Tình hình Quản lý dự án tại Ban Quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả

Mục lục Danh mục thuật ngữ BQLDA Ban quản lý dự án BQL Ban quản lý NN&PTNT Nông Nghiệp và phát triển nông thôn GTZ Cơ quan hợp tác kỹ thuật Đức (Deutsche Gesellschaft fỹr Technische Zusammenarbeit) CPMU Ban quản lý dự án trung ương PPMU Ban quản lý dự án tỉnh BQLDA chè-quả Ban quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả CPO Ban quản lý các dự án VBARD Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ngoài ra, trong bài viết này, các cụm từ “BQLDA phát triển chè và cây ăn quả, “BQ

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình Quản lý dự án tại Ban Quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LDA chè-quả”, “BQLDA trung ương”, “Văn phòng dự án” đều có nghĩa tương đương. Danh mục bảng biểu, sơ đồ, hình vẽ Bảng 1.1: Dự tính chi phí QLDA......................................................................................10 Bảng 1.2: Nguồn vốn huy động cho dự án chè-quả……………………..…...............…..11 Bảng 1.3: Kế hoạch và thực tế giải ngân dự án chè-quả qua các năm…...….............…..18 Bảng 1.4: Chi tiết giải ngân các hợp phần dự án chè-quả………….…………................19 Bảng 1.5: Tiến độ giải ngân vốn dự án phát triển sản xuất khoai tây...............................20 Bảng 1.6: Nhân sự tham gia công tác tư vấn quốc tế…………………....................……26 Bảng 1.7: Chi phí cho tiểu hợp phần kỹ thuật-thông tin thị trường..................................27 Bảng 1.8: Kế hoạch và kết quả thực tế về đào tạo............................................................36 Bảng 1.9: Phân tích độ nhạy đối với tỷ lệ thu hồi kinh tế.................................................41 Sơ đồ 1: Vị trí của BQLDA chè-quả trong Bộ NN&PTNT...............................................2 Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức của BQLDA chè-quả..................................................................4 Sơ đồ 3: Cơ chế quản lý tài chính với nguồn vốn vay.....................................................16 Sơ đồ 4: Cơ chế quản lý phần vốn đối ứng......................................................................17 Sơ đồ 5: Cơ cấu quản lý thực hiện dự án phát triển chè và cây ăn quả.............................23 Sơ đồ 6: Cơ cấu tổ chức thực hiện dự án phát triển sản xuất khoai tây............................24 Lời nói đầu Đối với mọi quốc gia, nông nghiệp luôn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu cơ bản nhất của con người. Đối với Việt Nam, một nước có đến 50% dân số sống bằng nghề nông thì nông nghiệp càng cần nhận được nhiều sự quan tâm của Đảng và nhà nước. Vì thế đã có rất nhiều dự án ODA đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp tuy nhiên làm sao sử dụng hiệu quả nguồn vốn này luôn là một vấn đề bức xúc trong thời gian qua. Vì thế em đã quyết định thực tập tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả trực thuộc ban quản lý các dự án nông nghiệp để có điều kiện tìm hiểu kỹ hơn về cơ chế quản lý và giám sát việc sử dụng vốn ODA trong nông nghiệp nói chung và cơ chế quản lý của một dự án cụ thể nói riêng. Sau một thời gian tích cực học hỏi và nghiên cứu, em đã hoàn thành đề tài “Tình hình QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả”. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức nên bài viết không thể tránh khỏi những sai sót. Vì thế em rất mong nhận được sự góp ý của cô và các bạn để có thể hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn chú Nguyễn Thế Hinh – giám đốc BQLDA đã tạo điều kiện cho em thu thập số liệu; đồng thời em cũng xin cảm ơn cô Phan Thu Hiền đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để em có thể hoàn thành bài viết này. fjf Chương 1: Thực trạng QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Giới thiệu chung về BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Sơ lược về cơ quan chủ quản Sơ đồ 1: Vị trí của BQLDA chè-quả trong Bộ NN&PTNT Bộ NN&PTNT CPO lâm nghiệp CPO nông nghiệp CPO thủy lợi BQLDA chè-quả BQLDA X BQLDA Y BQLDA Z Nguồn: Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Hiện nay, hầu hết các dự án nông nghiệp có quy mô nhỏ, lượng vốn thấp được Bộ NN&PTNT giao về cho các đơn vị nghiên cứu và quản lý nhà nước thực hiện còn các dự án ODA có quy mô lớn và lượng vốn nhiều thường được giao về cho các CPO. Chức năng nhiệm vụ của các CPO có thể được tóm tắt như sau: (i) Chuẩn bị và tiếp nhận các dự án ODA (ii) Quản lý và giám sát các Ban quản lý dự án Trung ương (CPMU – Central Project Management Unit, nhưng gần đây đã đổi tên thành CMU – Component Management Unit) thực hiện tốt dự án. Hiện nay, Bộ NN&PTNT có 3 CPO trực thuộc Bộ là CPO Nông nghiệp, CPO Thuỷ lợi và CPO Lâm nghiệp. Ứng với mỗi dự án thì CPO sẽ thành lập 1 ban chỉ đạo dự án, 1 CPMU chuyên trách và các PPMU. BQLDA phát triển chè và cây ăn quả là đơn vị trực thuộc của CPO nông nghiệp. Cơ cấu cụ thể được thể hiện trong sơ đồ dưới đây: Quá trình hình thành và phát triển của BQLDA chè-quả Ngày 23/7/2001, thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt dự án “phát triển sản xuất chè và cây ăn quả” tại quyết định số 873 QĐ/TTg. Ngày 1/10/2001, Hiệp định dự án được ký kết giữa Việt Nam và ADB, theo đó Việt Nam sẽ nhận được khoản vay VIE 1781 (SF) trị giá 31,157 triệu SDR, có hiệu lực từ ngày 14/11/2001. Để quản lý tốt việc thực hiện dự án, tại quyết định số 2895/QĐ/BNN/TCCB ngày 28/6/2001 của Bộ trưởng Bộ NNPTNT đã thành lập BQLDA chè-quả (tên chính thức là “Ban Quản lý dự án Trung ương Dự án Phát triển chè và cây ăn quả” hay còn gọi là Ban Quản lý Dự án Trung ương hay Văn phòng dự án, tên giao dịch tiếng Anh là Central Project Office-CPO) trực thuộc CPO nông nghiệp. BQLDA chè-quả chuyên trách quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả từ khi bắt đầu dự án đến khi kết thúc phần kỹ thuật (tháng 12 – 2007) sau đó BQL tiếp tục thực hiện một số phần việc như đánh giá dự án, thanh quyết toán vốn của dự án chè-quả. Công việc đánh giá dự án kết thúc vào tháng 12/2008. Trong thời gian đó, BQL đồng thời đảm nhận nhiệm vụ quản lý dự án “thúc đẩy sản xuất khoai tây” . Dự án này được bắt đầu từ tháng 2 – 2008 và dự kiến sẽ kéo dài trong 2 năm với nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại của chính phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức. Đại diện của chính phủ Đức là cơ quan hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ). Do đó, trong bài viết này, các cụm từ “BQLDA chè-quả”, “BQLDA trung ương”, CPMU, văn phòng dự án đều có nghĩa tương đương. Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của BQLDA chè-quả Cơ cấu tổ chức CPMU có 1 Giám đốc, Phó Giám đốc, kế toán dự án và các cán bộ nhân viên dự án. Hiện nay, đội ngũ nhân sự gồm 16 người làm việc thường xuyên cùng với các chuyên gia, tư vấn, kỹ thuật viên, chuyên viên đánh giá được thuê theo từng dự án. Các nhân viên làm việc tạm thời sẽ được tuyển dụng theo từng công việc cụ thể khi có nhu cầu. Ngoài ra còn có các chuyên gia hỗ trợ đến từ tổ chức tài trợ vốn. Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức của BQLDA chè-quả Nguồn: Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án chè-quả BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Bộ phận kỹ thuật-kiểm soát-đánh giá Bộ phận kế hoạch tổng hợp Bộ phận tài vụ, hành chính Giám đốc, phó giám đốc BQL gồm có 3 phòng chức năng: Phòng kỹ thuật-kiểm soát-đánh giá; Phòng kế hoạch tổng hợp; Phòng tài vụ-hành chính tổng hợp. Chức năng, nhiệm vụ Chức năng, nhiệm vụ chung của BQL BQLDA chè-quả có chức năng quản lý chung và chịu trách nhiệm chung cho toàn dự án, hướng dẫn cho các BQLDA tỉnh, trực tiếp điều phối và liên hệ công tác với các nhà tài trợ, Bộ chủ quản và các Bộ, Ngành liên quan về phạm vi thực hiện và triển khai dự án. BQL chịu trách nhiệm và thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn, đào tạo và đôn đốc các BQLDA tỉnh triển khai dự án, đảm bảo đúng quy định của hiệp định vay vốn và các quy định của nhà tài trợ và của Việt Nam, triển khai dự án đảm bảo tiến độ và kế hoạch đề ra; điều phối chung và giám sát thực hiện dự án; quản lý tài chính và điều chuyển vốn phi tín dụng cho các đơn vị liên quan; xem xét và phê duyệt kế hoạch đấu thầu; chuẩn bị các tiểu dự án. Định kỳ, BQL lập các báo cáo về tiến độ, chi phí, chất lượng từ đó làm cơ sở giải ngân vốn từ Bộ tài chính và tổ chức tài trợ. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban (*) Giám đốc BQL có nhiệm vụ theo dõi chung về hoạt động của dự án; các báo cáo của các bộ phận chức năng; phê duyệt công văn... Giám đốc dự án là người chịu trách nhiệm trước Trưởng Ban chỉ đạo dự án về mọi hoạt động của dự án. Ngoài ra, hàng quý và hàng năm, Giám đốc dự án phải thực hiện báo cáo quyết toán tài chính với Ban Chỉ đạo dự án, các Vụ chức năng và các Bộ hữu quan theo biểu mẫu quy định (*) Bộ phận hành chính có chức năng: 1/ Thực hiện công tác tổ chức cán bộ (đánh giá, đề bạt, bổ, miễn nhiệm, nâng lương...). 2/ Xây dựng đơn giá tiền lương,các nội quy,quy định,quy chế... 3/ Giải quyết các chế độ chính sách cho người lao động. 4/ Quản lý nhân sự (tuyển dụng, điều động, luân chuyển...) 5/ Các công tác khác theo sự phân công của lãnh đạo. (*) Bộ phận tài vụ có chức năng: 1/ Quản lý,điều hành toàn bộ hoạt động tài chính kế toán. 2/ Lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán của nhà nước. 3/ Lập dự toán nguồn vốn, phân bổ,kiểm soát vốn cho toàn bộ hoạt động của dự án. 4/ Dự báo các số liệu tài chính, phân tích thông tin, số liệu tài chính kế toán. 5/ Các công tác khác theo sự phân công của lãnh đạo Công ty. (*) Bộ phận kế hoạch tổng hợp có chức năng: 1/ Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn và kế hoạch hàng năm. 2/ Tổng hợp và thống kê: Thu thập và lưu giữ các báo cáo, số liệu, văn bản về hoạt động của dự án từ đó lập báo cáo hàng tháng-quý-năm; tham mưu cho giám đốc về tiến độ, mức độ thực hiện dự án đồng thời cũng là cơ sở để thanh quyết toán vốn với bộ tài chính và tổ chức tài trợ. 3/ Tổ chức điều tra, thống kê theo yêu cầu của giám đốc hoặc của tổ chức tài trợ. (*) Bộ phận kỹ thuật-kiểm soát-đánh giá có chức năng: 1/ Tư vấn cho các đơn vị thực hiện về các tiêu chuẩn, định mức, yêu cầu kỹ thuật của công việc. 2/ Giám sát chất lượng, chi phí, tiến độ của từng hợp phần. 3/ Tố chức các khóa tập huấn kỹ thuật, đào tạo tại nước ngoài cho các cán bộ kỹ thuật. Giới thiệu chung về các dự án mà BQL đã tham gia Từ khi được thành lập năm 2001, BQLDA chè-quả đã thực hiện quản lý 2 dự án