Tìm hiểu nghệ thuật sử dụng điển cố trong "Quân trung từ mệnh tập" của Nguyễn Trãi

Mục lục Trang Lời mở đầu 1 I. Phần mở đầu 2 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Lịch sử vấn đề 3 4. Phạm vi tư liệu 4 5. Phương pháp nghiên cứu 4 6. Kết cấu báo cáo 5 II. Phần nội dung 6 1. Nghệ thuật sử dụng điển cố - một đặc trưng 6 1.1. Khái niệm 6 1.2. Các loại điển cố thường gặp 7 1.3. Nguồn gốc điển cố 8 1.4. ý nghĩa của việc sử dụng điển cố 8 2. Nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi 9 2.1. Khảo sát điển cố trong QTTMT

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3044 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tìm hiểu nghệ thuật sử dụng điển cố trong "Quân trung từ mệnh tập" của Nguyễn Trãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
9 2.2. Nghệ thuật sử dụng điển cố trong QTTMT 13 III. Phần kết luận 19 IV. Tài liệu tham khảo 23 V. Phụ lục 24 1. Bảng thống kê 24 2. Bảng biểu tổng kết 29 3. Các bức thư trích dẫn 30 Lời mở đầu Được đề cao với nhiều danh hiệu: nhà quân sự tài ba, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, danh nhân văn hoá thế giới… Nguyễn Trãi đã có nhiều đóng góp to lớn cho lịch sử Việt nam. Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình ông đã để lại nhiều di văn có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Để tìm hiểu về những đóng góp của ông cũng như mong muốn tìm hiểu về con người lịch sử này mà người đời sau đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về ông. Các công trình đó được nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực như: quân sự, chính trị, văn hoá, ngoại giao, địa lí … Thừa hưởng thành tựu của người đi trước để lại cùng với những tìm tòi của mình, tôi xin đưa ra một bài viết về việc “Tìm hiểu nghệ thuật sử dụng điển cố trong QTTMT của Nguyễn Trãi”. Đây là đề tài rất ít được nghiên cứu. Thông qua đó nhằm tìm hiểu về đặc điểm, phong cách hành văn của Nguyễn Trãi qua tác phẩm này nói riêng và cách lập luận văn chính luận cũng như văn phong ngoại giao của ông nói chung. Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Trãi (1380-1442) là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao kiệt xuất trong lịch sử trung đại Việt Nam. Không những thế ông còn là một nhà tư tưởng, bậc danh nhân văn hoá thế giới đã để lại một khối lượng trước tác đồ sộ, đáng khâm phục. Trong đó tác phẩm “Quân trung từ mệnh tập” (QTTMT) chiếm một vị trí quan trọng. Bởi tác phẩm không chỉ phản ánh được lịch sử của một giai đoạn xã hội quan trọng mà còn chứa trong đó nhiều nội dung tư tưởng, nghệ thuật tiến bộ khác. Đi vào nghiên cứu QTTMT chính là khám phá ra những giá trị quý báu mà tác phẩm đem lại. Có lẽ vì những lý do đó mà có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về tác phẩm này. Nó được khai thác trên nhiều lĩnh vực như: lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, sử học, văn bản học… QTTMT là một tập thư từ do Nguyễn Trãi thay mặt cho Lê Lợi soạn thảo để trao đổi với tướng lĩnh nhà Minh. Do đó nó là văn bản rất đặc biệt. Để truyền tải những thông tin quan trọng đó, Nguyễn Trãi đã sử dụng hình thức viết thư. Đây là một hình thức hết sức đặc biệt, có thể xem xét trên nhiều phương diện. Nhưng trong phạm vi một báo cáo, tôi xin đi vào một khía cạnh đó là nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi qua "QTTMT". Sử dụng điển cố là một đặc trưng thi pháp của văn học trung đại, nhưng điển cố được sử dụng nhiều, linh hoạt, đặc sắc do một nhà chính trị kiệt xuất làm thì QTTMT được nâng lên trở thành một nghệ thuật độc đáo. Đây chính là điểm hấp dẫn lôi cuốn tôi đi vào nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Xác định vị trí và vai trò của điển cố đối với mục đích chung mà Nguyễn Trãi đặt ra cho các bức thư. Mục đích chung ấy là thông qua các bức thư, Nguyễn Trãi phân tích lẽ đúng sai hợp lí, hợp tình làm cho quân Minh phải bại ‎ ý chí xâm lược. Đây chính là chiến thuật “Tâm công” (đánh bằng tấm lòng nhân nghĩa). Trong mục đích chung ấy, việc dùng điển cố khôn khéo và hiệu quả đóng vai trò: - Khiến cho câu văn Nguyễn Trãi sử dụng trở nên thâm thuý, uyên bác hơn. - Điển cố không chỉ là phương thức mà còn trở thành công cụ sắc bén cho lí luận “tâm công” của Nguyễn Trãi. - Điển cố giống như những hạt kim cương mấu chốt cho các câu chữ khác bám vào trở thành câu văn chiến luận hoàn chỉnh. - Nghệ thuật sử dụng điển cố giúp cho mục đích cũng như nội dung của tác phẩm được nổi bật hơn. Qua đó thấy được tâm tư, tình cảm của tác giả. Qua nét nghệ thuật này rút ra được đặc điểm, phong cách văn chính luận trong tác phẩm “QTTMT” nói riêng và trong văn chính luận của Nguyễn Trẫi nói chung. 3. Lịch sử vấn đề Từ trước đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về "QTTMT" trên nhiều phương diện khác nhau. Trên mỗi phương diện nghiên cứu đều có nhưng giá trị nhất định. Trên lĩnh vực sử học có: “Nguyễn Trãi, người anh hùng của dân tộc” (Phạm Văn Đồng), “Thời đại Nguyễn Trãi trên bình diện quốc tế” (Văn Tạo). Trên lĩnh vực tư tưởng có: “tư tưởng của Nguyễn Trãi” (Nguyễn Thiên Thụ), “Nguyễn Trãi và Nho Giáo”(Trần Đình Hượu), “vài nét tư tưởng của Nguyễn Trãi qua văn thơ ông”(Trần Thanh Mại). Trên lĩnh vực văn hoá: “Nguyễn Trãi và nền văn hiến Đại Việt” (Võ Nguyên Giáp), “Nguyễn Trãi trên tiến trình văn hiến nước nhà” (Lê Văn Lan)… Trên lĩnh vực văn bản học như nghiên cứu, sưu tầm của Trần khắc Kiệm sau đó là Dương bá Cung, Trần Văn Giáp, Nguyễn Văn Nguyên... Ngoài ra còn nghiên cứu trên nhiều phương diện khác như: Ngoại giao, ngôn ngữ, địa lí … Nói riêng về "QTTMT" trong tác phẩm mang tính tổng hợp như “Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm” (Nguyễn Hữu Sơn) đã nghiên cứu các vấn đề như: “Nguyễn Trãi- nhà văn chính luận kiệt xuất” (Bùi Duy Tân), “Tính chiến đấu của tập "QTTMT"” (Đỗ Văn Hỷ), “Bút pháp "QTTMT"” (Đinh gia Khánh), “QTTMT đỉnh cao của dòng văn học luận chiến ngoại giao chống xâm lược” (Nguyễn Huệ Chi), “Tìm hiểu phương pháp lập luận của Nguyễn Trãi trong QTTMT” (Đặng Thị Hảo), “QTTMT tập văn chiến đấu có ý nghĩa lịch sử quan trọng ở thế kỷ XV” (Bùi Văn Nguyên). Có thể nói hầu như chưa có một tác phẩm nào nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực nghệ thuật trong văn phong chính luận của QTTMT. Do đó tìm hiểu “nghệ thuật sử dụng điển cố trong "QTTMT"” là một hướng đi tương đối còn khó khăn. Trên cơ sở tiếp thu thành quả nghiên cứu của những người đi trước, bài viết nhằm tìm hiểu thêm về văn phong ngoại giao, cách lập luận trong văn chính luận của Nguyễn Trãi trong "QTTMT" nói riêng và trong văn chính luận của ông nói chung. Với trình độ sinh viên năm thứ ba, hướng đi này cũng là bước tập dượt giúp tôi đi vào nghiên cứu. 4. Phạm vi tư liệu: Cũng như các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, trong "QTTMT" cũng chịu chung số phận tru di như ông. Do đó để lưu truyền đến ngày nay không tránh khỏi thất tán, mất mát. Từ khi ra đời đến nay "QTTMT" đã được nhiều học giả nổi tiếng như Trần Khắc Kiệm, Dương Bá Cung, Trần Văn Giáp… thu thập, biên soạn. Mỗi công trình đều có những giá trị riêng. Song đối với một trước tác Hán Nôm, đặc biệt là tác phẩm có quá trình lưu truyền lâu dài và phức tạp như di văn của Nguyễn Trãi thì phạm vi tư liệu cần phải căn cứ vào văn bản gần với nguyên bản nhất. Đó là vấn đề thuộc về nguồn gốc văn bản. Căn cứ vào bản in Phúc Khê, gần đây nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Văn Nguyên đã dày công nghiên cứu về “ vấn đề văn bản học của QTTM”. Đây được coi là tác phẩm khảo dị văn bản đầy đủ và chu đáo, đáng tin tưởng. Sự sắp xếp lại của ông về cơ bản phù hợp với cách mô tả của Lê Quý Đôn, Ngô Thế Vinh tức bao gồm 62 văn kiện. Như vậy phạm vi tư liệu căn cứ vào 62 bức thư, bao gồm 40 văn kiện trong “ức Trai di tập”, hai văn bản do Dương Bá Cung sưu tầm và 20 trong 23 văn kiện do Trần Văn Giáp bổ sung. Thứ tự sắp xếp được in trong cuốn “Những vấn đề văn bản học Quân Trung Từ Mệnh Tập của Nguyễn Trãi” tác giả Nguyễn Văn Nguyên. NXB Văn học Viện nghiên cứu Hán Nôm. Hà Nội 1998. 