Tình hình huy động và cho vay vốn dưới tác động của lãi suất tại chi nhánh ngân hàng Nông Nghiệp & PTNT Cầu Giấy – Hà Nội năm 2008

Tài liệu Tình hình huy động và cho vay vốn dưới tác động của lãi suất tại chi nhánh ngân hàng Nông Nghiệp & PTNT Cầu Giấy – Hà Nội năm 2008: ... Ebook Tình hình huy động và cho vay vốn dưới tác động của lãi suất tại chi nhánh ngân hàng Nông Nghiệp & PTNT Cầu Giấy – Hà Nội năm 2008

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình huy động và cho vay vốn dưới tác động của lãi suất tại chi nhánh ngân hàng Nông Nghiệp & PTNT Cầu Giấy – Hà Nội năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tr­êng ®¹i häc n«ng nghiÖp hµ néi khoa kÕ to¸n & qu¶n trÞ kinh doanh › ¶ š luËn v¨n tèt nghiÖp TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VÀ CHO VAY VỐN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA LÃI SUẤT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP & PTNT CẦU GIẤY – HÀ NỘI NĂM 2008 NGƯỜI THỰC HIỆN: SV. NGUYỄN THỊ BÌNH Lớp: KE B - K50 NGƯỜI HƯỚNG DẪN PGS.TS. LÊ HỮU ẢNH Hµ Néi - 2009 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài, được sự giúp đỡ nhiệt tình và sự đóng góp quý báu của nhiều tập thể và cá nhân đã tạo điều kiện cho tôi hoán thành bài luận văn này. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc PGS.TS Lê Hữu Ảnh – là giảng viên trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh, khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn đã giúp tôi hoàn thành quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ, nhân viên phòng Dịch vụ & Maketing Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cầu Giấy – Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi thu thập số liệu, những thông tin cần thiết để tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả luận văn Nguyễn Thị Bình MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Kết quả tài chính năm 2006 đến 2008 31 Bảng 3.2. Kết quả huy động vốn từ năm 2006 – 2008 35 Bảng 3.3. Sự tham gia gửi tiền tại chi nhánh theo sản phẩm 39 Bảng 3.4. Kết quả cho vay từ năm 2006 năm 2008 41 Bảng 3.5. Số liệu bảo lãnh từ năm 2006 đến năm 2008 43 Bảng 3.6. Lãi suất huy động theo thời hạn của chi nhánh trong năm 2008 48 Bảng 3.7. Tình hình tham gia gửi tiền của khách hàng theo thời hạn 50 Bảng 3.8. Lãi suất cho vay theo thời hạn tại chi nhánh trong năm 2008 54 Bảng 3.9. Tình hình vay vốn của khách hàng theo thời hạn tại chi nhánh năm 2008 55 Bảng 3.10. Cơ cấu tài sản và nguồn vốn tại chi nhánh năm 2008 58 Bảng 3.11. Chênh lệch lãi suất và chênh lệch thu chi do thay đổi lãi suất 59 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 3.1. Tăng trưởng nguồn vốn 36 Biểu đồ 3.2. So sánh khách hàng gửi tiền theo sản phẩm qua các năm 40 Biểu đồ 3.3. Tăng trưởng dư nợ 42 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CSH : Chủ sở hữu HĐKD : Hoạt động kinh doanh KKH : Không kỳ hạn LSCV : Lãi suất cho vay NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng Nhà nước TCTD : Tổ chức tín dụng TSLĐ : Tài sản lưu động TSCĐ : Tài sản cố định I. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Lãi suất là giá cả của tiền tệ, là công cụ điều hành kinh tế vĩ mô. Lãi suất tác động đến cung cầu vốn thị trường, tạo động lực kích thích tiết kiệm, phân bổ các nguồn vốn tài chính, chống lạm phát thông qua kích thích hoặc hạn chế đầu tư. Ngân hàng cung cấp dịch vụ với giá cả nhất định. Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng phải trả giá cho khách hàng về phần lớn nguồn tiền mà ngân hàng huy động được cấu thành chi phí của ngân hàng và ngược lại khách hàng cũng phải trả giá cho các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp - cấu thành thu nhập của ngân hàng. Do tính chất và yêu cầu về các sản phẩm, giá các sản phẩm của ngân hàng rất đa dạng cho phép khách hàng tiếp cận với hàng triệu khách hàng khác nhau, thuộc những vùng, ngành nghề khác nhau. Mỗi ngân hàng đều có chiến lược hay lý do riêng khi quyết định thay đổi lãi suất tiền gửi hoặc lãi suất cho vay. Có những lúc các ngân hàng phải chịu lãi suất tiền gửi cao và chấp nhận cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất huy động. Khi tăng lãi suất huy động , các ngân hàng đều nhằm vào việc thu hút thêm lượng tiền hiện đang luân chuyển trong thị trường để phục vụ mục đích tài chính nào đó. Tuỳ vào nhu cầu tiền mặt của ngân hàng, của chính phủ hay các khách hàng lớn cần vay để mua bán, đầu tư vào dự án trọng điểm, các ngân hàng sẽ đưa ra mức lãi suất thấp hay cao để thu hút dân chúng bỏ tiền vào các khoản hoặc quỹ tiết kiệm. Năm 2008 là năm mà tình hình tài chính toàn cầu chứng kiến những thay đổi lớn và liên tục. Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ kéo theo hàng loạt những biến động thị trường tài chính các nước cùng với đó là sự biến động chóng mặt và bất ngờ về lãi suất của tất cả các NHTM nhằm ổn định lại thị trường. Biến động mạnh và theo hướng ngược chiều nhau là đặc điểm chung về lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay của nhiều ngân hàng. Căn cứ vào đó có thể thấy độ nhạy cảm của huy động và cho vay vốn với lãi suất luôn thay đổi. Xuất phát từ thực tế trên tôi hình thành ý tưởng và nghiên cứu đề tài : “Tình hình huy động và cho vay vốn dưới tác động của lãi suất tại chi nhánh ngân hàng Nông Nghiệp & PTNT Cầu Giấy – Hà Nội năm 2008”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Nghiên cứu sự tác động của thay đổi lãi suất tới huy động và cho vay vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy – Hà Nội. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể Hệ thống cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về lãi suất tín dụng và sử dụng công cụ lãi suất trong huy động và cho vay vốn Tìm hiểu tình hình huy động và cho vay vốn dưới sự thay đổi của lãi suất đến năm 2008 tại chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy – Hà Nội. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác huy động cho vay vốn tại chi nhánh. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu sự ảnh hưởng của lãi suất tới kết quả huy động và cho vay vốn tại chi nhánh năm 2008. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Đề tài nghiên cứu về sự thay đổi lãi suất, ảnh hưởng sự thay đổi lãi suất tới huy động và cho vay vốn tại chi nhánh. - Phạm vi không gian: Đề tài được nghiên cứu tại chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy- Hà Nội. - Phạm vi thời gian: Đề tài đánh giá kết quả hoạt động chung trong 3 năm 2006-2008. Nghiên cứu sự biến động lãi suất trong năm 2008. II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Tổng quan tài liệu 2.1.1. Khái quát về lãi suất Lãi suất là một phạm trù kinh tế khách quan, mang tính chất tổng hợp và đa dạng. Nó là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức phải trả trên tổng số vốn đi vay trong một thời gian nhất định (năm, quý, tháng, ngày…). Lãi suất được biểu hiện dưới dạng số tuyệt đối, đó chính là lợi tức tín dụng. Như vậy lợi tức tín dụng là khoản tiền phải trả cho việc vay mượn quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định ( Phan Thị Thu Hà, 2006). Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất giữ vị trí khá quan trọng. Lãi suất là đòn bẩy, kích thích sự tăng trưởng kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng sẽ tạo ra một nguồn vốn của cải cho xã hội, tổng thu nhập quốc dân tăng lên rất nhiều. Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các NHTM, lãi suất là giá cả của vốn, do vậy thông qua lãi suất các NHTM sẽ tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng của mình mà kết quả cuối cùng là nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư được lợi vì sẽ được hưởng giá rẻ và chất lượng dịch vụ cao. Lãi suất là công cụ dùng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, hay nói cách khác, khi các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư có vốn, muốn đầu tư vào lĩnh vực nào cũng cần phải lấy lãi suất tín dụng trong nền kinh tế làm cơ sở và quyết định ít nhất hiệu quả đầu tư vào các lĩnh vực khác để sinh lời và phải có tỷ lệ lớn hơn hoặc cùng lắm phải bằng lãi suất tín dụng. Lãi suất còn là công cụ để kiềm chế lạm phát rất hữu hiệu thông qua chính sách tiền tệ của NHNN. Trong trường hợp nền kinh tế có lạm phát, NHNN sẽ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất để thu hút tiền nhàn rỗi trong lưu thông về nhằm điều hoà lượng tiền trong lưu thông, cân đối với khối lượng hàng hoá. 2.1.2. Phân loại lãi suất 2.1.2.1. Lãi suất huy động Ngân hàng cung cấp dịch vụ với giá cả nhất định , với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng phải trả giá cho khách hàng về phần lớn nguồn tiền mà ngân hàng huy động được. Lãi suất: là tỷ lệ (%) của số lãi trên gốc trong thời gian nhất định. Ví dụ, lãi suất tiền gửi là 12%/năm. Nếu khách hàng gửi vào ngân hàng 100 triệu, với thời hạn 6 tháng, thì ngân hàng sẽ phải trả số tiền lãi cho khách khi đến hạn là:10 triệu * 6 tháng * 12%/12 = 6 triệu Lãi suất huy động: Là các loại lãi suất ngân hàng phải trả cho nguồn huy động bao gồm lãi suất tiền gửi giao dịch, lãi suất tiết kiệm và lãi suất tài trợ như lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay. Để đảm bảo thu nhập ròng, lãi suất huy động bình quân phải nhỏ hơn lãi suất trợ bình quân. Trước đây lãi suất huy động được ấn định ở mức cố định do NHNN ban hành nhưng điều đó tạo ra cản trở lớn cho các NHTM thực hiện nghiệp vụ của mình và thị trường tài chính luôn mang tính bao cấp. Qua nhiều những thay đổi để tiến tới tự do hoá lãi suất, ngày nay lãi suất huy động được tính một cách linh hoạt dựa trên thực tế về thị trường cung - cầu tiền tệ và các NHTM có quyền quyết định và đưa ra mức lãi suất huy động phù hợp với tình hình cũng như hoạt động của mình. Rd = Rf + Rtd Trong đó: -Rd: Lãi suất huy động -Rf: Lãi suất phi rủi ro xác định thông qua đấu thầu tín phiếu kho bạc -Rtd: Tỷ lệ bù đắp rủi ro tín dụng do ngân hàng ước lượng 2.1.2.2. Lãi suất cơ bản Lãi suất cơ bản: là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN trong ngắn hạn. Theo luật NHNN, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do NHNN công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn.Theo luật dân sự các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ bản. Tuy được nhắc đến trong Luật NHNN và luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 1998 song lãi suất cơ bản chỉ được công bố lần đầu vào ngày 30 tháng 05 năm 2000. Trong lần đầu được công bố, lãi suất cơ bản ở mức 7,2%/năm. Vào thời điểm tháng 6 năm 2008, lãi suất cơ bản là 14%/năm. Điều này có nghĩa các tổ chức tín dụng có thể quyết địng mức lãi suất cho vay của mình cao tới 21%/năm. Lãi suất cơ bản sẽ được NHNN công bố hàng tháng. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương nước ngoài tương tự như lãi suất cơ bản của NHNN Việt Nam là Fed Funds Rate của Hoa Kỳ, London Interbank Offered Rate (LIBOR) của Anh, Tokyo Interbank Offered Rate (TIBOR) của Nhật Bản, Euro Interbank Offered Rate của Liên minh Châu Âu. Rcb = Rd + Rtn Trong đó: -Rcb: Lãi suất cơ bản -Rd: Lãi suất huy động -Rtn: Tỷ lệ thu nhập do đầu tư của ngân hàng 2.1.2.3. Lãi suất cho vay Hoạt động tín dụng là họat động cơ bản và truyền thống của ngân hàng. Khi cạnh tranh trên thị trường cho vay càng cao, ngân hàng càng phải cố gắng duy trì giá của các khoản tín dụng tại mức hợp lý, phù hợp với mặt bằng chung của thị trường tài chính. Trong một thị trường có tính cạnh tranh cao, ngân hàng chỉ có thể đóng vai trò là người chấp nhận giá, ngân hàng không thể là người đặt giá. Cùng với quá trình tự do hóa hoạt động ngân hàng tại nhiều quốc gia, sự gia tăng trong cạnh tranh đã thu hẹp đáng kể khả năng sinh lời của ngân hàng từ các nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay. Chính vì vậy, việc định giá chính xác các khoản cho vay ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Lãi suất cho vay là tỷ lệ số tiền lãi so với số tiền gốc khách hàng vay phải trả cho NHTM. Có hai cách xác định lãi suất cho vay: + Dựa trên lãi suất cơ bản: R= Rcb + Rth + Rct Trong đó: -R: Lãi suất cho vay -Rcb: Lãi suất cơ bản -Rth: Tỷ lệ điều chỉnh rủi ro thời hạn -Rct: Tỷ lệ điều chỉnh cạnh tranh + Dựa trên lãi suất thi trường liên ngân hàng, là lãi suất các ngân hàng cho nhau vay. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng nổi tiếng như LIBOR, SIBOR thường trở thành lãi suất cơ bản của các NHTM. Lãi suất này thường xuyên thay đổi. Do đó, nếu ngân hàng áp dụng cho vay với lãi suất thả nổi thường chọn lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hình thành lãi suất cho vay: R = LIBOR + Rtd + Rth Trong đó: -R: Lãi suất cho vay -LIBOR: Lãi suất liên ngân hàng -Rtd: Tỷ lệ bù đắp rủi ro tín dụng do ngân hàng ước lượng -Rth: Tỷ lệ điều trỉnh rủi ro thời hạn Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là thị trường mà các NHTM thực hiện việc vay và cho vay lẫn nhau sau khi họ đã tự cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn tại ngân hàng của mình. Lãi suất cho vay liên ngân hàng là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nó chỉ dẫn khá chính xác về chi phí vốn vay của các NHTM và cung - cầu vốn trên thị trường. Mỗi loại ngoại tệ được chào mời với một lãi suất riêng biệt chủ yếu với thời hạn 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng vào thời điểm 11h30’(Giờ London) khi mà tình hình cung cầu đã rõ nét trên thị trường vốn quốc tế (Nguyễn Minh Kiều, 2007). 