm toán của mình . 2.6. Thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị với đơn vị được kiểm toán sửa chữa những sai phạm, chấn chỉnh và hoàn thiện công tác quản lí kinh tế, tài chính, chế độ kế toán; kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan quản lí nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách, pháp luật cho phù hợp. Báo cáo và tư vấn cho Quốc hội, trực tiếp là Uỷ ban kinh tế và ngân sách những vấn đề liên quan đến việc ban hành các đạo luật thuộc lĩnh vực kinh tế và Ngân sách Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật có tính chuyên môn và hiệu lực tài chính. Báo cáo và tư vấn cho Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ, và các địa phương về thực trạng nguồn tài chính, tác động của nó cùng với các giải pháp đề ra. 2.7. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chuyển hồ sơ sang cơ quan bảo vệ pháp luật xử lí những vi phạm pháp luật của cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân đã được làm rõ thông qua hoạt động kiểm toán. 2.8. Tham gia ý kiến với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc lập, quyết định và phân bổ Ngân sách Nhà nước hàng năm đảm bảo các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm. 2.9. Quyết định các dự án đầu tư về Kiểm toán Nhà nước thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; tham gia thẩm định các đề án, dự án quan trọng thuộc chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. … III. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam 1. Cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước được tổ chức, thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ và điều lệ tổ chức hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Mới đây, cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước được tăng cường, hoàn thiện thêm một bước theo Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ. Kiểm toán Nhà nước ở Việt Nam là cơ quan trực thuộc Chính phủ (hành pháp), là công cụ kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước. Mô hình tổ chức của cơ quan Kiểm toán Nhà nước tại Việt Nam hiện nay Vụ giám định kiểm tra chất lượng kiểm toán Vụ tổ chức cán bộ Vụ pháp chế Văn phòng Kiểm toán NSNN I Kiểm toán NSNN II Kiểm toán các chương trình đặc biệt Kiểm toán đầu tư dự án I Kiểm toán đầu tư dự án II Kiểm toán DNNN Kiểm toán các tổ chức tài chính, ngân hàng KTNN các khu vực Trung tâm tin học Trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ Tạp chí kiểm toán Các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Tổng kiểm toán Chính phủ Bộ máy Kiểm toán Nhà nước Hiện nay Kiểm toán Nhà nước gồm 16 tổ chức giúp Tổng Kiểm toán thực hiện chức năng nhiệm vụ, và 3 tổ chức sự nghiệp thuộc Kiểm toán Nhà nước, có 11 Kiểm toán Nhà nước ở Trung ương, 5 Kiểm toán Nhà nước ở khu vực đóng trên địa bàn các địa phương với hơn 600 cán bộ, công chức, kiểm toán viên. Chức năng nhiệm vụ của các bộ phận trong Kiểm toán Nhà nước Kiểm toán Nhà nước có địa vị pháp lí cao, được tổ chức và quản lí tập trung thống nhất. Đứng đầu Kiểm toán Nhà nước là Tổng Kiểm toán, tiếp đó là các phó Tổng Kiểm toán. Tổng Kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ hoạt động của Kiểm toán Nhà nước. Tổng Kiểm toán có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Một là, lãnh đạo, quyết định và chịu trách nhiệm về công tác Kiểm toán Nhà nước, được tham dự các phiên họp của Chính phủ về xem xét, phân bổ quyết toán Ngân sách Nhà nước và về những vấn đề có liên quan đến hoạt động Kiểm toán Nhà nước. Hai là, chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung các văn bản pháp quy do Kiểm toán Nhà nước soạn thảo trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển Kiểm toán Nhà nước sau khi được phê duyệt. Ba là, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các tổ chức đó. Bốn là, quyết định và tổ chức thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường kỉ cương, kỉ luật hành chính trong hoạt động Kiểm toán Nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Kiểm toán Nhà nước. Năm là, thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp luật. Phó Tổng Kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Tổng Kiểm toán, giúp việc cho Tổng Kiểm toán. Phó Tổng Kiểm toán được Tổng Kiểm toán phân công chỉ đạo một số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán về nhiệm vụ được phân công. Khi Tổng Kiểm toán vắng mặt, một Phó Tổng Kiểm toán được Tổng Kiểm toán uỷ nhiệm lãnh đạo công tác của Kiểm toán Nhà nước. Các bộ phận trong Kiểm toán Nhà nước được thành lập theo các quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước, đồng thời có quy định kèm theo về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ phận này. Căn cứ vào các Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước ngày 1/3/2004, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ phận như sau: Vụ Tổ chức cán bộ Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ hiện nay được quy định trong Quyết định số 98/QĐ-KTNN ngày 1/3/2004 của Tổng Kiểm toán; theo đó, nhiệm vụ và quyền hạn của Vụ Tổ chức cán bộ là: Thứ nhất, trong công tác tổ chức bộ máy, Vụ Tổ chức cán bộ chủ trì nghiên cứu xây dựng các đề án, chuẩn bị các văn bản qui định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Kiểm toán Nhà nước cùng các bộ phận trình Tổng Kiểm toán Nhà nước để trình cấp có t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28141.doc
Tài liệu liên quan