Tình hình đầu tư phát triển trong ngành dệt may Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Ngành công nghiệp dệt-may có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vừa là ngành cung cấp hàng tiêu dùng thiết yếu cho xã hội, vừa có khả năng thu hút, tạo việc làm cho nhiều lao động nhất trong các ngành công nghiệp.Từ những năm qua, dệt-may còn là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai trong cả nước, công nghiệp dệt-may luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm trong chính sách phát triển chung của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng Ngày nay, các sản phẩm dệt may xuất khẩu

doc41 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1307 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư phát triển trong ngành dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của Việt Nam không ngừng được phát triển cả về sản lượng, chủng loại sản phẩm và giá trị kim ngạch xuất khẩu trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trên thị trường thế giới. Những thành tựu của công nghiệp dệt-may đóng góp vào sự nghiệp kinh tế-xã hội ở nước ta đã đánh dấu bước khởi đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới kinh tế ở Việt Nam.Tuy nhiên, nhìn nhận một cách thực tế hơn, các sản phẩm dệt may còn nhiều bất cập so với nhu cầu phát triển. Chẳng hạn như: Chất lượng vải của Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, giá cao hơn so với vải nhập khẩu, giá trị gia tăng của sản phẩm dệt may thấp…...Hơn nữa, trong xu thế quốc tế hoá hiện nay, Việt Nam cũng đã trở thành thành viên ASEAN (5/1995), APEC (11/1998) và đang tiến tới gia nhập tổ chức WTO trong năm nay. Như vậy, các sản phẩm dệt may của Việt Nam vừa có điều kiện để mở rộng, xâm nhập thị trường tiêu thụ, vừa chịu sức ép cạnh tranh lớn hơn trong môi trường cạnh tranh quốc tế.Sau ngày 1/1/2005, Hiệp định dệt may quốc tế ATC hết hiệu lực hoàn toàn, do đó các nước thành viên WTO không bị ràng buộc về hạn ngạch, điều này gây khó khăn lớn cho Việt Nam. Vậy, làm thế nào để không bỏ lỡ cơ hội, vượt qua thử thách, làm thế nào để khai thác lợi thế, khắc phục mặt yếu kém là nhiệm vụ đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam.Tiến hành đầu tư phát triển là giải pháp hữu hiệu để hoạt động sản xuất có hiệu quả, nâng cao khả năng phát triển của ngành dệt may. Xuất phát từ vấn đề đó, em đã quyết định chọn đề tài :”Tình hình đầu tư phát triển trong ngành dệt may Việt nam”. Do thời gian và kiến thức còn hạn chế, đề tài của em còn nhiều thiếu sót, rất mong sự góp ý của các thầy cô giúp đề tài của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của ThS.Nguyễn Ái Liên đã giúp em hoàn thành đề án này. MỤC LỤC PHẦN I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ I. Lý luận chung về đầu tư 1. Khái niệm, đặc điểm chung về đầu tư, đầu tư phát triển 1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư phát triển * Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác…)và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội . Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm nhưng hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. * Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực , thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. Trên góc độ tài chính, đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội trong dài hạn. 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển Hoạt động đầu tư phát triển mang những đặc điểm giống đặc điểm của đầu tư nói chung và có những đặc điểm khác biệt với loại hình đầu tư khác, đó là: * Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. * Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. * Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tư nhiên, chính trị , kinh tế… * Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm, hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới. Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả đầu tư phát triển. *Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Dó đó, các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết qua đầu tư. Chính vì vậy nên trong quá trình nghiên cứu tiền khả thi và khả thi cần phải tiến hành khảo sát, nghiên cứu một cách cụ thể, tỉ mỉ địa hình, địa chất, điều kiện tư nhiên của nơi tiến hành đầu tư. Đó là điều kiện quan trọng để các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển phát huy tác dụng . * Hoạt động đầu tư phát triển có tính rủi ro cao, đầu tư càng lớn thì tính rủi ro càng cao nhưng lợi nhuận đem lại cũng lớn. Điều đó đòi hỏi chủ đầu tư cần có những biện pháp để giảm thiểu rủi ro trong quá trình đầu tư để đem lại hiệu quả đầu tư cao, đạt được mục đích. Với những đặc điểm đó, có thể thấy mọi thành quả cũng như hậu quả của quá trình đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định về mặt thời gian và không gian. Do vậy để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư. Sự chuẩn bị này được thể hiện qua việc soạn thảo các dự án đầu tư để đem lại chất lượng tốt. 2. Vai trò của đầu tư phát triển Từ việc xem xét bản chất của đầu tư phát triển, các lý thuyết kinh tế, cả lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau đây : 2.1. Trên giác độ vĩ mô 2.1.1. Đầu tư vừa tác động đến tổng cung , vừa tác động đến tổng cầu - Về mặt cầu : Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư phát triển thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn.Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng làm sản lượng cân bằng tăng theo. - Về mặt cung : Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo sản lượng tiềm năng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng.Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. 2.1.2. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế mọi quốc gia . Khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư làm cho giá của hàng hoá liên quan tăng đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế.Và khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt nhưng theo chiều hướng ngược lại . Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. 2.1.3. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư . Nếu không có sự đầu tư thoả đáng sẽ không có tăng trưởng kinh tế. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5- 7 do thừa vốn, thiếu lao động, vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2-3 do thiếu vốn, thừa lao động nên cần sử dụng lao động để thay thế cho vốn do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiêụ quả đâu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp. ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Đối với các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo cho nguồn vốn đầu tư đủ để được một tỉ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực tế đã được chứng minh ở nhiều nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vần đề đảm bảo cho nguồn vốn đầu tư đủ dể được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Thực tế đã được chứng minh ở nhiều nước, đầu tư đóng vai trò như một “cú huých ban đầu”, tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế (các nước NICs, các nước Đông Nam Á). Rõ ràng hoạt động đầu tư đã đóng góp tích cực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mức tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư là chủ yếu. 2.1.4. Đầu tư với tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất nước Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay . Hiện nay, theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 2.1.5. Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5% - 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác phát triển. 2.2.Trên giác độ vi mô 2.2.1.Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất-kĩ thuật của các cơ sơr này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa hoặc thay thế mới, cũng có nghĩa là phải đầu tư. 2.2.2. Đối với các cơ sở vô vị lợi Để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất-kĩ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả các hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 3. Nguồn vốn đầu tư phát triển Nguồn vồn đầu tư là tập chung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để dưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. 3.1. Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn đầu tư phát triển là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. 