2.1.3. Hoạt động huy động vốn 2.1.3.1 Nguồn tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hính thức huy động khác nhau. Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán): Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán (tài khoản có thể phát séc) cho khách hàng. Thủ tục mở rất đơn giản. Yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một ngân hàng kết hợp tài khoản và tài khoản cho vay (thấu chi – chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. Tiền có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức gửi tiền có kì hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán để áp dụng với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm nhiều chương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hang và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. Tiền gửi của các ngân hàng khác: nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn vốn này thường không lớn. 2.1.3.2. Nguồn đi vay và nghiệp vụ đi vay của Ngân hàng thương mại Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần ngân hàng thường đi vay mượn thêm. Tại nhiều nước ngân hàng Trung ương thường qui định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán) NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ NHNN. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc NHNN). Khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay nợ bằng cách phát hành các giấy nợ (kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều NHTM thiếu vốn tiền gửi trung và dài hạn. Do vậy các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc được bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. 2.1.3.3 Các nguồn huy động khác Nguồn ủy thác: NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ… Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng. Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở L/C) những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay. Nguồn khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả… 2.1.4. Hoạt động cho vay của ngân hàng 2.1.4.1 Tín dụng ngắn hạn Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh nghiệp, hộ sản xuất. Ngân hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp, cho vay từng lần hoặc theo hạn mức, có hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân chuyển. Tín dụng ngắn hạn trong những trường hợp sau: Ngân hàng cho Nhà nước vay để tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Hình thức phổ biến hiện nay là ngân hàng mua trái phiếu kho bạc phát hành. Khả năng hoàn trả của Nhà nước rất cao, song cũng không loại trừ có những trường hợp Nhà nước mất khả năng chi trả khi đến hạn. Ngân hàng cho vay đối với tổ chức tài chính như các ngân hàng, các công ty tài chính, quỹ tín dụng…nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Một số công ty chứng khoán vay vốn ngắn hạn của NHTM trong quá trình bảo lãnh và phân phối chứng khoán cho công ty phát hành. Hình thức cho vay có thể cho vay trực tiếp (trên thị trường liên ngân hàng) hoặc cho vay gián tiếp thông qua nắm giữ chứng khoán. Phần lớn các khoản cho vay này đều dựa trên uy tín của người vay; phần còn lại dựa trên bảo lãnh của người thứ ba, hoặc dựa trên cầm cố chứng khoán thanh khoản cao. Ngân hàng cho vay đối với doanh nghiệp nhằm tài trợ nhu cầu vốn tăng thêm cho sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp là khách hàng chiếm số lượng đông nhất của các NHTM. Phần lớn các khoản cho vay này có thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng theo thời vụ là khách hàng chủ yếu của ngân hàng. Họ cần dự trữ cho thời vụ, hoặc tăng chi phí sản xuất. Vào mùa xây dựng các công ty xây dựng là khách hàng vay của ngân hàng. Họ cần có vốn để xây dựng trước công trình (hoặc từng hạng mục) trước khi chủ đầu tư thanh toán. Nguồn trả nợ chính là tiền thanh toán của chủ đầu tư. Các doanh nghiệp cần vay ngân hàng để xây dựng, mở rộng, cải tiến sửa chữa tài sản cố định. Các khoản vay này có thời hạn trên 1 năm. Nguồn trả nợ chủ yếu là từ thu nhập của người vay. Ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu gồm cho vay xuất, nhập khẩu và cho vay thanh toán. Xuất khẩu đang trở thành lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Chính phủ nhiều nước đang sử dụng ngân hàng làm động lực thúc đẩy xuất khẩu. Cho vay xuất, nhập khẩu có rủi ro khá cao, liên quan đến quan hệ buôn bán quốc tế. Ngân hàng cho vay để phát triển đất đối với các công ty xây dựng và phát triển đô thị. Khoản cho vay này thường có thế chấp bằng chính bất động sản của người vay. Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển… Cho vay tiêu dùng có thể gồm tín dụng trực tiếp với người tiêu dùng, hoặc tín dụng gián tiếp thông qua việc ngân hàng mua lại các phiếu (hóa đơn) bán hàng của các nhà bán lẻ hàng hóa. Tín dụng tiêu dùng gián tiếp còn được gọi là tài trợ bán hàng trả góp. Để được vay vốn trừ trường hợp Nhà nước hoặc các cơ quan Nhà nước,các tổ chức tài chính có uy tín, còn lại các doanh nghiệp, các công ty và hộ sản xuất đều phải làm đơn và trình bày với ngân hàng kế hoạch sử dụng tiền vay. Ngân hàng thực hiện phân tích tín dụng xác định hiệu quả sử dụng vốn vay, rủi ro, khả năng và nguồn trả nợ cùng các điều khoản có liên quan. Ngân hàng xác định qui mô cho vay ngắn hạn đối với các doanh nghiệp như sau (loại trừ các công ty tài chính,các tổ chức tín dụng): Bước 1: Xác định nhu cầu dự trữ hàng hóa bình quân trong kỳ Nhu cầu dự trữ hàng hoá bình quân trong kỳ = Doanh số bán tính theo giá vốn trong kỳ Vòng quay hàng hoá dự trữ trogn kỳ Vòng quay được tính dựa trên doanh số bán của kỳ trước Vòng quay hàng hoá dự trữ kỳ trước = Doanh số bán ra tính theo giá vốn kỳ trước Dự trữ hàng hoá bình quân kỳ trước Bước 2: Xác định nhu cầu tín dụng ngắn hạn Nhu cầu vay ngắn hạn ngân hàng = Nhu cầu dự trữ hàng hóa bình quân trong kỳ Nguồn vốn csh, vay các tổ chức tín dụng khác tài trợ cho nhu cầu dự trữ hàng hoá bình quân Nếu doanh nghiệp chưa vay ngân hàng, ngân hàng có thể cho vay bằng với nhu cầu vừa tính. Nếu doanh nghiệp hiện đang vay ngân hàng thì số tiền có thể cho vay thêm là: Số tiền có thể cho vay thêm = Nhu cầu vay ngắn hạn ngân hàng - Dư nợ đến thời điểm xin vay Trong nhiều trường hợp người vay không lập kế hoạch từ trước, ngân hàng sẽ tính toán nhu cầu vay cho từng phương án để tính số tiền cần cho vay. Một số trường hợp ngân hàng không phân tích được phương án vay (do thông tin không đầy đủ hoặc không chính xác, hoặc rủi ro lớn) ngân hàng quyết định số tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo. Số tiền có thể cho vay = Giá trị tài sản đảm bảo * Tỷ lệ cho vay Nếu nhu cầu vay lớn hơn số tiền có thể cho vay, ngân hàng sẽ cho