Tình hình đầu tư phát triển Thẻ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank), Chi nhánh Nam Hà Nội. Giai đoạn 2003 - 2007

LỜI MỞ ĐẦU Trong cơ chế thị trường lợi nhuận là mục tiêu cơ bản và quan trọng nhất của các tổ chức tài chính, tín dụng, trong đó có các Ngân hàng thương mại (NHTM). Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả đáp ứng đủ cung và cầu vốn cho nền kinh tế đảm bảo yêu cầu lưu thông tiền tệ là nhân tố đặc biệt quan trọng đối với các mục tiêu kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững. Hệ thống NHTM Việt nam đang ngày phải tự hoàn thiện, từng bước hoà nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Trong bối cảnh đó việc

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư phát triển Thẻ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank), Chi nhánh Nam Hà Nội. Giai đoạn 2003 - 2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp nâng cao thu nhập và lợi nhuận của các NHTM đang là trung tâm chú ý của các nhà khoa học và quản lý kinh tế. Hoạt động đầu tư vẫn được coi là hoạt động cốt lõi, là động lực của sự phát triển nói chung, của sự phát triển kinh tế đối với mọi quốc gia trên thế giới và là sự phát triển của các tổ chức tín dụng (trong đó có các NHTM) nói riêng. Với mục tiêu hàng đầu là phát triển và rút ngắn khoảng cách với các quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới, có thể nói chưa bao giờ nhu cầu đầu tư lại lớn và khẩn trương như hiện nay, nhất là khi các mục tiêu trên lại được hướng tới trong một bối cảnh là xuất phát điểm của ta còn thấp. Bản thân vốn đầu tư luôn là một nguồn lực có hạn. Chính vì thế mà đầu tư vào đâu, đầu tư như thế nào lại thực sự là một vấn đề không hề đơn giản. Không chỉ có việc, hoạt động đầu tư ngày nay đang dần từng bước hướng người dân tới những dịch vụ tiện ích hơn. Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam chỉ quen với hình thức “gửi tiền tiết kiệm”. Trong vài năm trở lại đây mới biết đến sản phẩm Thẻ ATM. Ngành ngân hàng phát triển ngày càng phong phú và đa dạng các loại hình liên quan đến quá trình rút và gửi tiền hướng người tiêu dùng tới việc sử dụng Thẻ cho quá trình thanh toán thay vì sử dụng tiền mặt như hiện nay. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể thực hiện tốt công tác đầu tư có hiệu quả cho các sản phẩm cũng như phát triển dịch vụ Thẻ. Để có thể thực hiện tốt công tác này đòi hỏi các ngân hàng phải có một nghiệp vụ phát triển vững chắc và mạng lưới máy móc, trang thiết bị đi kèm được cung cấp và sử dụng một cách đồng bộ và chính xác, đóng góp quan trọng trong hoạt động kinh doanh cũng như sự an toàn của các NHTM. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nam Hà Nội là Chi nhánh Loại I của NHNoVN có trụ sở tại Phường Phương Liệt Quận Thanh Xuân Hà Nội, được thành lập từ tháng 5/2001. Sau gần 6 năm đi vào hoạt động NHNo Nam Hà Nội đã nhanh chóng vươn lên Top 10 chi nhánh mạnh nhất NHNoVN về nguồn vốn, dư nợ. Tuy nhiên, hệ thống các chỉ tiêu phát triển, tăng trưởng còn thiếu tính ổn định và bền vững. Trong bối cảnh cạnh tranh của cơ chế thị trường, để có thể tồn tại và phát triển NHNo Nam Hà Nội ngày càng phải quan tâm hơn nữa tới các hoạt động đầu tư phát triển, các gói dịch vụ tiện ích có khả năng thanh khoản cao và thời gian, chi phí bỏ ra thấp nhất. Đó cũng là xu hướng hiện nay của các NHTM Việt Nam và đây cũng chính là cơ sở xuất phát để lựa chọn đề tài "Tình hình đầu tư phát triển Thẻ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chi nhánh Nam Hà Nội. Giai đoạn 2003 - 2007”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày trong 62 trang với 11 Bảng biểu và được kết cấu bởi 2 chương: Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển Thẻ tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Chi nhánh Nam Hà Nội. Chương 2: Định hướng và giải pháp nâng cao hoạt động đầu tư phát triển Thẻ tại Chi nhánh Nam Hà Nội, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THẺ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN CHI NHÁNH NAM HÀ NỘI 1.1. Tổng quan về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo Chi nhánh Nam Hà Nội Trong những năm đầu của thế kỷ 21, nền kinh tế Việt Nam luôn phát triển ổn định, bền vững tạo tiền đề cho việc mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới. Không nằm ngoài xu hướng đó, các NHTM cạnh tranh gay gắt để chiếm lĩnh thị trường và khách hàng đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh để khẳng định và tạo lập vị trí của mình. Đối với NHNo VN tổng nguồn vốn huy động tại các thành phố lớn luôn chiếm trên 30% tổng nguồn vốn huy động của toàn hệ thống, nhằm cung ứng vốn cho khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và tập trung cho vay các dự án lớn của chính phủ. Trước bối cảnh về điều kiện kinh tế chính trị - xã hội trên địa bàn cũng như các điều kiện về phát triển chung của toàn ngành nên ngày 12/03/2001 NHNo Nam Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 48/NHNo/QĐHĐQT. Đây là một Chi nhánh trực thuộc NHNo Việt Nam, có trụ sở tại toà nhà C3 Phương Liệt, Quận thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. Ngày 05/08/2001 Chi nhánh chính thức khai trương đi vào hoạt động. Với mạng lưới ngoài trụ sở chính gồm 3 chi nhánh cấp 2 là: chi nhánh Giảng Võ, chi nhánh Tây Đô, chi nhánh Nam Đô và các phòng giao dịch được bố trí rải rác trên các địa bàn dân cư như: phòng giao dịch số 1- chi nhánh Giảng Võ tại số 84 Quán Thánh – Ba Đình, phòng giao dịch số 1 – chi nhánh Tây Đô tại trường PTTH Đoàn Thị Điểm, phòng giao dịch số 2 – chi nhánh Nam Đô tại 113 Chùa Bộc, phòng giao dịch số 4 tại số 4 Triệu Quốc Đạt – Hoàn Kiếm, phòng giao dịch số 5 – Nam Hà Nội tại số 270 – Nguyễn Trãi – Thanh Xuân, phòng giao dịch số 6 tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Phòng giao dịch số 9 – Nam Hà Nội tại trường Đại học Quản trị Kinh doanh. Việc khai trương hoạt động Chi nhánh không chỉ góp phần phát triển kinh tế của địa bàn Hà Nội mà còn khai thác khả năng nguồn vốn nội lực tại các đô thị lớn phục vụ nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Ngay từ khi mới ra đời Ban lãnh đạo Chi nhánh đã đề ra các nhiệm vụ chính đó là: Nhanh chóng ổn định hoạt động của Chi nhánh, về con người cũng như trang bị cơ sở vật chất. Triển khai các hoạt động kinh doanh với phương châm hành động là "Vì sự thành đạt của khách hàng và ngân hàng"; Tăng cường công tác Marketing thu hút khách hàng; Xây dựng các nội quy, quy chế điều hành, cơ chế khoán. . . 1.1.2. Tổng quan về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Nam Hà Nội. Giai đoạn 2005 – 2007 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn: Cơn bão tài chính mới bắt đầu vào cuối năm 2008 và theo dự đoán 2009 sẽ là đáy của cuộc suy thoái kinh tế. Cơn bão này đã trực tiếp tác động vào các doanh nghiệp, nhà máy, đặc biệt là các tổ chức tín dụng (NHTM). Đầu năm 2009, Chính phủ các nước liên tục mở các gói hỗ trợ nhằm kích thích thị trường trong và ngoài nước. Các gói hỗ trợ kinh tế tập trung vào kích cầu các hoạt động đầu tư phát triển của các doanh nghiệp, các công ty TNHH. Ở Việt Nam gói kích thích kinh tế đang được áp dụng với một số hình thức như: hỗ trợ 4% lãi suất vay ngắn hạn trong thời gian 12 tháng, tăng lãi suất huy động từ 7,5%/năm lên 7,69%/năm (hiện nay) nhằm tăng lượng vốn lưu động của các NHTM và đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, mở rộng kinh doanh. Tính đến quý I năm 2009, dư nợ tín dụng tăng tuy chưa đạt được như mong muốn nhưng đã phần nào cải thiện so với cuối năm 2008. Trước khi cuộc suy thoái kinh tế xảy ra, năm 2005 và năm 2006 hoạt động huy động vốn luôn ổn định và tăng đều trong các năm. Tuy nhiên, tính đến năm 2007, số vốn huy động được so với năm 2006 có xu hướng giảm ở một số chỉ tiêu thể hiện ở bảng sau: BẢNG 1.1: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005 – 2007) Với số liệu tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm tại Chi nhánh cho thấy năm 2005 tổng nguồn vốn huy động là 4.429 tỷ đồng trong đó nguồn huy động bằng nội tệ là 3.592 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 81%; Nguồn huy động bằng ngoại tệ chiếm 19%, nguồn ngoại tệ mà Chi nhánh huy động được chủ yếu là tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn của dân cư và các dự án. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì tỷ trọng tiền gửi dân cư và tổ chức kinh tế chiếm một tỷ lệ tương đối cao đạt 3.025 tỷ và đạt 68% trong tổng nguồn vốn cả về nguồn nội tệ và nguồn ngoại tệ, đây là nguồn vốn ổn định qua các năm kể từ khi chi nhánh đi vào hoạt động và đã tạo được niềm tin với khách hàng. Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ huy động cho thấy tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tại Chi nhánh chiếm tỷ trọng cao nhất 37% trong tổng nguồn vốn. Trong năm 2006 tổng nguồn vốn huy động tại Chi nhánh là 7.953 tỷ đồng tăng 3.524 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2005, trong đó nguồn huy động bằng nội tệ 7.373 tỷ đồng chiếm 92% trong tổng nguồn vốn tăng 3.781 tỷ đồng so với năm 2005, nguồn huy động nội tệ tăng do tăng mạnh về tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện cạnh tranh về nguồn vốn trên thị trường giữa các NHTM thì việc thu hút được nguồn vốn là rất quan trọng, việc đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn với lãi suất cao nhằm tăng tổng nguồn vốn huy động cũng là một chiến lược được ban lãnh đạo Chi nhánh đề ra và thực hiện nhưng nguồn vốn huy động đó phải có lãi suất thấp hơn mức lãi suất điều vốn của NHNo VN. Bên cạnh nguồn huy động bằng nội tệ thì nguồn huy động bằng ngoại tệ tại Chi nhánh giảm về số lượng tuyệt đối là 257 tỷ đồng so với năm 2005. Nguyên nhân giảm là do nguồn vốn uỷ thác bằng ngoại tệ đến hạn thanh toán. Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước năm 2007 có nhiều biến động, tỷ lệ lạm phát cao, thị trường chứng khoán bất ổn định, giá vàng trên thị trường liên tục tăng… dẫn đến một lượng không nhỏ tiền gửi ngân hàng được các nhà đầu tư chuyển sang các hình thức đầu tư khác dẫn đến ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn vốn huy động của các NHTM nói chung và NHNo Nam Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên chi nhánh vẫn giữ được mức huy động tiền gửi ổn định cụ thể năm 2007 tổng nguồn vốn mà Chi nhánh huy động được là 8.320 tỷ đồng tăng 367 tỷ đồng, tăng 105% so với năm 2006 và 88% so với năm 2005, trong đó chủ yếu là tăng nguồn vốn nội tệ. Nguồn vốn bằng ngoại tệ giảm 265 tỷ, tương đương 32% so với năm 2005 do có sự thay đổi trong cơ cấu nguồn vốn, nguồn vốn uỷ thác đầu tư giảm 850 tỷ đồng do đến hạn. Nếu phân theo kỳ hạn thì năm 2005 nguồn tiền gửi có kì hạn trên 12 tháng chỉ chiếm tỷ lệ 37%, năm 2006 là 66% thì đến năm 2007 chi nhánh vẫn đảm bảo đạt được tỷ lệ 66%, đây cũng là một tỷ lệ cho thấy có sự ổn định và đảm bảo khả năng thanh khoản cũng như cho vay dài hạn. Tổng nguồn vốn tại Chi nhánh đã từng bước được cải thiện và tăng với tốc độ cao, đảm bảo được nguồn vốn cho vay, khả năng thanh toán, góp phần huy động được nguồn vốn cho Trụ Sở Chính tạo thêm được thu nhập. Bên cạnh đó đã gây dựng được uy tín và niềm tin đối với khách hàng khi đem tiền đến gửi tại Chi nhánh nâng cao và khẳng định được vị thế của Chi nhánh trong hệ thống cũng như trên địa bàn. 1.1.2.2. Hoạt động cho vay Trong bối cảnh hiện nay có nhiều biến động, luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do vậy, để phát triển ổn định và vững chắc, ban lãnh đạo Chi nhánh luôn quan tâm và đề cao các hoạt động cho vay và các biện pháp chỉ đạo điều hành trong công tác tín dụng như: Tổ chức giao kế hoạch từng quý để các đơn vị chủ động tìm khách hàng; Dùng cơ chế thi đua, khoán lương để khuyến khích tăng trưởng tín dụng; Luôn coi trọng chất lượng tín dụng, nâng cao chất lượng công tác thẩm định, kiểm tra thanh tra, đi sâu đi sát đơn vị, quản lý chặt dư nợ, kiên quyết thu hồi nợ có vấn đề. Từ đó tổng dư nợ tại Chi nhánh qua các năm đã từng bước tăng ổn định và chất lượng tín dụng tại Chi nhánh luôn được quan tâm. Tổng dư nợ tại Chi nhánh được thể hiện như sau: BẢNG 1.2: HOẠT ĐỘNG CHO VAY (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2005 – 2007) Nhìn vào bảng tổng hợp số liệu dư nợ tại Chi nhánh ta thấy. Nếu phân theo thời gian thì năm 2005 tổng dư nợ là 1.119 tỷ đồng trong đó dư nợ ngắn hạn là 806 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 72% còn dư nợ trung và dài hạn 313 tỷ đồng chiếm 28% trong tổng dư nợ. Đến năm 2006 tổng dư nợ là 1.601 tỷ đồng trong đó dư nợ ngắn hạn là 952 tỷ đồng tăng 146 tỷ đồng so với năm 2005 và chiếm 59% tổng dư nợ, dư nợ trung và dài hạn 649 tỷ đồng tăng 437 tỷ đồng tương đương 306% so với năm 2005 và chiếm tỷ trọng 40% trong tổng dư nợ. Nguyên nhân dư nợ trung và dài hạn tăng là do trong năm 2006 chi nhánh thực hiện tài trợ và tiếp tục giải ngân cho các dự án lớn như Thủy điện Bắc Bình; Thủy điện Cửa Đạt; Nhiệt điện Hải Phòng, Xi măng Cẩm Phả…. Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động của chi nhánh trong năm 2006 tăng mạnh so với năm 2005 nên chi nhánh có điều kiện mở rộng cho vay tín dụng. Đến năm 2007 thì tổng dư nợ của Chi nhánh là 1.945 tỷ đồng tăng 344 tỷ đồng so với năm 2006 tương đương với tốc độ tăng là 121% so với năm 2006, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 863 tỷ đồng chiếm 44% tổng dư nợ, dư nợ trung và dài hạn tăng mạnh đạt 1.082 tỷ đồng chiếm56% trong tổng dư nợ và tăng 433 tỷ đồng tương đương 167% so với năm 2006. Nếu phân theo thành phần kinh tế thì tỷ trọng cho vay theo thành phần kinh tế không có sự thay đổi đáng kể trong tổng dư nợ. Cơ cấu dư nợ tại Chi nhánh phân bổ không đều và dư nợ hầu hết tập trung tại các doanh nghiệp Nhà Nước. Sự thiếu cân đối giữa các thành phần kinh tế trong tổng dư nợ tại Chi nhánh cũng dễ hiểu bởi các lý do hạn chế nêu trên, mặt khác cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà Nước bao giờ cũng có độ an toàn cao hơn so với các doanh nghiệp ngoài Quốc doanh cũng bởi do chính cơ chế hiện tại quy định. Đối với bất cứ một Chi nhánh nào thì nợ quá hạn cũng là một vấn đề làm đau đầu các nhà quản trị ngân hàng. Tại NHNo Nam Hà Nội trong những năm qua nợ quá hạn tuy có phát sinh nhưng tỷ lệ nợ quá hạn thấp và luôn ở dưới mức cho phép. Năm 2005 nợ quá hạn 5 tỷ chiếm 0,5% tổng dư nợ, năm 2006 nợ quá hạn 28 Tỷ chiếm 1,79% tổng dư nợ . Năm 2005 phát sinh nợ quá hạn thấp bởi do Chi nhánh mới thành lập dư nợ ít và hầu như tại thời điểm cuối năm thì đều là các khoản nợ chưa đến hạn và trên thực tế thì các Chi nhánh có thời gian hoạt động càng dài thì dư nợ quá hạn càng tăng. Đến năm 2007 nợ quá hạn của Chi nhánh là 25 tỷ giảm 3 tỷ so với năm 2006 và chỉ chiếm có 1,3% tổng dư nợ, cho thấy nợ quá hạn của chi nhánh có xu hướng giảm điều đó cũng cho thấy chất lượng tín dụng đã được quan tâm hơn để tránh phát sinh các khoản nợ quá hạn và đặc biệt là các khoản nợ khó đòi. Trong những năm qua hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động dư nợ của Chi nhánh đã không ngừng tăng trưởng mạnh mẽ. Kể từ khi mới thành lập với tổng nguồn vốn và mức dư nợ còn hạn chế thì đến cuối năm 2007 Chi nhánh đã tự chủ tạo lập được nguồn vốn và tăng dư nợ. Sự phát triển rộng rãi của màng lưới các Chi nhánh và các phòng giao dịch cấp dưới đã góp phần không nhỏ vào việc tăng quy mô nguồn vốn và tăng tổng dư nợ của toàn Chi nhánh. 