đó là dự án “phát triển chè và cây ăn quả„ và dự án “phát triển sản xuất khoai tây„. Trong cả 2 dự án này, BQLDA chè-quả đều đóng vai trò là CPMU, chịu trách nhiệm điều hành chung toàn bộ dự án. Dự án phát triển chè và cây ăn quả được thực hiện trong 6 năm (từ năm 2001 đến tháng 12 năm 2007) với tổng vốn đầu tư là 61,4 triệu USD trong đó vốn vay ADB là 43,3 triệu, vốn đối ứng là 18,1 triệu USD. Đây là dự án nhằm phát triển 2 ngành sản xuất chè và trồng cây ăn quả ở 13 tỉnh trung du và miền núi phía bắc Việt Nam thông qua việc hỗ trợ kỹ thuật canh tác, cho vay tín dụng và xây dựng hệ thống thông tin thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Dự án phát triển sản xuất khoai tây được thực hiện trong 2 năm (từ tháng 2 năm 2008 đến tháng 2/2010). Hiện nay dự án này đã kết thúc giai đoạn 1 (tháng 2/2009) và tiếp tục giai đoạn 2. Đây là dự án sử dụng vốn vay ODA của Đức (1,5 triệu Euro), vốn đối ứng là 150 nghìn Euro. Dự án này nhằm mục đích nghiên cứu giống, nhân giống, kiểm định và áp dụng các giống khoai tây mới có năng suất cao và khả năng chống chịu sâu bệnh vào sản xuất ở các tỉnh phía bắc. Sự cần thiết phải thực hiện công tác QLDA Với các dự án sử dụng vốn nhà nước nói chung, đặc biệt là các dự án sử dụng vốn ODA, để có thể sử dụng có hiệu quả, tránh lãng phí, thất thoát thì cần phải làm tốt công tác QLDA. Vì đây là các nguồn vốn được cấp phát cho các địa phương nên việc chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn không gắn với một cá nhân cụ thể nào do đó dễ dẫn đến tình trạng sử dụng vốn quá mức, không đúng mục đích hoặc hiệu quả thấp dẫn đến lãng phí. Với đặc điểm riêng của 2 dự án là quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian kéo dài, thực hiện trên nhiều tỉnh và thuộc lĩnh vực nông nghiệp vốn có nhiều khoản chi nhỏ lẻ, phức tạp, khó đánh giá hiệu quả đầu tư do đó cần có một bộ máy QLDA có nhiều cấp, đủ năng lực đủ quy mô và quan trọng hơn cả là có sự phối hợp quản lý nhịp nhàng do đó, để có thể làm tốt công tác QLDA thì cần có một cơ quan quản lý, điều phối, giám sát chung toàn dự án. BQLDA trung ương chính là cơ quan chịu trách nhiệm này. Vì thế nhiệm vụ của BQL là rất quan trọng. Ngoài việc theo dõi tiến độ, báo cáo lên các cơ quan quản lý cấp trên và nhà tài trợ, BQL còn phải lập kế hoạch, giám sát và hướng dẫn cụ thể cho các đơn vị QLDA cũng như thực hiện dự án cấp tỉnh để có thể thống nhất các thủ tục hành chính, thủ tục đấu thầu, giải ngân; phân phối nguồn vốn cho địa phương phù hợp với ngân sách được giao... Thực trạng QLDA tại BQLDA chè-quả Quản lý theo chu kỳ dự án Đặc điểm chung của QLDA nông nghiệp - Về nguồn vốn đầu tư thì các dự án nông nghiệp chủ yếu sử dụng vốn nhà nước hoặc vốn ODA trong khi các dự án công nghiệp, dịch vụ lại nhận được nhiều vốn tư nhân, vốn FDI do đó QLDA trong nông nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn. Thứ nhất là trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư thì việc sử dụng vốn nhà nước thường dẫn đến tình trạng các tỉnh đều muốn xin được nhiều vốn nên thường đề xuất nhiều hạng mục không thật cần thiết gây khó khăn cho việc thiết kế, lập dự toán và lập kế hoạch. Trong giai đoạn thực hiện đầu tư thì hiện tượng thường thấy là lãng phí, thất thoát, chậm giải ngân do thủ tục hành chính. Do đó QLDA trong giai đoạn này là rất khó khăn vì vừa phải chặt chẽ tránh thất thoát, vừa phải linh hoạt để đẩy nhanh tiến độ giải ngân. - Về mô hình QLDA thì các dự án trong công nghiệp, dịch vụ, các dự án sử dụng vốn tư nhân