vay theo số tiền có thể; nếu nhu cầu vay nhỏ hơn, ngân hàng sẽ cho vay theo nhu cầu. 2.1.4.2. Tín dụng trung và dài hạn Doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kĩ thuật, mua công nghệ… Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao. Nhà nước vay trung và dài hạn để đầu tư phát triển. Vai trò của Nhà nước trong phát triển ngày càng được nhấn mạnh đặc biệt tại các nước đang phát triển, nơi mà khả năng tích lũy của các doanh nghiệp chưa cao. Cho vay bằng cách mua các trái phiếu: Các ngân hàng mua các trái phiếu trung và dài hạn doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kỳ hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai đều được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu. Cho vay theo các dự án: Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng TSCĐ…nhằm thực hiện dự án nhất định có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân hàng là người vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án (sản xuất kinh doanh). Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định phần vốn cho vay và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, qui trình sản xuất, phân tích tài chính…Trong đó, phân tích tài chính dự án là điểm mà ngân hàng quan tâm hàng đầu. Có nhiều phương pháp phân tích tài chính dự án để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án như phân tích thông qua NPV, IRR, thời gian hoàn vốn, tỷ suất thu nhập bình quân… Bên cạnh việc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá thích hợp, ngân hàng đặc biệt quan tâm tới thời gian và các nguồn có thể dung để trả nợ ngân hàng. Do vậy, trong những trường hợp không phải là dự án mới - tạo pháp nhân mới- ngân hàng luôn phân tích tài chính của người vay kết hợp với phân tích dự án. Một doanh nghiệp có tình hình tài chính mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay để thực hiện dự án. Các nguồn thu khác của người vay có thể trở thành nguồn trả nợ cho ngân hàng bên cạnh nguồn thu của dự án. Nhu cầu đầu tư theo dự án = Nhu cầu đầu tư vào TSCĐ + Nhu cầu đầu tư vào TSLĐ Nhu cầu đầu tư này được tính dựa trên tổng hợp các chi phí về xây dựng, giải phóng mặt bằng, mua và lắp đặt các thiết bị… và các TSLĐ dự trữ cần thiết để bắt đầu quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó khách hàng có thể lập kế hoạch vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động. Sau khi phân tích nhu vầu vốn đầu tư của người vay ngân hàng sẽ xem xét kỹ lưỡng các nguồn vốn tài trợ như nguồn tự có, chiếm dụng của người cung cấp, vay các tổ chức tín dụng khác…Các yếu tố sau sẽ được các ngân hàng phân tích xem xét nguồn tài trợ: . Quy mô và thời hạn của mỗi nguồn . Tính khả thi của mỗi nguồn và các điều kiện để dự án tiếp cận được nguồn. Nhiều nguồn tài trợ được thực hiện dưới hình thái hiện vật ví dụ vốn góp dưới hình thức quyền sở hữu công nghệ, quyền sử dụng đất, mặt nước, rừng, quyền khai thác, nhà xưởng và thiết bị có sẵn… Việc tính giá trị các loại tài sản này rất phức tạp tuy nhiên là rất cần thiết đối với ngân hàng. Trong nhiều trường hợp các tài sản góp này sẽ trở thành vật thế chấp cho ngân hàng. Một số nguồn tài trơ có thể có thời gian không dài như tín dụng thương mại (mua trả chậm thiết bị). Người cung cấp có thể bán trả chậm trong một vài năm. Người vay phải trả khi mà các máy móc này mới chỉ hoạt động trong thời gian ngắn. Kế hoạch trả nợ này ảnh hưởng trực tiếp đến thu nợ của ngân hàng. Các nguồn tài trợ đều gắn với những điều kiện nhất định như vốn Nhà nước cấp phụ thuộc vào kế hoạch và khả năng chi của ngân sách Nhà nước; khoản tài trợ để mua thiết bị chỉ được thực hiện khi nhà xưởng đã xây xong… Nếu ngân hàng là người cấp tín dụng duy nhất, trong trường hợp qui mô tín dụng lớn, rủi ro của ngân hàng sẽ rất cao. Việc có nhiều bên tham gia cấp tín dụng sẽ san sẻ rủi ro cho ngân hàng song lại đòi hỏi ngân hàng phải phân tích kĩ các nguồn và chủ tài trợ. Ngân hàng tính toán qui mô tín dụng như sau: Tín dụng của ngân hàng = Nhu cầu đầu tư – Các nguồn khác tham gia tài trợ Trong trường hợp để hạn chế rủi ro, ngân hàng có thể yêu cầu tài sản đảm bảo và cho vay dựa trên giá trị của tài sản đảm bảo. Tín dụng của ngân hàng = Giá trị tài sản thế chấp * Tỷ lệ ngân hàng tham gia Tín dụng của ngân hàng có thể bao gồm cả cho vay, cho thuê, bảo lãnh, cả ngắn, trung và dài hạn. Thời điểm tài trợ của ngân hàng cũng rất khác nhau, có thể tài trợ ngay từ đầu để người vay thực hiện xây dựng cơ sở vật chất, hoặc bảo lãnh để nhập thiết bị, hoặc cho vay để trả cho người trả chậm, cho vay ứng trước phần vốn Nhà nước cấp. Trong trường hợp ngân hàng yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng có thể quyết định phần tài trợ của mình theo giá trị của tài sản đảm bảo. 2.1.4.3. Cho vay đối với người tiêu dùng Ngân hàng cho vay đối với người tiêu dùng để mua hàng trả góp, hàng hóa lâu bền như xe máy, nhà cửa…Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ (hoặc đồng tài trợ) toàn bộ hoặc một phần giá trị hàng hóa. Cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Nếu người vay bị chết, ốm hoặc bị mất việc, ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Nhiều khoản cho vay với thời hạn dài (mua nhà thế chấp). Vì vậy, nhiều ngân hàng lớn lập phòng cho vay tiêu dùng. Bên cạnh đó ngân hàng thường yêu cầu suất cao, yêu cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa đã mua… ( Nguyễn Minh Kiều, 2007). 2.1.5. Sự thay đổi lãi suất ở Việt Nam Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN chi phối cơ chế qu._.ản lý lãi suất nói chung và từng loại lãi suất nói riêng. NHNN đã can thiệp trực tiếp tới lãi suất huy động cũng như lãi suất cho vay của các NHTM trong các giai đoạn phát triển thị trường Ngân hàng Việt Nam. Nhìn lại diễn biến lãi suất qua từng thời kỳ chúng ta thấy được những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. 2.1.5.1 Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hoá tập trung (trước năm 1988) Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất được xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa. 2.1.5.2. Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước( từ năm 1988 đến 2008) Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế Việt Nam trong lĩnh vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT là việc hình thành và phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của NHNN và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp lệnh về: NHNN và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 03/05/1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 01/10/1990 với nội dung chủ yếu: Xoá hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó NHNN Vịêt Nam thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các NHTM, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Quá trình tự do hoá lãi suất của Việt Nam 20 năm qua được khái quát như sau: a) Cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định (1989 – 05/1992) Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá tiêu dùng, đặc biệt lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương. b) Cơ chế điều hành khung lãi suất (06/1992-1995) Đặc trưng của cơ chế này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các NHTM, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của NHNN để đưa ra các mức lãi suất thích hợp cho mình. Thực chất đây là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương đảm bảo cho các NHTM, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả và đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. c) Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-07/2000) Trong năm 1997, NHNN đã thay đổi hình thức quy định lãi suất tái cấp vốn, chuyển sang quy định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0.7%/tháng từ 04/09/1999) để phù hợp với chỉ số lạm phát quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của Chính phủ. Cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ quy định chênh lệch lãi suất, chỉ còn quy định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong các năm 1998;1999. Để bổ sung công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999 NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá cho các NHTM, lãi suất tái chiết khấu được quy định ở mức thấp hơn 0,05%/ tháng so lãi suất tái cấp vốn Tháng 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch. Tháng 8 năm 2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng đựơc điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN. Tuy nhiên các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản +0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung và dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. Hình 2.1 cho thấy lãi suất cho vay của ngân hàng luôn thấp hơn giới hạn biên độ cho phép. Trước thời điểm áp dụng lãi suất cơ bản, lãi suất cho vay bình quân của bốn NHTM quốc doanh đã kịch trần (0,85%/tháng). Thực tế trong năm 1999, các NHTM không theo kịp 5 đợt hạ trần lãi suất của NHNN và kết quả là LSCV ngắn hạn bình quân vượt trên trần lãi suất. d) Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm theo biên độ (08/2000-05/2002) Từ tháng 8 năm 2000, lãi suất cơ bản được đặt ở mức mà khi cộng với biên độ 0,3%/tháng đã cao hơn hẳn lãi suất cho vay thực tế. Như vậy, từ khi có cơ chế lãi suất cơ bản, các ngân hàng đã bắt đầu ấn định lãi suất trên cơ sở thoả thuận với khách hàng. Điểm đáng chú ý là LSCV của các NHTM mặc dù luôn cao hơn lãi suất cơ bản nhưng thay đổi theo lãi suất cơ bản. Trong năm 2000 và 2001 cả hai mức lãi suất này đều giảm nhưng trong thời gian đó lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn nhưng LSCV vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất do vậy giảm đi rõ rệt. Tháng 11 năm 2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xoá bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nước ngoài. Tháng 06/2002, lãi suất được tự do hoá hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Với việc chính thức tự do hoá lãi suất thì lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ còn tính chất tham khảo. Hình 2.1: Từ trần lãi suất đến lãi suất cơ bản rồi tự do hóa lãi suất 1998-2002 Nguồn: Tính toán từ cơ sở dữ liệu tài chính quốc tế IFS của IMF. e) Cơ chế lãi thoả thuận (06/2002-2008) Ngày 17/05/2008 NHNN đã tổ chức họp báo công bố những điều chỉnh mới trong chính sách điều hành lãi suất. NHNN chính thức sử dụng các công cụ sẵn có để điều tiết lãi suất trên thị trường, thay vì “mệnh lệnh hành chính” trong thời gian trước đó. Cụ thể theo Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN công bố ngày 17/05/2008, Thống đốc NHNN quyết định việc sử dụng lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam (VND) đối với khách hàng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, NHNN sẽ công bố lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời loại lãi suất này. Với cơ chế này, việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VND của tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ban hành ngày 30/05/2002 hết hiệu lực thi hành. Cùng với việc khẳng định cơ chế mới, NHNN cũng điều chỉnh lãi suất cơ bản áp dụng từ ngày 19/05/2008 tăng từ 8.75%/năm lên 12%/năm. Theo đó từ ngày 19/05/2008 tất cả các hợp đồng tín dụng có lãi suất trên 18%/năm là phạm luật.Với cơ chế mới, các tổ chức tín dụng sẽ được chủ động điều chỉnh lãi suất huy động, thay cho việc cố định ở trần 12%/năm như trước đó. Cơ chế mới cũng hé mở khả năng thực hiện được định hướng lãi suất thực dương tạo thuận lợi để các ngân hàng tăng cường khả năng huy động thay vì phải chịu lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng. Các nhu cầu vay vốn sẽ được giảm bớt gánh nặng chi phí, giới hạn 18%/năm thay vì có thể lên tới 20% thậm chí cao hơn trước đó. Như vậy, sau quyết định 16/2008/QĐ-NHNN lãi suất cơ bản sẽ được trả về đúng vị trí và vai trò của nó, như một chuẩn mực để các tổ chức tín dụng bám sát trong điều hành lãi suất của mình. Tóm lại, có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở Việt Nam từ khi có môi hình ngân hàng hai cấp đến nay trải qua năm bước chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng và khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định: Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát. Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xoá dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi. Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hoá lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Quyết định 546/2002 QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng, đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất trong nền kinh tế đối với hoạt động tín dụng và lãi suất cơ bản công bố của NHNN dần dần sẽ mang tính chất tham khảo đối với các tổ chức tín dụng trong việc xác định lãi suất từng thời kỳ. Như vậy quá trình đổi mới cơ chế lãi suất từ kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất sang cơ chế lãi suất thoả thuận thực chất là dần dần đã tự do hoá lãi suất ( Tạp chí ngân hàng, 2008). 