Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam

Tài liệu Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam: ... Ebook Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ khi nước ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nền kinh tế đã chuyển biến khởi sắc, trong đó hộ sản xuất được xác định là đơn vị kinh tế tự chủ và là tế bào của nền kinh tế nông nghiệp nông thôn. Từ khi xác định vai trò kinh tế của hộ nông dân, phong trào nông dân sản xuất giỏi đang được mở rộng, nhiều hộ bỏ vốn đầu tư tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển sản xuất, góp phần không nhỏ vào việc tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng, từng bước nâng cao đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn. Để có một nền nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nền nông nghiệp nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng đang rất cần những nguồn vốn lớn, do đó tác động của ngân hàng nông nghiệp đối với nông nghiệp nói chung, hộ sản xuất nói riêng đang là một nhu cầu mang tính cấp bách. Với chức năng của mình, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo&PTNT) Quảng Nam đã xác định lấy nông nghiệp, nông thôn làm thị trường hoạt động chủ yếu. Hộ sản xuất là khách hàng cơ bản và chủ yếu của NHNo&PTNT Quảng Nam hiện tại và trong tương lai, trong đó phần nhiều là nông hộ (hộ sản xuất nông nghiệp). NHNo&PTNT Quảng Nam xác định rằng được phục vụ hộ sản xuất nông nghiệp, lực lượng sản xuất kinh doanh đông đảo, tạo ra một lượng sản phẩm hàng hoá lớn cho xã hội là nhiệm vụ có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Trong cơ chế thị trường, phương châm của ngân hàng là “đi vay để cho vay”, lấy nhu cầu của nền kinh tế làm cơ sở đặt kế hoạch huy động vốn, quy mô cấp tín dụng và các dịch vụ khác theo hướng đa dạng hoá hình thức, cũng như phạm vi áp dụng đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế. Thực tiễn hoạt động của ngân hàng nói chung thường gặp những khó khăn và những mâu thuẫn: có lúc thiếu vốn không huy động được, ngược lại có lúc thừa vốn không cho vay được, trong khi hộ sản xuất vẫn có nhu cầu vay vốn nhất là hộ sản xuất nông nghiệp. Từ đó đòi hỏi phải nghiên cứu đầy đủ về lý luận ngân hàng đồng thời đánh giá đúng đắn về thực tiễn để xây dựng và tìm ra các giải pháp nhằm mở rộng các dịch vụ hoạt động ngân hàng cho phù hợp với cơ chế thị trường hiện nay Từ lý do đó, tôi chọn đề tài: “Tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Kinh tế-Chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Lª §øc Thä (2005), Ho¹t ®éng tÝn dông cña hÖ thèng Ng©n hµng Th­¬ng m¹i nhµ n­íc ë N­íc ta hiÖn nay, LuËn ¸n tiÕn sÜ Kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi. - PGS.TS §ç TÊt Ngäc (2006), TÝn dông Ng©n hµng §èi kinh tÕ hé ë ViÖt Nam, Hµ Néi, Nxb Lao ®éng. - Vâ V¨n L©m (1999), §æi míi ho¹t ®éng tÝn dông Ng©n hµng N«ng nghiÖp, n«ng th«n trªn ®Þa bµn tØnh Qu¶ng Nam, LuËn ¸n th¹c sü Khoa häc kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi... Vấn đề này, trong một khía cạnh nào đó về hộ sản xuất đã có một số đề tài nghiên cứu, nhưng chưa sâu sắc về tín dụng của ngân hàng đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam. Luận văn này đặt ra vấn đề tín dụng của NHNo&PTNT để phục vụ tốt nhất cho phát triển kinh tế hộ nông nghiệp ở nông thôn tỉnh Quảng Nam để kinh tế nông hộ có điều kiện vươn lên trở thành một yếu tố quan trọng tham gia vào nền kinh tế hàng hoá. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Đánh giá lại thực trạng tín dụng của NHNo&PTNT đến nông hộ trên địa bàn Quảng Nam thời gian qua. Từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao vai trò hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đến nông hộ trong thời gian đến. - Nhiệm vụ: Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng và vận dụng nó vào hoạt động kinh doanh ngân hàng, đồng thời góp phần thúc đẩy và hoàn thiện hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ để phát triển sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất nông nghiệp, đáp ứng sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội theo tinh thần Nghị quyết của Đại hội Đảng các cấp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tín dụng của NHNo&PTNT đối với nông hộ ở tỉnh Quảng Nam. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ từ khi tái lập tỉnh Quảng Nam đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - VËn dông lý luËn cña chñ nghÜa M¸c-Lªnin, ®­êng lèi, quan ®iÓm cña §¶ng, chÝnh s¸ch, ph¸p luËt cña Nhµ n­íc ta vÒ ho¹t ®éng Ng©n hµng trong nÒn kinh tÕ thÞ tr­êng ®Þnh h­íng x· héi chñ nghÜa; ®ång thêi kÕ thõa c¸c vÊn ®Ò lý luËn chuyªn m«n chuyªn ngµnh Ng©n hµng ®Ó trªn c¬ së ®ã x¸c ®Þnh quan ®iÓm vµ gi¶i ph¸p më réng vµ n©ng cao chÊt l­îng dÞch vô Ng©n hµng n«ng nghiÖp & Ph¸t triÓn n«ng th«n ®èi víi n«ng hé ë tØnh Qu¶ng Nam. - Luận văn được nghiên cứu theo phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử; các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và phương pháp toán học. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn làm rõ hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ. Đưa ra những đánh giá về thực trạng tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam đối với nông hộ. Luận văn đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của tín dụng NHNo&PTNT đối với nông hộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 3 chương, 10 tiết. Chương 1 Vai trß cña tÝn dông Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn N«ng th«n trong viÖc ph¸t triÓn n«ng hé 1.1. NÔNG HỘ VÀ NHU CẦU VỐN TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN 1.1.1 Nông hộ và đặc trưng của nó 1.1.1.1. Khái niệm về nông hộ Ở nước ta, một đất nước từ xa xưa đến nay sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, kinh tế nông hộ ở nông thôn là bộ phận cấu thành không thể thiếu được của nền sản xuất nông nghiệp nước ta. Do vậy, trong các công trình nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học đã tốn bao nhiêu công sức và thời gian để nghiên cứu về kinh tế nông hộ. Thường khi tiếp cận khái niệm kinh tế nông hộ, các nhà khoa học người ta bắt đầu từ khái niệm hộ, kinh tế hộ, kinh tế hộ nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân hay kinh tế nông hộ . Khi nghiên cứu về khái niệm hộ, các tổ chức quốc tế và các nhà khoa học dưới góc độ khác nhau, đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về hộ. Tại cuộc hội thảo quốc tế lần thứ IV về quản lý nông trại ở Hà Lan năm 1980, các đại biểu nhất trí cho rằng: “hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác” [14, tr.32]. Giáo sư T.G.MC.GEC, giám đốc viện nghiên cứu châu Á trường Đại học British Colombia nhận xét rằng: “Ở các nước châu Á hầu hết người ta quan niệm hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc, hay không cùng chung huyết tộc ở chung trong một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một ngân quỹ”. Một ý kiến khác, ông Harice trường đại học tổng hợp Susex Luân Đôn cho rằng: “Hộ là đơn vị tự nhiên tự tạo nguồn lao động” [14, tr.32]. Qua những định nghĩa trên đây về hộ, có thể thấy rằng khái niệm hộ bao hàm những nội dung chủ yếu sau đây: - Là nhóm người cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết tộc. - Có chung một ngân quỹ - Cùng tiến hành sản xuất chung - Cùng sống chung hoặc không cùng sống chung trong một mái nhà. Dưới góc độ kinh tế thì khái niệm hộ được xem là kinh tế hộ Nói đến nông hộ thì chúng ta có thể xem nó như là hộ sản xuất nông nghiệp hay là hộ nông dân. Nông hộ là những người có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một khoản đất đai và trực tiếp quản lý, tổ chức sản xuất nông nghiệp, họ sống bằng nghề nông là chủ yếu. Khi nghiên cứu về kinh tế nông hộ (hộ nông dân) Frank Ellis định nghĩa: “nông dân là các hộ gia đình làm nông nghiệp có quyền kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất hiện có sử dụng sức lao động của gia đình để sản xuất” [14, tr.42]. Như vậy, có thể hiểu là nếu một chủ đất không trực tiếp quản lý và lao động sản xuất trên phần đất của mình thì không phải là nông hộ, hộ nông dân hay hộ sản xuất nông nghiệp, và nếu một người lao động sống bằng thu nhập từ lao động sản xuất nông nghiệp nhưng không làm chủ một mảnh đất nào mà chỉ làm thuê cũng không gọi là nông dân mà đó là “công nhân nông nghiệp”. Là người nông dân hay nông hộ, nhất thiết họ phải làm chủ tư liệu sản xuất, chủ yếu đó là ruộng đất và họ phải là người trực tiếp lao động và quản lý sản xuất trên phần đất ấy với tư cách là chủ sở hữu hay chủ sử dụng lâu dài. Người nông dân trong nông hộ của họ tạo thành một đơn vị kinh tế - xã hội cơ bản là hộ sản xuất nông nghiệp, xét về góc độ kinh tế thì đó là những đơn vị kinh tế tự chủ gọi là kinh tế hộ nông nghiệp. Kinh tế nông hộ hoạt động sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, hiểu nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả ngành trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng, nghề cá và có thêm một số hoạt động phi nông nghiệp khác nhưng sản xuất kinh doanh nông nghiệp là chủ yếu. Qua đó có thể tóm tắt: kinh tế nông hộ hay còn gọi kinh tế hộ nông nghiệp là hình thức kinh tế tự chủ trong kinh doanh nông nghiệp, dựa trên cơ sở sức lao động của gia đình là chính và quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng lâu dài phần ruộng đất mà họ canh tác cùng với các tư liệu sản xuất khác. Kinh tế nông hộ hay còn gọi là hộ sản xuất nông nghiệp là khái niệm bao quát chung bao gồm các loại hộ có trình độ sản xuất khác nhau như kinh tế nông hộ tự túc, tự cấp (tiểu nông), kinh tế nông hộ sản xuất hàng hoá (nông trại gia đình). Cũng cần phân biệt kinh tế nông hộ với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ với kinh tế phụ gia đình, bởi lẽ có một thời kỳ ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa cũ thực hiện chủ trương tập thể hoá sản xuất nông nghiệp, tách người nông dân khỏi quyền làm chủ tư liệu sản xuất, xoá bỏ hình thức kinh tế hộ tự chủ. Hình bóng kinh tế nông hộ chỉ còn được người nông dân cố tình lưu giữ dưới dạng kinh tế phụ gia đình, xã viên hợp tác xã, nó không còn là đơn vị kinh tế tự chủ. Ở nước ta, tư khi đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của nông hộ dần được khẳng định, họ được trao quyền quản lý và sử dụng đất lâu dài. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự phát triển một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nông hộ đã từng bước chuyển biến từ kinh tế nông hộ sản xuất tự cấp tự túc (tiểu nông) lên kinh tế nông hộ sản xuất hàng hoá (hộ nông trại) hay nông trại gia đình. Người ta phân biệt kinh tế nông hộ tiểu nông với kinh tế nông hộ trang trại ở chỗ kinh tế nông hộ tiểu nông qui mô nhỏ, sản xuất tự cấp tự túc là chủ yếu, kinh tế nông hộ trang trại có quy mô lớn hơn và sản xuất chủ yếu để bán ra thị trường. Quá trình phát triển từ tiểu nông lên sản xuất hàng hoá của kinh tế nông hộ không phải là đột biến mà nó diễn ra dần dần từng bước.Việc phân loại nông hộ trang trại với nông hộ tiểu nông cũng mang tính ước lệ tương đối. Ở nước ta, có ý kiến cho rằng phải phân biệt ở quy mô diện tích canh tác, cũng có ý kiến khác nói rằng lấy giá trị nông sản hàng hoá, số đông các nhà khoa học cho rằng nông hộ trang trại phải có quy mô đất canh tác cao hơn quy mô trung bình mật độ trong vùng và số lượng nông sản hàng hoá phải đạt từ 70% trở lên. 1.1.1.2. Một số đặc trưng của kinh tế nông hộ Kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản của nền nông nghiệp và hơn thế nữa chúng còn là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với đặt điểm tổ chức nông nghiệp bởi nó có những đặc trưng sau đây: - Kinh tế nông hộ có sự gắn bó chặt chẽ giữa quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. - Các thành viên của nông hộ đều là người trong một gia đình, có chung lợi ích, làm chung, ăn chung, cùng chia sẻ thuận lợi, khó khăn, thành công hay rủi ro trong cuộc sống và trong lao động sản xuất. Chính vì vậy, ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên trong quá trình lao động sản xuất rất cao vì tự giác, họ có ý thức của người chủ đối với ruộng đất, với cây trồng, vật nuôi, với kết quả của quá trình sản xuất. Xét về sự phù hợp với đặc thù sinh học của sản xuất nông nghiệp thì nông hộ là đơn vị kinh tế cơ bản phù hợp nhất, khó có hình thức kinh tế nào có thể thay thế tốt hơn được. - Kinh tế nông hộ có khả năng tự điều chỉnh rất cao, do có sự thống nhất về lợi ích trong gia đình nên việc điều chỉnh giữa tích luỹ và tiêu dùng được thực hiện một cách cơ động, có khi dành cả một phần sản phẩm tất yếu để đầu tư và mở rộng sản xuất. Tính cơ động này làm cho kinh tế nông hộ có khả năng thích ứng với sự thay đổi đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất. Trong cơ chế thị trường, gặp điều kiện thuận lợi, hộ có khả năng mở rộng sản xuất để có nhiều nông sản hàng hoá và khi các điều kiện không thuận lợi, sản xuất gặp khó khăn, hộ có thể điều chỉnh cho phù hợp hoặc chuyển một phần sản phẩm tất yếu thành sản phẩm thặng dư, có thể lấy công làm lãi để bảo toàn vốn sản xuất, mặc dù có thể giảm tối đa nhu cầu tiêu dùng . Mặt khác, kinh tế nông hộ có quy mô sản xuất tương đối nhỏ, phù hợp với khả năng lao động và quản lý của gia đình, vì vậy nó là một đơn vị sản xuất gọn nhẹ, linh hoạt thích ứng với sản xuất nông nghiệp trong cơ chế thị trường. Đối với kinh tế nông hộ, có thể dễ dàng điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cải tiến kỹ thuật, sản xuất theo nhu cầu của thị trường hơn là những đơn vị kinh tế có quy mô lớn như các nông trường, các xí nghiệp nông nghiệp, lâm trường… nông hộ có khả năng tận dụng thời gian nông nhàn để tham gia vào các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp để tăng thêm thu nhập.Vì vậy, nhìn chung tính hiệu quả của kinh tế nông hộ là tương đối cao, nó quy định sự tồn tại khách quan, lâu dài của hình thức kinh tế nông hộ trong sản xuất nông nghiệp. Là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ nhưng nó không hoạt động một cách riêng biệt, không phải chỉ là kinh tế cá thể, mà nó có khả năng tồn tại với nhiều hình thức sở hữu khác, có thể là thành viên của các tổ chức hợp tác hay liên kết với các tổ chức kinh tế Nhà nước để làm tăng năng lực của mình. Sản xuất của nông hộ luôn gắn liền với quy mô và đặc điểm môi trường sinh thái đặc biệt là khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn. Nông hộ chưa thể khắc phục được những bất lợi của thiên nhiên đem đến cho mình. Do vậy, kết quả sản xuất kinh doanh của nông hộ thường hay gặp rủi ro. Sản phẩm tạo ra có thời hạn sử dụng ngắn, chủ yếu mang tính chất tươi sống, cho nên trong sản xuất nông nghiệp phải gắn liền với chế độ bảo quản, vận chuyển, chế biến thích hợp và phải có thị trường tiêu thụ. Ngoài ra, còn có một số đặc trưng khác như kinh tế nông hộ vừa là đơn vị sản xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng, kinh tế nông hộ là đơn vị tự nhiên tự tạo nguồn lao động… Do những đặc trưng như vậy mà nông hộ từ xa xưa cho đến nay, ở tất cả các nước luôn là đơn vị kinh tế cơ bản của nền sản xuất nông nghiệp. Từ một số đặc trưng nêu trên, chúng ta thấy nông hộ là một đơn vị kinh tế tự chủ, là một bộ phận hợp thành nền kinh tế nhiều thành phần, trong thời kỳ quá độ dưới sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước. Nông hộ được giao quyền sử dụng đất lâu dài, cơ cấu sản xuất đa dạng, quy mô sản xuất canh tác phù hợp nhiều ngành nghề dựa trên cơ sở lao động của gia đình. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các nông hộ thường có nhu cầu quan hệ hợp tác với nhau và với các thành phần kinh tế khác nhằm làm tăng thêm năng lực cho mình. Với Quảng Nam, nông hộ ở Quảng Nam chiếm 79,1% tổng số hộ trong toàn tỉnh, quy mô sản xuất, diện tích đất nông nghiệp bình quân hộ 2,2 ha, bình quân khẩu là 0,4 ha đất nông nghiệp. Phát triển sản xuất của nông hộ gắn liền với đặc điểm từng vùng và từng khu vực phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng: ven biển, đồng bằng, trung du, miền núi… Quảng Nam đã xác định được vị trí và tầm quan trọng của nông hộ trong sản xuất nông nghiệp và các hoạt động văn hoá – xã hội khác ở nông thôn. Nhờ đó, phong trào hộ sản xuất giỏi ngày càng tăng, đã tích cực tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, thay đổi phong tục, tập quán canh tác lạc hậu, từ đó đã góp phần to lớn vào dự phát triển nền kinh tế của tỉnh nói chung và kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng, làm cho đời sống nhân dân của tỉnh không ngừng được cải thiện. 1.1.2. Nhu cầu vốn với sự phát triển kinh tế nông hộ 1.1.2.1. Xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng Từ khi xác định nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, theo Luật đất đai (1993) và Luật đất đai sửa đổi (2003) nông hộ được giao các quyền sử dụng lâu dài về ruộng đất, đó là quyền được chuyển đổi, cho thuê, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, kinh tế nông hộ đã có bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng đi lên sản xuất hàng hoá. Giá trị hàng hoá trên một đơn vị diện tích ngày càng được nâng cao bằng cách tăng đầu tư, thâm canh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng con vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng lựa chọn những cây con có giá trị cao, làm cho sản xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh cây lúa sang đa canh và kết hợp trồng trọt và phát triển chăn nuôi với các loại giống cây, con gia súc, gia cầm, thuỷ cầm, thuỷ sản có giá trị lớn hơn. Những vùng chuyên canh lúa cao sản, lúa có giá trị hàng hoá cũng phát triển mạnh. Cơ cấu kinh tế dần dần chuyển dịch theo hướng tỷ trọng ngành nghề phi nông nghiệp và dịch vụ tăng lên. Một số nông hộ từ thuần nông đã dần chuyển sang vừa làm nông nghiệp vừa làm dịch vụ để có thêm thu nhập, một số hộ có điều kiện chuyển hẳn sang làm ngành nghề phi nông nghiệp. Một số nông hộ có khả năng, có điều kiện vươn lên lập các trang trại để sản xuất hàng hoá lớn. Quan điểm đổi mới của Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống. Hợp tác hoá vẫn là con đường tất yếu, khách quan để đưa nông nghiệp nước ta lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kinh tế hợp tác vẫn là hình thức kinh tế phù hợp để chuyển nền nông nghiệp tiểu nông lên nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Hợp tác hoá hiện nay theo quan niệm mới hoàn toàn khác trước về tính chất, hình thức, quy mô và trình độ. Quan niệm mới đó được vạch ra từ Nghị quyết Trung ương VI (khoá VI) và được Luật hợp tác xã sửa đổi cụ thể hoá. Hợp tác có nhiều hình thức từ thấp đến cao, mọi tổ chức sản xuất do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức được quản lý dân chủ, đăng ký hoạt động theo pháp luật, không phân biệt quy mô, tính chất đếu có hợp tác xã. Quá trình vận động và phát triển nông nghiệp phải trên cơ sở lấy hoạt động nông hộ làm đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất kinh doanh theo hướng hợp tác hoá, đa dạng hoá các hình thức, đan xen với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, nhiều hình thức hoạt động, nhiều trình độ liên kết, hợp tác với nhau. Từ đó, dần dần phát triển và ra đời những quy mô hợp tác xã mới đúng tính chất kinh tế hợp tác và đảm bảo nguyên tắc hợp tác mà Lênin đã nêu ra (tự nguyện, quản lý dân chủ, cùng có lợi và giúp đỡ lẫn nhau). Từ sự đổi mới về quan niệm đã dẫn đến đổi mới về hình thức tổ chức và nội dung hoạt động của hợp tác xã ở nông thôn và do đó cũng sẽ là cơ sở thuận lợi cho sự phát triển các hình thức kinh tế nông hộ đạt hiệu quả trong sản xuất cao hơn, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn của đất nước. Việc phát triển các hình thức kinh tế hợp tác của nông thôn sẽ tạo động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội đi lên theo hướng kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phù hợp với các quy luật khách quan ở nông thôn nước ta nói chung và Quảng Nam nói riêng trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Quan điểm đổi mới của Đảng ta là cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, xu thế của kinh tế nông hộ trong tiến trình đổi mới là dần chuyển sang sản xuất hàng hoá. Cùng đồng hành với sự vận động của kinh tế thị trường, nền kinh tế nông hộ sẽ bị chi phối tác động bởi các quy luật của kinh tế thị trường là rất lớn. Bên cạnh đó khả năng về vốn đầu tư, về trình độ khoa học kỹ thuật, về thị trường… của kinh tế nông hộ là có hạn nên việc tham gia vào tổ chức hợp tác, kinh doanh, liên kết, các mô hình kinh tế trang trại… là cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế nông hộ. Có thể chúng ta nhận thấy tình hình chung của kinh tế nông hộ trong những năm đổi mới vận động theo một số xu hướng chủ yếu sau đây: Thứ nhất: đi lên sản xuất hàng hoá bằng con đường tham gia vào các tổ chức hợp tác, mặc dù hộ sản xuất nông nghiệp đã được công nhận về mặt pháp lý là một thực thể kinh tế độc lập, được giao quyền sử dụng đất lâu dài (tư liệu sản xuất) nhưng do thực tế phần lớn nông hộ có tiềm lực kinh tế, quy mô sản xuất còn nhỏ, mặt khác khả năng quản lý, trình độ kỹ thuật công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường… còn nhiều hạn chế và một số vấn đề khác như thuỷ lợi, điện, giống cây con… cũng như các dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp khác tự mỗi nông hộ không thể giải quyết được mà cần phải có sự hợp lực, hợp tác lại mới có thể giải quyết được. Từ những đòi hỏi đó mà nhu cầu hợp tác, liên kết giữa các hộ nông dân ngày càng trở nên bức xúc. Quy mô hình thức các tổ chức hợp tác rất đa dạng từ tổ liên doanh, liên kết đến tổ chức kinh tế hợp tác xã ở nông thôn… Sự hình thành các hình thức hợp tác hoạt động đan xen cùng kinh tế nông hộ là một tất yếu trong quá trình phát triển vì các thành viên của kinh tế hợp tác là những nông hộ. Do vậy, cần khuyến khích các hình thức kinh tế hợp tác phát triển để giúp đỡ kinh tế nông hộ quá trình tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, để kinh tế nông hộ thực sự là bộ phận không thể thiếu được trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá nông nghiệp nông thôn. Như vậy, xu hướng hợp tác có thể diễn ra với nhiều hình thức là do nhu cầu lợi ích thiết thực của kinh tế nông hộ, xu hướng phát triển này là thể hiện sự biến đổi về chất của kinh tế nông hộ, vì quá trình hợp tác đó tạo khả năng để nâng cao trình độ quản lý, mở rộng khả năng thâm nhập thị trường, tạo điều kiện để kinh tế nông hộ tổ chức sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Thứ hai: Xu hướng phát triển sản xuất hàng hóa bằng con đường mở rộng quy mô sản xuất theo hình thức phát triển trang trại. Trang trại là dạng đặc trưng của kinh tế nông hộ hàng hoá. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có những hộ phát triển cơ sở sản xuất của mình lên thành những trang trại do có khả năng tích tụ, tập trung được các nguồn lực cần thiết, nên tự nó có thể phá bỏ hình thức hộ “tiểu nông” để trở thành hộ sản xuất hàng hoá. Xu hướng này phát triển mạnh ở những nơi có điều kiện về đất đai, rừng, biển, mặt nước để nuôi trồng thủy sản cũng như việc mở rộng chăn nuôi gia súc, trồng cây ăn quả…với quy mô ngày càng lớn. Đi lên sản xuất hàng hoá, kinh tế trang trại là bước tiến của quá trình phát triển của kinh tế nông hộ, là xu hướng tất yếu của nền sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay và là đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Xu hướng phát triển các hộ trang trại ở nông thôn là xu hướng tích cực, biểu hiện sự vận động phát triển về chất của kinh tế nông hộ, nó có tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa. Sự ra đời nhiều nông hộ trang trại ở tất cả các vùng, miền, những nơi có điều kiện, sẽ tạo ra sức sản xuất mới ở nông thôn, là nhân tố kích thích tác động tích cực những nông hộ còn lại sẽ vươn lên cùng đồng hành. Ở Quảng Nam hiện nay có gần 1000 trang trại, trên hơn 3000 ha đất cải tạo theo hướng phát triển kinh tế vườn đồi, kinh tế trang trại, góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa. Mô hình kinh tế hợp tác cũng phát triển mạnh theo tinh thần Luật Hợp tác xã sửa đổi, nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Đến nay toàn tỉnh có 48 tổ chức kinh tế hợp tác, trong số này nổi lên điển hình các HTX Duy Trinh, Duy Sơn, Duy Xuyên, HTX nông nghiệp Điện Phước I - Điện Bàn, HTX Đại Hiệp-Đại Lộc…cùng với việc phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, kinh tế trang trại thì Quảng Nam còn có trên 297.660 nông hộ là những thành viên tích cực góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng trong những năm qua không ngừng phát triển và ổn định. 1.1.2.2. Nhu cầu vốn và sự phát triển kinh tế nông hộ Thị trường vốn ra đời xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của nền sản xuất xã hội, đó là nhu cầu giao lưu vốn giữa các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu giao lưu vốn là một tất yếu khách quan bởi vì vào bất cứ thời điểm nào cũng đều xuất hiện trạng thái có những người có vốn nhưng chưa có nhu cầu sử dụng, đồng thời cũng có những nhu cầu về vốn nhưng bản thân lại không có vốn để trang trải các nhu cầu ấy. Trường hợp này thường xảy ra đối với kinh tế nông hộ. Đặc biệt, ở nước ta đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một nền sản xuất nhỏ bé lạc hậu, việc cần một nhu cầu vốn nhất định để mua sắm tư liệu sản xuất và các chi phí cho sản xuất là điều rất cần thiết. Đối tượng để đầu tư vốn của nông hộ là rất đa dạng, phong phú bởi các hộ phần lớn ở nông thôn là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Nhưng nhìn chung, chi phí cho các đối tượng cụ thể cho các ngành nghề đó là: - Ngành trồng trọt: thường đầu tư cho các chi phí cải tạo đất, giống cây, chi phí thuỷ lợi, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chi phí thu hoạch, chi phí sau thu hoạch, mua sắm thiết bị công cụ sản xuất, lao động thuê ngoài… - Ngành chăn nuôi: chi phí chuồng trại, ao hồ, con giống, thức ăn gia súc, thú y và chăm sóc động vật, chi phí môi trường… - Ngành ngư nghiệp: chi phí tàu thuyền, ngư cụ, chi phí về chế độ bảo quản, chế biến… - Ngành lâm nghiệp: chi phí cho việc trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng, khai thác, chế biến lâm sản… - Các ngành nghề ở nông thôn: chi phí nguyên liệu đầu vào tuỳ theo từng ngành nghề có thể khai thác tại chỗ, hoặc mua nguyên liệu, nhiên liệu cho quá trình sản xuất kinh doanh, mua sắm máy móc thiết bị... Ở Quảng Nam, theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội, mục tiêu đến năm 2020 là tỉnh công nghiệp. Do vậy, trong ngành sản xuất nông nghiệp phải chuyển dịch mạnh mẽ và quyết liệt cơ cấu sản xuất nội bộ, trong kế hoạch 5 năm 2006-2010: đưa phát triển chăn nuôi thành ngành sản xuất chính, phấn đấu đưa tỷ trọng chăn nuôi chiếm từ 35- 40 % giá trị sản xuất nông nghiệp; phát triển trồng trọt chất lượng cao, đạt bình quân trên 30 triệu đồng/ha canh tác/ năm; đảm bảo 10.000 ha ngô, mía từ 6000 – 8000 ha , dứa từ 4000 - 5000 ha, lạc 10000 ha, hạt điều 5000 ha, chè 1000 ha, vùng nguyên liệu giấy với quy mô khoản 25000-30000 ha, bông 5000 ha, hình thành các vùng rau sạch, phát triển nghề trồng hoa và sinh vật cảnh. Về thủy sản: nâng sản lượng đánh bắt hải sản lên 60.000-65.000 tấn vào năm 2010, phấn đấu đưa diện tích nuôi thuỷ sản đạt 7000 ha trong đó diện tích nuôi tôm là 4.000 ha, xây dựng hai trung tâm nghề cá lớn ở Cửa Đại (Hội An) và Tam Quang (Núi Thành). Về lâm nghiệp, tăng tốc độ che phủ rừng từ 42% lên 46% vào năm 2010; triển khai trồng mới và khoanh nuôi tái sinh hằng năm là 22000 ha, chú trọng các loại có giá trị kinh tế cao… Ngoài nông nghiệp, việc phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ… và các lĩnh vực kinh tế xã hội khác cũng rất cấp bách. Do đó nhu cầu vốn đến năm 2010 cần khoảng 40.000 tỷ [37]. Riêng trong ngành nông nghiệp nói chung nhu cầu vốn đầu tư đến 2010 cầnchiếm từ 22 – 24% trong tổng nhu cầu vốn của phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam. Trong các nhu cầu phát triển này có nhu cầu rất lớn của kinh tế nông hộ ở Quảng Nam trong những năm đầu. Để có nguồn vốn cho các nhu cầu nói trên thì tỉnh Quảng Nam phải khai thác triệt để mọi nguồn vốn có thể. Để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội đến 2015 – 2020 là tỉnh công nghiệp thì nguồn vốn tín dụng ngân hàng đối với phát triển kinh tế nói chung và cho phát triển kinh tế nông hộ nói riêng là rất cần thiết và là công cụ quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. 1.2. NỘI DUNG VÀ NHỮNG HÌNH THỨC TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TỚI NÔNG HỘ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP 1.2.1. Tín dụng và tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn với nông hộ Tín dụng là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hoá, nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa người sở hữu và người sử dụng các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả vốn và kèm theo lợi tức khi đến hạn. Có nhiều hình thức tín dụng, nhưng trong điều kiện hiện nay ở nước ta, tín dụng ngân hàng là hình thức phổ biến và được áp dụng rộng rãi. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các doanh nghiệp và cá nhân. Nó là một nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Đây cũng là hình thức tín dụng phổ biến nhằm đáp ứng nhu cầu của kinh tế hộ. Chúng ta biết rằng: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận. Trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau: - Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái hay còn gọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thức tiền tệ hoặc dưới hình thức hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị bất động sản. - Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thỏa thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay. Mác viết: Tiền chẳng qua chỉ rời khỏi tay người sở hữu trong một thời gian và chẳng qua chỉ tạm thời chuyển từ tay người sở hữu sang tay nhà tư bản hoạt động, cho nên tiền không phải được bỏ ra để thanh toán, cũng không phải tự đem đi bán, mà chỉ đem cho vay, tiền chỉ đem nhượng lại với điều kiện là nó sẽ quay trở về điểm xuất phát một kỳ hạn nhất định [21, tr.16] Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Mác viết:“Đem tiền cho vay với tư cách là một việc với đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó, mà vẫn giữ được nguyên vẹn giá trị của nó và đồng thời lại lớn lên thêm trong quá trình vận động” [21, tr.28]. Quan hệ tín dụng có thể diễn tả theo mô hình sau: T Giá trị tín dụng Trái chủ (credior) Thụ trái (debetor) Người cho vay (lender) Người đi vay (borower) T +L Giá trị tín dụng + lãi Trong hoạt động thực tiễn, quan hệ tín dụng hình thành hết sức đa dạng, và có đủ các loại chủ thể tham gia vào các quan hệ tín dụng cụ thể: + Quan hệ giữa Nhà nước với các doanh nghiệp và côn._.g chúng thể hiện dưới hình thức Nhà nước phát hành các giấy tờ như công trái, trái phiếu, tín phiếu kho bạc. + Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau dưới hình thức bán chịu hàng hóa. + Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với công chúng, thể hiện dưới hình thức phát hành các loại trái phiếu, bán hàng trả góp. + Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền gởi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua… Các tổ chức ngân hàng tham gia vào quan hệ tín dụng thể hiện với 2 tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi này được gọi là đi vay (borrow) bao gồm nhận tiền gởi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng đóng vai trò trái chủ và hành vi này được gọi là cho vay (loans). Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay, nên khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến cho vay và bỏ quên mặt thứ hai, đó là đi vay. * Các loại cho vay của ngân hàng Căn cứ vào mục đích: Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra các loại sau: + Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản… + Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. + Cho vay nông nghiệp: có loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu… + Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng… Căn cứ vào thời hạn cho vay Theo căn cứ này cho vay được chia thành 3 loại sau: + Cho vay ngắn hạn: loại cho vay này có thời hạn từ 12 tháng trở lại và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân… + Cho vay trung hạn: loại cho vay này có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến kỹ thuật mở rộng sản xuất… + Cho vay dài hạn: loại cho vay này có thời hạn trên 5 năm trở lên đáp ứng các nhu cầu vốn dài hạn… * Một số hình thức tín dụng trong cho vay nông hộ Do đặc thù của kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế cấp cơ sở, là tế bào cấu thành nền sản xuất xã hội nên khi cấp tín dụng cho nông hộ trong quá trình sản xuất sẽ có những phương thức tín dụng khác nhau, phù hợp với mô hình sản xuất của hộ. Sau đây là một số hình thức cấp tín dụng đối với kinh tế hộ: - Cho vay trực tiếp: Cho vay trực tiếp là hình thức tín dụng mà trong đó người nông dân có nhu cầu về vốn trực tiếp giao dịch với ngân hàng để vay vốn và trả nợ, đồng thời ngân hàng cho vay trực tiếp đối với người vay đó. Trong cho vay trực tiếp, việc cấp tín dụng có thể diễn ra với sơ đồ sau: + Nếu diễn ra cho vay và thu nợ giữa chỉ ngân hàng và hộ sản xuất Sơ đồ 1.1: Hình thức tín dụng song phương giải ngân Ngân hàng Hộ nông dân Thu nợ Hình thức cấp tín dụng này phù hợp với những món vay nhỏ, thời hạn ngắn và ngân hàng sẽ khó giám sát mục đích sử dụng vốn vay của hộ. Song mặt khác do hộ nông dân sinh sống ở những nơi có điều kiện giao thông không thuận lợi nên sẽ gây bất lợi trong việc tiếp cận với ngân hàng nơi cho vay. + Nếu diễn ra việc cấp tín dụng có sự tham gia của bên thứ 3 (tổ chức bao tiêu sản phẩm) Sơ đồ 1.2: Hình thức qua tổ chức bao tiêu Hộ nông dân (1) Ngân hàng (2) (3) Tổ chức bao tiêu Trong hợp đồng tín dụng, ngoài ngân hàng và hộ nông dân, còn có sự tham gia của các tổ chức bao tiêu sản phẩm nên khi tiến hành thu nợ thì ngân hàng sẽ thông qua tổ chức này. (1)Ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân của hộ nông dân (2)Hộ nông dân giao bán sản phẩm cho tổ chức bao tiêu (3)Tổ chức bao tiêu trả nợ ngân hàng thay cho hộ nông dân - Cho