có thể áp dụng mô hình chủ đầu tư trực tiếp QLDA, chìa khóa trao tay, quản lý theo chức năng thì các dự án nông nghiệp lại thường áp dụng mô hình sử dụng BQLDA trong đó chủ đầu tư không trực tiếp tham gia QLDA mà chỉ là đơn vị đại diện cho nhà nước tiếp nhận dự án ODA hoặc phê duyệt dự án còn đơn vị trực tiếp quản lý việc thực hiện dự án lại là BQLDA. Với các dự án lớn thì sẽ có thành lập CPMU, PPMU, ban chỉ đạo dự án còn với dự án nhỏ thì chỉ có PPMU. - Về trình tự thực hiện thì các dự án trong nông nghiệp cũng không khác nhiều với các dự án khác. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư thì địa phương hoặc các cơ quan trung ương như bộ NN&PTNT sẽ đề xuất ý tưởng dự án, khảo sát và thực hiện điều tra cơ bản sau đó lập dự án trình lãnh đạo tỉnh hoặc chính phủ (tùy theo quy mô và tầm quan trọng của dự án). Tỉnh/chính phủ sẽ sử dụng ngân sách hàng năm hoặc phải xin tài trợ ODA. Sau khi hiệp định tài trợ / quyết định cho phép sử dụng vốn ngân sách được phê duyệt thì dự án sẽ được duyệt và bắt đầu thành lập bộ máy QLDA theo quyết định của chính phủ, bộ NN&PTNT hoặc của chính quyền địa phương. Trong quá trình thực hiện dự án thì BQLDA là cơ quan chịu trách nhiệm chung về mọi mặt của dự án. Sau khi dự án kết thúc thì đơn vị tài trợ vốn (nước cho vay ODA hoặc chính phủ) sẽ thành lập đoàn đánh giá độc lập để đánh giá cuối kỳ, kết thúc dự án. - Nhìn chung thì các dự án nông nghiệp có mức độ rủi ro lớn hơn các dự án trong lĩnh vực khác do đó quá trình quản lý thực hiện và đánh giá dự án cũng gặp nhiều khó khăn. Khi có nhiều yếu tố khách quan tác động đến việc thực hiện dự án như thiên tai, sâu bệnh, giá cả nông sản, vật tư nông nghiệp... thì sẽ làm thay đổi tổng mức đầu tư hoặc phải thay đổi định hướng của dự án; việc đánh giá hiệu quả của dự án cũng khó chính xác do điều kiện thực hiện dự án biến động nhiều so với khi lập dự án. Không những thế, do đặc điểm thời gian đầu tư dài và thời kỳ vận hành lâu nên sự ảnh hưởng của các yếu tố này càng lớn. Vì thế trong khâu chuẩn bị đầu tư cần lập kế hoạch dài hạn; dự tính được các rủi ro có thể xảy ra và đưa ra một biên an toàn lớn. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư Mặc dù BQLDA trung ương không tham gia vào quá trình nghiên cứu cơ bản cũng như việc lập-thẩm định dự án (các phần việc này do Bộ NN&PTNT đảm nhiệm) nhưng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, BQL đã tích cực xây dựng cơ chế quản lý, khuôn khổ pháp lý cho dự án, lập kế hoạch chi phí và huy động, phân bổ vốn. Ước tính chi phí và kế hoạch cấp tài chính (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả: Trong quá trình Bộ NN&PTNT lập báo cáo khả thi đã dự tính suất đầu tư cho 1 hecta canh tác theo giá bình quân năm 2000. Dựa trên các định mức đó cùng với kế hoạch dự án, BQLDA trung ương đã xác định kế hoạch cấp vốn 6 năm 2001-2006 cho ngành chè. Tổng chi phí ước tính để thực hiện dự án là 57,6 triệu USD bao gồm: A/ Chi phí cơ bản 54,8tr (trong đó: Hợp phần tín dụng chiếm 48,9tr; Hợp phần công nghệ và thông tin thị trường 2,4tr; Hợp phần tăng cường nghiên cứu 1,6tr; Chi phí QLDA 1,4tr; Chi phí đào tạo 0,5tr); B/ Chi phí dự phòng 2,1tr (trong đó: Dự phòng vật chất 0,8tr; Dự phòng giảm giá 1,3tr); C/ Chi phí dịch vụ 0,7tr Trong đó đã bao gồm 5,2 triệu USD tiền thuế và các khoản phải nộp; chi phí dự phòng về giá tính bằng 2,6% với vốn nước ngoài, 7% với vốn nội tệ, 6% cho thời kỳ 2002-2003 và 5% cho các năm sau. . Dựa trên cơ sở đó, BQLDA trung ương đã lập dự toán chi phí