5. Phương pháp nghiên cứu Kết hợp nhiều phương pháp: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, thực chứng… 6. Kết cấu niên luận Gồm 5 phần chính: I. Phần mở đầu: Lý do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Lịch sử vấn đề Phạm vi tư liệu Phương pháp nghiêm cứu Kết cấu niên luận Phần nội dung: 1. Nghệ thuật sử dụng điển cố- một đặc trưng thi pháp của văn học trung đại. Khái niệm điển cố Các loại điển cố thường gặp ý nghĩa của việc sử dụng điển cố 2. Nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi qua "QTTMT" . 2.1. Khảo sát hệ thống điển cố trong "QTTMT" 2.2. Nghệ thuật sử dụng điển cố trong văn ngoại giao của Nguyễn Trãi. III. Phần kết luận: IV. Phụ lục: 1. Bảng biểu thống kê. 2. Bảng tổng kết 3. Các bức thư trích dẫn. V. Tài liệu tham khảo Phần nội dung Trước khi vào phần nội dung cũng cần phải nói thêm, những vấn đề liên quan đến khái niệm, lý luận báo cáo có sự tham khảo trong cuốn “Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố” của Đoàn ánh Loan. 1. Nghệ thuật sử dụng điển cố- một đặc trưng thi pháp của văn học Trung đại: Điển cố là một trong những thủ pháp nghệ thuật đặc thù được sử dụng trong văn học cổ Việt Nam. Thời trung đại do quan niệm sáng tác chịu nhiều ảnh hưỏng của Nho giáo, văn học được sáng tác với mục đích chính trị và giáo huấn về cách cư xử trong cuộc sống nên lời văn, lời thơ đều có âm hưởng trang trọng để tránh dung tục tầm thường. Để có mỗi từ, mỗi câu không chỉ hay mà còn súc tích theo cách nói ít hiểu nhiều của người xưa thì nhiều qui định nguyên tắc trở thành chuẩn mực cho phương pháp và thủ pháp sáng tác. Từ sau khi Thẩm ước (Thời Nam Bắc Triều) đặt ra những qui tắc đầu tiên cho các thể thơ thì sau đó nhiều nhà thơ trên cơ sở đó thêm thắt những qui định mới. Lâu dần những qui định ấy trở thành thuần mẫu. Người đời sau dựa vào khuân mẫu ấy mà dùng thì gọi là dụng điển cố. Việc sử dụng điển cố được xem là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá hiệu quả và mức độ thành công của bài thơ, bài văn. Một trong thói quen của người Trung Hoa là sử dụng điển cố, có khi lấy thước đo dung lượng điển cố sử dụng để đánh giá khả năng sáng tác. Văn học cổ nước ta thời bấy giờ chịu ảnh hưởng sáng tác của Trung Quốc tuy không hoàn toàn nhưng những qui định và tiêu chuẩn đặt ra là cần thiết. Việc dùng điển cố khéo léo, về mặt nào đó sẽ nâng cao tính “bác học” của tác phẩm. Góp phần tạo hiệu quả cho sức mạnh của câu văn, câu thơ. Điển cố không chỉ là biện pháp tu từ mà còn là dạng thức độc đáo để thể hiện tâm tư, tình cảm, cũng như xây dựng hình tượng nghệ thuật. Vì vậy để hiểu một tác phẩm văn học cổ thì không thể không chú ý đến vai trò và ý nghĩa của việc sử dụng điển cố trong đó. Khái niệm về điển cố: Từ “điển cố” phát hiện sớm nhất được thấy trong “Hậu Hán thư”, thiên “Đông Bình Tân Vương Thương truyện”. Để có cái nhìn tổng quát ta đi vào tìm hiểu các cách định nghĩa về điển cố trong văn học trung đại Việt Nam: Theo Đào Duy Anh “điển cố ” là những truyện chép ở sách vở xưa (Đào Duy Anh. “Hán Việt từ điển”. NXB Khoa học xã hội. 2004). Theo Từ điển Việt Hán có ghi về điển cố như sau: 此 事 見 于 典 故 (Thử sự kiến vu điển cố) điển cố có nghĩa là truyện ấy có ở điển cũ. (G.S Đinh Gia Khánh hiệu đính. “Từ điển Việt Hán”. NXB Giáo Dục. 2002). Theo Tầm nguyên từ điển điển là việc cũ. Điển cố tức là truyện xưa (Bửu Kế, Vĩnh Cao. “Tầm nguyên từ điển”. NXB Thuận Hoá. 2000). Nhìn chung các cuốn từ điển đều hiểu điển cố là việc sử dụng tích xưa để ứng với việc nay. ở đây tôi tham khảo cách định nghĩa điển cố theo cuốn “Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố” của Đoàn ánh Loan. Đây là công trình nghiên cứu công phu và cẩn thận về điển cố. Theo “Việt Nam văn học sử yếu”, Dương Quảng Hàm định nghĩa: “Điển (nghĩa đen là việc cũ) là một chữ hay một câu có ám chỉ đến một việc cũ, một tích xưa khiến cho người đọc sách phải nhớ đến việc ấy, sự tích mới hiểu ý nghĩ và cái lý thú của câu văn”. Dùng điển chữ Nho gọi là “dụng điển” hoặc “sử sự” (sai khiến việc) ý nói sai khiến việc đời xưa cho nó có thể ứng dụng vào bài văn của mình. Điển cố có thể ám chỉ đến sự việc thật được chép từ sử, truyện hoặc những câu chuyện hoang đường được chép từ truyện cổ tích, ngụ ngôn, có khi là một vài chữ từ câu văn, câu thơ cổ. Có thể nói ngắn gọn điển cố là những từ ngữ chuyện xưa, tích cũ, về tư tưởng, hình tượng trong sách xưa được tác giả dùng làm phương tiện để diễn đạt ý tưởng một cách ngắn gọn, hàm súc. Các loại điển cố thường gặp: Từ hay nhóm từ được lấy ra từ những câu truyện trong kinh, sử, truyện, các sách ngoại thư… về các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử, địa danh, những quan niệm trong cuộc sống. Từ hay nhóm từ mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người đi trước hay được trích từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao có tích truyện được lưu truyền hoặc đã nổi tiếng. 1.3 Nguồn gốc điển cố trong văn học Trung đại: Nhìn tổng thể, điển cố trong văn học cổ nước ta được hình thành từ thư tịch cổ Trung Hoa, phân loại thành Kinh, Sử, Tử, Tập, Thơ văn và hý khúc. Điển cố từ Kinh bộ gồm Kinh thư, Kinh Xuân Thu, Luận ngữ. Điển cố từ Sử bộ: là kho sách ghi chép câu chuyện về cuộc đời nhân vật và sự kiện lịch sử, gồm: sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư, Tam Quốc Chí, Tấn thi… dùng để so sánh, chứng minh. Điển cố từ Tử bộ: Tử bộ là pho sách của bách gia, chư tử: Nho gia, Đạo gia, Phật gia, Binh gia, Pháp gia… Điển cố từ Tập bộ: là cách sách về thơ văn, phê bình thơ văn và từ khúc Điển cố từ thơ ca: thường sử dụng từ hay nhóm từ, mượn ý, lời từ câu thơ hoặc bài thơ của người trước. Điển cố lấy từ văn học cổ Việt Nam: so với nguồn điển cố thì điển cố lấy từ văn học nước nhà không nhiều vẫn được khai thác sinh động. Thường mang nội dung về các chiến trận oanh liệt, những sự kiện lịch sử nổi bật và các nhân vật lịch sử quan trọng. Điển cố lấy từ văn học dân gian: loại này có phạm vi rộng được dùng nhiều nhất là điển có nội dung về thân phận, tình duyên, sinh hoạt trong cuộc sống… 1.4. ý nghĩa của việc sử dụng điển cố: Đặc điểm của điển cố là dùng biểu tượng biểu trưng, diễn đạt phong phú các lĩnh vực của cuộc sống, được nhiều người gọt giũa thành cố định. Điển cố hàm chứa nội dung và ý nghĩa sâu sắc nhưng được thể hiện hết sức cô đọng, mang tính khái quát, gợi ra nhiều liên tưởng, mang tính hình tượng, đa dạng, linh động. Hình thức của nó phụ thuộc vào sự vận dụng đa dạng của mỗi người. Người biết sử dụng điển cố, kết hợp được các đặc điểm và tính chất của nó sẽ đem lại giá trị hiệu quả cho câu văn mình, làm nâng cao tính “bác học” của tác phẩm và trình độ uyên bác của tác giả. Trên tạp chí văn học số 1.1997 Nguyễn Thuý Hồng có viết “sử dụng điển cố Hán học là biện pháp “mỹ từ” có tính đặc thù và thể hiện khuynh hướng điển nhã trong thao tác lựa chọn ngôn từ của các thi sĩ trung đại”. Hay như Nguyễn Ngọc San trong “tìm hiểu giá trị và cấu trúc của điển cố trong tác phẩm Nôm” có nhấn mạnh vào ý nghĩa của điển cố, bao gồm: ý nghĩa hiện thực, ý nghĩ biểu trưng và ý nghĩa giá trị phong cách của điển cố. Khi những ý nghĩa này được vận dụng hiệu quả sẽ làm cho bài văn diễn đạt được ý tình sâu kín và tinh tế. Bên cạnh những ý nghĩ tích cực của