vay bán trực tiếp (qua tổ chức đại diện của hộ nông dân): Cho vay bán trực tiếp là hình thức cho vay được áp dụng từ Bangladesh, và nhân rộng ra ở các nước châu Á. Tại Việt Nam, áp dụng mô hình cho vay này vào những năm cuối thập niên chín mươi và dưới cái tên gọi như cho vay theo tổ liên doanh, liên đới, cho vay theo tổ hợp tác vay vốn, cho vay theo tổ tiết kiệm vay vốn…Khi có Nghị quyết liên tịch 2308 giữa NHNo&PTNT Việt Nam và Trung ương Hội nông dân Việt Nam ra đời vào ngày 9/10/1999 thì đây là điều kiện thuận lợi để các chi nhánh NHNo&PTNT trong cả nước tận dụng và mở rộng các hình thức cho vay theo tổ vay vốn (ngân hàng nông nghiệp thường gọi là tổ 2308). Tổ được thành lập trên cơ sở tự nguyện, số thành viên trong tổ khoảng từ 5-40 người, các thành viên của tổ bầu ra tổ trưởng là người đại diện pháp lý của tổ để giao dịch với ngân hàng, tổ được hình thành có sự quyết định, công nhận của chính quyền địa phương. Sơ đồ của hình thức tín dụng cho vay qua tổ được thể hiện như sau: Sơ đồ 1.3: Hình thức tín dụng cho vay qua tổ Hộ nông dân -1 -2 -3 -4 Tổ hợp tác vay vốn Tổ trưởng tổ vay vốn Ngân hàng Với mô hình cho vay qua tổ vay vốn đã đem lại một số ưu điểm: + Đối với hộ nông dân: giảm được thời gian, chi phí đi lại làm thủ tục vay vốn, trả nợ và chỉ đến ngân hàng khi nhận tiền vay, có điều kiện học tập kinh nghiệm lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, tiếp cận với khoa học kỹ thuật trong quá trình sản xuất. + Đối với ngân hàng: giảm được áp lực quá tải của cán bộ tín dụng, nắm bắt kịp thời các nhu cầu cho phục vụ phát triển sản xuất của các hộ, bố trí vốn, kế hoạch giải ngân hợp lý để các hộ tổ chức sản xuất một cách chủ động và thông qua tổ ngân hàng có thể vận động các thành viên trong tổ giữ các khoản tiền chưa cần sử dụng vào ngân hàng để tăng thêm nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. - Cho vay hộ nông dân qua tổ chức trung gian (gián tiếp): Hình thức này, ngân hàng cấp tín dụng cho nông hộ thông qua việc cho các tổ chức chế biến, tiêu thụ hoặc cung cấp vật tư cho các hộ nông dân. Biểu hiện qua hình thức này là hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng và tổ chức trung gian, các tổ chức trung gian này thường là các xí nghiệp, nhà máy dùng các nguyên liệu là những sản phẩm thì kết quả sản xuất của các hộ nông dân, hay các tổ chức thu mua các nông sản ấy của các nông hộ do các tổ chức này phải ứng vốn cho hộ nông dân sản xuất và tổ chức bao tiêu các nông sản phẩm làm ra của hộ nông dân. Sơ đồ 1.4: Mô hình cho vay theo tổ vay vốn Ngân hàng (2) Tổ chức trung gian Hộ nông dân (3) Ngân hàng cho các tổ chức trung gian vay Các tổ chức trung gian ứng vốn cho nông hộ (3) Đến vụ thu hoạch tổ chức trung gian thu mua sản phẩm và hộ trả nợ cho các tổ chức trung gian (4) Các tổ chức trung gian trả nợ cho ngân hàng. Lợi ích của hình thức cho vay nông hộ qua tổ chức trung gian - Đối với hộ nông dân: đây là hình thức cho vay giúp hộ nông dân an tâm sản xuất vì đã có nơi cung cấp nguồn đầu vào như giống cây con, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh… và đồng thời ở đầu ra cũng được bao tiêu các sản phẩm làm ra… ngoài ra, còn có những điều kiện để hộ sản xuất tiếp cận với các công nghệ kỹ thuật mới áp dụng vào sản xuất. - Đối với ngân hàng: vốn cho vay sẽ được sử dụng đúng mục đích, vì có sự giám sát của tổ chức trung gian, ngân hàng không tốn thời gian thẩm định đến từng hộ mà chỉ thẩm định tại tổ chức trung gian. - Đối với tổ chức trung gian: sẽ được đáp ứng vốn kịp thời từ phía ngân hàng và thông qua các hợp đồng với hộ sản xuất nông nghiệp tổ chức trung gian sẽ quản lý, thu mua được các sản phẩm do nông hộ sản xuất ra, đảm bảo các nguyên liệu đầu vào có chất lượng cho việc sản xuất chế biến và lưu thông bình thường của mình. Ngoài các hình thức cho vay đã nêu trên, NHNo&PTNT Việt Nam cho vay qua các tổ chức tài chính trung gian để chuyển tải vốn tín dụng đến hộ sản xuất như quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng cổ phiếu, công ty tài chính, cho vay qua các tổ chức trung gian này gọi là “bán buôn”. Đối với cho vay các tổ chức tài chính trung gian này thủ tục vay tương tự như cho vay một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân theo Luật. 1.2.2. Tác dụng của hoạt động tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đối với kinh tế nông hộ Việc cho nông hộ vay là nhằm tạo điều kiện và khuyến khích nông dân phát triển sản xuất ra hàng hoá nông - lâm - ngư - diêm nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến, mở rộng các ngành nghề sản xuất mới, kinh doanh dịch vụ… tạo công ăn việc làm, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp, góp phần xây dựng một nông thôn mới giàu có văn minh. Tín dụng nói chung và tín dụng NHNo&PTNT đối với hộ sản xuất nông nghiệp ở nước ta có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là nó giúp cho nền nông nghiệp nước ta tạo ra nhiều hàng hoá hơn để cung cấp cho sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của toàn xã hội… Tín dụng của NHNo&PTNT là kênh để chuyển tải vốn có hiệu quả trong nền kinh tế nói chung và từng hộ sản xuất nông nghiệp nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá và chịu sự tác động, chi phối bởi các quy luật của thị trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, do quá trình tuần hoàn của vốn ở các khâu của sản xuất nên có lúc người sản xuất tạm thời có nhu cầu vốn lớn hơn vốn tự có của mình nên cần phải kịp thời bổ sung để sản xuất được duy trì liên tục kịp thời không bị gián đoạn. Đặc biệt là đối với các nông hộ chu kỳ sản xuất thường là theo thời vụ, do đó mọi nhu cầu chi phí đều tập trung vào thời vụ sản xuất. Chỉ khi đến thu hoạch thì mới có nguồn thu do đó khoảng thời gian từ sản xuất đến thu hoạch, tuỳ theo sản phẩm, các hộ sản xuất nông nghiệp thường thiếu vốn cho đầu tư sản xuất, lúc này vốn tín dụng ngân hàng là kênh có thể đáp ứng kịp thời cho nhu cầu đó. Các nhà kinh tế thường cho rằng, thông qua công tác tín dụng các ngân hàng thương mại đã và đang thực hịên chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, vì tín dụng của ngân hàng cung ứng vốn cho những người cần vốn để đầu tư sản xuất, chế biến, cất trữ sản phẩm để sau đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất nói trên, từ người sản xuất đến người bán buôn, đến người bán lẻ và cuối cùng đến người tiêu dùng. Tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng toàn bộ quá trình kinh tế, cho đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Người nông dân nhờ có điều kiện được vay vốn họ có thể mua hạt giống, thức ăn gia súc, phân bón và các nhu cầu thiết yếu khác cho quá trình sản xuất, kinh doanh cũng như tín dụng ngân hàng đã tạo ra cho các nông hộ khả năng để mua sắm các vật tư, thiết bị, máy móc, các phương tiện vận chuyển để tổ chức lưu thông hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ, qua đó tín dụng của NHNo&PTNT góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Tín dụng của NHNo&PTNT đối với kinh tế nông hộ chủ yếu là tín dụng chi phí sản xuất, tức là các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho nông dân để chi phí về giống cây trồng, con gia súc, thức ăn gia súc, phân bón, thuốc trừ sâu, phòng chữa bệnh gia súc, chi phí ngày công lao động…Ngoài ra tín dụng của NHNo&PTNT còn bao gồm các khoản cho vay trung, dài hạn để cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn nuôi, xây dựng kho tàng, cơ sở chế biến, phương tiện vận tải… tín dụng của NHNo&PTNT không chỉ đơn thuần là một kênh chuyển tải vốn cho sản xuất mà nó còn là công cụ để thúc đẩy nền kinh tế nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng phát triển, đặc biệt là đối với nông nghiệp Việt Nam chúng ta hiện nay. Thông qua tín dụng của ngân hàng, NHNo&PTNT đã thực sự trở thành là người bạn của nông dân, giúp đỡ nông dân mở rộng quy mô sản xuất, cải tiến kỹ thuật, huy động các nguồn nhân lực vào quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp với năng suất và chất lượng ngày càng cao hơn, từ đó thúc đẩy sản xuất hàng hoá ở nông thôn phát triển theo hướng kinh tế thị trường. Sản xuất nông nghiệp chỉ có thể phát triển khi nào nó được chuyển qua sản xuất hàng hoá. Muốn làm được điều đó thì các hộ sản xuất cần phải có vốn và đặc biệt là cần có sự tài trợ của hệ thống ngân hàng nói khác đi là nhờ vào tín dụng NHNo&PTNT đối với nông hộ mà nền kinh tế nông nghiệp sẽ được tổ chức lại theo hướng sản xuất hàng hoá, chuyên môn hoá với quy mô sản xuất lớn hơn… Vì sản xuất hàng hoá vừa là mục tiêu vừa là điều kiện của tín dụng, nhờ sản xuất hàng hoá mà tín dụng được thu hồi vốn nhanh chóng và khả năng thu hồi tín dụng hoàn toàn lệ thuộc vào khả năng tiêu thụ hàng hoá. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRONG VIỆC VAY PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG HỘ 1.3.1 Các nhân tố thuộc về hộ sản xuất nông nghiệp Các nhân tố thuận lợi Phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng rất rộng lớn ở cả một thị trường nông thôn và thành thị, các đối tượng cấp tín dụng trong kinh tế nông hộ rất đa dạng và phong phú, tuỳ theo ngành nghề hộ tham gia và sản xuất kinh doanh mà đối tượng cấp tín dụng khác nhau, bao gồm các ngành: trồng trọt, ngành chăn nuôi, ngành đánh bắt hải sản, ngành lâm nghiệp, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, chế biến…, hộ nông dân họ sống có tính cộng đồng rất cao, là những người gắn bó máu mủ huyết tộc, hộ nông dân Việt Nam giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp. Đặc điểm của hộ nông dân Việt Nam là gắn bó, có tính chất truyền thống cả hai mặt vật chất kinh tế và tinh thần, có quyền lợi cùng hưởng và khó khăn cùng chịu, họ luôn luôn phấn đấu vươn lên để vượt qua những cảnh đói nghèo mà họ đã chịu đựng trong bao nhiêu năm chiến tranh tàn phá. Để nắm bắt các thành tựu khoa học mới áp dụng vào sản xuất nông nghiệp, họ rất năng động và nhạy bén, luôn biết thích nghi với mọi hoàn cảnh để hướng đến mục tiêu thoát nghèo và tiến lên làm giàu cho bản thân và gia đình họ. Những hạn chế Kinh tế nông hộ ở Việt Nam là thành phần kinh tế đồng nhất, nhưng đại bộ phận trong số đó vẫn còn duy trì kinh tế tiểu nông với quy mô sản xuất nhỏ, sản xuất hàng hoá mới trong giai đoạn phát triển ban đầu, mức sống vẫn còn thấp và đang có xu hướng tăng dần lên. Song bên cạnh đó ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, cơ bản của hộ sản xuất nông nghiệp nhưng còn rất manh mún, nhỏ lẻ, độ phì của đất ngày càng giảm, do quá trình canh tác người sử dụng đất thiếu kiến thức, thiếu thông tin, thiếu vốn nên việc đầu tư thâm canh, phục hồi độ phì của ruộng đất, chưa đủ bù đắp cho sự tiêu hao của chu kỳ sản xuất làm cho đất ngày càng bạc màu. Mặt khác, do sự manh mún về ruộng đất nên việc áp dụng cơ giới hoá trong nông nghiệp gặp khó, ảnh hưởng đến năng suất lao động trong sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh tế nông hộ nói riêng. + Riêng với hộ nông dân ở Quảng Nam, có những yếu tố đặc thù: Về điều kiện lịch sử, nhân dân Quảng Nam nói chung và nông dân Quảng Nam nói riêng có truyền thống yêu nước và cách mạng kiên cường, trong chiến tranh luôn theo Đảng, theo cách mạng chống giặc ngoại xâm xứng đáng với tám chữ vàng “trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”. Khi đất nước được hoà bình thống nhất, cùng với nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân Quảng Nam nói riêng cùng với nhân dân Quảng Nam nói chung trong hơn 30 năm qua đã liên tục phát huy tinh thần cách mạng trong việc xây dựng lại quê hượng góp phần tạo nên những hình ảnh mới trên quê hương đất Quảng, phấn đấu thực hiện mục tiêu đến 2015-2020 Quảng Nam trở thành tỉnh công nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX. Quảng Nam là tỉnh nằm ở khu vực miền Trung điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, có diện tích đất nông nghiệp 654.912 ha, hộ sản xuất nông nghiệp (nguồn: Cục thống kê Quảng Nam năm 2005) là 235.491 hộ chiếm 79,11% số hộ toàn tỉnh, có 17 huyện, thị xã, trong đó có 8 huyện miền núi, diện tích đất sản xuất của từng hộ không nhiều nhưng phân tán không tập trung, thị trường đầu ra của các sản phẩm giá cả không ổn định làm cho người sản xuất không an tâm sản xuất. Mặt khác, tình hình năng lực tài chính, vốn tự có tham gia vào qua trình sản xuất rất nhỏ chủ yếu khả năng trực tiếp tham gia lao động của hộ và các thành viên trong hộ. Từ đó, có thể thấy rằng nguồn trả nợ chủ yếu là thu nhập từ các hoạt động mà vốn tín dụng ngân hàng cho vay. 1.3.2. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro. Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT cũng không tranh khỏi những rủi ro có thể xảy ra đặc biệc là trong cho vay nông hộ: Khi cấp một khoản tín dụng, thường tiềm ẩn những rủi ro bên trong những khoản vay đó, như ngân hàng không thu được nợ hoặc chỉ thu hồi được một phần, gây nên những tổn thất cho hoạt động của ngân hàng. Những rủi ro có thể dẫn đến từ phía hộ nông dân như thiếu khả năng tiếp thu và trình độ sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, dẫn đến sản phẩm tạo ra không đủ tiêu chuẩn chất lượng nên tiêu thụ không được, hoặc giá cả không bù đắp đủ chi phí. Bên cạnh đó cũng có những rủi ro xuất phát từ phía ngân hàng như khi cấp tín dụng không tuân thủ các quy trình cho vay, thẩm định trước khi cho vay sơ sài thiếu chặt chẽ, dẫn đến xác định đối tượng cho vay, thời hạn cho vay thu nợ không đúng khớp với thời gian chu chuyển vốn của đối tượng vay vốn. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng thương mại rất rộng lớn, trong đề tài này xin đề cập đến 3 loại rủi ro cơ bản trong quan hệ của ngân hàng với hộ sản xuất nông nghiệp, rủi ro về tín dụng, rủi ro về lãi sản xuất, và rủi ro khác. Tuy nhiên trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng các loại rủi ro thường có quan hệ với nhau. Trong kinh doanh ngân hàng có các loại rủi ro chủ yếu sau: - Rủi ro tín dụng - Rủi ro thanh khoản - Rủi ro lãi suất - Rủi ro ngoại hối - Rủi ro trong việc cung ứng các sản phẩm ngân hàng hiện đại - Rủi ro thanh toán * Rủi ro về tín dụng cho vay nông hộ thực trạng những năm qua Rủi ro xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu: - Nguyên nhân khách quan: + Thiên tai + Do giá nông sản giảm + Do biến động thị trường thế giới tác động đến giá cả trong nước của các loại nông sản thực phẩm - Nguyên nhân chủ quan + Sản xuất tự túc, tự cấp, năng suất lao động thấp + Trình độ khoa học kỹ thuật hạn chế và việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất đối với hộ cũng rất hạn chế + Quy hoạch vùng sản xuất cây, con của Nhà nước chưa được đồng bộ… Để hạn chế những rủi ro xảy ra do nguyên nhân chủ quan của ngân hàng gây ra trong quá trình cấp tín dụng, nhất là trong cho vay đối với nông hộ, ngân hàng cần phải tuân thủ các nguyên tắc và điều kiện sau đây: - Nguyên tắc cho vay: + Hộ vay vốn phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết trong đơn xin vay và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những sai trái trong quá trình sử dụng vốn. Nguyên tắc này được đặt ra là nhằm đảm bảo cho việc thực hiện mục đích đã đề ra của tín dụng hộ nông dân. Khoản mà tổ chức tín dụng phát ra phải có mục đích cụ thể gắn liền với phương án sản xuất đã đề ra, gắn liền với quy hoạch chung về cơ cấu sản xuất của địa phương. Người vay vốn không được sử dụng vốn cho mục đích khác . + Việc phát triển vay phải gắn liền với tiến độ thực hiện chương trình, dự án sản xuất kinh doanh. Điều này bắt buộc người vay vốn phải có chương trình hoặc dự án sản xuất kinh doanh và chương trình hoặc dự án đó phải được tổ chức tín dụng xem xét và chấp thuận. Tiền vay được phát ra theo đúng tiến độ thực hiện chương trình, dự án sản xuất để đảm bảo vốn vay không được sử dụng sai mục đích và nâng cao hiệu quả của vốn cho vay. + Hoàn trả đủ gốc và lãi: Tín dụng có nguồn gốc từ các nguồn tiền gởi, tiền tiết kiệm của dân chúng và nó được ngân hàng huy động có thời hạn nhất định. Do vậy, các khoản cho vay tín dụng phải được thu hồi đúng thời hạn cam kết để bảo đảm cho các ngân hàng khả năng thanh toán cho khách hàng gởi tiền. - Một số điều kiện mà NHNo&PTNT đề ra khi cấp tín dụng cho các nông hộ: + Hộ vay vốn phải có phương án sản xuất, kinh doanh phù hợp với chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, quy hoạch sản xuất của vùng, địa phương. Để thực hiện vốn vay được sử dụng đúng mục đích, và đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho các tổ chức tín dụng, hộ vay vốn phải gởi đến ngân hàng một phương án sản xuất kinh doanh nói rõ mục đích sử dụng, hiệu quả kinh tế của phương án sản xuất đó … Các phương án sản xuất kinh doanh mà hộ vay dự định thực hiện phải phù hợp với chương trình mục tiêu phát triển kinh tế, quy hoạch sản xuất của vùng, của địa phương. + Hộ vay vốn đầu tiên phải gởi đến ngân hàng hồ sơ xin vay vốn bao gồm: Đơn xin vay vốn đồng thời phải cung cấp tài liệu số liệu để làm cơ sở lập thủ tục vay vốn. + Hộ vay vốn phải là người thương trú và làm việc tại địa phương. Nếu là hộ ở khác địa phương (đến xâm canh) phải có xác nhận của uỷ ban nhân dân phường, xã nơi có hộ khẩu thường trú và được uỷ ban nhân dân địa phương nơi đến cho phép tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh… + Hộ vay phải có vốn tự có: vốn tự có được xác định bao gồm vốn bằng tiền, giá trị vật tư, giá trị ngày công lao động… + Hộ vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc người bảo lãnh tuỳ theo giá trị món vay theo quy định của Nhà nước. + Hộ vay vốn phải chịu sự kiểm tra giám sát của ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và sau khi hộ nhận tiền vay… Mức cho vay = tổng nhu cầu vốn của phương án - vốn tự có Trên đây, là một số quy định có tính chất bắt buộc của NHNo&PTNT đối với tín dụng cho vay kinh tế hộ, khi cấp tín dụng mà thực hiện tốt các quy định này thì tín dụng sẽ hạn chế được rủi ro và nó sẽ tăng được vòng quay vốn tín dụng, làm cho tín dụng phát huy vai trò động lực, là công cụ thúc đẩy nền kinh tế nói chung và kinh tế nông hộ nói riêng phát triển đúng với tinh thần phương hướng kế hoạch của hộ sản xuất đề ra trong các thời kỳ, đồng thời kinh tế nông hộ hoạt động có hiệu quả sẽ là động lực là mục tiêu của tín dụng ngân hàng trong các hoạt động của mình, từ đó góp phần để hoạt động tín dụng ngày càng có hiệu quả hơn. 1.3.3. Các nhân tố vế cơ chế chính sách và sự hỗ trợ của Nhà nước đối với tín dụng ngân hàng và kinh tế nông hộ Đổi mới nền kinh tế là tiền đề là cơ sở để đổi mới hoạt động tín dụng NHNo&PTNT. Quá trình đổi mới kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ IV. Sự đổi mới được thể hiện trên các lĩnh vực sau: * Chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. * Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối đối ngoại. * Cải cách hệ thống hành chính Nhà nước Đổi mới cơ chế quản lý nhằm đạt mục tiêu: - Giải phóng mọi năng lực sản xuất của xã hội - Tăng trưởng kinh tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh - Phát huy dân chủ, đề cao pháp luật, thiết lập kỷ cương trong sản xuất kinh doanh: + Cơ chế mới là động lực thúc đẩy quá trình dân chủ hoá trong hoạt động kinh tế, trong sản xuất kinh doanh trên cơ sở pháp luật và định hướng xã hội chủ nghĩa. + Mọi thành phần kinh tế và các tổ chức kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. - Phát triển kinh tế phải gắn liền với chính sách xã hội. Cùng với sự đổi mới chung của đất nước, của nền kinh tế, ngân hàng đổi mới theo 4 định hướng: - Đổi mới hoạt động ngân hàng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng phải thích ứng với cơ chế thị trường. - Đổi mới đi đôi với hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. - Đổi mới mô hình tổ chức và đào tạo cán bộ: - Đổi mới hoạt động phải gắn liền việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát. Quá trình đổi mới nông nghiệp, nông thôn được bắt đầu từ năm 1981 với chỉ thị 100/CT của Ban bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm cuối cùng đến cây lúa, đến nhóm và người lao động. Đến năm 1988, cơ chế khoán được cải tiến và nâng cao theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (khoá VI). Tiếp sau đó sự kiện quan trọng đánh dấu sự đổi mới sâu sắc trong nông nghiệp là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá VI) tháng 3 năm 1989 đã quyết định bỏ nghĩa vụ bán lương thực hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Như vậy, từ năm 1989, hộ nông dân đã được công nhận về mặt pháp lý, là một thực thể kinh tế độc lập, được giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài tới 15 năm, với 5 quyền: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, được quyền sở hữu tư liệu sản xuất (trừ ruộng đất), được tự quyết định sản phẩm sản xuất ra, giá cả, thị trường tiêu thụ, được sử dụng vốn tự có và vốn vay đẻ đầu tư sản xuất kinh doanh. Hộ xã viên thực sự chủ động trong sản xuất và phân phối sản phẩm nên họ thực sự yên tâm và phấn khởi để tiếp tục sản xuất cùng đồng hành với sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước khởi xướng. Khoán 10 đã trả lại địa vị làm chủ ruộng đất cho người nông dân, khôi phục lại quyền làm chủ ruộng đất bị xáo trộn trong những năm nền kinh tế theo cơ chế quản lý tập trung, các tổ chức kinh tế tập thể cũ không còn phù hợp kém hiệu quả tự tan rã và giải thể, các tổ chức sản xuất mới được hình thành trên cơ sở tự nguyện của người nông dân, lập nên những trang trại gia đình các tổ chức hình thức hợp tác khác nhất là ở các vùng kinh tế trọng điểm trong cả nước… Hộ nông dân thực sự trở thành đơn vị cơ sở tự chủ ở nông thôn góp phần cho nhịp độ tăng vụ, tăng năng suất, sản lượng của nền kinh tế. Quảng Nam là một tỉnh nằm trong sự vận động chung đó của sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua. Chính sách đổi mới trong nông nghiệp đã tạo điều kiện khách quan thuận lợi và cần thiết cho việc đầu tư tín dụng vào nền kinh tế nói chung và đối với kinh tế nông hộ nói riêng, là bước tiến quan trọng để tín dụng NHNo&PTNT thực hiện công cuộc đổi mới một cách sâu sắc và toàn diện, làm cho tín dụng ngân hàng thực sự là đòn bẩy kinh tế nhất là kinh tế nông hộ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. 1.4. KINH NGHIỆM HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐẾN NÔNG HỘ CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC 1.4.1. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước về hoạt động tín dụng Thực tế hoạt động tín dụng giữa ngân hàng với hộ nông dân của nhiều địa phương cho chúng ta những kinh nghiệm sau: Một là, tăng cường thẩm định của ngân hàng trước khi cho vay: Để cấp tín dụng cho một nhu cầu nào đó của hộ sản xuất, phải thực hiện một quy trình cấp tín dụng nhất định từ tiếp nhận hồ sơ vay vốn, thẩm định tín dụng, quyết định tín dụng, ký kết hợp đồng tín dụng, giám sát sử dụng tiền vay và thu hồi nợ. Năm quá trình ấy đều có vai trò quản lý tín dụng như nhau nhưng ở khâu thẩm định tín dụng và khâu giám sát, thu hồi nợ là khâu có yếu tố quyết định. Bởi thẩm định là khâu mở đầu và giám sát sử dụng tiền vay, thu hồi nợ là khâu kết thúc của một vòng, của thời hạn tín dụng. Sau khi tuân thủ các nguyên tắc các điều kiện tín dụng, thẩm định tín dụng được tiến hành trên các tiêu chí sau: - Thẩm định tư cách của chủ hộ và kinh nghiệm sản xuất của nông hộ. Vì chủ hộ là người đại diện để giao dịch với ngân hàng, là người chịu trách nhiệm chính trong việc vay vốn nên việc xem xét tư cách của người chủ hộ hoặc người được uỷ quyền vay là người có đủ hành vi dân sự và năng lực dân sự không. Ngoài việc xem xét về năng lực pháp lý về dân sự của chủ hộ có xem đến uy tín của hộ, trong thực tế yếu tố này cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng trả nợ của hộ vay. Uy tín của chủ hộ được thể hiện trong cuộc sống, lao động sản xuất, về quản lý tài chính, về chi tiêu, về sinh hoạt, về giáo dục con cái, các mối quan hệ hàng xóm láng giềng, dòng họ… các thông tin này được thu thập tại địa phương và nơi cư trú cũng như phỏng vấn trực tiếp chủ hộ… Nếu cho vay qua các tổ chức cũng phải đánh giá tư cách tổ trưởng, tổ trưởng phải có tín nhiệm từ hai phía: ngân hàng và các thành viên trong tổ vay vốn. - Thẩm định mục đích vay vốn của nông hộ: Ngân hàng cần phải biết mục đích vay vốn của hộ có phù hợp với những quy định của Nhà nước về phát triển kinh tế tại địa phương, cũng như các quy định về môi trường, an toàn sinh thái. Đối với hộ làm kinh tế trang trại hoặc có quy mô sản xuất lớn, cán bộ tín dụng phải dự đoán, đánh giá xu hướng phát triển…Để từ đó có các biện pháp tín dụng cho phù hợp, để vừa tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển có hiệu quả vừa quản lý tốt quá trình cấp tín dụng của ngân hàng. - Thẩm định các nguồn lực tài chính. Hộ vay vốn phải có đủ năng lực tài chính để trả nợ đúng hạn cam kết với ngân hàng. Vì hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, nên khi cho vay, ngân hàng yêu cầu bản thân hộ sản xuất phải tham gia vốn tự có của mình vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn tự có của hộ có thể là bằng tiền hoặc các yếu tố của quá trình sản xuất của cải vật chất… - Thẩm định bảo đảm tín dụng. Thẩm định đảm bảo tín dụng chỉ trong trường hợp hộ vay vốn có bảo đảm. Nếu bảo đảm tín dụng dưới hình thức thế chấp tài sản thì ngân hàng sẽ thẩm định tính pháp lý của quyền sở hữu về tài sản hoặc quyền sử dụng, tính thị trường của tài sản, giá trị của tài sản đảm bảo khi thực hiện nghĩa vụ. Nếu bảo đảm tín dụng bằng hình thức bảo lãnh của bên thứ 3 thì ngoài nội dung thẩm định trên ngân hàng còn thẩm định tư cách pháp lý và năng lực hành vi dân sự cũng như uy tín và khả năng tài chính của người bảo lãnh. Thẩm định tín dụng là việc phân tích tình hình khách hàng trước khi quyết định cho vay, nó có quan hệ nhân quả với chất lượng tín dụng. Nếu đánh giá tình hình khách hàng càng chính xác thì chất lượng tín dụng càng cao, vì thông qua thẩm định, phân tích khách hàng, ngân hàng sẽ dự đoán mức rủi ro trong quá trình cho vay để có biện pháp phòng ngừa hạn chế thấp nhất rủi ro trong tín dụng. Hai là, phải đảm bảo lợi ích của ngân hàng phải gắn liền với quyền lợi, lợi ích của các nông hộ. Hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT nói chung là hoạt động tín dụng thương mại theo nguyên tắc thị trường với phương châm đi vay để cho vay nên phải bảo đảm có mức chênh lệch lãi suất hợp lý để ngân hàng có điều kiện duy trì hoạt động của mình và mở rộng hoạt động tín dụng cho tương lai, và ngân hàng muốn kinh doanh được tốt thì trước hết phải phục vụ cho sự nhiệp phát triển kinh tế ở địa phương ._.c xem như là vấn đề chủ đạo trong hiện đại hóa công tác ngân hàng nói chung và trong công tác thanh toán nói riêng, phải đặt ưu tiên hàng đầu là thỏa mãn những nhu cầu trước những khách hàng đa dạng, phức tạp, đòi hỏi cao về độ chính xác, an toàn và tốc độ xử lý cao, tránh được sự rủi ro. Làm tốt được vấn đề này, sẽ làm tăng thêm khối lượng khách hàng, gia tăng khối lượng món giao dịch sẽ làm tăng trưởng nguồn vốn đáng kể trong thanh toán. - Tiếp tục mở rộng mạng lưới huy động vốn. Tuy nhiên hiện nay NHNo&PTNT Quảng Nam đã có 29 chi nhánh cấp 2, 7 chi nhánh cấp 3 và 7 phòng giao dịch điều đó vẫn chưa đáp ứng được so với yêu cầu cho công tác huy động vốn, trực tiếp đi đến từng xã, thôn, hộ sản xuất, kinh doanh có tiềm năng về vốn, kết hợp lồng ghép sinh họat của các tổ chức của các đoàn thể để tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, của ngành để giới thiệu các hình thức huy động vốn, lãi suất, các tiện ích đối với người gửi tiền đồng thời kèm theo đó là sự khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối với người gửi tiền thường xuyên, lớn và chính sách khuyến mãi đối với khách hàng truyền thống để nhằm giữ khách hàng, nắm chắc những khách hàng có thu nhập ổn định thường xuyên và kịp thời tiếp thị vận động những khách hàng có thu nhập theo thời vụ bất thường để tiếp cận huy động vốn được hiệu quả cao, bố trí thời giờ làm việc ở từng nơi, từng vùng phù hợp với điều kiện và xu hướng kinh doanh của khách hàng cũng như của ngân hàng trong cơ chế thị trường. - Cần cải tiến thủ tục, lề lối làm việc: trong xu hướng cải cách hành chính theo hướng một cửa thì việc hoàn thành các giao dịch của khách hàng với ngân hàng là đòi hỏi cấp thiết làm sao cho nhanh gọn không qua nhiều tầng cấp để tiết kiệm thời gian cho ngân hàng và khách hàng trong một quan hệ gữi cũng như rút tiền hoặc trong thanh toán và trong tín dụng ngân hàng nói chung, trong lề lối làm việc trước hết cần quán triệt đến tất cả cán bộ viên chức về tầm quan trọng của công tác huy động nguồn vốn, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm là cơ sở, là điều kiện đầu tiên để mở rộng tín dụng, cho nên phong cách và lề lối làm việc với phương châm “muốn hoạt động kinh doanh tốt trước hết phải phục vụ khách hàng thật tốt”. Tóm lại: vốn đầu tư cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là vấn đề bức thiết chung của nền kinh tế, nhất là đối với NHNo&PTNT hoạt động trên địa bàn nông thôn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp, nhu cầu vốn lớn nhưng phân tán đòi hỏi trong công tác huy động vốn phải “tích thiểu thành đa” để tạo lập nên nguồn vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn nhất là kinh tế nông hộ theo hướng sản xuất hàng hóa. 3.3.2. Nhóm giải pháp về mở rộng cho vay hộ sản xuất nói chung và nông hộ nói riêng Theo định hướng chung của NHNo&PTNT Việt Nam đối với cho vay kinh tế nông hộ nói chung là: tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng để năng lực cạnh tranh; tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư và đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hóa, đủ năng lực hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hóa doanh nghiệp. Trong bối cảnh hiện nay cần phải tập trung giải quyết đồng thời việc phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện có hiệu quả thực sự với việc nâng cao sức mua của dân chúng mới có thể góp phần tháo gỡ tình thế khó khăn kinh tế ở nông thôn, mặt khác, phải thông qua hệ thống chính sách đồng bộ cùng tác động thúc đẩy quá trình phân công lại lao động lao động xã hội ở nông thôn. Mọi người phải có công ăn việc làm, xã hội nông thôn giàu đẹp, ổn định là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Thực hiện ý tưởng này cần có hai loại giải pháp lớn trong giai đoạn này: - Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Tận dụng lợi thế vốn có của mình, hơn lúc nào hết NHNo&PTNT Việt Nam tìm mọi giải pháp hữu hiệu huy động mọi nguồn vốn trong nước và nước ngoài, mở rộng không ngừng các hoạt động dịch vụ tiền tệ, tín dụng, về với thị trường nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Phương châm hoạt động của NHNo&PTNT là hiệu quả kinh tế - xã hội, an toàn vốn, tài sản và nguồn nhân lực, NHNo&PTNT chấp nhận cạnh tranh và cạnh tranh bằng các giải pháp chính là: + Tăng cường không ngừng mọi nguồn lực trong kinh doanh. + Tiếp tục đào tạo và đào tạo lại đội ngũ nhân viên phù hợp vói yêu cầu mới. + Cải tiến không ngừng quy trình công nghệ và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng, từng bước hiện đại hóa các hoạt động của mình. + Mở rộng mạng lưới hoạt động về thôn, xã, tiếp cận với khách hàng ở nông thôn. + Đảm bảo các hoạt động dịch vụ kinh doanh có lãi. Để thực hiện tốt các giải pháp trên, cần dựa trên các chiến lược: Một là: Tập trung đầu tư vốn cho thị trường nông nghiệp, nông thôn với khách hàng là hộ gia đình, cá nhân sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi…Theo hướng khép kín gắn liền với sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, khôi phục và phát triển ngành nghề nông thôn Hai là: Khách hàng ở thị trường nông nghiệp, nông thôn chia làm hai nhóm: nhóm hộ nghèo và các đối tượng chính sách: NHNo&PTNT Quảng Nam nhận thực hiện làm dịch vụ cho vay theo ủy thác. Nhóm khách hàng còn lại, ngân hàng nông nghiệp sẽ phấn đấu cho vay trên 70% so với đối tượng cần vay, đạt mức dư nợ từ 15 – 20 triệu đồng/ hộ trong giai đoạn 2006 – 2010 và 30 triệu đồng trong những năm tiếp theo, với tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân hằng năm là 18% theo định hướng chung hiện nay có dự nợ là 1025 tỷ thì đến 2010 số dư cho vay hộ sản xuất và hộ sản xuất nông nghiệp sẽ là 4.838 tỷ. Ba là: Vùng đô thị (thành phố, thị xã) NHNo&PTNT Quảng Nam tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để thực hiện việc tiêu thụ, chế biến, và xuất khẩu nông sản, chú trọng đúng mức với khách hàng là các hộ kinh doanh nhỏ. Hiện nay tại địa bàn Quảng Nam trong sản xuất nông nghiệp có 3 hình thức tổ chức kinh tế chủ yếu đó là kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp, kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác chủ yếu là hợp tác xã nông nghiệp làm dịch vụ là chủ yếu. Đối với hộ sản xuất nông nghiệp ở phần trên đã đề cập đến việc phân chia các loại nhóm hộ để cho vay gồm 3 nhóm: nhóm hộ chưa sản xuất hàng hóa, nhóm hộ đã sản xuất hàng hóa, và nhóm hộ sản xuất kinh doanh theo dạng kinh tế trang trại, mỗi nhóm hộ như vậy được áp dụng các hình thức hay một phương thức cho vay hợp lý, phù hợp với hình thức tổ chức sản xuất và quy mô sản xuất của từng đối tượng vay. - Đối với hộ sản xuất và hộ sản xuất nông nghiệp có thể cho vay trực tiếp đến tận các chi nhánh cấp 3, phòng giao dịch, theo phương thức này khi thực hiện giải nhân cho vay theo 3 cách: + Hộ vay vốn trực tiếp đến vay và trả tại địa điểm giao dịch gần nhất nơi mình cư trú. + Ngân hàng tổ chức tổ lưu động để giải ngân cho vay tại nơi thông báo trước thông qua chính quyền địa phương và khi thu nợ cũng thống nhất với người vay đến kỳ hạn ngân hàng sẽ bố trí đến điểm hẹn để thu nợ. + Cho vay thông qua tổ nhóm hộ nông dân theo tinh thần Nghị quyết liên tịch 2308 giữa NHNo&PTNT Việt Nam và Trung ương Hội nông dân Việt Nam, tổ nhóm hội phụ nữ theo tinh thần Nghị quyết liên tịch số 02 giữa NHNo&PTNT Việt Nam và Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. - Cho vay qua tổ chức trung gian: là việc ngân hàng cho các tổ chức kinh tế vay vốn và trên cơ sở đó các tổ chức này cung ứng vốn lại cho các hộ sản xuất chủ yếu là từ các tổ chức chế biến tiêu thụ nông sản phẩm hoặc cung ứng vật tư cho nông hộ. Áp dụng các phương thức cho vay trên vừa cải tiến được cách tiếp cận đối với hộ sản xuất của ngân hàng vừa giảm được áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng trong cho vay quản lý cho vay đối với hộ sản xuất và hộ sản xuất nông nghiệp. 