3.1.1. Nguồn vốn nhà nước * Nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hôi vùng, lãnh thổ, qui hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. * Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn vốn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế- xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. * Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng qui mô vốn đầu tư của toàn xã hội. 3.1.2. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt… Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế. Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế cởi mở nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây, các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Đồng thời có khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài doanh nghiệp nhà nước đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng qui mô vốn của toàn xã hội. 3.1.3. Thị trường vốn Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung của các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư – bao gồm cả nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được. 3.2. Nguồn vốn nước ngoài 3.2.1. Nguồn vốn ODA Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. ODA có các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn và ODA còn có yếu tố không hoàn lại. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi này thường đi kèm các điều kiện tương đối khắt khe ( tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…)Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành một gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. 3.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất, nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. 3.2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, ngành đòi hỏi kĩ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn.Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kì to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư. Đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài cũng rất đáng kể. Nguồn này đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương. 4. Nội dung của đầu tư phát triển 4.1. Đầu tư phát triển tài sản cố định hữu hình Tài sản cố định hữu hình là một trong những tài sản quan trọng của doanh nghiệp. Nó là những tư liệu lao động có tính vật chất, có giá trị lớn và được sử dụng lâu dài trong sản xuất kinh doanh, hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như không đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại. Trong các loại đầu tư, đầu tư vào đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế. 4.1.1. Đầu tư xây dựng cơ bản Đầu tư xây dựng cơ bản có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật cho doanh nghiệp, là yếu tố quan trọng nâng cao năng lực sản xuất cho doanh nghiệp. Hoạt động xây dựng cơ bản có 2 phần, đó là: *Hoạt động xây dựng là quá trình lao động để tạo ra những sản phẩm xây dựng, nó bao gồm các hoạt động: thăm dò, khảo sát, thiết kế, xây dựng mới, xây dựng lại công trình, cải tạo, mở rộng nâng cấp, hiện đại hoá chương trình, sửa chữa lớn nhà cửa, máy móc thi công có nhiều điều kiện đi kèm. *Hoạt động lắp đặt máy móc, thiết bị: công tác lắp đặt thiết bị máy móc là quá trình lắp đặt thiết bị máy móc như nền hoặc bệ máy cố định để máy và thiết bị có thể hoạt động được nhưng không bao gồm công tác lắp đặt các thiết bị là một bộ phận kết cấu của nhà cửa, vật kiến trúc. Để tiến hành hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, doanh nghiệp cần tiến hành qua 3 bước: chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư trong đó hoạt động xây dựng, lắp đặt nằm trong giai đoạn thực hiện đầu tư. 4.1.2. Đầu tư mua sắm tài sản cố định cho sản xuất Một doanh nghiệp muốn sản xuất ra sản phẩm, cần phải có máy móc, thiết bị để phục vụ cho quá trình sản xuất. Do đó cần tiến hành hoạt động mua sắm tài sản cố định chứ không thể tự sản xuất ra được. Việc xác định thời gian và sản lượng mua sắm tài sản cũng phụ thuộc điều kiện cụ thể của mỗi doanh nghiệp. Trong một số trường hợp, hàng hoá mua sắm về mới lập tức đưa vào sử dụng, một số khác thì được mua sắm ở thị trường sau đó vận chuyển đến doanh nghiệp. Thông qua việc mua sắm này, doanh nghiệp có thể đảm bảo cho quá trình sản xuất ra một cách liên tục, giảm một cách hợp lý nhiều khoản chi phí, cho phép mua nguyên vật liệu một cách hợp lý, kinh tế nhất 4.1.3. Đầu tư sửa chữa lớn tài sản cố định Sau