việc vận dụng điển cố thì còn có trường hợp nếu dùng quá cầu kỳ, lạm dụng sẽ dẫn đến bị sáo mòn, rối rắm. Nghệ thuật sử dụng điển cố Nguyễn Trãi qua "QTTMT" Nguyễn Trãi là một tác gia tiêu biểu và nằm trong hệ thống các tác giả thời trung Đại, cũng giống như trào lưu văn học lúc bấy giờ, việc sử dụng điển cố trong văn chương đối với Nguyễn Trãi trở thành một phương tiện đắc lực và hiệu quả, giúp cho câu văn đạt giá trị nhất định. Bằng chứng là trong hầu hết các tác phẩm của ông đặc biệt là mảng văn thơ viết bằng chư Hán, việc sử dụng điển cố đã ăn sâu vào câu chữ trở thành lối phong cách riêng. Để nhận thấy cụ thể tôi đi vào khảo sát hệ thống điển cố trong QTTMT bằng phương pháp thống kê và phân loại là chủ yếu. 2.1 Khảo sát hệ thống điển cố có trong QTTMT: Căn cứ vào nguồn gốc, cách sử dụng, cách hiểu, mục đích dùng tôi phân loại như sau: Căn cứ vào cách phân loại điển cố theo nguồn gốc trong cuốn Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố của Đoàn ánh Loan, có thể chia điển cố thành 5 loại nguồn gốc: Truyện- Sử bộ; Kinh bộ; Về sách Binh pháp; Thi ca cổ và Văn học dân gian. Bên cạnh việc dựa vào các phân loại cơ bản này tôi còn đưa ra một số các cách phân loại khác căn cứ vào các sử dụng điển cố, cách hiểu và mục đích sử dụng. Gồm các phân loại như sau: - Phân loại theo cách sử dụng: Ngoài những chú thích của các học giả như Nguyễn Văn Nguyên, Mai Quốc Liên… tôi nhận thấy còn rất nhiều bức thư chưa được chú thích. Đó là các bức Nguyễn Trãi thường mở đầu bằng câu: ta thường nghe, kể ra, ta nghe nói … ở các bức thư như bức số5: Phù vi tướng chi đạo dĩ nhân nghĩa vi bản (Kể đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy trí dũng làm vốn). Hay bức số 6 có viết: Phù thiện dụng binh giả, vô hiểm vô bất hiểm vô dị vô bất dị (Kể đạo làm tướng không có đâu là không hiểm không có đâu là dễ đâu là không dễ), ngoài ra Nguyễn Trãi còn sử dụng ý ở trong các sách Binh pháp như ở các bức thư số 7, 33… Tôi xếp vào mục Về sách Binh pháp. Gồm có 7 câu.Và tất cả những câu mở đầu có viết: Ngạn hữu vân, cổ nhân vân, cố viết… như câu: Tác xá đạo bàng tam niên bất thành (Làm nhà bên đường ba nămkhông xong) (bức 16)… Tôi xếp vào mục điển cố có nguồn gốc từ văn học dân gian. Gồm có 15 câu. Như vậyphần phân loại theo cách sử dụng gồm 19 điển (Văn học dân gian và về sách Binh pháp), chiếm 17,27%. Còn lại tôi vẫn tuân theo cách phân chia của Đoàn ánh Loan, phần này có 91 điển, chiếm 82,83%. Phân loại điển cố theo cách hiểu: Hiểu điển cố theo nghĩa rộng và hiểu điển cố theo nghĩa hẹp. Nghĩa hẹp: bao gồm những điển cố dùng văn, thi liệu có 50 điển cố , chiếm 45,45%. Nghĩa rộng: bao gồm những điển cố thêm cả việc mượn những từ hay nhóm từ lấy ra từ những câu truyện trong Kinh, Sử… có 60 điển cố , chiếm 54,54%. - Phân loại điển cố theo mục đích sử dụng: chia lam 12 loại cơ bản. + Ca ngợi những vị vua hiền, các triều đại thịnh trị trong lịch sử Trung Quốc, có 4 điển cố , chiếm 3,63%. + Kéo dài thời gian hoà hoãn bằng việcnói về nỗi oan ức của ta và mong được chuộc lỗi, có 5 điển cố , chiếm 4,54%. + Trách nhiệm của kẻ làm Thiên tử có 13 Điển cố, chiếm 11,82%. + Khuyên tướng lĩnh nhà Minh, phân tích lẽ đúng sai, việc thất đắc có 18 điển cố, chiếm 16,36%. + Khiêu chiến, cảnh cáo có 4 Điển cố, chiếm 3,64%. + Tố cáo tội ác, vạch trần bộ mặt xâm lược của quân Minh có 18 Điển cố, chiếm 16,36%. + Nói về chữ tín và chữ thành có 7 Điển cố, chiếm 6,36%. + Khó khăn của địch có 10 Điển cố, chiếm 9,69%. + Khuyên dụ lính hàng có 16 Điển cố, chiếm 14,54%. + Việc làm chính nghĩa và trách nhiệm của quân ta có 7 Điển cố, chiếm 6,36%. + Đạo đức của người quân tử, Thánh nhân có 5 Điển cố, chiếm 4,54%. + Bàn hoà ước có 3 Điển cố, chiếm 2,72%. Theo thứ tự sắp xếp của Nguyễn văn Nguyên với 62 bức thư với bản chữ. Kết quả khảo sát có được như sau: Về mức độ bức thư có điển cố thống kê cho thấy có bức có, có bức không. Tức là không phải tất cả các bức thư đều có điển cố. Nhưng số không có là rất ít, đó là 13 bức: 10, 11, 12, 18, 19, 24, 39, 47, 48, 55, 59,60, 62 chiếm 20,9% trong tổng số 62 bức thư. Còn lại 49 bức thư có điển cố, chiếm79,1%. Đối với những bức có điển cố, có bức có nhiều, có bức có ít điển cố. ít nhất là một điển cố có ở 19 bức thư: 3, 4, 6, 13, 14, 16, 20, 21, 22, 23, 25, 27, 29, 30, 38, 46, 49, 57, 58 chiếm 30,6%. Những bức thư sử dụng nhiều điển cố, từ bốn đến năm hoặc hơn thế như các bức thư 8, 26, 31, 32, 34, 35, 36… Nhiều nhất là ở bức thư số 33 có 11 điển cố. Những bức không dùng điển cố cố thường là những bức chứa nội dung ngắn như để thông báo, như thông báo về việc con cháu nhà Trần dâng biểu cầu phong cùng sứ giả đi sang Trung Quốc (bức 10); Thông báo về việc sửa chữa cầu đường đã xong cho các vị Hình đại nhân và các vị Đả Công, Lương Công (bức12); Báo cho Vương Thông việc quân ta dời đến bên thành Bắc Giang để tiện cho việc hoà ước (bức 18)… Còn những bức sử dụng nhiều điển cố thường nhằm mục đích liệt kê tội ác của giặc (44, 52…), phân tích lẽ đúng sai (31, 36…), dẫn về nhânvật thiện ác trong lịch sử Trung Quốc (26, 33..) v.v… Về số lượng sử dụng 78 điển cố, kể cả những bức sử dụng lặp thì có 110 lần sử dụng điển cố có nghĩa là một số điển cố được sử dụng nhiều lần ở các bức thư khác nhau như dùng điển: để chỉ sự hèn nhát của giặc, Nguyễn Trãi sử dụng điển cố “Cân quắc chi nhục” (nhục khăn yếm) vốn là mượn chữ “cân quắc ” là đồ trang sức của đàn bà trong sách Tấn thư kể về truyện Gia Cát Lượng mang quân đi đánh Ngu‏y, khiêu khích nhiều mà Tư Mã ý không chịu ra đánh. Lượng bèn mang đến cho y đồ dùng khăn yếm để làm nhục,‎ thì có ở các bức 7, 33; điển điếu dân phạt tội có ở các bức 8, 26, 28; điển nói về chữ tín xuất hiện trong các bức 15, 17, 22, 23; điển Hán Đường hiếu đại Thang vũ điếu phạt có ở tới 6 bức thư: 31, 40, 52, 53, 56,… Ngay cả trong một bức thư, một điển cố cũng có thể được dùng lặp lại như điển về Bách Lý Hề và Lý Tả Xa là hai nhân vật sử tài giỏi lại biết thời thế để nhằm thức tỉnh Thái đô đốc, điển này có ở bức 36 dùng lại hai lần… Về nguồn gốc trích dẫn điển cố: Điển cố có nguồn gốc từ Truyện, Sử bộ: Kể về sự kiện hoặc nhân vật lịch sử, một triều đại lịch sử. Đây là loại chiếm số lượng cao nhất so với các điển cố có nguồn gốc khác với 60 lần (54,54%). Sau đó là điển có nguồn gốc từ Kinh bộ mà chủ yếu lấy trong sách Mạnh Tử, Trung Dung, Luận Ngữ, Kinh thi với 26 lần (23,63%). Nguồn gốc từ văn học dân gian cũng khá phong phú như thành ngữ, tục ngữ, phương ngôn với 15 lần (13,64%). Mượn ý hoặc cả câu thơ cổ với 2 lần (1,82%). Rút từ sách Binh pháp với 7 lần (1,82%). Các điển có nguồn gốc từ Kinh- Sử truyện- Thơ ca- Binh pháp chủ yếu là lấy trong sách Trung Quốc, ở giai đoạn chưa được Việt hoá. Còn điển có nguồn gốc từ văn học dân gian có cả của Trung Quốc cả của nước Nam nhưng nguồn gốc sâu xa vẫn bắt nguồn từ vùng Hoa Hạ này Tuy nhiên nó đã được việt hoá nhiều lâu ngày sử dụng thành khẩu ngữ mà người ta không phân biệt được rõ ràng từng câu đâu là của người phương Bắc đâu là của người phương Nam. Về phân loại theo cách sử dụng: Những điển cố sử dụng thi, văn liệu và các điển tích (thông qua từ nhóm từ được lấy ra từ các câu truyển trong Kinh, Sử…về các nhân vật sử, các triều đại…) gần tương đương nhau. Điều này chứng tỏ việc hiểu và sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi đối với cả hai loại này là rất hài hòa. Về phân loại theo mục đích sử dụng điển cố theo thống kê ta thấy: Những Điển cố nói về việc tố cáo tội ác của giặc, vạch trần bộ mặt xâm lược của địch (16,36%), khuyên tướng lĩnh nhà Minh (16,36%), khuyên dụ lính hàng (14,54%), trách nhiệm của Thiên tử (11,82%), khó khăn của giặc chiếm số lượng cao