3.3.3. Nhóm giải pháp về dịch vụ khác của ngân hàng đối với nông hộ Trong điều kiện hiện nay nhìn chung hệ thống dịch vụ ngân hàng còn đơn điệu, chủng loại còn nghèo nàn và chất lượng thấp. Hệ thống dịch vụ ngân hàng chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và chủ yếu là các dịch vụ truyền thống như dịch vụ huy động vốn, dịch vụ cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán Phát triển hệ thống tín dụng ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống, cải tiến thủ tục giao dịch trong đó đặc biệt coi trọng dịch vụ huy động và cấp tín dụng, đồng thời tiếp cận nhanh huy động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính, ngân hàng mói có hàm lượng công nghệ cao để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nền kinh tế. xây dựng hệ thống dịch vụ ngân hàng có chất lượng, an toàn và hiệu quả, cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện các dịch vụ, tiện ích ngân hàng cho mọi đối tượng, tầng lớp trong xã hội, chú trọng đáp ứng tốt nhu cầu dịch vụ ngân hàng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước đề ra. Đối với kinh tế nông hộ ở vùng nông thôn ngoài các dịch vụ ngân hàng truyền thống đã nên thì cần phải mở rộng các dịch vụ ngân hàng khác bao gồm: - Mở rộng mạng lưới tiếp cận khách hàng + Tiếp tục củng cố họat động của các chi nhánh trực thuộc chi nhánh cấp I và các chi nhánh trực thuộc chi nhánh cấp II đang có ở tại các huyện thị xã, thị trấn, xã phường, từng bước xây dựung các điểm giao dịch này hoạt động có chiều sâu, có chất lượng, hiệu quả tiến tới (xã hội hóa) hoạt động ngân hàng trong mọi lĩnh vực: huy động vốn, cho vay vốn, và công tác thanh tóan trong việc mua bán hàng hóa, làm cho mọi người dân trên địa bàn hoạt động của mỗi chi nhánh coi NHNo&PTNT là nơi gửi tiền tin cậy, là nơi cung ứng vốn kịp thời cho nhu cầu sản xuất kinh doanh cà phục vụ đời sống là nơi làm trung gian thanh toán cho các hoạt động mua bán. + Thực hiện việc huy động vốn tại nhà và cho vay tại ngân hàng trên cơ sở các tổ, nhóm cho vay lưu động và phương tiện ô tô chuyên dùng được trang bị. + Tăng cường tiếp cận để giám sát các tổ chức đoàn thể, tổ vay vốn và hướng dẫn sử dụng vốn có hiệu quả, tránh và ngăn ngừa các sai phạm có thể xảy ra. - Mở rộng đối tượng cho vay để tăng cường cơ sở vật chất mới ở nông thôn. + Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn: chú trọng đầu tư vào thị trường thủy lợi nội đồng, giao thông nông thôn, điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. + Phát triển rộng rãi tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính) không cho phát triển loại hình tín dụng này ở thành phố mà phải đến tận các vùng nông thôn để làm phong phú đa dạng các dịch vụ ngân hàng đáp ứng được mọi nhu cầu của người tiêu dùng. - Ngoài ra, NHNo&PTNT cần tiến hành phối hợp với các cơ quan chức năng để làm dịch vụ tư vấn cho hộ sản xuất nông nghiệp như: + Tư vấn về sản xuất: tư vấn về thổ nhưỡng, đất đai, nên trồng cây gì, nuôi con gì và kỹ thuật trồng, nuôi, chăm sóc. + Tư vấn về thị trường: giá cả, nhu cầu tiêu thụ trong nước, xuất khẩu, hiện tại và dự báo tương lai… + Tư vấn về việc lập các dự án đầu tư, phương án sản xuất… + Tư vấn về công nghệ, chuyển giao công nghệ… Làm được điều đó chắc chắn hiệu quả vốn tín dụng, hiệu quả vốn đầu tư của kinh tế hộ sẽ đạt cao hơn và đảm bảo góp phần phát triển bền vững cho loại hình kinh tế này phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. 3.3.4. Nhóm giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực và hoàn thiện bộ máy tổ chức - Hoạt động của tín dụng ngân hàng nhất là tín dụng đối với kinh tế nông hộ thường đầu tư cho các đối tượng trồng trọt, chăn nuôi và chế biến các sản phẩm và các ngành dịch vụ để phát triển nông nghiệp khác như: dịch vụ kỹ thuật cây trồng, con vật nuôi, dịch vụ cung cấp nước, dịch vụ cơ khí nông thôn, giao thông vân tải, thông tin liên lạc, tài chính tín dụng, y tế và các ngành dịch vụ khác: + Về dịch vụ cây trồng, con vật nuôi: đầu tư xây dựng nâng cấp hỗ trợ phát triển các cơ sở, các hộ sản xuất giống cây, con và kỹ thuật chăm sóc… ` + Đối với dịch vụ thủy lợi cấp nước: Đầu tư xây dựng quản lý, khai thác các công trình tưới tiêu nước, thủy lợi nội đồng, mua sắm máy móc phục vụ tưới tiêu để phục vụ cho sản xuất. + Dịch vụ cơ khí trong nông nghiệp: sản xuất, sửa chữa các công cụ chăm sóc cây, con và trong thu hoạch và bảo quản, chế biến nông sản… và hướng đến cơ giới hóa rộng trong nông nghiệp… Những hoạt động trên của quá trình sản xuất trong nông nghiệp nhất là trong hộ sản xuất đều có sự tác động trực tiếp của hoạt động tín dụng ngân hàng do đó trong công tác đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đào tạo chuyên sâu nghiệp vụ tín dụng mà cần kết hợp đào tạo chuyên môn hóa nghiệp vụ tín dụng và các nghiệp vụ mà đối tượng tín dụng tác động làm cho tín dụng ngân hàng thâm nhập sâu vào các yếu tố đầu tư định lượng và mặt định tính. Con người là yếu tố quyết định của mọi thành công, chất lượng của đội ngũ cán bộ nói chung và tín dụng nói riêng là một trong những yếu tố quyết định chất lượng, hiệu quả của hoạt động ngân hàng trong đó co công tác tín dụng. Yêu cầu các nguồn nhân lực cho sự nghiệp đổi mới hoạt động ngân hàng là xây dựng đội ngũ cán bộ viên chức vững vàng về mặt nghiệp vụ nhất là nghiệp vụ tín dụng, am hiểu về luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, am hiểu những kiến thức kinh doanh trong cơ chế thị trường, có phẩm chất đạo đức tốt, yêu ngành, yêu nghề, ngoài ra còn phải biết một số nghiệp vụ của các ngành kinh tế kỹ thuật khác, điều đó sẽ thuận lợi cho công tác cho vay của ngân hàng, làm cho vốn tín dụng đầu tư đúng mục đích và hiệu quả cao. - Đối với việc hoàn thiện bộ máy Nhà nước đã có nhiều đổi mới về tổ chức bộ máy trong đó có NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT Quảng Nam nói riêng theo tinh thần đề án cơ cấu lại ngân hàng. Tuy nhiên, tốc độ đổi mới diễn ra còn khá chậm và chưa thực sự tạo được bước đột phá đáng kể. Do đó, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện bộ máy tổ chức là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tái cơ cấu ngân hàng thương mại Nhà nước trong thời gian tới. Một yêu cầu quan trọng của việc hoàn thiện bộ máy tổ chức của ngân hàng thương mại Nhà nước là làm rõ mối quan hệ giữa cơ quan quản lý và cơ quan điều hành theo hướng nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý của của hội đồng quản trị, đặc biệt là trong hoạch định chiến lược quản lý rủi ro, đồng thời nâng cao hiệu quả điều hành của giám đốc và các thành viên trong ban điều hành, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT an toàn, hiệu quả và đúng hướng. Để đạt được yêu cầu này, việc cơ cấu lại và hoàn thiện bộ máy tổ chức ngân hàng sẽ phải thực hiện theo hướng chuyên môn hóa các nghiệp vụ như: nghiệp vụ thẩm định, nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ kế toán – ngân quỹ, nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế, nghiệp vụ thẻ, dịch vụ chuyển tiền và nghiệp vụ kiểm tra, kiểm toán… Cùng với việc hoàn thiện mô hình bộ máy tổ chức trên, trong lĩnh vực tín dụng cần tổ chức theo hướng chuyên nghiệp và một đầu mối giao dịch với khách hàng, tách bạch các khâu thẩm định, quyết định cho vay, quản lý tín dụng, xử lý tín dụng, xử lý nợ tránh chồng chéo trong công việc giữa các bộ phận và tăng cường sự giám sát lẫn nhau để hạn chế rủi ro. Trên cơ sở đó, tiến hành tiêu chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ, ứng dụng có hiệu quả những phần mềm phục vụ cho công tác thẩm định và quản lý tín dụng được tốt hơn và hiệu quả hơn. 3.3.5. Giải pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng đối với hộ sản xuất Hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường của các doanh nghiệp nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng đều phải chấp nhận rủi ro, không một ngành kinh doanh nào gặp nhiều rủi ro như ngành ngân hàng. Rủi ro tồn tại ngoài ý muốn của con người, thường gây ra hậu quả khó lường, cho nên trong thực tế không thể loại trừ được rủi ro ra khỏi môi trường kinh doanh mà chúng ta chỉ có thể phân tích, dự đoán, đo lường và tìm ra các nguyên nhân, giải pháp phòng ngừa, hạn chế sự tác động của rủi ro tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Những năm qua, các tổ chức tín dụng nói chung và NHNo&PTNT nói riêng đều phát triển nhanh cả số lượng và quy mô hoạt động, phát triển mạnh về công nghệ. Trên cùng một địa bàn các tổ chức tín dụng họat động đan xen lẫn nhau, tính cạnh tranh ngày càng gay gắt để tìm kiếm lợi nhuận, tăng nhanh thị phần kinh doanh. Mặt khác, các ngân hàng thương mại có nhiều mối quan hệ với tất cả các loại hình doanh nghiệp và đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân thông qua các nghiệp vụ khác nhau nên phải đối mặt với nhiều rủi ro khác nhau. Chính vì thế vấn đề khắc phục rủi ro trong kinh doanh ngân hàng ngày càng trở nên cấp thiết. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong tín dụng cho vay hộ sản xuất kinh doanh nông nghiệp, cần phải triển khai một số giải pháp sau: - Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa tín dụng Kế hoạch hóa tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng. Thông qua công tác kế hoạch để điều tiết vốn cho phù hợp với từng khu vực, đầu tư vốn phải căn cứ vào tốc độ phát triển kinh tế của từng địa phương, phải kế hoạch hóa đến từng thôn xã. Phải kế hoạch hóa cho vay, điều tiết tỷ lệ cho vay trung, dài hạn và tỷ lệ cho vay ngắn hạn phù hợp trên cơ sở nhu cầu về vốn đã được kế hoạch hóa mà bố trí lao động, sắp xếp mạng lưới và chỉ đạo thực thi nghiệp vụ cho phù hợp. - Nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ điều hành, cán bộ tín dụng. -Năng lực phẩm chất đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tín dụng là một vấn đề then chốt ảnh hưởng quyết định đến chất lượng tín dụng. Có thể khẳng định không thể có chất lượng cho vay tốt nếu như đội ngũ cán bộ chất lượng kém, một số cán bộ đã đào tạo thời bao cấp cần phải đào tạo lại, tuyển chọn, bố trí cán bố vào làm công tác tín dụng cần phải cân nhắc kỹ. Năng lực cán bộ là khâu then chốt của NHNo&PTNT trong hiện tại cũng như trong tương lai. - Kết hợp củng cố mạng lưới với khoản tài chính đến nhóm và người lao động. Củng cố mạng lưới hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo an toàn vốn vay. Trong thời gian qua NHNo&PTNT Quảng Nam mở rộng hệ thống mạng lưới ngân hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho hộ sản xuất vay vốn, rút ngắn thời gian đi lại, song cần cũng cố hệ thống mạng lưới đủ mạnh để đảm đương nhiệm vụ. + Nâng cao khả năng cạnh tranh + Nắm bắt thông tin về khách hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng và tạo niềm tin với nhân dân, với cấp uỷ, chính quyền địa phương. Thực hiện cơ chế khoán tài chính gắn với chất lượng tín dụng, rủi ro tín dụng đến nhóm và người lao động, có chế độ khen thưởng đối với đơn vị và cá nhân làm tốt, ít rủi ro, gắn trách nhiệm cá nhân với chất lượng tín dụng. - Tăng cường công tác thẩm định, xét duyệt cho vay: Thẩm định là kiểm tra trước khi cho vay, xem xét các điều kiện cảu người vay có đảm bảo không để làm cơ sở cho việc xét duyệt cho vay, làm tốt được vấn đề này là yếu tố góp phần quyết định chất lượng tín dụng. - Nâng