một thời gian hoạt động, tài sản cố định có thể bị hư hỏng làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất. Để doanh nghiệp hoạt động bình thường, ta cần đầu tư vào việc chỉnh sửa, thay thế phụ tùng, thiết bị…Đồng thời do tính thay đổi của khoa hoc công nghệ cũng như thị trường công nghệ mà nhiều tài sản cố định cần nâng cấp sao cho phù hợp với công nghệ hiện đại,giúp doanh nghiệp đạt hiệu quả trong sản xuất kinh doanh cũng như trong công tác quản trị doanh nghiệp. Hiện đại hoá tài sản cố định liên quan mật thiết đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhiều khi nó còn là yếu tố quyết định sự tồn vong của doanh nghiệp. 4.2. Đầu tư phát triển tài sản vô hình Cũng như đầu tư vào tài sản cố định hữu hình, đầu tư vào tài sản vô hình cũng có vai trò quan trọng. Nó là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. 4.2.1. Đầu tư vào tài sản trí tuệ Có thể hiểu nó bao gồm công nghệ và bí quyết công nghệ. Công nghệ là một công cụ nhằm biến đổi nguồn lực tự nhiên thành sản phẩm hữu hình. Công nghệ bao gồm 2 phần: - Phần cứng: có máy móc thiết bị, dụng cụ kết cấu xây dựng nhà xưởng - Phần mềm: bao gồm con người, thông tin, tổ chức Đầu tư vào phát triển công nghệ có nội dung: *Mua sắm công nghệ mới: Đầu tư cho công nghệ ngoài việc mua sắm thiết bị, còn là việc mua sắm các yếu tố vô hình của công nghệ giúp cho quá trình vận hành thiết bị đạt hiệu quả cao nhất. Khi mua công nghệ nên quan tâm đặc biệt đến vấn đề chuyển giao bí quyết công nghệ, kinh nghiệm, tay nghề sản xuất… - Mua đứt công nghệ: Doanh nghiệp có thể mua đứt toàn bộ, tức là công nghệ thuộc sở hữu độc quyền của doanh nghiệp, không một ai có quyền sử dụng, mua bán kể cả người đã chế tạo ra nó, doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định với công nghệ đó. Có công nghệ do chỉ mình doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ hiệu quả nhất, tối ưu nhất, tạo lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. - Mua quyền sử dụng công nghệ: Doanh nghiệp nào mua cũng có quyền sở hữu thứ công nghệ hiệu quả đó. Doanh nghiệp có thể mua công nghệ tĩnh hoặc động. Khi doanh nghiệp mua công nghệ tĩnh thì những cải tiến mới của doanh nghiệp không được cung cấp, không được quyền sử dụng mà họ chỉ được quyền sử dụng công nghệ như tại thời điểm mua. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể mua dưới hình thức động: công nghệ luông được cải tiến khi người bán công nghệ vẫn tiếp tục đầu tư cho nghiên cứu cải tiến công nghệ. *Nghiên cứu phát triển kỹ thuật công nghệ: Đối với những doanh nghiệp mà sản phẩm của họ sản xuất và kinh doanh là những công nghệ, thì những phát minh sáng chế của họ là những tài sản trí tuệ mà họ sở hữu. Còn với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những sản phẩm không phải là công nghệ thì những cải tiến kỹ thuật, công nghệ chưa chắc đã tạo ra một công nghệ mới nhưng ít nhất nó cũng tạo ra sự phù hợp của công nghệ với điều kiện sản xuất, ít nhiều tạo lợi thế cho doanh nghiệp. 4.2.2. Đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu *Thương hiệu là các dấu hiệu hay một loại dấu hiệu hoặc tổng hợp các dấu hiệu này gắn với hàng hóa hoặc dịch vụ, là biểu hiện bên ngoài. Dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của một (hay một nhóm) người này với hàng hoá, dịch vụ của một (hay một nhóm) người khác. Hiện nay, trên thị trường có quá nhiều sản phẩm, nhiều công ty do đó xây dựng cho mình một thương hiệu tức là xây dựng được sự thành công cho doanh nghiệp. Thương hiệu là phương tiện để cạnh tranh, nó thông báo sự hiện diện của nó với hàng hoá, dịch vụ cùng loại khác, tạo ấn tượng ban đầu cho người mua. Đồng thời, thương hiệu định hướng khách hàng, duy trì phát triển khách hàng. Đa số người tiêu dùng quen mua hàng hoá quen thuộc, một nhãn hiệu uy tín sẽ chiếm được cảm tình của người mua. Mặt khác, thương hiệu mang lại những lợi ích nổi bật cho doanh nghiệp, nó đem lại thu nhập lớn hơn so với sản phẩm cùng loại không có thương hiệu, nó thu hút được vốn đầu tư, có ưu thế trong định giá. Do đó, để phát triển sản xuất có hiệu quả, doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một thương hiệu vững chắc, tạo hình ảnh đặc biệt trong tâm trí khách hàng. *Nội dung của đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu: - Xây dựng thương hiệu: + Đầu tư cho sản phẩm: nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo mẫu mã sản phẩm, bao bì cho sản phẩm. + Đầu tư cho xúc tiến thương mại: đầu tư cho khâu bán hàng, cho khâu tiếp thị, quảng cáo + Đầu tư nâng cao uy tín cho doanh nghiệp chi cho các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường… - Bảo vệ thương hiệu: + Đầu tư cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp, kiểm tra, dự báo, định hướng cho sự phát triển của thương hiệu. + Chi cho theo dõi phát triển các hoạt động xâm phạm sở hữu trí tuệ và các biện pháp xử lý khắc phục khi có vi phạm. 4.2.