hơn cả. Điều này phù hợp chứng tỏ việc sử dụng Điển cố là nhắm đúng mục đích đề ra, nhằm chỉ rõ bộ mặt thật của quân nhà Minh thực chất là quân xâm lược, chỉ cho chúng lẽ đúng sai việc mất còn để chúng tự nhận sai về mình, cùng với những khó khăn chúng mắc phải sẽ nhanh chóng bị thất bại, từ đó khiến quân địch phải lung lay về tinh thần lần lượt đi tới chỗ thất bại. Đây cũng chính là thuật tâm công (đánh bằng tấm lòng) của Nguyễn Trãi. Về tính chất của những điển cố có nguồn gốc Hán Việt thường tương đối dễ hiểu và phổ biến. Đối với những Nho sĩ xưa phải thông thạo Kinh sử thì khi đọc những bức thư này có lẽ không khó khăn gì. Mà mục đích chính Nguyễn Trãi hướng tới là tướng soái nhà Minh “từng đọc Thi, Thư” (bức 46) thì việc hiểu điển cố là điều nắm trong lòng bàn tay. Về mức độ trọn vẹn khi dẫn điển đa số là trích dẫn không hoàn toàn thường mượn ý, hình ảnh, tên đất, tên người, tên triều đại… sau đó gợi mở ra ý nghĩa cần dùng. Khi trích dẫn trọn vẹn, thường gặp ở điển có nguồn gốc từ Kinh bộ hay văn học dân gian. Nghệ thuật sử dụng điển cố trong văn ngoại giao của Nguyễn Trãi: Xét trong 62 bức thư mà có đến 110 lần xuất hiện điển cố, tức là bình quân mỗi bức gồm hai điển cố, nếu không kể đến 15 bức không xuất hiện điển cố thì bình quân mỗi bức khoảng gần 3 điển cố. Cùng với 78 điển cố khác nhau thuộc năm nhóm nguồn gốc, có thể nói nguồn điển cố mà Nguyễn Trãi dùng rất phong phú, từ văn học dân gian đến cả kinh, sử. Điều đó nói nên Nguyễn Trãi là người rất am tường, vốn văn hoá uyên bác, khả năng vận dụng khéo léo, biết nhấn mạnh, xoáy sâu khiến quân giậc không thể coi thường. Hơn nữa đó là những tích để lại của chính cha ông họ, những câu truyện trong lịch sử nước họ. Khi bọn Phương Chính bị ta tiến công chúng vì sợ mà không ra đánh Nguyễn Trãi đã chỉ thẳng vào mặt chúng: “Nhĩ nãi bế thành cố thủ, chính như nhất lão ẩu, hà da? Ngô khủng nhữ đẳng bất miễn cân quắc chi nhục hĩ” (Thế mà ngươi vẫn cứ đóng cửa thành bền giữ như mụ già thế cớ làm sao? Ta e bọn ngươi không khỏi cái nhục khăn yếm vậy). Dùng truyện khi Gia Cát Lượng khiêu chiến với Tư Mã ý ở sông Vị Thuỷ để làm nhục y ghi trong sách Tấn Thư qua đó gián tiếp khiêu khích bọn Phương Chính (bức 7). Như thế Nguyễn Trãi trước đã rất khôn khéo vừa là tỏ ý ‎tôn trọng lịch sử Trung Quốc nhưng sâu xa hơn là lấy chính những tuyên ngôn, những chiến tích mà bọn giặc Minh tỏ ra nhân nghĩa mà kì thực chúng đã dẫm nát lên chính những lời nhân nghĩa đó của cha ông mình. Còn khi bọn chúng lớn tiếng hô khẩu hiệu “phù Trần diệt Hồ” thì ngay sau đó Nguyễn Trãi đưa hàng loạt dẫn chứng để bẻ gẫy luận điệu gian trá của giặc đồng thời vạch trần bản chất xâm lược của chúng. Trong thư “Lại thử trả lời Phương Chính” Nguyễn Trãi viết: “Nhĩ quốc vãn nhân Hồ thị thất đạo, giả dĩ điếu phạt vi danh, tế kì bạo lệ chi thực, xâm đoạt ngã cương thổ ngư liệp ngã sinh dân” (nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo mượn tiếng điếu dân phạt tội kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta). Đồng thời tỏ thái độ cương quyết, dùng lí lẽ vững chắc, điển cố xác đáng để bọn chúng tự nhận lỗi về mình. Trong “Biểu cầu phong” Nguyễn Trãi lên giọng: “Hựu dĩ Hán chi ư Hung Nô, Đường chi ư Cao Ly vi ngôn, đại nhân khởi bất kiến Vũ Đế chi chiếu khí Luân Đài, Thái Tông chi ban sư Tân Thị” (Tất như Hán Võ lấy việc bỏ Luân Đài mà nhận lỗi, Đường Thái Tông lấy việc đánh Cao Ly mà ăn năn). Đây chính là cái mà Nguyễn Trãi gọi là nghệ thuật “tâm công” (đánh bằng tâm) đã mang lại hiệu quả cho lập luận của ông, vừa ra đòn “gậy ông đập lưng ông” lại vừa khiến chúng tâm phục khẩu phục. Về mảng này ngòi bút Nguyễn Trãi tỏ ra mạnh mẽ, sắc sảo đầy thuyết phục. Xét về nguồn gốc thì kinh, sử truyện có 87 lần xuất hiện tương đương với 85%. Có hiện tượng này là do Nguyễn Trãi vận dụng được ý nghĩa nội tại của nhóm nguồn gốc. Đó là những lời giáo huấn, hay từ kinh nghiệm và trí tuệ của bậc thánh nhân từ lâu đã trở thành tấm gương, chân lí để đối chiếu với việc làm của người đời sau. Đưa ra lời chỉ giáo của cha ông mình thì quân Minh sao có thể chối cãi? Nhờ thế mà điển cố Nguyễn Trãi sử dụng càng mang tính thuyết phục, nó giống như chỗ dựa vững chắc để lập luận của ông thêm phần đanh thép lại thấu tình đạt lí. Bằng vốn điển cố đó Nguyễn Trãi đã bố trí một cách linh hoạt khiến câu văn không bị cứng nhắc, sáo rỗng. ở giai đoạn đầu cuộc kháng chiến khi tương quan so sánh lực lượng nghiêng về bên giặc Nguyễn Trãi đã khôn khéo giữ thế hoà mà liên lạc với chúng dưới hình thức trá hàng vừa nêu nỗi oan khuất của mình, nỗi khốn khó của dân chúng đồng thời nêu lên tội ác của giặc. Trong bức thư thứ nhất gửi cho giặc, Nguyễn Trãi thể hiện sự tài tình của mình trong lập luận, sử dụng điển cố xác đáng, uyển chuyển không chỉ phù hợp với nội dung bức thư mà còn nêu bật mục đích, ý tưởng của mình: “Nhiên tinh vệ vô từ điền hải chi lao, oan khốc bất cố tử sinh chi báo” (song chim tinh vệ lấp biển há quản gian lao, kẻ oan ức trả thù cũng liều sống thác). Khi nghĩa quân giữ được thế tấn công, vây hãm thành Nghệ An nhưng địch vẫn chưa đầu hàng, Nguyễn Trãi viết “Lại thư cho Phương Chính” khiêu khích để địch ra ngoài giao chiến: “Ngô khủng nhữ đẳng bất miễn cân quắc chi nhục hĩ” (ta e là bọn mày không thoát khỏi nhục khăn yếm) lời lẽ tưởng như đơn giản ngẫm kĩ mới thấy thâm thuý. Đồng thời với việc lên án, tố cáo tội ác của giặc, Nguyễn Trãi tiếp tục sử dụng điển cố làm minh chứng cho lập luận của mình. Trong thư gửi Liễu Thăng Nguyễn Trãi dẫn ra một câu tục ngữ dùng hình ảnh con ong cái bọ, chỉ là thứ côn trùng, sâu bọ cũng có vũ khí sinh tồn của nó, từ đó nói về ý chí quyết tâm chống kẻ thù xâm lược của dân tộc ta: “sái do hữu độc, huống ngã nhất quốc chi nhân, kỳ trung khởi vô mưu kế dũng lược chi sĩ” (con ong cái bọ còn có nọc độc huống chi trong cả nước tôi há lại không có người nào mưu trí hay sao? Các ông chớ có thấy nước tôi ít người mà coi thường) (Bức thư số 54). Với phương pháp dùng thủ pháp đối, Nguyễn Trãi đưa ra điển cố để đối lập giữa luận điệu xảo trá “hưng diệt kế tuyệt”(trấn hưng nước đã diệt nối dòng đã mất) của địch với tấm lòng “điếu dân phạt tội”(thương dân đánh kẻ có tội) của nghĩa quân, qua đó khẳng định cuộc khởi nghĩa của ta là chính nghĩa còn của quân Minh là vô đạo, phi nghĩa. Đây là một khẳng định rất có ý nghĩa vì có chính nghĩa thì mới khiến người dân tin. Dân tin thì dân ắt sẽ theo về, có dân thì như nắm được gốc trong tay, như thế lo gì chính nghĩa không thắng hung tàn. Chẳng phải chính thánh nhân xưa đã dạy “phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ” (lật thuyền mới biết sức dân như nước) hay sao? Trong bức thư số 31 Nguyễn Trãi cũng đưa ra sáu điều tất thua cho quân Minh trong đó có lí do mất lòng tin ở dân chúng là vậy. Đứng trên lập trường của người chiến thắng Nguyễn Trãi còn khẳng định quân ta không chỉ chính nghĩa mà còn có lòng khoan hồng. Đây là đức tính quí báu mang tính truyền thống của dân tộc nay được nghĩa quân kế thừa và sử dụng lời dạy ấy rất đúng chỗ. Truyền thống “thương người như thể thương ta” của dân tộc một lần nữa được thi hành cho tàn quân Minh. Phải nói rằng Nguyễn Trãi thật là cao tay mới có thể viết được những lời lẽ đanh thép như thế. Bằng chiến thắng vang dội, tuy đổ nhiều xương máu nhưng lịch sử đã chứng minh rằng “đại nghĩa” sẽ thắng “hung tàn”. Chẳng thế mà khi kết thúc chiến tranh, ta đã không làm như nhà Hán, nhà Đường đánh cả kẻ chạy đi lẫn kẻ chạy về, trái lại ta dải thảm hoa, sắm sửa thuyền bè cho quân Minh về nước khiến chúng cảm động. Trước khi về nước Vương Thông còn qua chào từ biệt Lê Lợi. Nghệ thuật “tâm công” thế là đã đến chỗ tột đỉnh của nó. Trong gới hạn bài viết nên chúng tôi không thể lấy dẫn chứng được hết các điển cố, với số lượng 78 điển cố như vậy có thể nói điển cố trong tay Nguyễn Trãi thật là phong phú lại được sử dung rất linh hoạt và công phu. Một cách ý thức Nguyễn Trãi đã khiến chúng thành phương tiện sắc bén cho lập luận cuả mình. So sánh giữa các loại điển cố Nguyễn Trãi dùng, như ta đã thống kê trên cho thấy nguồn gốc lấy từ kinh sử và về binh pháp là nhiều hơn cả còn điển lấy từ tục ngữ, phương ngôn chiếm rất nhỏ. Đó chính là điều chú trọng của Nguyễn Trãi. Bởi lẽ để đánh thắng được kẻ thù không gì bằng hiểu thấu đáo kẻ thù. Từ việc xác định rõ đối tượng hướng tới chủ yếu là tướng soái nhà Minh. Về mặt khách quan mà nói họ là những người mà Nguyễn Trãi đã khẳng định “từng đọc Thi, Thư” chứ không phải những kẻ tầm thường. Như vậy lấy Thi, lấy T._.hư ra trả lời, Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định trí tuệ của dân tộc mình mà còn nhằm mục đích rất rõ ràng, mục đích “thực dụng”- dùng chính ngôn ngữ huênh hoang, đắc thắng của kẻ thù làm vũ khí trang bị cho lí luận của ta. Trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi cũng sử dụng khá nhiều điển về kinh, sử để trợ giúp cho lí lẽ của mình. Dẫn câu “dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng nguyện làm” trích câu nói của Mã Viện trong Hậu Hán thư để nói lên ý chí quyết tâm đánh giặc của ta. Có thể nói “Bình Ngô đại cáo” cũng như "QTTMT" nói riêng và mảng văn chính luận của Nguyễn Trãi nói chung có một nét phong cách khá độc đáo, trong đó yếu tố điển cố được sử dụng với mục đích chính trị, mục đích “thực dụng” đóng một phần quan trọng. Trong sáng tác thời kì văn học trung đại, điển cố được xem như là phương thức đặc biệt để xây dựng câu văn, câu thơ. Tuy nhiên việc đưa điển cố với mục đích sử dụng lại khác nhau. Điển cố có khi giúp câu văn hình ảnh thêm sinh động, tránh sự trần trụi, khô khan, có khi để bộc lộ chí hướng, diễn tả cái gọi là “ý tại ngôn ngoại”, hay có khi là tỏ sự uyên bác, quí phái… Còn một loại mà Nguyễn Trãi dùng làm mục đích chính cho lối văn chính luận của mình. Bên cạnh yếu tố tích cực vốn có mà điển cố mang lại Nguyễn Trãi đã khéo léo lôi kéo nó vào mục đích của mình. Một mục đích rất “thực dụng”, đó là dùng điển cố làm ví dụ hay làm chứng cớ xác thực cho lập luận. Không dẫn dắt dài dòng hay liệt kê một cách chi tiết mà lợi dụng những tích cũ, những câu nói trong kinh điển đưa ra một vài điểm cũng đủ làm ví dụ dẫn chứng giúp cho lập luận có cơ sở vững chắc, xác đáng, rõ ràng. Để vạch trần tội ác của giặc, Nguyễn Trãi hoặc là đưa ra ví dụ trực tiếp hoặc dùng biện pháp đối lập… từ đó để đối chiếu, so sánh với việc làm của chúng. Như là lúc thì dẫn chứng về tính hiếu đại của Hán Đường, lúc lại dẫn về gương điếu dân phạt tội của Thang Vũ. Từ đó đưa ra hai mặt của một vấn đề: vạch trần bộ mặt xâm lược của giặc đồng thời cho thấy bọn chúng là kẻ đã bất chấp trà đạp lên đạo đức do chính cha ông chúng đề ra. Đó là mục đích chính do hiệu quả điển cố mang lại, tuy nhiên cũng không thể loại bỏ những yếu tố khác đã khiến câu văn mang tính sinh động, lời lẽ sâu sắc, nâng cao tính bác học cho tác phẩm. Như vậy, trên nền chung về cách sử dụng điển cố trong văn học cổ nước ta thì Nguyễn Trãi đã dành cho mình một hướng đi riêng. Phải nói thêm rằng việc sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi đạt tới một trình độ điêu luyện, sắc xảo, không hề xáo rỗng, hay khô khan mà ngược lại nó htrở thành thứ công cụ đắc lực cho lập luận của tác giả. Điều đó sở dĩ có được bên cạnh chủ ý của tác giả còn do hoàn cảnh khách quan tác động. Khi giao thiệp thư từ với quân Minh căn cứ vào từng hoàn cảnh, tuỳ đối tượng nhất định mà tác giả lúc dùng lời lẽ mềm mỏng, lúc thì cương quyết, rắn rỏi… Nhưng dù trong lúc yếu thế hay thắng thế, Nguyễn Trãi luôn đứng trên lập trường lấy tư tưởng nhân nghĩa làm nòng cốt, đồng thời dùng thuật “tâm công” đánh bằng tấm lòng, lôi kéo thuyết phục đối phương nhằm kết thúc chiến tranh ít đổ máu nhất và luôn đặt quyền lợi của người dân lên hàng đầu. Xuất phát từ lí do hoàn cảnh, Nguyễn Trãi đã lựa chọn cho mình phương thức viết riêng, trong đó cách dùng điển cố với mục đích có thể nói là rất “thực dụng” đã góp phần đắc lực cho luận điệu của mình. Và quả thực đó là một lựa chọn khôn ngoan, bằng chứng là bọn giặc Minh cứng đầu cuối cùng đã tâm phục, khẩu phục. Kẻ về đến nước mà vẫn “tim đập chân run”, kẻ thì ân cần đến chào vị tướng Lê Lợi trước khi rút về nước… Như thế trong phong cách viết văn chính luận của tác giả, nghệ thuật sử dụng điển cố quả thực đã đem lại cả giá trị nội dung và nghệ thuật cao. ở QTTMT, Nguyễn Trãi đã sử dụng phương pháp lập luận chặt chẽ, bao gồm cả cách chọn lọc từ ngữ và kết cấu tác phẩm. Đó chính là hình thức nghệ thuật quan trọng làm nên sức thuyết phục cho các bức thư. Kết cấu theo hình thức quy phạm: mở đầu, phần thân và kết luận. Đặc biệt xen lẫn giữa các đoạn trong bức thư tác giả thường luận điểm dưới dạng nguyên lí. Cơ sở của các luận điểm đó từ những khái niệm đạo đức Nho giáo đã được hai bên công nhận, những chân lí khách quan rút ra từ thực tế cuộc sống, những vấn đề như chữ “thời” trong các sách Binh pháp đề cập đến và người dụng binh đều thấu hiểu. Mỗi bức thư đều mang tính chiến đấu rõ ràng: giương cao tính chính nghĩa, có biện pháp chiến đấu thích đáng, giảm tàn sát. Nguyễn Trãi quả đã khéo léo sử dụng ngòi bút thần kì của mình viết thành hệ thống văn địch vận, vừa đậm đà khí phách dân tộc vừa đầy đủ tính chất hùng biện đứng trên lập trường của người chiến thắng. Trong đó phải kể đến sức mạnh của việc sử dụng điển cố, nói một cách hình ảnh thì việc sử dụng điển cố có khi đan cài có khi xuất hiện dồn dập như những viên kim cương lấp lánh mà các câu chữ khác bấu víu vào tạo ra thứ vũ khí sắc bén đâm thủng những luận điệu gian trá của kẻ địch. Và có thể nói thứ văn địch vận này thực sự đã hỗ trợ đắc lực cho mặt trận quân sự và nó có sức mạnh bằng nhiều sư đoàn tinh nhuệ. Quả nhiên, bằng việc kết hợp giữa vũ khí quân sự và vũ khí ngoai giao đã khiến kẻ thù bị đánh bại cả về lực và trí. Kết thúc bọn vương Thông phải ra dự lễ ăn thề,rút quân về nước. Phần kết luận Như vậy có thể khẳng định một lần nữa, điển cố chính là một thủ pháp nghệ thuật đặc thù mà giá trị nó đem lại thật to lớn. Văn học cổ nói chung và đọc "QTTMT" nói riêng thì vấn đề điển cố hết sức được chú trọng. Điển cố chính là chìa khoá để cảm thụ và thẩm định tác phẩm. Việc sử dụng một cách thuần thục, linh hoạt các điển cố, Nguyễn Trãi đã biến nó thành một phương tiện sắc bén, là chỗ dựa cho lý luận của tác giả. Những bức thư được mệnh danh có giá trị như “mười vạn quân” (Phạm Văn Đồng) ấy được nâng cao hơn, mang giá trị hơn rất nhiều phần quan trọng phải kể đến nghệ thuật sử dụng điển cố của Nguyễn Trãi. Sau khi cuộc chiến tranh kết thúc thắng lợi, những bức thư của Nguyễn Trãi viết trong thời gian ngoại giao với giặc Minh được coi là Quốc thư, là minh chứng quan trọng để lập nên triều đại Lê. Cũng chính bởi tầm cỡ lớn lao và ý nghĩa lịch sử như vậy mà ngay cả khi bị thảm hoạ tru di các thư tịch di văn của Nguyễn Trãi bị triều đình tiêu huỷ. Chỉ cho tới khi Lê Thánh Tông minh oan (1467 đã hạ chỉ sưu tầm, thu thập) và cũng phải nhờ công lao của những người yêu mến tài năng của Nguyễn Trãi lắm thì đến nay chúng ta mới còn được thưởng thức nhưng di văn của ông. Những tác phẩm đó không chỉ mang giá trị hiện thực mà còn giúp ta hiểu thêm về những giá trị đặc sắc nhất trong đó bao gồm cả phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của vị quân sư lỗi lạc này. Để làm nên một nhà văn chính trị kiệt xuất như Nguyễn Trãi, phong cách