2.1.6. Tác động lãi suất đối với Ngân hàng thương mại 2.1.6.1. Khe hở lãi suất Lãi suất tác động trực tiếp tới nền kinh tế thị trường và ảnh hưởng tới hoạt động cũng như hành vi của NHTM. Các NHTM luôn theo sát và có những nghiên cứu về lãi suất trong quá trình hoạt động của mình.Vì nếu như không có chính sách lãi suất đúng đắn và phù hợp với diễn biến tình hình thị trường cung-cầu tiền tệ thì các NHTM sẽ phải chịu rủi ro lãi suất. Rủi ro lãi suất xảy ra dẫn đến sự giảm giá trị củ tài sản có sinh lời hoặc làm tăng chi phí của tài sản nợ ngân hàng dẫn đến giảm chênh lệch lãi ròng. Lãi suất thay đổi ảnh hưởng tới hành vi và hoạt động của NHTM do sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản được đo bằng khe hở lãi suất. Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm lãi suất - Nguồn nhạy cảm lãi suất Các tài sản và nguồn nhạy cảm thường là các loại mà số dư nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới khi lãi suất thay đổi, ví dụ như khoản tiền gửi ngắn hạn, các khoản cho vay và đi vay trên thị trường liên ngân hàng, chứng khoán ngắn hạn của Chính phủ, các khoản cho vay ngắn hạn. Các loại ít nhạy cảm thuộc về tài sản nguồn trung và dài hạn với lãi suất cố định. Ví dụ, một khoản tiền gửi tiết kiệm 3 tháng (100 tỷ) với lãi suất 10%/năm. Khi lãi suất thị trường thay đổi (tăng hoặc giảm) thì khoản tiền này (100 tỷ) sẽ nhanh chóng chuyển sang lãi suất mới. Ngược lại, với khoản tiết kiệm 3 năm, khi lãi suất thị trường thay đổi thì chỉ một phần nhỏ sắp hết hạn hoặc mới gửi có khả năng chuyển sang lãi suất mới. Do ngân hàng sử dụng lãi suất cố định đã tạo ra các tài sản và nguồn vốn kém nhạy cảm với lãi suất. Ngân hàng có khe hở dương nếu tài sản nhạy cảm lớn hơn nguồn nhạy cảm (kỳ huy động dài hơn sử dụng) và có khe hở âm nếu tài sản nhạy cảm nhỏ hơn nguồn nhạy cảm (kỳ hạn huy động nhỏ hơn kỳ sử dụng). Lãi suất thị trường thường xuyên thay đổi, ngân hàng luôn nghiên cứu và dự báo lãi suất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp ngân hàng không thể dự báo chính xác mức độ thay đổi của lãi suất và khi đó. Nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất dương: + Khi lãi suất thị trường tăng, chênh lệch lãi suất tăng. + Khi lãi suất thị trường giảm, chênh lệch lãi suất giảm. Nếu ngân hàng duy trì khe hở lãi suất âm: + Khi lãi suất trên thị trường tăng, chênh lệch lãi suất giảm. + Khi lãi suất trên thị trường giảm, chênh lệch lãi suất tăng. Các nhà quản lý ngân hàng đã dùng khe hở lãi suất như là chỉ tiêu đo khả năng thu nhập giảm khi lãi suất thay đổi. Khe hở lãi suất hình thành do chênh lệch về tài sản và nguồn nhạy cảm, có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của nguồn và tài sản nhạy cảm: Nhu cầu về kỳ hạn của người sử dụng Khả năng về kỳ hạn của người gửi và người cho vay Chuyển hoá kỳ hạn của nguồn Sự khác biệt về kỳ hạn của nguồn và tài sản là yếu tố tất yếu. Kỳ hạn để phân loại tài sản và nguồn nhạy cảm không phải là kỳ hạn danh nghĩa mà là kỳ hạn tài sản và nguồn được xác định lại lãi suất. Ví dụ, một nguồn tiền huy động hai năm, với lãi suất 10%/năm song đã duy trì được 1 năm 10 tháng. Vậy vào thời điểm tính toán, nguồn này chỉ còn 2 tháng là đến hạn. Nếu lãi suất thị trường thay đổi, nguồn này sẽ được đặt lại giá (xác định lại lãi suất). Ngân hàng khó và không cần thiết duy trì sự phù hợp tuyệt đối giữa các nguồn và các loại tài sản khác nhau trong mọi thời kỳ. Trước hết, kỳ hạn trên thường là do khách hàng quyết định. Thứ hai, sự thay đổi của các loại lãi suất rất khác nhau và mức độ nhạy cảm của nguồn và tài sản đối với lãi suất cũng khác nhau. Thứ ba, sự khác biệt về nguồn và tài sản nhạy cảm có thể tạo thu nhập cao hơn cho ngân hàng. Khi duy trì khe hở nhạy cảm khác không, nếu lãi suất thay đổi theo hướng phù hợp thì thu nhập của ngân hàng sẽ tăng lên. Giả sử, lãi suất thay đổi với mức độ nào đó không có lợi cho ngân hàng, mức độ giảm thu nhập từ lãi suất của ngân hàng sẽ tỷ lệ thuận với quy mô khe hở lãi suất. 2.1.6.2 Sự thay đổi của lãi suất thị trường Trong trường hợp ngân hàng đang duy trì khe hở lãi suất dương, tức ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ tăng. Nếu lãi suất tài sản và nguồn nhạy cảm cùng tăng như nhau, ngân hàng sẽ có lợi; nếu chúng giảm xuống với cùng mức độ, chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ giảm làm giảm thu nhập từ lãi suất. Trong trường hợp ngân hàng đang duy trì khe hở lãi suất âm tức là ngân hàng dự đoán lãi suất sẽ giảm. Nếu lãi suất tài sản và nguồn nhạy cảm cùng tăng với một mức độ, chênh lệch lãi suất của ngân hàng sẽ giảm, làm giảm thu nhập từ lãi suất. Như vậy, trạng thái tài sản và nguồn không phải là yếu tố duy nhất gây nên rủi ro lãi suất. Trạng thái trên được kết hợp với thay đổi lãi suất ngoài mong muốn của nhà quản lý ngân hàng sẽ gây nên rủi ro lãi suất. Do khả năng dự đoán thay đổi lãi suất có hạn trước thay đổi của môi trường kinh doanh, khe hở lãi suất trở thành yếu tố đo rủi ro lãi suất tiềm năng. Nếu khe hở lãi suất càng lớn thì rủi ro càng lớn. Ví dụ: Một ngân hàng đang có trạng thái nhạy cảm với lãi suất như sau (số dư bình quân trong kỳ, đơn vị tỷ đồng, lãi suất bình quân %/kỳ): Tài sản Số dư Lãi suất Nguồn Số dư Lãi suất - Tài sản nhạy cảm 80 5 - Nguồn nhạy cảm 120 4 - Tài sản kém nhạy cảm 120 7 - Nguồn kém nhạy cảm 80 5 Chênh lệch lãi suất của ngân hàng trong kỳ là: (80 * 5% + 120 * 7% - 120 * 4% - 80 * 5%)*100 = 1,4% 200 Nếu lãi suất thị trường tăng thêm 1%, chênh lệch lãi suất của ngân hàng: (80% * 6% + 120 * 8% - 120 * 5% - 80 * 6%) * 100 = 1,2% 200 Khe hở nhạy cảm là: 80 – 120 = - 40 Từ khe hở nhạy cảm ta có thể dự đoán tổn thất khi lãi suất thay đổi: Thu nhập từ lãi thay đổi = khe hở nhạy cảm * mức gia tăng của lãi suất Từ ví dụ trên ta có: Thu nhập từ lãi giảm = - 40 x 1% = - 0,4(đơn vị) Chênh lệch lãi suất = khe hở nhạy cảm * mức tăng của lãi suất Tổng tài sản sinh lợi 2.1.6.3. Mức độ nhạy cảm của lãi suất Kỳ hạn nguồn và tài sản quyết định độ lớn của khe hở lãi suất. Để đơn giản, các tài sản và nguồn ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống) là nhạy cảm lãi suất (mức độ nhạy cảm như nhau). Tuy nhiên trên thực tế các kỳ hạn khác nhau sẽ có mức độ nhạy cảm lãi suất khác nhau. Tiền gửi tại các NHNN, tiền gửi thanh toán là tài sản và nguồn có mức độ nhạy cảm lớn nhất. Tiền gửi tiết kiệm 9 tháng (sau 9 tháng mới đặt giá lại) có mức độ nhạy cảm thấp hơn loại tiền gửi tiết kiệm loại 12 tháng. Nguồn 12 tháng có thể chuyển thành loại tài sản 12 tháng và 24 tháng để tạo khe hở bằng không. Khi lãi suất thay đổi trong một khoảng thời gian dự tính, tỷ lệ các tài sản và nguồn nhạy cảm được đặt giá lại cũng khác nhau. Ví dụ, khi lãi suất tăng 100% tiền gửi thanh toán được chuyển sang lãi suất mới chỉ trong vòng một ngày, trong khi đó chỉ một phần tiền gửi tiết kiệm 3 tháng được chuyển sang lãi suất mới trong vòng 1 tháng… Do vậy, nhà quản lý cần kết hợp quy mô và kỳ hạn cá biệt của từng loại tài sản và nguồn để tính kỳ hạn trung bình và nguồn, nghiên cứu mức độ nhạy cảm của chúng với lãi suất. Nguồn và tài sản có kỳ hạn trên 1 năm với lãi suất cố định được coi là kém nhạy cảm với lãi suất. Song mức độ nhạy cảm của mỗi loại cũng khác nhau và đều tác động đến khe hở lãi suất. Một nguồn huy động 3 năm để cho vay 3 năm với lãi suất cố định thì không có rủi ro lãi suất. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều doanh nghiệp vay lớn có quyền thay lãi suất khi lãi suất thị trường giảm. Các doanh nghiệp này có thể trả trước hạn, vay ngân hàng khác để trả hoặc thoả thuận với ngân hàng để giảm lãi suất ghi trong hợp đồng… Khi tình trạng cho vay trở nên khó khăn, các ngân hàng buộc phải chấp nhận yêu cầu của khách. Thực tế này tạo tổn thất cho ngân hàng ( Luận văn tốt nghiệp, 2008). 2.2 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp thu thập số liệu - Thu thập số liệu thứ cấp: Đây là những số liệu, thông tin đã được nghiên cứu và công bố phục vụ cho quá trình nghiên cứu, nắm được thông tin về địa bàn và đối tượng nghiên cứu. Bao gồm thu thập số liệu qua sách báo, các công trình khoa học được công bố, số liệu thống kê, các bảng tổng kết và bảng số liệu theo dõi hoạt động tại chi nhánh… Cụ thể đọc và nghiên cứu những tài liệu liên quan tới đề tài nghiên cứu. 2.2.2. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu thu thập được tiến hành chọn lọc và xử lý bằng excel đưa ra đựơc bảng biểu và đồ thị. 2.2.3. Phương pháp phân tích số liệu 2.2.3.1. Phương pháp thống kê mô tả Là quá trình chuyển dịch dữ liệu thô thành những dạng thích hợp hơn cho việc hiểu và giải thích chúng. Trong đề tài tôi sử dụng số tương đối, số tuyệt đối và số bình quân… 2.2.3.2. Phương pháp so sánh So sánh số liệu qua các thời kỳ và giai đoạn để thấy được sự biến động của các chỉ tiêu nghiên cứu. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thông Cầu Giấy 3.1.1 Quá trình hình thành và phát triển Năm 1988 Ngân hàng Phát triển nông thôn Việt Nam được thành lập theo Nghị định số 53/HĐBT ngày 16/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập các ngân hàng chuyên doanh trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực nông thôn. Thống đốc NHNN có Quyết định số 603/NH-QĐ ngày 22/12/1990 về việc thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp các tỉnh, thành phố. Trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp gồm 3 sở giao dịch (sở giao dịch 1 tại Hà Nội, sở giao dịch 2 tại văn phòng đại diện khu vực miền Nam, sở giao dịch 3 tại văn phòng đại diện khu vực miền Trung) và 43 chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh, thành phố. Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp quận, huyện, thị xã có 475 chi nhánh. NHNo&PTNT Hà Nội thành lập theo quyết định 51-QĐ/NH/QĐ ngày 27/06/1988 của Tổng Giám đốc NHNN Việt Nam (nay là Thống đốc NHNN Việt Nam) về việc thành lập các NHTM trên địa bàn Hà Nội. Lúc đó, ngân hàng mang tên chi nhánh Ngân hàng Phát triển nông thôn Thành phố Hà Nội, trụ sở chính đóng tại số 77 Phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng – TP Hà Nội. Chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy được thành lập trên cơ sở nâng cấp, điều chỉnh từ chi nhánh cấp II theo Quyết định số 28/QĐ/HĐQT/TCCB ngày 13 tháng 01 năm 1997 của chủ tịch Hội đồng Quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. 3.1.2 Cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của Chi nhánh NHNNo&PTNT Cầu Giấy 3.1.2.1 Cơ cấu tổ chức Khi mới thành lập Chi nhánh NHNo Cầu Giấy là chi nhánh cấp I chưa được xếp hạng với tổng số cán bộ là 41 cán bộ, cơ cấu tổ chức gồm: Ban giám đốc và 07 phòng, tổ nghiệp vụ: Phòng hành chính – nhân sự, phòng Nguồn vốn - Kế hoạch, phòng Kế toán – Ngân quỹ, phòng Tín dụng, phòng Thẩm định, Tổ kiểm tra,kiểm soát nội bộ, Tổ Thanh toán quốc tế và 4 phòng giao dịch trực thuộc. Đến năm 2006 chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy là chi nhánh cấp I hạng 2 với bộ máy tổ chức hoàn chỉnh với các phòng có chức năng chuyên biệt hoạt động tại trụ sở chi nhánh và 10 phòng giao dịch hoạt động trên địa bàn. 3.1.2.2 Nhiệm vụ của chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy có chức năng: kinh doanh đa năng trên địa bàn Thủ đô Hà Nội cùng các nhiệm vụ: - Huy động vốn: + Khai thác và nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng VND và ngoại tệ. + Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, kì phiếu và thực hiện các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam + Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác của Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước và nước ngoài theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. + Được phép vay vốn các tổ chức tài chính, TCTD khác hoạt động tại Việt Nam và nước ngoài khi được sự chấp thuận của Tổng Giám đốc bằng văn bản. + Các hình thức huy động khác theo q uy định của NHNo&PTNT Việt Nam. - Cho vay: + Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. + Cho vay trung và dài hạn nhằm thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, đời sống đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. - Cung ứng các dịch vụ thanh toán ngân quỹ: + Cung ứng các phương tiện thanh toán. + Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng. + Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ. + Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. + Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN và của NHNo&PTNT Việt Nam. - Kinh doanh ngoại hối: Huy động và cho vay, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, bảo lãnh, tái bảo lãnh, chiết khấu bộ chứng từ và các dịch vụ khác về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của Chính phủ, NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam. - Kinh doanh các dịch vụ Ngân hàng khác: Kinh doanh các dịch vụ ngân hàng theo Luật các TCTD: thu, chi tiền mặt, mua bán vàng bạc, máy rút tiền tự động, dịch vụ thẻ, két sắt; nhận bảo quản, cất giữ, chiết khấu giấy tờ có giá; thẻ thanh toán; nhận uỷ thác cho vay của các tổ chức tài chính, TCTD, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; các dịch vụ ngân hàng khác được Nhà nước, NHNN, NHNo Việt Nam cho phép. - Cầm cố, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định của NHNNo Việt Nam. - Thực hiện dịch vụ cầm đồ theo quy định của pháp luật và của NHNo&PTNT Việt Nam. - Thực hiện đồng tài trợ, đầu mối đồng tài trợ cấp tín dụng theo quy định và thực hiện các nghiệp vụ tài trợ thương mại khác theo quy định của NHNNo&PTNT Việt Nam. - Bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu…cho các tổ chức, cá nhân, theo quy định của NHNo&PTNT VIệt Nam. - Thực hiện thanh toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. - Thực hiện kiểm tra, kiểm toán nội bộ theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam. - Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, lao động tiền lương, thi đua khen thưởng theo phân cấp uỷ quyền của NHNo&PTNT Việt Nam. - Chấp hành đầy đủ các báo cáo thống kê theo chế độ quy định và theo yêu cầu đột suất của Tổng Giám đốc. - Thực hiện các nhiệm vụ khác do HĐQT, Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao. Là một chi nhánh của NHNo&PTNT Việt Nam nên hoạt động của chi nhánh được thực hiện thông qua những chính sách cũng như phương hướng hoạt động của NHN&PTNT Việt Nam. Tuy nhiên, để phù hợp với phạm vi và địa bàn hoạt động của mình chi nhánh vẫn có những quyết định riêng trong hoạt động khác với hoạt động chung của cả Ngân hàng. Khi có sự thay đổi về lãi suất chi nhánh được phép áp dụng mức lãi suất riêng của mình dựa trên chính sách lãi suất của NHNN và của NHNo&PTNT Việt Nam sao cho phù hợp với cơ cấu và mục tiêu hoạt động tại chi nhánh. Mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn khác nhau chi nhánh đưa ra những chiến lược khác nhau trong việc phục vụ khách hàng, nâng cao doanh thu cũng như việc giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Chủ yếu những chiến lược hoạt động điều chỉnh dựa trên công cụ lãi suất vì lãi suất là mối quan tâm lớn nhất của khách hàng khi lựa chọn đặt mối quan hệ với ngân hàng và hoạt động của ngân hàng chủ yếu dựa trên hành vi của khách hàng. Là một ngân hàng chi nhánh nên trong hoạt động chi nhánh phải tích cực nghiên cứu hành vi của khách hàng và linh hoạt trước sự phát thay đổi của thị trường sao cho công tác hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam nói chung và của NHNo&PTNT Cầu Giấy nói riêng. 3.1.3. Kết quả tài chính Kết quả tài chính từ năm 2006 đến năm 2008 tại chi nhánh cho thấy được tình hình tài chính của chi nhánh tương đối lành mạnh, thể hiện sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Nó đã phản ánh được hiệu quả trong kinh doanh, việc tiết kiệm chi phí đầu vào cũng như chi phí quản lý thực sự là một cố gắng lớn của chi nhánh trong những năm qua. Tuy tỷ trọng thu dịch vụ còn nhỏ so với tổng thu xong chi nhánh đã rất tích cực tìm mọi biện pháp để trong việc đẩy các loại hình dịch vụ tăng thêm nguồn thu. Bảng 3.1. Kết quả tài chính năm 2006 đến 2008 STT Chỉ tiêu 2006 2007 2008 1 Tổng thu (triệu đồng) 78.527 152.888 233.663 2 Tổng chi (triệu đồng) 121.299 113.524 195.430 Chênh lệch thu - chi + 83 + 39.364 +8.233 3 Thu dịch vụ 2.000 3.177 4.200 4 Chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra (%) 0,27 0,28 0,20 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008 tại chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy) 3.2. Tình hình hoạt động của Chi nhánh NHNNo&PTNT Cầu Giấy 3.2.1. Hoạt động huy động vốn 3.2.1.1 Hoạt động huy động vốn theo thời hạn Do xác định được ý nghĩa và tầm quan trọng của nguồn vốn, ngay từ khi thành lập chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy đã chủ động xây dựng chiến lược huy động vốn và đề ra những biện pháp tích cực, đa dạng, hấp dẫn và tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác huy động vốn, làm tốt công tác tiếp thị, có cơ chế khen thưởng rõ ràng nhằm khuyến khích cán bộ đạt thành tích trong công tác huy động vốn. Vì vậy, kết quả huy động nguồn vốn của chi nhánh tăng trưởng qua từng năm cụ thể. Việc phân loại nguồn vốn trong hoạt động tại các ngân hàng là rất quan trọng. Việc phân loại giúp ban lãnh đạo cũng như cán bộ tín dụng nhìn vào đó có thể đưa ra kế hoạch hoạt động và sử dụng vốn cho hợp lý. Nguồn tiền huy động được ngân hàng phải trả một khoản phí sử dụng vốn là lãi suất rất lớn trong khi đó giá trị cũng như kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào biến động thị trường. Hầu hết các ngân hàng đều phân loại nguồn vốn theo 4 tiêu thức: phân theo loại tiền, phân theo đối tượng, phân theo kỳ hạn, phân theo tính chất nguồn vốn. Trong đó, việc phân loại theo kỳ hạn được chú ý và theo dõi chặt chẽ hơn hết. Cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng vì nó liên quan tới khe hở lãi suất – một chỉ tiêu nói lên tác động của lãi suất tới hoạt động tại bất kỳ một ngân hàng nào. Khi ngân hàng dự đoán được biến động chung về lãi suất, xu hướng thay đổi hành vi của khách hàng khi lãi suất thay đổi trong tương lai sẽ đưa ra cho mình được một chính sách lãi suất cho phù hợp với từng hình thức huy động vốn cũng như từng kỳ hạn huy động, cho vay sao cho doanh thu cao nhất và rủi ro là thấp nhất. Khi phân loại nguồn vốn theo loại tiền ta thấy rằng nguồn vốn huy động được bằng nôi tệ luôn chiếm tỷ trọng lớn. Có thể giải thích bằng hai lý do: thứ nhất, do nội tệ là đồng tiền được sử dụng chủ yếu trong giao dịch; thứ hai, do tính ổn định của ngoại tệ và biến động thường xuyên của nội tệ nên ngân hàng thường ấn định mức lãi suất nội tệ cao hơn ngoại tệ tránh tình trạng mua ồ ạt ngoại tệ và điều này càng làm cho nội tệ bị mất giá. Tuy nhiên do xu thế toàn cầu hoá nên việc sử dụng ngoại tệ trong tiêu dùng cũng như tiết kiệm ngày càng trở nên phổ biến nên có thể thấy rằng tỷ trọng ngoại tệ đang ngày càng cao hơn trong nguồn vốn huy động tại chi nhánh. Tiền gửi dân cư là nguồn huy động mà chi nhánh luôn quan tâm và tìm cách thu hút vì đối tượng gửi tiền này thay đổi hành vi của mình dựa vào sức hấp dẫn về lãi suất nhiều hơn là về uy tín của ngân hàng. Với đối tượng là dân cư thì tiền gửi tiết kiệm là chủ yếu do họ kỳ vọng vào nhu cầu tiêu dùng cao hơn trong tương lai. Tuy nhiên doanh số ,huy động từ nguồn tiết kiệm thường không cao do tính chất nhỏ lẻ từ các tiết kiệm của nhân dân. Hiện nay những người có tiềm lực về kinh tế và có kiến thức về kinh tế thường ít dùng tiền của mình tiết kiệm tại ngân hàng mà họ đưa vào kinh doanh hoặc chơi chứng khoán nhằm sinh lợi vì hiện nay lạm phát ở nước ta còn ở mức cao. Hiện nay, hình thức huy động vốn bằng phương thức phát hành kỳ phiếu là khá phổ biến. Tại chi nhánh NHNo&PTNT Cầu Giấy cũng tổ chức huy động vốn bằng hình thức phát hành kỳ phiếu. Tuy nhiên hình thức này không thu hút được nhiều đối tượng khách hàng tham gia vì lãi suất cảu kỳ phiếu thường thấp hơn so với các hình thức huy động khác. Do vậy mà kỳ phiếu chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn huy động. Nguồn vốn huy động từ các tổ chức thông qua tiền gửi, đi vay vẫn là nguồn huy động chủ yếu của chi nhánh. Do uy tín của ngân hàng trong quan hệ với các tổ chức từ trước nên khi có nhu cầu về tiền gửi sinh lợi, tiền tiết kiệm thì các tổ chức, doanh nghiệp thường tìm đến ngân hàng để thực hiện hoạt động của mình. Những đối tượng này được coi là khách hàng truyền thống của ngâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docI.doc
Tài liệu liên quan