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực *Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế xã hội. Phát triển nguồn nhân lực giúp ta hoàn thiện, chuẩn bị cho người lao động thực hiện nhiệm vụ một cách hiệu qủa hơn, giảm bớt sự giám sát đối với lao động do họ được đào tạo họ có thể là người tự giám sát, giảm tai nạn do hạn chế điều kiện làm việc…Đồng thời, phát triển nguồn nhân lực đảm bảo doanh nghiệp ổn định, giữ vững hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp kể cả khi thiếu người chủ chốt. Quốc gia nào không nhanh chóng phát triển nguồn nhân lực thì sẽ sớm tụt hậu, mặt khác đó cũng là đòi hỏi của sự hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam. *Nội dung đầu tư: - Lựa chọn lao động đầu vào có chất lượng cao. Có 2 hình thức tuyển chọn là tuyển lao động có trình độ cao và lao động phổ thông. Đối với lao động có trình độ cao thì các doanh nghiệp phải tổ chức cuộc thi để lựa chọn. Tuy nhiên, việc tuyển chọn được lao động giỏi tương đối khó vì nó phụ thuộc vào tính chủ quan của người ra điều kiện thi tuyển và chấm tuyển. Hình thức này được áp dụng nhiều ở doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn doanh nghiệp nhà nước thì nó mang tính hình thức do họ không có chế độ ưu đãi và giữ lao động giỏi lại làm việc lâu dài cho doanh nghiệp. - Đào tạo cho đội ngũ lao động trong doanh nghiệp: trang bị kiến thức phổ thông, chuyên nghiệp và kiến thức quản lý. Theo hình thức đào tạo nguồn nhân lực có đào tạo mới áp dụng người lao động chưa có nghề hoặc thực hiện công việc này. Đào tạo lại áp dụng cho người đã có nghề song nghề này không phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp. Ngoài ra, có đào tạo nâng cao trình độ lành nghề, nâng cao kiến thưc và kinh nghiêm để người lao động có thể làm được việc phức tạp. Song song với hình thức trên, đầu tư vào đào tạo cho đội ngũ lao động còn một số phương pháp đào tạo trực tuyến thông qua mạng Internet, đào tạo thông qua chương trình lập sẵn bằng máy tính, đào tạo phụ… - Nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Điều này trước đây không được doanh nghiệp chú ý nhưng trong thực tế nó có vai trò khá quan trọng trong sản xuất. Vì khi người lao động có điều kiện làm việc tốt họ mới yên tâm làm việc, phát huy hết khả năng của mình trong công việc giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Trong đó, tiền lương tăng sẽ khuyến khích người lao động hăng hái hơn trong công việc, người lao động tăng khả năng chi trả cho các nhu cầu cuộc sống từ đó có thể yên tâm làm việc. Mặt khác, bảo hộ lao động giúp người lao động an tâm làm việc tránh được rủi ro trong lao động. 4.2.4. Đầu tư vào tài sản vô hình khác Đầu tư vào tài sản vô hình khác có thể được hiểu gồm nội dung sau: - Đầu tư vào quyền sử dụng đất: là toàn bộ chi phí doanh nghiệp chi ra liên quan đến việc sử dụng đất gồm chi phí thuê, đền bù giải phóng mặt bằng, chi phí san lấp, lệ phí trước bạ. - Chi phí mua các bằng phát minh, sáng chế - Chi phí thành lập doanh nghiệp gồm: thăm dò, lập dự án, chi phí liên quan đến khai trương, quảng cáo… II. Lý luận chung về ngành dệt may Việt Nam 1. Vai trò, đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 1.1. Vai trò của ngành dệt may Việt Nam Ngành sản xuất các sản phẩm dệt may ở nước ta là một trong những ngành nghề có truyền thống lâu đời nhất, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển xã hội người Việt.Xã hội càng phát triển, khoa học công nghệ đạt đến khả năng giải quyết được các vấn đề khó khăn của sản xuất làm cho công nghiệp dệt may cũng ngày một hoàn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0228.doc