1.1.2.3. Hoạt động phát hành Thẻ Ở các nước phát triển, dịch vụ Thẻ và thanh toán qua Thẻ tín dụng không còn mới mẻ. Tuy nhiên, đối với Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác thì hình thức thanh toán qua Thẻ không sử dụng phổ biến. Trong bối cảnh đó, các Ngân hàng đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới cũng như các loại thẻ mới với nhiều tiện ích hơn. NHNo VN Nam Hà Nội không nằm ngoài xu thế đó. 1.1.2.3.1. Khái niệm, đặc điểm và tiện ích từng loại Thẻ: Hiện nay, NHNo Nam Hà Nội đã đưa vào sử dụng 3 loại hình thẻ: Thẻ ghi nợ nội địa (success – ATM), thẻ ghi nợ Quốc tế (Visa Debit) và thẻ tín dụng nội địa. Thẻ tín dụng Quốc tế và thẻ ghi nợ Quốc tế (MasterCard) đang trong quá trình thử nghiệm. Thẻ susses (ATM): là thẻ rút tiền do Agribank phát hành trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, được sử dụng để rút tiền mặt hoặc thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác tại máy ATM, thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ của Agribank. Các tiện ích, dịch vụ gia tăng khi sử dụng thẻ ghi nợ nội địa (Success) Rút tiền VNĐ từ tài khoản tiền gửi không kỳ hạn bằng VNĐ hoặc ngoại tệ tại bất cứ máy ATM nào của Agribank và ngân hàng thành viên Banknetvn mọi lúc, mọi nơi. Chuyển khoản. Thanh toán hóa đơn cho các đơn vị cung ứng dịch vụ (điện, nước, Internet, điện thoại…) tại máy ATM. Thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ (POS) của Agribank và ngân hàng thành viên Banknetvn. Thông tin số dư tài khoản và in sao kê giao dịch (05 giao dịch gần nhất). Thay đổi mã số xác định chủ thẻ (PIN). Được chi nhánh Agribank cấp hạn mức thấu chi cho phép rút tiền mặt hay thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ khi trong tìa khoản khách hàng không có số. Số dư trên tài khoản được hưởng lãi suất không kỳ hạn. Bảo mật thông tin khách hàng. Nhận tiền lương, nhận tiền chuyển đến từ trong và ngoài nước. Nhận lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội. Thẻ ghi nợ Quốc tế Visa/MasterCard: Là thẻ do NHNo hoặc Tổ chức thẻ quốc tế khác phát hành trong điều kiện cho phép của chủ thẻ sử dụng trong phạm vi số dư tài khoản tiền gửi thanh toán và hạn mức thấu chi để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ; rút, ứng tiền mặt và các dịch vụ khác tại ATM, đơn vị chấp nhận thẻ hoặc điểm ứng tiền mặt trên phạm vi toàn cầu. Thẻ tín dụng nội địa: Là phương tiện thanh toán hiện đại, an toàn, tiện lợi  cho phép chủ thẻ thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ hoặc rút tiền mặt  tại các máy ATM của AGRIBANK trên toàn quốc. Có 3 hạng thẻ: Thẻ Vàng – hạn mức tối đa 100.000.000 VNĐ, Thẻ Bạc – hạn mức tối đa 50.000.000 VNĐ, Thẻ Chuẩn – hạn mức tối đa 10.000.000 VNĐ. Thẻ tín dụng mang tính năng “chi tiêu trước, trả tiền sau”: với các giao dịch thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ không bị tính lãi từ 16 - 45 ngày nếu thanh toán đúng hạn. Chủ thẻ được quyền lựa chọn một trong bốn ngày thanh toán để thanh toán số tiền thanh toán tối thiểu (20%). Dư nợ còn lại sẽ áp dụng mức lãi suất hiện hành của AGRIBANK. Các tiện ích, dịch vụ gia tăng khi sử dụng thẻ tín dụng nội địa Thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các điểm chấp nhận thẻ AGRIBANK trên toàn quốc. Rút tiền mặt tại các điểm đặt máy ATM của AGRIBANK Được sử dụng tiền ứng trước theo hạn mức tín dụng nhất định. Chi tiêu trước - trả sau, các giao dịch thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ không bị tính lãi từ 16 - 45 ngày nếu thanh toán đúng hạn. Dịch vụ khách hàng và kỹ thuật hỗ trợ hoạt động thanh toán thẻ 24/24. Mức độ an toàn cao với tên, hình và chữ ký của chủ thẻ được dập nổi và in trực tiếp trên thẻ. 1.1.2.3.2.. Điều kiện cấp thẻ. Điều kiện cấp thẻ ghi nợ nội địa (Success) Có đầy đủ năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Ngoài các điều kiện trên: Đối với tổ chức, công ty: Phải là người đại diện hợp pháp của tổ chức, công ty đó (thủ trưởng đơn vị hoặc người được uỷ quyền) Đối với cá nhân người nước ngoài: Phải có thời gian cư trú và làm việc còn lại ở Việt Nam tối thiểu bằng thời gian hiệu lực của thẻ công (+) 45 ngày Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời gian cam kết Đối với tổ chức, công ty: Có tình hình tài chính lành mạnh, không có nợ quá hạn với NHNo Đối với cá nhân: Có thu nhập ổn định Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và hướng dẫn của NHNo. Điều kiện cấp thẻ ghi nợ quốc tế (Visa/MasterCard) Chủ thẻ chính là người Việt Nam Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và chịu trách nhiệm dân sự theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành. Có tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại NHNo. Ký hợp đồng sử dụng thẻ với NHNo. Chủ thẻ chính là người nước ngoài Có hành vi dân sự đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật Có tài khoản tiền gửi thanh toán mở tại NHNo Ký hợp đồng sử dụng thẻ với NHNo Chủ thẻ phụ là người Việt Nam Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định hiện hành của pháp luật; hoặc có năng lực hành vi dân sự và đủ mười lăm (15) tuổi đến chưa đủ mười tám (18) tuổi, được người đại diện theo pháp luật của người đó chấp thuận về việc sử dụng thẻ. Được chủ thẻ chính cam kết thực hiện toàn bộ nghĩa vụ phát sinh liên quan đến việc sử dụng thẻ. Chủ thẻ phụ là người nước ngoài. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật hoặc được thân nhân (bố/mẹ, vợ/chồng) chấp thuận về việc sử dụng thẻ. Được chủ thẻ chính cam kết thực hiện toàn bộ các nghĩa vụ phát sinh liên quan đến việc sử dụng thẻ. Điều kiện cấp thẻ tín dụng nội địa Công dân Việt Nam (từ 18 tuổi trở lên) cư trú tại Việt Nam có thu nhập ổn định. Công dân nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thu nhập ổn định tại Việt Nam: thời gian cư trú và làm việc còn lại ở Việt Nam tối thiểu bằng thời hạn hiệu lực của thẻ cộng với 45 ngày Đối với các tổ chức, công ty: phải là người đại diện hợp pháp của tổ chức, công ty và tổ chức, công ty có tình hình tài chính lành mạnh, không có nợ quá đối với AGRIBANK. Điều kiện đảm bảo sử dụng thẻ: thế chấp hoặc không thế chấp (tín chấp). 1.1.2.3.3. Quy trình phát hành Thẻ Quy trình phát hành Thẻ ghi nợ nội địa Giấy đề nghị phát hành thẻ (Mẫu 01/TGN). Trong trường hợp khách hàng có nhu cầu thấu chi, khách hàng phải được cơ quan quản lý lao động có thẩm quyền xác nhận mức lương, trợ cấp xã hội hàng tháng; Nếu đầy đủ thủ tục trên và được NHNo chấp thuận, khách hàng phải ký hợp đồng sử dụng thẻ ghi nợ nội địa (Mẫu 03/TGN). Bản sao CMND hoặc hộ chiếu. Phí phát hành thẻ: 50,000 VND (với phát hành thường) và 100,000 VND (phát hành nhanh). Quy trình phát hành Thẻ Tín dụng nội địa Tiếp nhận hồ sơ phát hành thẻ của khách hàng Cá nhân: Đơn đề nghị phát hành thẻ cá nhân Chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu (bản sao) và chứng nhận cư trú của chủ thẻ Xác nhận lương của cơ quan quản lý lao động (trường hợp tín chấp) Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng Hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định Công ty: Đơn đề nghị phát hành thẻ công ty uỷ quyền cho cá nhân sử dụng Báo cáo tài chính của tổ chức, công ty (kỳ gần nhất) Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng Hồ sơ bảo đảm tiền vay theo quy định Thẩm định phê duyệt hồ sơ phát hành thẻ Cán bộ làm nghiệp vụ thẻ in mã PIN, đóng bì niêm phong và giao cho khách hàng. Yêu cầu khách hàng ký chữ ký mẫu vào mặt sau của thẻ và ghi rõ ngày giờ, ký xác nhận trên “Giấy hẹn” đồng thời vào chương trình thực hiện đăng ký hiệu lực thẻ của khách hàng. 1.1.2.4. Hoạt động khác Bên cạnh hoạt động huy động vốn và cho vay thì các hoạt động khác của Chi nhánh như mua bán, thanh toán ngoại tệ, thực hiện các dịch vụ ngân hàng … cũng tăng trưởng mạnh cả về tổng số món thực hiện cũng như tổng số tiền thanh toán qua ngân hàng. 1.1.2.4.1. Hoạt động thanh toán Quốc tế Là một Chi nhánh mới đi vào hoạt động nhưng hoạt động Thanh toán quốc tế của Nam Hà Nội đã thể hiện được những ưu thế vượt bậc so với các Chi nhánh khác trên cùng địa bàn. Thanh toán hàng nhập năm 2006 đạt 103 triệu USD tăng 36 triệu USD tương đương 149% so với năm 2005 đến năm 2007 đạt 148 triệu USD tăng 45 triệu USD tương đương 143% so với năm 2006. Thanh toán hàng xuất nếu như năm 2005 đạt 51 triệu USD đến năm 2006 đạt 59 triệu USD tăng 9 triệu USD tương đương 118% so với năm 2005 thì năm 2007 thanh toán hàng xuất đạt 93 triệu USD tăng 34 triệu USD tương đương 157% so với năm 2006. 