độc đáo là yếu tố không thể thiếu. Tính chiến đấu là nét đặc thù của văn chính luận dân tộc ta. Nhưng chiến đấu ngoan cường, trực diện, tập trung, thường xuyên và có hiệu quả như Nguyễn Trãi phải xuất phát từ trí tuệ nhạy bén, tình cảm chân thành và nhất là từ ý thức dùng văn chương làm vũ khí “mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao”( Phạm Văn Đồng) thì chỉ có thể tìm sớm nhất trong văn chính luận của Nguyễn Trãi. Một trong yếu tố làm nên “cái hay” của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở bút pháp hùng biện. Đặc biệt trong “QTTMT" khi viết thư cho kẻ địch thì phải tự hiểu mình để giữ vững tư thế mà cũng phải rất hiểu kẻ địch để đánh cho trúng. Tuỳ từng đối tượng, tuỳ từng diễn biến mà công kích hay nhún nhường… lại phải tìm lời lẽ thích hợp để kẻ địch hiểu được và hướng chúng theo hành động của ta. ở điểm này việc lựa chọn điển cố xác đáng của Nguyễn Trãi là rất khôn khéo và sáng suốt. Việc vận dụng tinh vi đó có cơ sở vững chắc từ nhận thức của Trung Quốc cũng như tìm hiểu về đất nước, kết hợp với tình cảm chân thành và ý chí gan thép của tác giả. Cùng với các phương pháp tu từ khác như liệt kê, chứng minh, phân tích… giọng điệu biến hóa lúc lên giọng lúc xuống giọng… thì điển cố cũng góp phần tạo nên phong cách cho bút pháp viết văn chính luận của Nguyễn Trãi. Để làm nên phong cách thì mỗi tác giả sẽ chọn cho mình hướng đi riêng, độc đáo và được sử dụng trong hầu hết các tác phẩm của mình. Tuy nhiên phong cách trong mỗi tác phẩm không đơn thuần là việc lặp lại mà có sự đổi mới, nhưng đọc trong đó ta vẫn có thể nhận ra đó là tác giả đó chứ không thể là tác giả khác. Nếu tác giả nào không tìm cho mình một phong cách riêng thì không thể tồn tại được. Một tác gia lớn thì phong cách được thể hiện rất đậm nét. Trước Nguyễn Trãi đã có văn chính luận, nhưng để trở thành nhà văn chính luận thì chỉ ức Trai là riêng có. Văn chính luận của Nguyễn Trãi có số lượng khá lớn như: QTTMT, Bình Ngô đại cáo, chiếu, biểu viết dưới triều Lê… Trong mỗi một tác phẩm đều mang đậm phong cách viết văn chính luận đặc thù của ông. Thông qua việc tìm hiểu tác phẩm QTTMT ta cũng có thể nhận thấy được hơi thở và tiếng nói chung của ông trong đó. Văn chính luận thường bàn đến những vấn đề chính trị, xã hội có tầm cỡ Quốc gia. Do đề cập đến những vấn đề lớn của đất nước nên nó thường phát triển mạnh trong những thời kì mà văn chính luận nổi lên hàng đầu của hiện thực lịch sử. Trong văn chính luận, tính chất và cảm hứng dân tộc nổi bật nhất. Bên cạnh nét chung đương thời, văn chính luận của Nguyễn Trãi còn mang phong cách riêng. Trước hết đó là tính chiến đấu xuất phát từ ý thức tự giác dùng văn chương phục vụ cho những mục đích chính trị, xã hội. Tiếp thu những quan niệm văn học thời trước “văn dĩ chở đạo” phục vụ trực hoặc gián tiếp cho những mục đích chính trị xã hội cao đẹp của dân tộc. Hơn nữa Nguyễn Trãi lại là người trực tiếp sống và chiến đấu trong cuộc chiến tranh cứu nước lâu dài và gian khổ nên ông đã thổi vào dòng văn học một tinh thần tự giác về nhiệm vụ, sử dụng ngòi bút như một vũ khí. Do đó văn chính luận của ông có nội dung yêu nước sâu sắc và có tính chiến đấu cao. “Bình Ngô đại cáo” thì bừng bừng khí thế của những năm Bình Ngô, phục Quốc. “QTTMT” thì được mệnh danh là “có sức mạnh như mười vạn quân” (Phạm Văn Đồng). ở đây ông đã dùng trí mưu để phân tích thời- thế- lực nhằm chứng minh ta nhất định thắng địch nhất định thua. Nguyễn Trãi đã vận dụng đạo lí để lên án vua quan triều Minh về tội ác xâm lược dối trá bạo tàn, “cùng binh độc vũ”, “hiếu đại hỉ công”… Tuyên dương nghĩa quân về việc làm chính nghĩa, trung thực, khoan hồng… Sức mạnh văn chính luận của Nguyễn Trãi đó là chiến lược “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn lấy chí nhân để thay cường bạo”. Từ nhu cầu “tâm công” và từ nhận thức về tính năng chiến đấu của văn chương với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, kết hợp với mưu trí hết sức linh hoạt, Nguyễn Trãi đã viết thư giáng cho địch những đòn tới tấp, đánh cho chúng phải thua trên mặt tư tưởng, làm lung lay tinh thần chiến đấu của quân giặc. Chiến đấu là đặc thù của văn chính luận, nhưng chiến đáu ngoan cường, trực diện, tập trung có hiệu quả cao phải xuất phát từ trí tuệ nhạy bén, tình cảm chân thành và nhất là ý thức dùng văn chương làm vũ khí thì chỉ có thể tìm thấy sớm nhất trong văn chính luận của nguyễn Trãi. Văn chính luận của Nguyễn Trãi phản ánh trình độ cao của văn chính luận dân tộc. Nguyễn Trãi viết văn chính luận với nhiều thể loại khác nhau, bút pháp của tác giả cũng tùy theo yêu cầu của từng loại văn: thư, cáo, chiếu, dụ… mà thay đổi. Đối tượng của văn chính luận là những vấn đề chính trị xã hội. Cái hay của văn chính luận trước hết ở chỗ vấn đề tác giả đặt ra và giải quyết nó như thế nào. Nguyễn Trãi đã đặt ra vấn đề độc lập dân tộc, số phận nhân dân trong “Bình Ngô đại cáo”, vấn đề xây dựng một đất nước thịnh trị lâu dài, hoà bình muôn thở trong chiếu dụ, và vấn đề “tâm công” trong “QTTMT”… Bút pháp tài tình của tác giả ở chỗ đặt rõ vấn đề và lí giải có sức thuyết phục. Tư tưởng của tác phẩm và tư tưởng của tác giả bộc lộ qua phong cách biện luận, hoặc đối thoại, hoặc nói việc xưa chỉ việc nay… tứ trong bài văn khi thì đối lập, khi thì dẫn dắt nhau, khi cật vấn khi phản bác… nhằm lập đi lật lại vấn đề, xét soi mọi lẽ để chứng minh cho quan điểm, lập luận của mình. Đặc biệt khi viết thư cho địch, bút pháp của Nguyễn trãi tỏ ra điêu luyện, ông luôn tỏ ra là người thấu hiểu kẻ địch và luôn đứng vững trên quan điểm lập trường vững chắc của mình. Nét đặc sắc của bút pháp hùng biện của Nguyễn Trãi còn ở nhiều phương diện khác như cách sử dụng biện pháp tu từ, kết hợp ngôn ngữ chính luận với ngôn ngữ hình ảnh, tính lôgic v.v… “QTTMT” nằm trong hệ thống văn chính luận của Nguyễn Trãi, do đó nó mang đầy đủ phong cách văn chính luận của ông. Với giọng điệu ngôn ngữ cách hành văn, cách sử dụng các biện pháp tu từ, dẫn dắt điển cố… riêng có, “QTTMT” đứng có vị trí quan trọng trong hệ thống văn chính luận cũng như trong toàn bộ sáng tác của ông. Nguyễn Trãi xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất. Văn chính luận của Nguyễn Trãi có giá trị mẫu mực là cột mốc đánh dấu sự phát triển của văn chính luận dân tộc. Tài liệu tham khảo 1. Đoàn ánh Loan. “Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố”. NXB ĐHQG thành phố HCM. 2003. 2. Nguyễn Hữu Sơn. “Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm”. NXBGD. 2000. 3. Nguyễn Văn Nguyên. “Những vấn đề văn bản học QTTMT của Nguyễn Trãi”. Viện Viễn Đông Bác Cổ NXB văn học viện nghiên cứu Hán Nôm. 1998 4. Nhóm Mai Quốc Liên. “Nguyễn Trãi toàn tập”. NXB KHXH.1969 5. Tuấn Thành, Anh Vũ. “Nguyễn Trãi tác phẩm và dư luận”. NXB Văn học. 2002 Bảng thống kê điển cố Tên bức thư Vị trí Tên điển cố Mức độ trọn vẹn Nguồn gốc Hoàn toàn Không hoàn toàn Truyện, Sử Kinh Bộ Về sách Binh Pháp Thi ca cổ Văn học dân gian 1. Thỉnh hàng thư C11 Tinh vệ vô từ điền hải… x x C13 Đặng Vũ dụ địch chi tâm x x Hoàng Bá hoá dân chi chính 2. Nghệ tổng binh quang cập… C1 vật bất đắc kỳ bình… x x C10 Kê Khang phụ tội, Quan vũ cánh sinh x x C4 Thượng ty hoài nhu x x 3. Dữ Thái Giám C7 Dĩ thù trị thù… x x Sơn Thọ thư 4. Dữ Phương C1 Thiên chi cung, bất vị… x x Chính thư 5. Hựu đáp C5 Khởi uế dĩ tự xú x x Phương Chính thư C9 Nhân giả dĩ nhược chế cường… x x 6. Hựu đáp C1 thiện dụng binh giả, vô hiểm… x x Phương Chính thư 7. Hựu dữ C1 cổ chi vi tướng giả, nhân nghĩa… Phương Chính thư C7 Cân quắc chi nhục x x 8. Tái phục C3 điếu dân phạt tội x x Phương Chính thư C5 độc vũ cùng binh x x C5 can não đồ địa x x C6 quý tôn chi ưu, bất