cao hiệu quả và chất lượng của các đảm bảo tín dụng. Các bảo đảm tín dụng được thực hiện trên cơ sở thoả thuận bằng việc hộ đồng thế chấp, bão lãnh… bằng tài sản. - Nâng cao hiệu quả của hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro. Từ cán bộ quản lý đến cán bộ tác nghiệp cần quán triệt rõ yêu cầu cần thiết của công tác nghiên cứu khách hàng, xác định chiến lược kinh doanh đúng đắn. Thiếu thông tin đặc biệt là thông tin tín dụng sẽ dẫn đến chậm trễ trong xử lý nghiệp vụ nhất là trong thị trường cạnh tranh và tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể xảy ra. - Kếp hợp chặt chẽ với chính quyền, đoàn thể trong quá trình cho vay, đẩy mạnh công tác tuyên truyền hoạt động ngân hàng. Sử dụng vai trò của chính quyền đoàn thể giám sát việc vay vốn, triển khai sản xuất kinh doanh sau khi vay vốn, như vậy vừa tăng tính hiệu quả vừa giảm thiểu rủi ro. Cụ thể là: Và nhằm để chuyển tải chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và đồng thời giáo dục nhân dân thực hiện và chấp hành đúng Luật pháp trong các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính. - Tăng cường kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay. Là nhằm để phát hiện kịp thời các vấn đề có thể dẫn tới rủi ro để có những giải pháp điều chỉnh kịp thời. - Các giải pháp thu hồi nợ kém chất lượng, nợ xấu: Trong cho vay cần sớm phát hiện những khoản vay có vấn đề có thể dẫn đến rủi ro để có biện pháp thu hồi trước hạn hoặc xử lý theo luật định. Cụ thể là: · Rủi ro trong huy động vốn: Thực chất trong rủi ro này là vấn đề lãi suất đầu vào, là rủi ro về thu nhập lợi tức, tính chất rủi ro này gắn liền với những thay đổi trong lãi suất thị trường và sự mất cân đối giữa tài sản nợ và tài sản có về các loại tài sản nhạy cảm về lãi suất, nếu một ngân hàng có nhiều tài sản nợ (vốn lưu động) loại nhạy cảm với lãi suất hơn là tài sản có, một sự tăng lãi suất sẽ làm giảm đi thu nhập của ngân hàng. - Biện pháp để hạn chế rủi ro này là: phải đảm bảo tỷ lệ an toàn quy định cảu ngân hàng Nhà nước như tỷ lệ cân đối tài sản nợ và tài sản có, tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh toán ngay, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. · Rủi ro xảy ra trong hoạt động các dịch vụ khác của ngân hàng. Như dịch vụ thanh toán, cung cấp các sản phẩm mới, tài khoản, gnhiệp vụ ngoại hối trong các quan hệ giao dịch hay cung cấp các dịch vụ ngân hàng cần phải đúng các quy trình và duy trì sự cân xứng tài sản nợ, tài sản có các ngoại tệ, nội tệ ở trong trạng thái hợp lý, phân tích sự biến động tỷ giá các loại tiền, hay tình trạng rút tiền ào ạt đi đôi với dự báo nhu cầu rút tiền của khách hàng trong từng thời kỳ để có chuẩn bị đầy đủ các phương tiện khi trả theo yêu cầu của khách hàng. Hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quản lý điều hành của NHNo&PTNT nói riêng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập thị trường tài chính ngày càng phát triển với các công cụ đa dạng, càng định rõ trọng trách lớn trong việc hạn chế các rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, trong cơ chế thị trường, ngân hàng nào tỷ lệ rủi ro càng nhỏ thì thể hiện tính bền vững càng lớn, tạo niềm tin cho khách hàng càng nhiều, và sẽ tạo ra nhiều lợi thế trong hoạt động kinh doanh của mình. Kết luận chương 3 Đẩy mạnh tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam là xuất phát từ đòi hỏi của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nghiệp nông thôn Quảng Nam từ nay đến 2010 và những năm tiếp theo, sự tác động của tín dụng NHNo&PTNT Quảng Nam đối vói kinh tế nông hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Để mở rộng hoạt động tín dụng đối với kinh tế nông hộ phát triển kết hợp tổng hợp các giải pháp tạo lập về nguồn vốn, nhóm về mở rộng cho vay hộ sản xuất nói chung và hộ sản xuất nông nghiệp nói riêng, nhóm giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực và hoàn thiện bộ máy tổ chức và giải pháp để hạn chế các rủi ro trong hoạt động ngân hàng đối với hộ sản xuất. Đây là 1 số giải pháp có tính định hướng, tuỳ từng trường hợp và điều kiện cụ thể để sử dụng sao cho có hiệu quả tốt nhất để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn Quảng Nam ngày càng tốt hơn. KÕt luËn 1. Ph¸t triÓn kinh tÕ n«ng hé trong n«ng nghiÖp, n«ng th«n lµ nhu cÇu tÊt yÕu cña nÒn SX hµng ho¸, nhÊt lµ trong xu thÕ chuyÓn dÞch c¬ cÊu kinh tÕ. H¬n n÷a, víi ®Æc thï sinh häc cña SX n«ng nghiÖp th× n«ng hé lµ ®¬n vÞ kinh tÕ c¬ b¶n phï hîp nhÊt, khã cã h×nh thøc kinh tÕ nµo cã thÓ thay thÕ tèt h¬n ®­îc. 2. §Ó cung øng vèn cho ph¸t triÓn kinh tÕ n«ng hé, NHNo&PTNT cÇn ph¶i thÓ hiÖn vai trß ®ßn bÈy, t¸c ®éng tÝch cùc, th«ng qua chøc n¨ng tËp trung nguån vèn nhµn rçi ®Ó tµi trî cho nªn kinh tÕ nãi chung, ®Æc biÖt lµ kinh tÕ n«ng hé, lµm cho kªnh tÝn dông NHNo&PTNT lµ b¹n ®ång hµnh cïng n«ng hé trong sù nghiÖp CNH, H§H n«ng nghiÖp, n«ng th«n. 3. §Ó chuyÓn t¶i vèn ®Õn víi kinh tÕ n«ng hé cã hiÖu qu¶ vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng cÇn ph¶i cã ph­¬ng thøc tÝn dông phï hîp, trªn c¬ së phèi kÕt hîp ®ång bé víi c¸c cÊp, c¸c ngµnh, c¸c tæ chøc ®oµn thÓ vµ x· héi ®Ó gi¸m s¸t qu¶n lý tÝn dông lµm cho s¶n xuÊt n«ng nghiÖp tõ thuÇn n«ng, ®¬n canh sang ®a canh, ®a s¶n phÈm. 4. Trong thêi gian qua, tõ khi t¸i lËp tØnh Qu¶ng Nam ®Õn nay NHNo&PTNT tØnh Qu¶ng Nam th«ng qua c«ng t¸c tÝn dông cña m×nh ®èi víi kinh tÕ n«ng hé ®· gãp phÇn quan trong cho sù nghiÖp ph¸t triÓn kinh tÕ cña ®Þa ph­¬ng kh«ng ngõng ph¸t triÓn. Tuy nhiªn, thùc tiÔn ho¹t ®éng còng cßn béc lé mét sè khiÓm khuyÕt cÇn kh¾c phôc. §ã lµ: trong c«ng t¸c ®Çu t­ tÝn dông ®èi víi kinh tÕ n«ng hé hiÖu qu¶ ch­a cao, ch­a thËt sù ®i vµo chiÒu s©u, kÕt cÊu víi tÝn dông trung dµi h¹n cßn thÊp. 5. §Ó kinh tÕ n«ng hé thËt sù lµ nguån lùc cho CNH, H§H n«ng nghiÖp, n«ng th«n th× vèn tÝn dông nãi chung vµ tÝn dông cña NHNo&PTNT nãi riªng cÇn ®Èy m¹nh ®Çu t­ cã träng ®iÓm, cã hiÖu qu¶, më réng tÝn dông ®i ®«i víi chÊt l­îng tÝn dông, t¸c ®éng cña tÝn dông ng©n hµng ®èi víi kinh tÕ n«ng hé ph¶i trªn c¬ së theo h­íng s¶n xuÊt hµng ho¸. Danh môc tµi liÖu tham kh¶o PTS. NguyÔn V¨n BÝch – KS. Chu TiÕn Quang (1996), ChÝnh s¸ch kinh tÕ vµ vai trß cña nã ®èi víi ph¸t triÓn n«ng nghiÖp, n«ng th«n ViÖt Nam, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi. NguyÔn Vò B×nh (2004) “Gi¶i ph¸p n©ng cao chÊt l­îng cña ho¹t ®éng th«ng tin tÝn dông”, T¹p chÝ khoa häc vµ ®µo t¹o Ng©n hµng, (2). PGS.TS. Ng« §øc C¸t, TS. Vò §×nh Th¾ng (2001), Gi¸o tr×nh ph©n tÝch chÝnh s¸ch n«ng nghiÖp, n«ng th«n, Nxb Thèng kª, Hµ Néi. TrÇn Xu©n Ch©n (2002), §Èy m¹nh sù ph¸t triÓn nÒn n«ng nghiÖp hµng ho¸ ë ViÖt Nam hiÖn nay, LuËn ¸n tiÕn sÜ Kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi. TS. Ph¹m Hång Cê (1996), §æi míi ho¹t ®éng qu¶n lý tÝn dông Ng©n hµng cÊp c¬ së nh»m thóc ®Èy ph¸t triÓn kinh tÕ n«ng th«n, LuËn ¸n PTS khoa häc Kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi. Côc thèng kª Qu¶ng Nam (2006), Niªn gi¸m thèng kª Qu¶ng Nam n¨m 2005, Tam Kú. PGS.TS. NguyÔn Sinh Cóc (2003), N«ng nghiÖp n«ng th«n ViÖt Nam thêi kú ®æi míi, NxbThèng kª, Hµ Néi. TS Hå DiÖu (2000), TÝn dông Ng©n hµng, Nxb Thèng kª, Hµ Néi. TS Hå DiÖu, TS Lª ThÈm D­¬ng, TS Lª ThÞ HiÖp Th­¬ng, ThS Ph¹m Phó Quèc, CN Hå Trung Böu, CN Bïi DiÖu Anh (2001), Gi¸o tr×nh tÝn dông Ng©n hµng, Nxb Thèng kª, Hµ Néi. PGS.TS NguyÔn V¨n Dên (2003), TÝn dông – Ng©n hµng (TiÒn tÖ Ng©n hµng II ), Nxb Thèng kª - Hµ Néi. §¶ng Céng s¶n ViÖt Nam (2006), V¨n kiÖn §¹i héi §¶ng toµn quèc lÇn thø X, Nxb ChÝnh trÞ quèc gia, Hµ Néi. §¶ng Bé tØnh Qu¶ng Nam (2006), V¨n kiÖn §¹i héi §¹i biÓu §¶ng bé tØnh Qu¶ng Nam lÇn thø XIX, Tam Kú. §Çu t­ ph¸t triÓn kinh tÕ hé (2006), Nxb Lao ®éng, Hµ Néi. FRANK ELLIS (1993), Kinh tÕ hé gia ®×nh n«ng d©n vµ ph¸t triÓn n«ng nghiÖp, Nxb N«ng nghiÖp, Hµ Néi. Vâ V¨n L©m (1999), §æi míi ho¹t ®éng tÝn dông Ng©n hµng N«ng nghiÖp, n«ng th«n trªn ®Þa bµn tØnh Qu¶ng Nam, LuËn ¸n th¹c sü Khoa häc kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi. Vâ V¨n L©m (2000), “Nh÷ng gi¶i ph¸p qu¶n lý cho vay vèn ®Ó ph¸t triÓn kinh tÕ n«ng nghiÖp, n«ng th«n trªn ®Þa bµn tØnh Qu¶ng Nam”, T¹p chÝ sinh ho¹t lý luËn, Ph©n viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, §µ N½ng, (39), tr. 51-52-53-54-55. Vâ V¨n L©m (2001), “Quan ®iÓm vµ gi¶i ph¸p më réng ®Çu t­ tÝn dông Ng©n hµng nh»m thùc hiÖn tèt quyÕt ®Þnh 67”, T¹p chÝ Ng©n hµng, (1), tr 74-75-76-77. Vâ V¨n L©m (2001), “Mét sè gi¶i ph¸p vÒ tÝn dông Ng©n hµng n«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n trong qu¸ tr×nh c«ng nghiÖp ho¸, hiÖn ®¹i ho¸ nÒn kinh tÕ quèc d©n ë n­íc ta giai ®o¹n 2001 – 2010”, T¹p chÝ sinh ho¹t lý luËn, Ph©n viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, §µ N½ng, (48), tr. 14-15-16-17-18-19. Vâ V¨n L©m (2002), “ Ng©n hµng n«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n Qu¶ng Nam 5 n¨m tr­ëng thµnh trong c¬ chÕ míi”, T¹p chÝ Ng©n hµng, (3), tr. 22-23-24-25-26. NguyÔn V¨n Mao (2000), Ph¸t triÓn kinh tÕ hé n«ng d©n Kiªn Giang, LuËn v¨n th¹c sÜ Kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi. C.M¸c (1978), T­ b¶n, QuyÓn III, TËp II, Nxb Sù thËt, Hµ Néi. TS. Ph¹m V¨n N¨ng, TS. TrÇn Hoµng Ng©n, TS. Sö §×nh Thµnh (2002), Sö dông c¸c c«ng cô tµi chÝnh ®Ó huy ®éng vèn cho chiÕn l­îc ph¸t triÓn kinh tÕ x· héi cña ViÖt Nam ®Õn n¨m 2020, Nxb Thèng kª, Hµ Néi. Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n tØnh Qu¶ng Nam (2005), B¸o c¸o tæng kÕt ho¹t ®éng kinh doanh, Tam Kú. Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n tØnh Qu¶ng Nam (2005), B¸o c¸o tæng kÕt 9 n¨m ( 1997 –2005), Tam Kú. Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n tØnh Qu¶ng Nam (2006), B¸o c¸o tæng kÕt 15 n¨m cho vay hé s¶n xuÊt, Tam Kú. Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n ViÖt Nam (2001), §Ò ¸n c¬ cÊu l¹i Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n ViÖt Nam giai ®o¹n 2000-2010, Hµ Néi, tr. 2-22-23-24-52. Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n ViÖt Nam (2001), CÈm nang tÝn dông, Hµ Néi. Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n ViÖt Nam (2001), HÖ thèng ho¸ c¸c v¨n b¶n ®Þnh chÕ cña Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n ViÖt Nam, TËp I-IX, Hµ Néi. Ng©n hµng N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n ViÖt Nam (2006), B¸o c¸o tæng kÕt 15 n¨m cho vay kinh tÕ hé, Hµ Néi. PGS.TS §ç TÊt Ngäc (2006), TÝn dông Ng©n hµng §èi kinh tÕ hé ë ViÖt Nam, Nxb Lao ®éng, Hµ Néi. Quèc héi N­íc Céng hoµ x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam (1997), LuËt c¸c tæ chøc tÝn dông, Hµ Néi. TS Hµ ThÞ S¸u (2004), “HiÖu qu¶ vµ nh©n tè ¶nh h­ëng ®Õn hiÖu qu¶ tÝn dông ®Çu t­ theo dù ¸n cña Ng©n hµng th­¬ng m¹i”, T¹p chÝ Ng©n hµng, tr. 29, 30,40. PGS.TS Lª V¨n TÒ, PTS. Ng« H­íng, PTS. §ç Linh HiÖp, PTS. Hå DiÖu, Lª ThÈm D­¬ng (1994), NghiÖp vô Ng©n hµng th­¬ng m¹i, Nxb Thµnh phè Hå ChÝ Minh. PGS.TS Lª V¨n TÒ, TS Hå DiÖu (2004), Ng©n hµng th­¬ng m¹i, Nxb Thèng kª, Hµ Néi. Lª §øc Thä (2005), Ho¹t ®éng tÝn dông cña hÖ thèng Ng©n hµng Th­¬ng m¹i nhµ n­íc ë N­íc ta hiÖn nay, LuËn ¸n tiÕn sÜ Kinh tÕ, Häc viÖn ChÝnh trÞ quèc gia Hå ChÝ Minh, Hµ Néi. GS.TS Lª V¨n T­ (2004), Ng©n hµng Th­¬ng m¹i, Nxb Tµi chÝnh, Hµ Néi. Uû ban nh©n d©n tØnh Qu¶ng Nam (3 – 2006), §Þnh h­íng chiÕn l­îc ph¸t triÓn bÒn v÷ng tØnh Qu¶ng Nam giai ®o¹n 2006 – 2020, Tam Kú. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2709.DOC
Tài liệu liên quan