1.1.2.4.2. Hoạt động thanh toán trong nước Trong những năm qua hoạt động thanh toán bằng nội tệ tại Chi nhánh đã phát triển mạnh mẽ, việc cung cấp các dịch vụ thanh toán là một nghiệp vụ quan trọng tạo góp phần tăng nguồn tiền gửi không kỳ hạn và tạo ra thu nhập cho Chi nhánh. Năm 2006 tổng số tiền thông qua hoạt động thanh toán trong nước đạt 267 tỷ đồng tăng 125 tỷ đồng tương đương 187% so với năm 2005 và đạt 195.000 món đến năm 2007 tổng số tiền thanh toán là 309 tỷ đồng tăng 42 tỷ đồng tương đương 116% so với năm 2006 và đạt 320.000 món. Để tạo điều kiện thu hút thêm khách hàng chi nhánh đã áp dụng một số các hình thức khuyến mại trong thanh toán cho những khách hàng có uy tín như không thu phí chuyển tiền hoặc thu phí chuyển tiền với mức thu thấp hơn tiêu biểu như một số các tổ chức kinh tế: Kho bạc Thanh Xuân, . . . và thực hiện không thu phí kiểm đếm tiền mặt đối với những khách hàng chuyển tiền bằng tiền mặt. 1.2. Thực trạng đầu tư phát triển Thẻ tại Chi nhánh Nam Hà Nội giai đoạn 2003 -2007: 1.2.1. Tình hình thực hiện tổng mức vốn đầu tư: Chi nhánh Nam Hà Nội hiện nay là chi nhánh cấp 1 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Tính đến nay, Chi nhánh đã thành lập được gần 9 năm, giai đoạn 2005 – 2007 Chi nhánh phát triển bền vững, ngày càng thu hút được lượng vốn lớn đầu tư và ngày càng tăng nhanh về quy mô và số lượng. Tuy nhiên, đến năm 2008, tổng mức vốn đầu tư của Chi nhánh giảm đáng kể. Tình hình tổng mức vốn đầutư của Chi nhánh qua các năm được thể hiện qua bảng sau: BẢNG 1.3: TỔNG MỨC VỐN ĐẦU TƯ QUA CÁC NĂM Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tỷ VNĐ Tỷ VNĐ 2006/2005 Tỷ VNĐ 2007/2006 Tỷ VNĐ 2008/2007 Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tổng vốn đầu tư 30.991 33.739 2.748 8,9% 36.425 2.686 8,0% 28.291 (8134) (22%) (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh 2005 – 2008) Năm 2005, Chi nhánh đã có tổng mức vốn đầu tư là 30.991 tỷ đồng. Lượng vốn này tiếp tục tăng lên qua các năm. Đến năm 2006 tổng mức vốn đầu tư đã là 33.739 tỷ đồng, tăng 2.748 tỷ đồng, tương đương 8,9 %. Đến năm 2007, tổng mức vốn đầu tư tăng lên nhanh chóng. Đây được coi là một năm nhảy vọt của Chi nhánh. Tổng mức vốn đầu tư lên đến 36.425 tỷ đồng, tăng 2.686 tỷ đồng so với năm 2006, tương ứng 8,0% so với năm 2006 và tăng 17,53% so với năm 2005. Nhưng đến cuối năm 2008, lượng vốn đầu tư này giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, làm cho tổng mức vốn đầu tư giảm chỉ còn 28.291 tỷ đồng, giảm 8134 tỷ đồng so với năm 2007, tương ứng giảm 22%. Đây là một dấu hiệu không tốt đối với hoạt động đầu tư phát triển, tuy nhiên lại là dấu hiệu tốt chứng minh rằng Chi nhánh đã thực sự hoạt động tuân theo quy luật kinh tế thế giới. Năm 2008, tổng mức vốn đầu tư phát triển của Chi nhánh giảm đáng kể do các nguyên nhân sau: Chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào cuối năm 2008 Khi các dự án đầu tư phát triển đã kết thúc và chưa có dự án thay thế mới bổ sung. Năm 2008, là năm biến động của lãi suất, có thời điểm lãi suất cho vay lên đến 20%, chính vì vậy Chi nhánh không thể thực hiện các dự án vay vốn từ các ngân hàng khác. Điều này cũng tác động đến tổng mức vốn đầu tư. Nguồn vốn vay từ ngân hàng Nhà nước dành cho hoạt động đầu tư giảm. Nguồn vốn vay từ Ngân hàng Thế giới cho các hoạt động đầu tư phát triển; đặc biệt là hoạt động đầu tư phát triển Thẻ giảm. Chịu ảnh hưởng của việc chứng khoán liên tục mất điểm, trái phiếu phát hành không được nhân dân hưởng ứng đã làm giảm tổng mức vốn đầu tư. Vốn đầu tư vào chứng khoán lớn nhưng không rút ra, cũng không thể sử dụng vào các hoạt động đầu tư phát triển khác. Giai đoạn 2005-2007 là giai đoạn phát triển thần kỳ của Chi nhánh; tổng mức vốn đầu tư của Chi nhánh tăng lên nhanh chóng do các nguyên nhân sau: Được sự chỉ đạo sát sao, sự giúp đỡ tận tình của NHNo VN; cũng như việc chi nhánh luôn bám sát mục tiêu, đề ra các biện pháp chỉ đạo điều hành hiệu quả, sát thực tế. Xác định được nhiệm vụ chủ yếu và xuyên suốt của Chi nhánh là tăng trưởng nguồn vốn kinh doanh, tạo nguồn lực tài chính để tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng các hoạt động phát triển nhằm phát triển các sản phẩm dịch vụ cho Ngân hàng. Chi nhánh luôn động viên, khuyến khích toàn thể cán bộ, công nhân viên đang ở bất kỳ vị trí công tác nào, chức vụ nào cũng đều phải có ý thức tiếp cận các nguồn vốn huy động, phát huy tối đa các mối quan hệ với các cơ quan Trung ương, các đơn vị kinh tế xã hội, các tổ chức có nguồn vốn lớn, để tranh thủ nguồn vốn và mở rộng phạm vi thanh toán. Chi nhánh ngày càng sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước và nguồn vốn ODA từ WB, ADB tạo niềm tin cho các Ngân hàng này tiếp tục đầu tư vào Chi nhánh Nam Hà Nội. Bên cạnh đó, trong công tác thẩm định các dự án đầu tư phát triển, đặc biệt là các dự án đầu tư phát triển mới như phát triển Thẻ, Chi nhánh luôn chú trọng và quan tâm sát sao, giúp cho dự án thực hiện đúng tiến độ, giải ngân kịp thời và làm cơ sở cho các đơn vị, các tổ chức có niềm tin để đầu tư. Đây là giai đoạn phát triển thần kỳ và bền vững, tốc độ tăng trưởng và phát triển của chi nhánh không ngừng tăng lên, tạo niềm tin cho các ngân hàng khác tăng vốn đầu tư. Hơn nữa, hoạt động vay vốn đầu tư của Chi nhánh đối với các ngân hàng khác ngày càng hoàn thiện, và càng nhiều dự án vay vốn của Chi nhánh được chấp nhận và cấp vốn đầu tư. Trong bối cảnh tổng mức vốn đầu tư phát triển và tăng trưởng không ngừng, Chi nhánh đã nhanh chóng tiếp cận và sử dụng vốn đầu tư để đầu tư phát triển các hoạt động, các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng mới: trong đó nổi bật nhất là hoạt động đầu tư phát triển Thẻ. Năm 2003, Thẻ là một hình thức đầu tư phát triển được coi là mới nhất và có khả năng chiếm lĩnh thị trường nhanh. Trong năm đó, 4 ngân hàng lớn của cả nước: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương, NHNo VN, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Thế giới (WB) cho vay một lượng vốn đầu tư lớn, với lãi suất ưu đãi để phát triển loại hình dịch vụ mới này. Nắm bắt được thời cơ, NHNo VN Chi nhánh Nam Hà Nội đã nhanh chóng triển khai dự án này và ngày càng gia tăng lượng vốn đầu tư cho hoạt động phát triển Thẻ. Tính đến nay, lượng vốn này đã tăng lên và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng mức vốn đầu tư phát triển của toàn Chi nhánh. BIỂU 1.4: TỔNG MỨC VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THẺ GIAI ĐOẠN 2003 - 2007 Năm 2003 Năm 2005 Năm 2007 Năm 2009 (Dự kiến) Tỷ VNĐ Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ 800 1.200 50% 1.650 37,5% 3.980 141,2% (Nguồn: Báo cáo hoạt động đầu tư phát triển Thẻ 2003- 2007) Trong các năm qua, hoạt động đầu tư phát triển Thẻ của Chi nhánh ngày càng được phát triển. Đặc biệt, hoạt động này đã giúp Chi nhánh cũng như NHNo VN chiếm được thị phần lớn trên thị trường Việt Nam. Tính đến năm 2007, lượng thẻ do NHNo VN phát hành chiếm 17% tổng số thẻ toàn quốc. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư phát triển Thẻ nhanh chóng được triển khai và phát huy tác dụng. Năm 2003, Chi nhánh đã sử dụng 800 tỷ đồng để đầu tư phát triển Thẻ. Đến năm 2005, lượng vốn đầu tư tăng lên 400 tỷ đồng, tăng 50%. Đến năm 2007, số vốn đã là 1.650 tỷ đồng và năm 2009 dự kiến là 3.980 tỷ đồng. Số vốn đầu tư phát triển Thẻ không tăng liên tục trong các năm mà ngắt quãng bởi lẽ hoạt động đầu tư phát triển Thẻ dựa trên các dự án đầu tư phát triển Thẻ do WB và Ngân hàng Nhà nước tài trợ. Lượng vốn này được cấp đều đặn 2 năm 1 lần và với số vốn tuỳ thuộc vào khả năng triển khai dự án của các Ngân hàng nói chũng cũng như các Chi nhánh nói riêng. Giai đoạn 2003- 2007, thực hiện từng bước dự án đầu tư phát triển Thẻ, Chi nhánh đã nhanh chóng đưa vào sử dụng 2 máy ATM (năm 2003); thêm 4 máy vào năm 2005 và 4 máy vào năm 2007. Tiếp tục thực hiện._. dự án này, đến năm 2009, Chi nhánh dự kiến đưa thêm 6 máy ATM vào hoạt động và thêm 30 điểm đặt máy EDC/POS. Có thể nói rằng, hoạt động đầu tư phát triển Thẻ là hoạt động đầu tư mới nhưng đã nhanh chóng được áp dụng và ngày càng phát triển. Năm 2007, năm đánh dấu bước phát triển vượt trội của dịch vụ thẻ, như: NHNo VN là NHTM duy nhất triển khai nghiệp vụ thẻ, tại tất cả các tỉnh, thành phố trong toàn quốc; Triển khai thành công hệ thống Switching mới và phần mềm hệ thống quản lý thẻ hiện đại; Triển khai dịch vụ chấp nhận thanh toán thẻ qua POS/EDC tại quầy giao dịch. Đặc biệt, NHNo VN triển khai thành công kết nối thanh toán thẻ với Tổ chức thẻ quốc tế Visa, MasterCard và Công ty Cổ phần Tài chính Quốc gia Việt Nam (Banknetvn). Theo đó, hệ thống ATM của NHNo chấp nhận thanh toán thẻ quốc tế mang thương hiệu Visa, MasterCard và thẻ của các thành viên Banknetvn, đồng thời thẻ ghi nợ nội địa (Success) được chấp nhận thanh toán tại ATM của các ngân hàng thành viên Banknetvn. Tham gia kết nối Banknetvn đã tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng thẻ của NHNo có nhiều cơ hội để mở rộng mạng lưới sử dụng thẻ tại hệ thống ATM của các ngân hàng thành viên (Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam – BIDV; Ngân hàng Công thương Việt Nam – Vietinbank; Ngân hàng Sài Gòn Thương tín – Sacombank, .v.v...). Trong bối cảnh đó, NHNo Nam Hà Nội cũng từng bước đưa các sản phẩm thẻ vào sử dụng. Hiện nay, NHNo Nam Hà Nội đã cho phép phát hành 3 loại thẻ: Thẻ ghi nợ nội địa (Success), Thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ quốc tế (visa debit) và đang trong quá trình ứng dụng thẻ ghi nợ quốc tế (MasterCard). Sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa (Success) tiếp tục khẳng định tính đa năng, thuận tiện cho khách hàng với việc chi trả lương hưu, trợ cấp Bảo hiểm Xã hội và đối tượng hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước. Đây là chủ trương của Nhà nước nói chung và của NHNo VN nói riêng nhằm hướng đến mục tiêu thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư. Tính đến nay NHNo Nam Hà Nội đã phát hành được trên 35.000 thẻ (chiếm 3% tổng số thẻ phát hành của NHNo VN). Trong đó thẻ Visa Debit đạt 400 thẻ (chiếm 1,14%); thẻ tín dụng nội địa: 40 thẻ (chiếm 0,14%); thẻ ATM đạt 34560 thẻ (chiếm 98,74%). Đặc biệt, trong năm 2008, NHNo Nam Hà Nội đã phát hành thêm 10.000 thẻ với số vốn lưu động lên tới 90 tỷ đồng. Đây cũng là nguồn vốn đầu tư ngắn hạn quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng như hiện nay. Bằng việc thực hiện các dự án đầu tư phát triển, tổng mức vốn đầu tư phát triển của Chi nhánh nhanh chóng được gia tăng và phản ánh được tốc độ tăng trưởng của Chi nhánh. Không những thế, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển Thẻ ngày càng gia tăng trong tổng mức vốn đầu tư của toàn chi nhánh và trở thành một nguồn vốn đầu tư phát triển cơ bản và quan trọng của Chi nhánh. BIỂU 1.5: TỶ TRỌNG VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THẺ SO VỚI TỔNG MỨC VỐN ĐẦU TƯ TOÀN CHI NHÁNH Nhìn vào biểu đồ tỷ trọng vốn đầu tư phát triển Thẻ so với Tổng mức vốn đầu tư toàn Chi nhánh ta có thể thấy rằng mặc dù tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ qua các năm đã tăng lên nhanh chóng (Năm 2005: 1.200 tỷ đồng; 2007 là 1.650 tỷ đồng) nhưng vẫn chiếm tỷ trọng không thay đổi: 3,87%. Bởi lẽ, các chi nhánh thực hiện các dự án đầu tư phát triển Thẻ dựa trên nguồn vốn được cấp từ NHNo VN và tỷ lệ này là 3,87%/1chi nhánh cấp 1 (trong ngắn hạn). Tuy nhiên, điều đó cũng khẳng định rằng các dự án đầu tư phát triển Thẻ đang phát huy được tác dụng của nó và ngày càng đóng góp vào tổng mức vốn đầu tư của Chi nhánh. Tổng mức vốn đầu tư toàn Chi nhánh và tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ là hai đại lượng tỷ lệ thuận. Khi tổng mức vốn đầu tư toàn Chi nhánh tăng lên và hoạt động đầu tư phát triển Thẻ có hiệu quả thì khi đó tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ cũng tăng lên. Ngược lại, khi tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ tăng lên cũng làm cho tổng mức vốn đầu tư tăng lên. Xét về dài hạn, khi tổng mức vốn đầu tư tăng lên và đạt được một giá trị nhất định; lúc đó chi nhánh có thể chủ động về các hoạt động đầu tư phát triển của mình, tức là có thể chủ động sử dụng và huy động lượng vốn đầu tư cho hoạt động đầu tư phát triển Thẻ thì khi đó tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ sẽ không chỉ còn là tỷ lệ 3,87% như hiện nay nữa. Khi đó, tổng mức vốn đầu tư cho hoạt động phát triển Thẻ sẽ tăng lên nhanh chóng và hứa hẹn là nguồn vốn chủ lực của Chi nhánh. 1.2.2. Vốn đầu tư phát triển Thẻ ở Ngân hàng phân theo nguồn vốn Chi nhánh NHNo VN Nam Hà Nội đã và đang trong quá trình trưởng thành và ngày càng phát triển, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư. Lượng vốn đầu tư không ngừng tăng lên. Ban đầu, chỉ là các nguồn vốn đi vay, các nguồn vốn từ các dự án đầu tư phát triển, nguồn vốn từ NHNo VN. Hiện nay, tổng nguồn vốn đầu tư của Chi nhánh ngày càng gia tăng và phát triển với tốc độ nhanh. Trong đó, nguồn vốn đi vay ngày càng giảm và ngày càng gia tăng vốn tự có. Cơ cấu nguồn vốn NHNo VN Nam Hà Nội giai đoạn 2005-2008 được thế hiện qua như sau: BẢNG 1.6: NGUỒN VỐN NHNo VN NAM HÀ NỘI 2005 – 2008 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tỷ VNĐ Tỷ VNĐ 2006/2005 Tỷ VNĐ 2007/2006 Tỷ VNĐ 2008/2007 Nguồn vốn ƯTĐT 7.865 8.154 3,7% 9.399 15,2% 10.600 12,8% Vốn vay NHNN 5.245 3.672 -30% 1.784 -21% 25 -99% Vốn vay Ngân hàng khác 1.765 2.873 62,8% 4.165 44,9% 15.526 272,7% Vốn tự có Dự phòng chung 854 1.067 25% 1.950 82,8% 2.140 9,7% Trái phiếu 15.620 17.973 17,8% 19.127 6,4% 20.989 9,7% (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư phát triển năm 2005 – 2008) Các nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Nam Hà Nội nhìn chung là gia tăng; trừ vốn vay Ngân hàng Nhà nước giảm. Đây là một tín hiệu tốt chứng minh rằng Chi nhánh đã hoạt động có lãi, có khả năng tự cung vốn và giảm tỷ lệ vay nợ cho Chi nhánh. Năm 2005, số vốn vay từ NHNN là 5.245 tỷ đồng; đến năm 2006 giảm xuống còn 3.672 tỷ đồng, giảm 30% so với năm 2005. Đặc biệt, đến năm 2008, vốn vay từ ngân hàng nhà nước giảm xuống còn 25 tỷ đồng, giảm tuyệt đối 99% so với năm 2007. Về vốn tự có, nguồn vốn này tăng lên nhanh chóng. Năm 2005, vốn tự có chỉ đạt 16.116 tỷ (năm 2005). Chỉ sau 2 năm lượng vốn này đã lên đến 21.077 tỷ đồng và lên đến 23.129 tỷ đồng vào năm 2008). Trong đó, bao gồm dự phòng chung và trái phiếu. Về tốc độ tăng trưởng thì vốn dự phòng chung tăng lên với tốc độ lớn so với trái phiếu nhưng quy mô tăng trưởng còn ít. Năm 2006, trái phiếu tăng 2.353 tỷ đồng so với năm 2005 còn vốn dự phòng chung chỉ tăng lên 212 tỷ đồng. Năm 2007, vốn dự phòng chung tăng 82,8% so với năm 2006 còn trái phiếu chỉ tăng 6,4%. Đặc biệt, Chi nhánh ngày càng chú trọng vào đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển trở thành hoạt động cốt lõi làm tăng trưởng và tạo thu nhập cho Ngân hàng. Nguồn vốn ưu tiên đầu tư cũng ngày một tăng lên: Năm 2005 là 7.865 tỷ ; năm 2006 là 8.154 tỷ đồng, đến năm 2007 là 9,399 tỷ. Nguồn vốn này được tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng cơ bản và đầu tư tài sản cố định. Sau 4 năm tham gia thị trường Thẻ, NHNo VN Nam Hà Nội đã từng bước phát triển và đầu tư nâng cấp hoạt động phát triển Thẻ của mình. Hoạt động phát triển Thẻ ngày càng trở thành hoạt động không thể thiếu đối với mỗi Ngân hàng. Tuy nhiên, việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho hoạt động đầu tư phát triển này sao cho hiệu quả và theo một cơ cấu hợp lý là không hề đơn giản. Chúng ta cùng xem xét vốn đầu tư phát triển Thẻ ở NHNo VN Nam Hà Nội phân theo nguồn vốn qua bảng