tại… x x 9. Đáp tổng C1 Thiên địa chi ư… x x binh Vương Thông C1 phụ mẫu chi ư… x x C5 tiến cống phương vật x x 13. Lại dữ Đả Trung C11 kim thành thang trì x x 14. Tái đáp Vương C1 Việt nhân kiêu bạc, x x Thông thư tề nhân đa trá 15. Tái dữ Vương C1 tín giả quốc chi bảo x x Thông, Sơn Thọ thư C7 bất thành vô vật x x C13 thị kỳ sở dĩ, quan… x x Tên bức thư Vị trí Tên điển cố Mức độ trọn vẹn Nguồn gốc Hoàn toàn Không hoàn toàn Truyện, Sử Kinh Bộ Về sách Binh Pháp Thi ca cổ Văn học dân gian 16. Tái dữ Vương C8 tác xá đạo băng… x x Thông thư 17. Tái dữ C7 khứ thực khứ binh… x x Vương Thông thư C8 Văn Công bất tham… x x Thương Quân bất phế 20. Tái đạt Sơn C4 nhân hữu bệnh tật… x x Thọ thư 21. Dữ Vương C17 Hồ mã tê Bắc phong… x x Thông thư Việt điểu sào nam chi 22. Dữ Thái giám C7 tự cổ giai hữu tử… x x Sơn Thọ thư 23. Tái dữ Sơn Thọ C9 tự cổ giai hữu tử… x x 25. Dữ Đả Trung C8 Cường như Tần, Phú x x Lương Nhữ Hốt thư như Tuỳ 26. Tái dữ Vương C8 Trương Tử dĩ trách nhân chi tâm x x Thông thư C13 điếu phạt chi sư x x C14 hưng diệt kế tuyệt x x C14 cùng binh độc vũ x x C15 dĩ Yên Phạt Yên… x x 27. Tái Phụng C9 như nhân ẩm thuỷ x x thái giám 28. Dụ Điêu Diêu C1 Ô phi bản quy… x x thành… C6 điếu dân phạt tội x x 29. Dụ Bắc Giang C14 Tần chi Bạch Khởi, x x thành thư Sở chi Hạnh Võ… 30. Dụ Tam Giang C12 ngọc thạch bất phân x x thành thư 31. Dữ Vương C6 cùng độc chi họa x x Thông thư C6 hưng diệt kế tuyệt x x 31… C7 Hán Đường hiếu đại… x x Thang Vũ điếu phạt… C10 Viễn thuỷ bất năng cứu cận hoả x x C19 bất dĩ phế ngôn x x Tên bức thư Vị trí Tên điển cố Mức độ trọn vẹn Nguồn gốc Hoàn toàn Không hoàn toàn Truyện, Sử Kinh Bộ Về sách Binh Pháp Thi ca cổ Văn học dân gian 32. Dữ Vương C9 tiên thời giả, sát vô xá, hậu… x x Thông thư C13 quân tử vô túc oán… x x C39 kết thảo hàm hoàn x x 33. Tái dụ Vương C8 tha nhân hữu tâm… x x Thông thư C1, t3 thiện dụng binh giả… x x C0 Tần thôn tính lục quốc x x C15 Hán Chiệt Liệt nãi… x x C17 Y Doãn dĩ Sằn Dã… x x C19 Yên Chi Mộ Dung, Triệu chi Thạch Lặc… x x C21 thượng chi nhục, phủ trung chi ngư x C25 Trương Phi, Lã Bố phản vi quần hạ sở hại x x C32 Đường Thái Tông cầm Kiến Đức… x x C45 Viễn thuỷ bất năng… x x C52 Cân quắc chi di nhục x x 34. Dữ Vương C22 Tuần, Viễn chi tiểu tiết x x Thông thư C22 Đường Thái Tông sở vị tận trung… x x 35. Tái dữ Vương C16 cùng binh độc vũ x x Thông thư C39 cùng tắc biến x x C36 Tuần, Viễn chi tiểu tiết x x C37 nhất triêu vô thực… x 36. Dữ Thái Đô C6 Bách Lý hề cư Ngu… x x Đốc thư Lý Tả Xa chi tại Triệu… 36… C12 Bách Lý Hề cư Ngu… x x C13 Hàn Tín chi khứ sở x x Cơ Tử chi bất thần Chu… C19 Đường Thái Tông sở vị tận trung… x x C21 khanh khanh ư tiểu tiết x x Tên bức thư Vị trí Tên điển cố Mức độ trọn vẹn Nguồn gốc Hoàn toàn Không hoàn toàn Truyện, Sử Kinh Bộ Về sách Binh Pháp Thi ca cổ Văn học dân gian 37. Dữ Vương C2 Cùng khấu vật bức x x Thông thư C13 điểu cùng tắc trắc… x x C4 tiểu địch chi kiên, đại địch chi cầm x x 38. Dụ Thanh Hoá đẳng thành thư C7 cùng binh độc vũ x x 40. Dữ Vương C11 cùng độc chi hoạ x x Thông thư C14 Hán Đường hiếu đại, Thang Vũ hưng diệt… x x 41. An Nam quốc C7 Sư xuất dĩ luật… x x thư phụng… C11 hoài nhu chi đạo x x 42. An Nam quốc C2,3 Thành Thang phạt Kiệt Vũ Vương phạt Thương x x thư phụng… C6 hưng diệt chi nghĩa… x x C13 nhậm Châu Thiệu… x x C17 cam đường chi di… x x C27 thị đức giả xương x x 43. Dụ Vân Nam C2 nhân nhân chi tâm… x x Phi tấu thư C20 cùng độc chi giới x x 44. Dữ Vương C2,3 thiên hạ chi an nguy… x x Thông thư C6 tâm quả thành… x x 45. Dụ Bình Than C3 Đặng Vũ chi bất… x x Thành thư Tào Bân chi xưng… Bạch Khởi, Lý Quảng… C4 Thánh nhân ninh thất… x x 45… C20 can não đồ địa x x 46. Dụ Xương C13 Ngọc thạch bất phân x x Giang thành thư 49. Dụ thiên hạ C6 Cao tiết như Tứ Hạo, x x chư hào kiệt chiếu gia độn như Tử Phòng 50. An Nam quốc C10 hoài nhu chi đạo x x đầu mục thư… C12 điểu cùng tắc trác… x x Tên bức thư Vị trí Tên điển cố Mức độ trọn vẹn Nguồn gốc Hoàn toàn Không hoàn toàn Truyện, Sử Kinh Bộ Về sách Binh Pháp Thi ca cổ Văn học dân gian 51. An Nam quốc C3 Cổ Hồ chi lưu liên x x đầu mục thư… C7 Văn Hầu bất tham phạt x x Nguyên, Thương Quân… C12 Tha nhân hữu tâm x x 52. An Nam quốc C5 nhất ngôn phẫn sự x x đầu mục Lê Lợi C7 can não thảo dã x x thư… C18 Thang, Vũ hưng diệt… x x Hán Đường hiếu đại 53. An Nam quốc C25,26 Trương Tuần chi thủ Tuy Dương… x x đầu mục Lê Lợi… C37 cùng độc chi họa x x C45 tam nhân đồng hành x x C46,47 Hán Đường hiếu đại x x Thang Vũ hưng… 54. An Nam quốc C15 Châu Thái Vương Chi x x đầu mục Lê Lợi… sự Huân Dục,… C28 Tha nhân hữu tâm x x 56. Dữ Liễu Thăng C2 hoài nhu chi đạo x x thư C2 Hán Đường hiếu đại… x x Thang Vũ hưng diệt… C17 Sái do hữu độc x x 57. Dữ tổng binh C1 Nam Bắc chi nhân x x Sơn đại nhân đẳng thư sắt do… 58. Tái đáp Vương C1 thiện dụng binh giả, x x Thông thư dĩ cưỡng chế nhược 61. Dữ Liễu C1,2 duy nhân giả vi năng dĩ đại… x x Thăng thư C20 Thang Thương hưng diệt… x x Hán Đường cùng binh… bảng tổng kết Tổng số lần xuất hiện điển cố 110 lần/62 bức thư Bình quân: 1,77 13 bức không xuất hiện điển cố 20,9% 49 bức có điển cố 79,1% Bình quân: 24 60 lần xuất hiện trong truyện, sử 54,54% 26 lần xuất hiện trong Kinh Bộ 23,63% 7 lần xuất hiện trong về sách Binh Pháp 6,36% 2 lần xuất hiện trong thi ca cổ 1,82% 15 lần xuất hiện trong văn học dân gian 13,64% Trong 110 lần điển cố xuất hiện có 78 điển cố khác nhau 1. 請 降 書 Thỉnh hàng thư (Thư xin hàng) Hoàn cảnh: Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo bắt đầu từ 1418. Thời gian đầu (1418- 1423) nghĩa binh gặp nhiều khó khăn, để tranh thủ thời gian củng cố lại lực lượng, Lê Lợi buộc phải gửi thư giảng hoà với quân Minh. Tóm tắt nội dung: Kể về việc Tri huyện Đỗ Phú vì hiềm khích riêng mà vô cớ gây tội cho Lê Lợi, khinh nhờn quan trên. Do đó mà Lê Lợi gửi thư kêu oan và kể về tội ác bọn Lương Nhữ Hốt đối với gia quyến Lê Lợi. Đồng thời nói về lòng thành khẩn mong được quan Tổng binh mở cho đường sống. Điển cố: 2 1. Câu 11, dùng hình ảnh trong sách cổ: 然 精 衛 無 辭 填 海 之 勞 冤 酷 不 顧 死 生 之 報。 Phiên âm: Nhiên Tinh Vệ vô từ điền hải chi lao, oan khốc bất cố tử sinh chi báo. đ (Nhưng chim Tinh Vệ há từ cái nhọc lấp biển, kẻ oan ức không nề sống chết báo thù). Chú thích: Chim Tinh Vệ: Theo sách Thuật dị kí chép: Con gái vua Viêm Đế bị chết đuối ở biển Đông sau hoá làm chim Tinh Vệ, hàng ngày ngậm đá ở núi ấy mang ra lấp biển cho hả giận. 2. Câu 13, dẫn nhân vật sử trong sách sử: 今 聞 總 兵 官 大 德 浹 人餘 恩 及 物 以 鄧 禹 諭 敵 之 心 為 心 以 黃 霸 化 民 之 政 為 政 誠 僕 改 過 自 新 之 日 也。 Phiên âm: Kim văn Tổng binh quan đại đức tiếp nhân, dư ân cập vật, dĩ Đặng Vũ dụ địch chi tâm vi tâm, dĩ Hoàng Bá hoá dân chi chính vi chính, thành bộc cải quá tự tân chi nhật dã. đ (Nay ta nghe Tổng binh là bậc đức rải muôn người, ân trùm vạn vật, tâm như Đặng Vũ dụ địch, chính như Hoàng Bá dạy dân, thực là dịp để tôi đổi lỗi sửa mình) Chú thích: Đặng Vũ: Được vua Hán Quang Vũ cử làm tiền tướng quân đi đánh quân Xích Mi. Ông hết sức dụ dỗ và chiêu hàng được một số nghĩa quân. Ông đứng đầu trong số 28 danh tướng được vẽ hình treo ở Vân Đài. Hoàng Bá: Làm Thái thú đời Hán được khen là người khoan hoà, nhân chính. 2. 詣 總 兵 官 及 清 化 府 衛 官 書 Nghệ Tổng binh quan cập Thanh Hoá phủ Vệ quan thư (Thư gửi quan Tổng binh quân Minh và quan phủ Vệ Thanh Hoá) Hoàn cảnh: Đây là thư Lê Lợi gửi cho Tổng binh quân Minh lúc bấy giờ là Trần Trí và các viên phủ Vệ ở Thanh Hoá. Tóm tắt nội dung: Tiếp tục nói về nỗi oan khốc của Lê Lợi, kể tội ác của giặc Minh. Xin được đi miền Tây để chuộc lỗi. Điển cố: 3 1. Câu 11, mượn ý của một bài thơ cổ: 夫 物 不 得 其 平 則 鳴。 