sau: BẢNG 1.7: VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THẺ PHÂN THEO NGUỒN VỐN Năm 2005 Năm 2007 Năm 2009 (Dự kiến) Tỷ VNĐ Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tỷ VNĐ Tỷ trọng Nguồn vốn ƯTĐT & vốn tự có 400 600 50% 2180 263,33% Vốn vay NHNN 200 400 100% 800 100% Vốn ODA (Vay từ WB,ADB) 400 650 62.5% 1000 53.85% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động đầu tư phát triển Thẻ năm 2005 – 2007) Hoạt động đầu tư phát triển Thẻ là hoạt động đầu tư phát triển nhằm cung cấp cho khách hàng một hình thức sử dụng mới, một phương thức thanh toán mới. Tuy nhiên, hoạt động này mang đầy đủ đặc điểm và tính chất của một hoạt động đầu tư phát triển. Hoạt động này được huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau. Ban đầu, hầu hết là nguồn vốn đi vay: năm 2005: vốn vay là 600 tỷ đồng (chiếm 60% tổng mức vốn đầu tư) trong đó vốn vay từ ngân hàng Nhà nước là 200 tỷ (chiếm 33,33% tổng vốn vay); vốn vay từ ngân hàng Thế giới là 400 tỷ (chiếm 66,67% tổng mức vốn vay). Ngoài ra là 400 tỷ đồng từ nguồn vốn ưu tiên đầu tư. Đến năm 2007, lượng vốn vay vẫn không ngừng tăng lên từ 600 tỷ lên đến 1050 tỷ (chiếm 63,7% tổng nguồn vốn đầu tư). Dự kiến đến năm 2009, lượng vốn ưu tiên đầu tư và vốn tự có của chi nhánh: 2180 tỷ (chiếm 54,77% tổng nguồn vốn đầu tư). Từ đó, ta có thể thấy rằng, hoạt động đầu tư phát triển Thẻ được phát triển dựa trên các nguồn vốn vay từ ngân hàng Nhà nước và ngân hàng Thế giới. Đó chỉ là các dự án khởi đầu, mang tính hỗ trợ và kích thích phát triển đối với các nước đang phát triển. Nhưng đến nay, hoạt động đầu tư phát triển Thẻ lại trở thành hoạt động mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng, từ đó Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Thế giới bắt đầu rút bớt lượng vốn đầu tư. Thay thế vào đó là nguồn vốn ưu tiên đầu tư và vốn tự có của Ngân hàng. Việc thay thế này cho thấy năng lực cạnh tranh của chi nhánh cũng như của NHNo VN. Không chỉ có vậy, việc thay thế này còn cho thấy tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, khi nguồn vốn vay dần được thay thế bằng nguồn vốn ưu tiên đầu tư và vốn tự có đã làm giảm bớt gánh nặng trả nợ cho Chi nhánh, cũng như tạo điều kiện phát triển tự chủ cho từng Chi nhánh. Với việc sử dụng phần lớn là vốn tự có của Ngân hàng, Chi nhánh đã chủ động hơn trong quá trình thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển Thẻ. Có thể thấy rằng, trong các nguồn vốn để duy trì và phát triển hoạt động đầu tư phát triển Thẻ thì nguồn vốn ưu tiên đầu tư và vốn tự có là quan trọng nhất. Khi sử dụng nguồn vốn này Chi nhánh không bị ràng buộc bởi lãi suất, không bị ràng buộc về tỷ lệ vốn đầu tư phát triển Thẻ cho từng Chi nhánh. Khi đó, Chi nhánh có thể tự chủ cũng như thực hiện các hoạt động đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ mà Chi nhánh thấy phù hợp và phát huy tác dụng tối đa. Nguồn vốn này cũng là nguồn vốn có được do hoạt động tín dụng tạo ra mà hoạt động tín dụng là hoạt động phát triển nhất, đem lại nhiều lợi nhuận cho Chi nhánh nhất. Tuy nhiên, nguồn vốn ưu tiên đầu tư và vốn tự có phát triển chậm, chiếm tỷ trọng chưa cao trong tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của các hoạt động kinh doanh; đặc biệt là các hoạt động đầu tư mới. Chính vì vậy, hầu hết các hoạt động đầu tư phát triển Thẻ ít hay nhiều vẫn phải vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước cũng như WB. Điều đó làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động đầu tư phát triển Thẻ. 1.2.3. Vốn đầu tư phát triển Thẻ của Ngân hàng phân theo các nội dung đầu tư: Hoạt động đầu tư phát triển Thẻ là hoạt động sử dụng chủ yếu vốn đầu tư phát triển. Hoạt động này hiện nay chưa thực sự trở thành hoạt động đầu tư chính của Chi nhánh. Số vốn để huy động cho hoạt động đầu tư này chỉ chiếm 3,87% tổng mức vốn đầu tư của toàn chi nhánh. Vì vậy, hoạt động này chưa được tách ra mà nội dung sử dụng vốn đầu tư của hoạt động nàyđược tách ra và đưa vào 3 nội dung sử dụng vốn đầu tư của toàn Chi nhánh. Hơn nữa, hoạt động đầu tư phát triển Thẻ còn phụ thuộc nhiều vào các dự án đầu tư phát triển, chưa mang tính chủ động của từng chi nhánh. Tổng mức vốn đầu tư của Ngân hàng không ngừng giai đoạn 2003 -2007 không ngừng tăng lên và chủ yếu tập trung vào ba nội dung đầu tư chính là: Đầu tư vào tài sản cố định, Đầu tư dài hạn và đầu tư vào các công ty liên doanh, liên kết. Để xem xét việc sử dụng vốn đầu tư đã hợp lý hay chưa thì chúng ta cùng xem xét tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển phân theo nội dung: BIỂU ĐỒ 1.8: HÌNH THỨC SỬ DỤNG ĐẦU TƯ GIAI ĐOẠN 2005 – 2007. Từ năm 2005 đến năm 2006, lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng lên nhanh chóng, tăng từ 67.447 tỷ đồng lên đến 184.647 tỷ đồng. Tuy nhiên, đến năm 2007, tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản lại giảm nhẹ, chỉ còn 182.980 tỷ đồng. Lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng lên nhanh chóng vào năm 2006 vì: Năm 2006 được coi là bước tạo đà để năm 2007 nhảy vọt. Năm 2006 cũng là một năm ra đời các chi nhánh trực thuộc cũng như các văn phòng giao dịch. Bên cạnh đó, năm 2007 dự án đầu tư phát triển Thẻ được thực hiện lần thứ 3 tại chi nhánh đã giúp cho giá trị tài sản cố định vẫn gần như giữ được nguyên giá trị. Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư xây dựng cơ bản phụ thuộc phần lớn vào các dự án phát triển do NHNN hoặc WB tài trợ là nguyên nhân chính làm cho tốc độ tăng trưởng của chi nhánh không đồng đều và không bền vững. Sau một thời gian đầu tư vào các công ty liên doanh, liên kết dường như không đạt hiệu quả như mong muốn. Trong 2 năm gần đây, Chi nhánh đã từng bước giảm bớt lượng vốn này. Đó cũng là một cách thức để giảm thiểu rủi ro trong quá trình thực hiện đầu tư liên doanh, liên kết. Nhìn vào biểu đồ, ta thấy phần lớn lượng vốn đầu tư tập trung vào đầu tư dài hạn. Điều đó là bất hợp lý. Thứ nhất, việc tập trung vào đầu tư dài hạn sẽ làm cho nguồn vốn của Chi nhánh kém khả năng thanh khoản, lượng vốn lưu động ít và tạo ra nợ xấu trong nhiều năm. Thứ hai, sử dụng phần lớn vốn vào đầu tư dài hạn sẽ làm cho cơ cấu vốn khó tác động và thay đổi cho phù hợp với sự biến động của kinh tế thế giới. Thứ ba, trong bối cảnh lạm phát như hiện nay, việc sử dụng phần lớn nguồn vốn đầu tư vào đầu tư dài hạn sẽ làm mất giá đồng tiền. Thứ tư, không có vốn để đầu tư vào các hoạt động đầu tư phát triển, các dự án khác ngắn hạn và có khả năng thu hồi vốn nhanh. Vốn đầu tư vào tài sản cố định tăng lên nhanh trong năm 2006, rồi lại giảm nhẹ vào năm 2007, đã không tạo được lòng tin cho các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng muốn đầu tư vào Chi nhánh cũng như NHNo VN. Tuy nhiên, đầu tư vào tài sản cố định không những mở rộng được quy mô của toàn Chi nhánh mà còn nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Do đặc thù của hoạt động đầu tư phát triển Thẻ trong thời gian qua là hoạt động đầu tư theo dự án, ngắt quãng và lượng vốn đầu tư chưa cao. Chính vì vậy, vốn của hoạt động đầu tư này được chia thành các nội dung chủ yếu sau: đầu tư vào máy móc, trang thiết bị; đầu tư vào cơ sở hạ tầng (thuê địa điểm đặt máy), đầu tư vào quảng cáo, marketing sản phẩm… Thực hiện tốt nghiệp vụ Thẻ tức là đưa dự án đầu tư phát triển Thẻ đi vào hoạt động và có tác dụng tích cực như mong muốn thì ta cần quan tâm đến cơ cấu sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển Thẻ. BẢNG 1.9: VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THẺ CỦA CHI NHÁNH PHÂN THEO NỘI DUNG Năm 2005 Năm 2007 Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tỷ VNĐ Tỷ trọng Tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ 1.200 100% 1.650 100% 1. Đầu tư vào TSCĐ 300 25% 400 24% 2. Đầu tư vào khoa học, công nghệ 600 50% 750 46% 3. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng 100 8,3% 100 6% 4. Đầu tư vào quảng cáo và marketing 50 4,2% 300 18% 5. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực 150 12,5% 100 6% (Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư phát triển Thẻ 2005 - 2007) Năm 2005, vốn đầu tư phát triển Thẻ chủ yếu tập trung đầu tư vào trang thiết bị 300 tỷ đồng, chiếm 25%; và đầu tư vào khoa học, công nghệ; chủ yếu là phát triển và đưa vào ứng dụng phần mềm 600 tỷ đồng, chiếm 50%. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, quảng cáo và marketing chiếm tỷ lệ rất thấp. Đến năm 2007, vốn đầu tư vào TSCĐ tăng lên 400 tỷ đồng, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ lệ là 24,2% tổng mức vốn đầu tư phát triển thẻ. Cũng trong năm này, đầu tư vào khoa học công nghệ cũng giảm xuống, chỉ còn chiếm 45,5% tổng vốn đầu tư. Sử dụng vốn đầu tư tập trung cho đầu tư cơ sở hạ tầng đã giúp cho Chi nhánh nhanh chóng mở được các điểm giao dịch, các điểm đặt máy ATM và EDC/POS. Tạo điều kiện cho các hoạt động dịch vụ khách cùng phát triển; kích thích các ngành khác cùng phát triển; tạo thêm một kênh thông tin mới cho khách hàng cũng như đem đến cho khách hàng nhiều sự lựa chọn trong việc thanh toán. Tuy nhiên, với cơ cấu đó, vốn đầu tư được sử dụng chưa có hiệu quả. Vốn đầu tư chỉ tập trung vào đầu tư TSCĐ mà không chú trọng phát triển các dịch vụ, quảng cáo và marketing; cũng như không chú trọng phát triển nguồn nhân lực đã tạo thành một hệ thống phát triển không đồng đều; dự án đã đưa vào hoạt động nhưng mới chỉ đạt được 70% công suất. Năm 2007, cơ cấu vốn đầu tư phát triển đã có biến động nhưng rất nhỏ; tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu này phù hợp với xu thế đầu tư phát triển hiện nay. Hiện nay, hoạt động đầu tư phát triển không những chỉ chú trọng đầu tư vào TSCĐ mà cần chú trọng vào hoạt động quảng bá, giới thiệu; đào tạo nguồn nhân lực sao cho phù hợp với khoa học, công nghệ, kỹ thuật hiện đại. Cơ câu vốn đầu tư phát triển Thẻ năm 2007 đánh dấu một bước chuyển đáng kể về tỷ lệ đầu tư vào quảng cáo và marketing. Nội dung đầu tư này ngày càng trở thành nội dung chính trong quá trình thực hiện dự án đầu tư phát triển Thẻ. Năm 2007, cơ cấu vốn đầu tư có sự dịch chuyển nhẹ: vốn đầu tư vào TSCĐ và đầu tư vào khoa học, công nghệ giảm nhẹ; tăng đáng kể vốn đầu tư vào quảng cáo, marketing. Điều đó cho thấy rằng: chi nhánh đã nhận thức được một cách đúng đắn tầm quan trọng của hoạt động quảng cáo và marketing; đưa dự án đầu tư phát triển Thẻ đi đúng hướng; tạo điều kiện thuận lợi và giới thiệu được với khách hàng sản phẩm mới; tăng nguồn thu cho dự án và đưa dự án vào hoạt động với hiệu suất cao. Tuy nhiên, tỷ trọng vốn đầu tư vào TSCĐ vẫn chiếm phần lớn. Bên cạnh đó, ta không thể không kể đến hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một thành tố vô cùng quan trọng để đưa dự án đi vào hoạt động có hiệu quả nhất. Trong những năm qua, vấn đề về đầu tư phát triển nguồn nhân lực chưa được quan tâm thoả đáng. Đó là nguyên nhân chính làm cho hoạt động đầu tư phát triển Thẻ chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Biểu đồ 1.8 cho thấy rõ cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo nội dung: BẢNG 1.10: CƠ CẦU VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THẺ NĂM 2007 Có thể thấy rằng, cơ cấu vốn đầu tư năm 2005 chưa phù hợp với xu thế phát triển hiện nay: chỉ tập trung vào đầu tư phát triển TSCĐ, khoa học công nghệ mà không chú trọng vào đầu tư phát triển nguồn nhân lực cũng như hoạt động quảng cáo và marketing. Đến năm 2007, sự chuyển dịch cơ cấu đã phù hợp hơn so với năm 2005: Chi nhánh đã chú trọng đầu tư vào quảng cáo và marketing. Trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng thương mại đang ngày càng cạnh tranh gay gắt thì việc đầu tư vào quảng cáo và marketing cũng như các hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực trở nên cấp thiết và rất quan trọng. Với tình hình hoạt động đầu tư phát triển Thẻ mới được đưa vào ứng dụng và vận hành thì đứng trên góc độ nhà đầu tư, cơ cấu vốn đầu tư năm 2005 là hợp lý. Bởi lẽ, năm 2005 là những năm đầu đưa hoạt động đầu tư phát triển Thẻ vào triển khai sử dụng, do đó đầu tư vào TSCĐ là cần thiết. Đó cũng là giai đoạn đầu ứng dụng khoa học, công nghệ mới chính vì vậy cũng cần thiết đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực. Nhưng do lượng vốn đầu tư vào nguồn nhân lực chưa tương xứng. Điều đó đã làm giảm giá trị và tính hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển. 1.3. Đánh giá hoạt động đầu tư phát triển Thẻ tại Chi nhánh. Thị trường toàn cầu có một tiềm năng phát triển vô hạn. Hơn 70% giao dịch vẫn phải thanh toán bằng tiền mặt hoặc ký séc nhưng những giao dịch này có thể đuợc thực hiện nhanh và an toàn hơn nhờ việc sử dụng thẻ tín dụng credit card, thẻ ghi nợ debit card hoặc thẻ thông minh smartcard. Ngày nay, số lượng giao dịch thực hiện qua ATM trên toàn thế giới đã vượt qua số lượng của những giao dịch bằng thẻ tín dụng và MasterCard. Tính đến nay, NHNo Nam Hà Nội đã đạt được những thành tựu lớn trong quá trình đầu tư phát triển Thẻ. 1.3.1. Một số kết quả đã đạt được: Về hoạt động huy động vốn đấu tư phát triển: Tiếp tục thực hiện và huy động được nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Nhà nước cũng như nguồn vốn ODA từ Ngân hàng thế giới với tỷ trọng gần 60%. Ngày càng mở rộng và gia tăng về lượng vốn huy động trong dân cư, đó là nguồn vốn quan trọng, ổn định, có tiềm năng và là nguồn vốn đầu tư phát triển trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Tổng mức vốn đầu tư toàn chi nhánh tăng lên nhanh và ổn định trong giai đoạn 2005 – 2007; đánh giá sự thành công của hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Đó là cơ sở để xây dựng nguồn vốn đầu tư phát triển Thẻ ngày càng tăng. Mặc dù, vốn đầu tư phát triển Thẻ của Chi nhánh loại 1 chiếm tỷ trọng 3,87% tổng mức vốn đầu tư toàn Chi nhánh nhưng tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ ngày càng tăng dần. Cơ cấu vốn nguồn vốn đầu tư phát triển Thẻ đang dần từng bước dịch chuyển phù hợp với nhu cầu và xu hướng phát triển của toàn thế giới. Tạo dựng được lòng tin của các cá nhân cũng như của các tổ chức đầu tư vào Chi nhánh. Tổng mức vốn tự có tăng lên và ổn định trong ngắn hạn là điều kiện cơ sở để hoạt động đầu tư phát triển Thẻ từng bước chủ động thực hiện các dự án của Chi nhánh đề ra, không phụ thuộc vào vốn và chịu sức ép của lãi suất. Về tình hình sử dụng vốn: Hoàn thành quá trình giải ngân các dự án đầu tư phát triển Thẻ; tạo niềm tin cho các ngân hàng khác cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động phát triển Thẻ. Các dự án đầu tư phát triển Thẻ được triển khai nhanh giảm thiểu về rủi ro, không kéo dài nợ với ngân hàng nhà nước và WB. Các dự án còn được kiểm tra, giám sát trong toàn bộ quá trình thực hiện dự án tránh kéo dài thời gian, tránh thất thoát, lãng phí vốn trong quá trình thực hiện đầu tư. Cơ cấu sử dụng vốn đầu tư phát triển Thẻ đang dần ổn định và phù hợp với các nội dung đầu tư; tăng cường mở rộng mạng lưới, phát triển cơ sở hạ tầng, tạo mối quan hệ, tăng cường quảng bá, giới thiệu, hướng dẫn sử dụng cho khách hàng, đưa khách hàng tới những tiện ích mới. Trong ngắn hạn, tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển Thẻ tương đối hợp lý; đã đem lại các chỉ tiêu hiệu quả cho Chi nhánh nói riêng và cho NHNo VN nói chung; tăng thị phần của Ngân hàng trên thị trường. Về hoạt động phát triển Thẻ: Phát hành được 35.000 thẻ (chiếm 3% thẻ NHNo VN) với số vốn lưu động dành cho quá trình tiếp quỹ và là nguồn vốn ngắn hạn lên tới 3,5 tỷ. Mở rộng mạng lưới máy ATM và EDC/POS. Đồng thời, đưa vào triển khai thêm 4 máy ATM, đưa số lượng máy ATM lên 14 chiếc với tổng số vốn đầu tư là 4,5 tỷ đồng; đưa mới vào sử dụng 20 chiếc EDC với số vốn đầu tư là 500 triệu đồng. Trong những năm qua, NHNo Nam Hà Nội không ngừng đầu tư hiện đại hóa công nghệ thông tin, thực hiện quản trị tốt nguồn nhân lực và triển khai cá phương thức thanh toán hiện đại tiên tiến phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế như thanh toán điện tử, phát hành và thanh toán thẻ... Hiện nay, NHNo Nam Hà Nội (Chi nhánh của NHNo VN) là thành viên của nhiều tổ chức thẻ quốc tế trên toàn cầu. Với ưu thế về mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ rộng khắp (18.000 điểm của NHNo VN và hơn 30.000 điểm đơn vị chấp nhận thẻ thuộc liên minh Banknetvn và Smartlink; khoảng 25 triệu điểm chấp nhận thanh toán trên toàn cầu), việc thanh toán thẻ Visa, Banknetvn của Agribank không những đem lại cho khách hàng sự tiện lợi tối đa mà còn khẳng định sự vươn mình ra quốc tế của một thương hiệu mạnh, uy tin, chất lượng và đánh dấu sự hội nhập toàn diện trên thị trường. Về quản lý quá trình sử dụng và huy động vốn: Trong quá trình sử dụng vốn, Ban lãnh đạo Chi nhánh trực tiếp kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện một cách nghiêm túc. Các dự án đầu tư phát triển Thẻ được thực hiện theo quy trình, luôn được ban lãnh đạo quan tâm trong quá trình huy động vốn, vay vốn từ các ngân hàng khác. Nguồn vốn tiếp quỹ được kiểm tra thường xuyên trên hệ thống tránh được những rủi ro không đáng có cũng như tránh được các kiến nghị và thắc mắc của khách hàng tạo niềm tin cho khách hàng trong quá trình đầu tư cũng như sử dụng các dịch vụ của Chi nhánh. Như vậy, hoạt động đầu tư phát triển Thẻ tại Chi nhánh được thực hiện tốt, làm gia tăng tổng mức vốn đầu tư toàn Chi nhánh, làm gia tăng tổng mức vốn đầu tư phát triển Thẻ và đem lại nhiều hiệu quả. 1.3.2. Đánh giá chỉ tiêu hiệu quả: 1.3.2.1 Đánh giá chỉ tiêu hiệu quả về mặt tài chính: Các chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của Chi nhánh: BẢNG 1.11: HỆ SỐ VỐN TỰ CÓ/VỐN ĐI VAY CỦA CHI NHÁNH Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Tỷ VNĐ 2/1 Tỷ VNĐ 2/1 Tỷ VNĐ 2/1 Tỷ VNĐ 2/1 Vốn vay (1) 7010 2,35 6545 2,9 5848 3,6 15551 1,5 Vốn tự có (2) 16.474 19040 21077 23129 Chỉ tiêu vốn tự có/ vốn đi vay đánh giá tiềm lực tài chính của Ngân hàng. Nhìn lên bảng trên ta thấy, trong giai đoạn 2005 – 2008 chỉ số này đều lớn hơn 1 chứng tỏ Chi nhánh có tiềm lực tài chính lớn. Trong đó, giai đoạn 2005 – 2007 chỉ số này tăng dần. Điều đó có nghĩa là trong các năm đó, Chi nhánh đã không ngừng gia tăng lượng vốn tự có, giảm vốn vay và là chi nhánh có tiềm lực tài chính mạnh. Sau khi thực hiện dự án đầu tư phát triển Thẻ, Chi nhánh đã thu được lợi nhuận đáng kể được thể hiện ở các chỉ tiêu sau: Lợi nhuận thuần (trước thuế) trên vốn chủ sở hữu bình quân đạt 12,4% năm 2006, đến năm 2007 tăng lên 15,3%. Tỷ lệ lãi/ tổng tài sản của doanh nghiệp tăng lên: 9,63% vào năm 2007 và 11,55% vào năm 2008. Giá trị tài sản cố định tăng thêm/tổng mức vốn đầu tư năm 2007 lên 11,3%; năm 2005 là 8,7%. Từ đó, ta thấy rằng, việc đầu tư phát triển hoạt động Thẻ đã mang lại nhiều lợi nhuận cho Chi nhánh cũng như đem lại hiệu quả về mặt tài chính. Hiệu quả đó thế hiện ở: Thực hiện được mục tiêu đầu tư phát triển Thẻ là làm tăng tổng giá trị tài sản cố định; sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư và tạo tiền đề cho các hoạt động đầu tư phát triển khác. Thời gian thu hồi vốn ngắn, thường sử dụng những nguồn vốn ưu đãi với lãi suất thấp và không có biến động trong thời gian dài nên không ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của Chi nhánh đối với các ngân hàng khác. 1.3.2.2. Đánh giá hiệu quả về mặt xã hội: Làm gia tăng giá trị tài sản cố định của Chi nhánh cũng như của NHNo VN do chính hoạt động của dự án sinh ra Tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho người lao động: bảo vệ, cán bộ phát hành… Góp phần nâng mức sống của người dân. Tăng thu và tiết kiệm đồng nội tệ và ngoại tệ. Thúc đẩy phát triển các dịch vụ thương mại, kích thích các ngành khác cùng phát triển. Nâng cao đời sống dân trí, là một kênh thanh toán mới cho người dân, có khả năng thanh khoản cao. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ để tiếp nhận công nghệ, phần mềm được chuyển giao; đào tạo đội ngũ cán bộ có ý thức, có khả năng. Tăng mức đóng góp cho ngân sách nhà nước (thuế, tiền thuê địa điểm…) Góp phần phát triển kinh tế địa phương: tăng cường kết cấu hạ tầng, tăng cường các hoạt động dịch vụ liên quan… Tạo thị trường mới và chiếm lĩnh 17% thị trường phát hành Thẻ trên cả nước. Nâng cao trình độ, kĩ năng quản lý trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư phát triển Thẻ. Đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển trong giai đoạn khó khăn này. 1.3.3. Nguyên nhân và hạn chế: Không thể phủ nhận những thành tựu mà NHNo Nam Hà Nội đã đạt được. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế và bất cập mà Chi nhánh còn gặp phải: 1.3.3.1. Trong hoạt động huy động vốn: Lượng vốn đầu tư không ổn định: tăng lên nhanh trong giai đoạn 2005 – 2007 nhưng lại giảm nhẹ vào năm 2008 do tăng trưởng của chi nhánh không ổn định; cũng như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối năm 2008. Chi nhánh Nam Hà Nội là một trong mười Chi nhánh có hoạt động tín dụng phát triển nhất. Chính vì vậy, tổng mức vốn đầu tư của toàn Chi nhánh còn phụ thuộc nhiều vào hoạt động tín dụng cũng như chịu ảnh hưởng biến động của lãi suất. Cơ chế huy động vốn đầu tư còn phải qua nhiều cấp, rắc rối, phiền toái. Tổng mức vốn đầu tư của toàn Chi nhánh tăng lên nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển của Chi nhánh. Việc Chi nhánh ngày càng gia tăng các điểm giao dịch cũng như các hoạt động đầu tư phát triển mới; đặc biệt là hoạt động đầu tư phát triển Thẻ làm cho tổng mức vốn đầu tư của Chi nhánh tăng lên song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Do NHNo VN quy định hạn mức tỷ lệ vốn đầu tư phát triển Thẻ là 3,87% đã hạn chế khả năng huy động vốn của Chi nhánh cũng như hạn chế hoạt động đầu tư phát triển này. Các kênh huy động vốn thường là liên kết lâu năm hoặc từ các dự án có vốn ODA nên cơ cấu nguồn vốn thiếu tính đa dạng, số lượng không nhiều và không tận dụng được hết các nguồn vốn dư thừa trong dân cư. 1.3.3.2. Trong quá trình sử dụng vốn: Cơ cấu vốn sử dụng trong hoạt động đầu tư phát triển Thẻ chưa phù hợp, quá chú trọng vào đầu tư TSCĐ trong khi đó việc cần làm là tăng cường đầu tư vào phát triển dịch vụ, tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm và các hoạt động Marketing nhằm làm tăng thị phần cho Chi nhánh. Hoạt động đầu tư phát triển là hoạt động mang đặc điểm: thời gian kéo dài, lượng vốn nằm khe đọng trong quá trình thực hiện dự án hoạt động đầu tư. Trong quá trình sử dụng vốn đầu tư từ các dự án phát triển Thẻ còn chậm, mang tính dàn trải; đã không khắc phục được nhược điểm của hoạt động này. Chưa chú trọng đến hiệu quả của quá trình sử dụng vốn đầu tư, gây lãng phí trong khâu xây dựng, thiết kế; nhiều nơi phải thay đổi vị trí; tháo lên lắp xuống. Quá trình giải ngân nguồn vốn này còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của các tổ chức tín dụng cũng như các ngân hàng cho vay. 1.3.3.3. Trong quản lý quá trình sử dụng vốn: Việc quản lý quá trình sử dụng vốn chưa sát sao; quá trình thanh, kiểm tra thiếu chặt chẽ còn làm thất thoát, lãng phí nguồn vốn. Quá trình quản lý, đôc đốc thực hiện dự án thiếu nghiêm túc, các dự án còn bị kéo dài và chậm tiến độ so với dự kiến. Trong khâu lập các dự án đầu tư phát triển Thẻ còn sơ sài, chưa thiết thực và đầy giá lên quá cao. Các bước lập dự án thường bị bỏ qua; không quan tâm đến thời gian và tiến độ dự án gây thất thoát lớn. Trong khâu thẩm định dự án, các dự án đầu tư phát triển Thẻ chưa được thẩm định chặt chẽ; hầu hết là các dự án ở trên đưa xuống nên chỉ thực hiện mà không cần biết đem lại hiểu quả hay không. Trong quá trình thực hiện dự án, nguồn vốn dự án chưa sử dụng được đúng mục đích, còng mang tính dàn trải và cơ cấu sử d._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21645.doc
Tài liệu liên quan