Phiên âm: Phù vật bất đắc kì bình tắc minh. đ (Ôi phàm vật bất bình thì kêu lên) Câu này mượn ý ở bài Tống Mạnh đông dã tự của Hàn Dũ đời Đường. 2. Câu 4, trích sách Trung Dung: 此 雖 僕 之 罪 亦 猶 上 司 懷 柔 不 盡 其 道 也。 Phiên âm: Thử tuy bộc chi tội, diệc do thượng ty hoài nhu bất tận kì đạo dã. đ (Đó tuy là tội của tôi nhưng cũng là do quan trên vỗ yên không phải đạo) Hoài nhu: Vỗ yên, lấy từ sách Trung Dung: Nhu viễn nhân dã, hoài chư hầu dã (Đối đãi hoà nhã với khách ở phương xa, tưởng nhớ các nước Chư hầu). Người sau dùng chữ hoài nhu để chỉ việc vỗ yên dân chúng ở nơi xa xôi. 3. Câu 10, nhắc đến nhân vật trong sách sử: 昔 者 稽 康 負 罪 竟 為 晉 室 忠 臣 關 羽 更 生 猶 為 曹 公 報 效。 Phiên âm: Tích giả, Kê Khang phụ tội, cánh vi Tấn thất trung thần, Quan Vũ cánh sinh do vi Tào Công báo hiệu. đ (Xưa kia Kê Khang có tội mà sau trở thành tôi trung của nhà Tấn, Quan Vũ được sống mà trả nghĩa cho Tào Công). Kê Khang (Đúng ra là Kê Thiệu, con của Kê Khang) Tấn Vũ Đế mời Kê Thiệu làm bí thư thừa. Sau Triệu Vương Luân cướp ngôi cho Thiệu làm thị trung. Đến lúc Huệ Đế lại về làm vua, Thiệu vẫn giữ chức ấy. Khoảng niên hiệu Vĩnh Hưng, bọn Hà Gian Vương khởi binh, Thiệu theo vua đi đánh ở Đãng Âm, lấy thân che cho vua mà bị thương chết, máu bắn vào áo vua. Khi việc đã yên, kẻ tả hữu muốn giặt áo, vua bảo rằng: “Đây là máu của Kê thị trung, đừng giặt”. Quan Vũ: Tức Quan Vân Trường theo Lưu Bị, lúc đầu bị Tào Tháo (Tào Công) bắt ở Hạ Bì. Tháo đối rất trọng hậu. Gặp khi Viên Thiệu đánh tháo rất gấp, Vũ chém dũng tướng của Thiệu là Nhan Lương để báo ơn Tháo. Tháo dâng biểu xin phong cho Vũ tước Hán Thọ đình hầu. Sau Vũ tìm về với Lưu Bị. Khi Tháo bị thảm bại ở Xích Bích chạy đến đường Hoa Dung gặp Vũ chặn đón, được Vũ tha cho chạy thoát. 3. 與 太 監 山 壽 書 Dữ Thái giám Sơn Thọ thư (Thư gửi Thái giám Sơn Thọ) Hoàn cảnh: Khoảng tháng 9 đầu tháng 10- 1424, Lê Lợi viết thư đáp lại ơn về việc Thái giám Sơn Thọ mang sắc sang phong cho Lê Lợi làm tri phủ Thanh Hoá nhưng với ý đồ dùng quan tước để mua chuộc Lê Lợi. Tóm tắt nội dung: Nói về lòng trung nghĩa của Lê lợi đối với triều Minh. Thành khẩn đội ơn công đức của Thiên triều. Điển cố: 1 Câu 7, trích từ thành ngữ: 且 古 人 云 以 讎 治 讎 其 禍 不 休。 Phiên âm: Thả cổ nhân vân: dĩ thù trị thù kì hoạ bất hưu đ (Người xưa có câu: Lấy thù trả thù, tai hoạ không dứt) 4. 與 方 政 書 Dữ Phương Chính thư (Thư gửi Phương Chính) Tóm tắt nội dung: Chỉ cho phương Chính thấy việc thất, đắc. Là một nước lớn mà đi đánh nước nhỏ, thắng thì cũng li loạn, mà thua để tiếng chê cười. Tính kế khuyên chúng cởi bỏ giáp binh là cái lợi cho cả đôi bên. Điển cố: 1 Câu 1, trích Tục ngữ: 僕 聞 ;千 之 弓 不 為 鼷 鼠 而 發 機。 Phiên âm: Bộc văn: Thiên chi cung, bất vị hề thử nhi phát cơ. đ (Tôi nghe cái nỏ nghìn cân không vì con chuột nhắt mà bắn) 5. 又 答 方 政 書 Hựu đáp Phương Chính thư (Lại thư trả lời Phương Chính) Hoàn cảnh: Giặc tiến công không ngừng, có thư dụ ta đến để kể tội, nên ta viết thư này đáp lại. Đầu 1425, để tăng cường lực lượng về mọi mặt, Bình Định Vương tiến đánh Nghệ An mở rộng khu giải phóng. Tóm tắt nội dung: Chỉ ra tội ác của bọn Phương Chính, nêu lên khó khăn của chúng, chính thức ra mặt khiêu khích giặc. Điển cố: 2 Câu 5, trích Tục ngữ: 而 不 能 改 過 遷 善 乃 猶 起 穢 以 自 嗅 悔 將 何 及。 Phiên âm: Nhi bất năng cải quá thiên thiện, nãi do khởi uế dĩ tự xú, hối tương hà cập. đ (Thế mà không biết sửa lỗi hướng thiện, lại còn bới bẩn lên tự ngửi, hối sao cho kịp). Câu 9, trong sách Binh pháp: 兵 法 曰 仁 者 以 弱 制 強 智 者 以 寡 敵 眾。 Phiên âm: Binh pháp viết: Nhân giả dĩ nhược chế cường, trí giả dĩ quả địch chúng. đ (Sách Binh pháp có viết: Người nhân lấy yếu chế mạnh, người trí lấy ít địch nhiều). 6. 又 答 方 政 書 Hựu đáp Phương Chính thư (Lại thư trả lời Phương Chính) Điển cố: 1 Câu 1, thuộc điển về sách Binh pháp: 夫 善 用 兵 者 無 險 無 不 險 無 易 無 不 易。 Phiên âm: Phù thiện dụng binh giả, vô hiểm vô bất hiểm, vô dị vô bất dị. đ (Kể người dùng binh giỏi thì không đâu là hiểm không đâu là không hiềm, không có đâu là dễ, đâu là không dễ). 又 與 方 政 書 Hựu dữ Phương Chính thư (Lại thư cho Phương Chính) Hoàn cảnh: Đầu 1428, Lê Lợi bao vây thành Nghệ An do Phương Chính và Lý An đóng giữ. Nhưng giặc đóng cửa cố thủ không dám giao chiến. Tháng 5 năm Bính ngọ (1426) Nguyễn trãi viết thư khiêu chiến. Tóm tắt nội dung: Thuận theo thư bọn Phương Chính, nghĩa quân ra đồng bằng, nhưng bọn chúng không dám ra mặt. Nguyễn Trãi chỉ thẳng mặt mà khiêu chiến. Điển cố: 1 1. Câu 7, trích Sử bộ: 吾 恐 汝 等 不 免 巾 幗 之 辱 矣。 Phiên âm: Ngô khủng nhữ đẳng bất miễn cân quắc chi nhục hĩ. đ (Ta e là bọn mày không tránh khỏi nhục khăn yếm đâu). Nhục khăn yếm: Trong sách Tấn thư có ghi chữ “cân quắc” là đồ trang sức của đàn bà. Gia Cát Lượng đem quân đi đánh Nguỵ khiêu chiến nhiều mà Tư Mã ý không chịu ra đánh. Lượng bèn sai đưa đến cho y với ý đồ dùng khăn yếm để làm nhục, ý là hèn nhát như đàn bà. 8. 再 復 方 政 書 Tái phục phương Chính thư (Lại thư trả lời Phương Chính) Hoàn cảnh: Sau năm 1425 (sau khi Minh Nhân Tông chết) Phương Chính gửi thư nên ta đáp lại. Tóm tắt nội dung: Vạch trần bộ mặt thật của giặc Minh, mượn cớ sang diệt họ Hồ lỗi đạo để xâm lược nước ta. Nguyễn Trãi nói về tội ác của chúng với dân ta và lòng oán giận của chính người dân Trung Quốc đối với bọn chúng. Điển cố: 4 1. Câu 3, trích trong Kinh Bộ: 爾 國 往 因 胡 氏 失 道 假 以 吊 伐 之 名 濟 其 暴 戾 之 寔…。 Phiên âm: Nhĩ quốc vãng nhân Hồ thi thất đạo, giả dĩ điếu phạt vi danh, tế kì bộc lệ chi thực… đ (Nước mày trước đây nhân họ Hồ lỗi đạo, mượn danh nghĩa điếu dân phạt tội để thực hành việc bạo tàn…) Chữ “Điếu phạt” mượn trong bài Nhạc Phủ của Nguỵ Minh Đế. Tức thương dân khổ mà đánh kẻ có tội để cứu dân. Nhà Minh mượn tiếng đánh Hồ Quí Ly là kẻ tiếm nghịch, phù lập nhà Trần để đem quân xâm lược. 2. Câu 5, trích Sử bộ: 今 民 怨 神 怒 繼 有 大 喪 曾 不 知 內 省 厥 躬 而 乃 黷 武 窮 兵 甘 心 遠 略 使 人 士 卒 暴 露 肝 腦 塗 地。 Phiên âm: Kim dân oán thần nộ, kế hữu đại tang, tằng bất tri nội tỉnh quyết cung nhi nãi độc vũ cùng binh, cam tâm viễn lược, sử sĩ tốt bộc lộ, can não đồ địa. đ (Nay dân oán thần giận, kế tiếp bị đại tang thế mà chẳng biết xét mình sửa lỗi, lại còn dùng vũ lực đánh nhau không thôi, cam tâm xâm lược phương xa, khiến cho sĩ tốt phơi thây, nhân dân chết thảm). Can não đồ địa: dịch là gan và óc vương vãi bùn đất, cực tả sự chết chóc thảm khốc. Truyện Khoái Thông trong Hán thư: Kim Lưu Hạng phân tranh, sử nhân can não đồ địa (Nay họ Lưu và họ Hạng đánh nhau khiến dân chúng phải chết thảm). Câu 5, trích Sử bộ: 窮 兵 黷 武。 Phiên âm: Cùng binh độc vũ. đ (Nạn chiến tranh) Chỉ võ công hiển hách của Tần Thuỷ Hoàng, hán Vũ Đế khi còn sống, sau chỉ hành động lạm dụng sức người, sức của về chiến tranh. Câu 6, trong sách Kinh Bộ: 吾 恐 季 孫 之 憂 不 在 顓 臾 而 在 瀟 墻 之 內 也。 Phiên âm: Ngô khủng Quý Tôn chi ưu bật tại Chuyên Du, nhi tại tiêu tường chi nội dã. đ (Ta e mối lo của họ Quí Tôn không phải ở nước Chuyện Du mà ngay ở ngay trong nhà mình thôi). Câu này dùng đúng nguyên văn của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ (Qúi thị), Chuyên Du là nước nhỏ thời Xuân Thu ở sát ấp Phí của họ Quí Tôn. Họ Quí cho rằng, nước chuyên Du thành trì kiên cố sẽ là mối lo cho con cháu sau này nên định định đem quân đi đánh. Khổng Tử cho rằng mối lo của họ Quí không phải ở bên ngoài mà ở bên trong, cho nên nói như thế. 9. 答 總 兵 王 通 太 山 壽 等 書 Đáp Tổng binh Vương Thông Thái giám Sơn Thọ đẳng thư (Thư trả lời tổng binh Vương Thông Thái Giám Sơn Thọ) Hoàn cảnh: Trước sự lớn mạnh của nghĩa quân, Vương Thông được cử làm tổng binh sang tiép viện. Tháng 11-1426, bị bao vây ở Tốt Động , Chúc Động bọn Vương Thông phải viết thư xin giảng hoà. Đây là thư trả lời của Lê Lợi. Tóm tắt nội dung: Vừa nói đến ơn đức của Thiên Triều vừa._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC2103.DOC
Tài liệu liên quan