QLDA dành cho CPMU và PPMU như trong bảng sau: Bảng 1.1: Dự tính chi phí QLDA Đơn vị: triệu đồng Hạng mục 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số A. BQLDA trung ương A1 Lương + phụ cấp 334 334 334 334 334 334 2066 A2 Thiết bị 359 0 0 0 0 0 359 A3 Ô tô 1320 660 660 660 660 660 4620 A4 Hội thảo 68 68 68 68 68 68 406 A5 Đào tạo 66 17 17 17 17 17 149 A6 Chi phí hành chính 504 42 42 42 42 42 714 B. BQLDA tỉnh B1 Lương 325 325 325 325 325 325 1950 B2 Xe và thiết bị 3660,8 0 0 0 0 0 3661 B3 Chi phí hành chính 871 871 871 871 871 871 5226 Nguồn: Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Qua bảng trên có thể nhận thấy, theo ước tính thì chi phí hàng năm cho CPMU gần bằng chi phí QLDA tại tất cả các PPMU cộng lại. Tuy nhiên đó là do trong bảng trên chưa tính đến chi phí đào tạo, hội thảo tại các tỉnh và mới chỉ ước tính được cho 8 trong tổng số 11 tỉnh có dự án. Nhìn chung thì tỷ trọng chi phí QLDA không quá cao so với tổng chi phí thường xuyên. Quản lý huy động vốn (+) Kế hoạch huy động vốn (*) Đối với dự án chè-quả, nguồn vốn của dự án từ khoản vay Quỹ đặc biệt của ADB với trị giá 31,157 triệu SDR. Khoản vay có thời hạn thanh toán 32 năm gồm 8 năm ân hạn. Lãi suất sẽ là 1%/năm trong thời gian ân hạn và 1,5% trong thời hạn thanh toán với mức thanh toán hàng kỳ như nhau. Bảng 1.2: Nguồn vốn huy động cho dự án chè-quả Đơn vị: Triệu đô la Hạng mục Tổng chi theo kế hoạch Tổng chi thực tế ADB 40,2 43,3 VBARD 4,9 5,4 Người hưởng lợi 9,8 10,8 Chính phủ 2,7 1,8 Tổng 57,6 61,4 Nguồn: Báo cáo hoàn thành dự án chè-quả, ADB và Chính phủ tháng 12/2008 Bảng 1.2 trình bày các ước tính ngân sách tại thời điểm thẩm định so với ngân sách thực tế của dự án. Qua bảng này cho thấy, phần đóng góp cuả ADB đã tăng lên từ 40,2 triệu đô la lên 43,3 triệu đô la. Phần đóng góp của Chính phủ Việt Nam đã giảm xuống từ 2,7 triệu đô la xuống còn 1,8 triệu đô la do các hiện vật và các chi phí khác phục vụ cho hoạt động và duy trì dự án không được tài liệu hoá đầy đủ. Phần đóng góp cuả người hưởng lợi cũng tăng từ 9,8 triệu đô la lên 10,8 triệu đô la. Ngoài ra ngân sách thực tế của dự án cả bằng tiền đô la và tiền Việt Nam đều cao hơn so với dự toán tại thời điểm thẩm định một phần là do sự mất giá của đồng SDR so với đồng USD. (*) Đối với dự án phát triển sản xuất khoai tây: Dự án được thực hiện với nguồn vốn viện trợ ODA không hoàn lại của Chính phủ Đức, dự kiến là 1,5 triệu Euro, phân bổ cho năm 2008 là 650.000 Euro, 6 tháng đầu năm 2009 là 350.000, cả năm 2009 là 500.000 Euro. Vốn đối ứng của chính phủ Việt Nam là 150.000 Euro gồm: kinh phí trực tiếp từ Bộ NN&PTNT 800 triệu VND; Từ các đơn vị tham gia dự án: 2,2 tỷ VND. Như vậy dự án này có tỷ lệ vốn đối ứng là 10%, thấp hơn so với dự án chè-quả và tổng vốn đầu tư nhỏ hơn nhưng đó là do phần đóng góp của nông hộ chưa được tính vào tổng mức đầu tư. Theo tài liệu dự án, tổng chi dự kiến bao gồm các khoản mục (Euro): A/ Chi phí nhân sự 600.000; B/ Đào tạo kỹ thuật 175.000; C/ Trang thiết bị và nguyên vật liệu 225.000; D/ Chi phí cho hoạt động dự án 450.000; E/ Chi phí cho văn phòng dự án 50.000 Như vậy, ngoài kinh phí đối ứng được huy động từ sự đóng góp của các đơn vị thực hiện hợp phần, dự án này còn có thêm kinh phí sự nghiệp từ Bộ NN&PTNT. Mặc dù phần vốn này là không lớn nhưng đây là một sự thay đổi so với các dự án ODA khác. (+) Cơ chế huy động vốn Với cả 2 dự án chè-quả và phát triển sản xuất khoai tây đều có chung cơ chế quản lý nguồn vốn vay từ ADB (với dự án chè-quả) và chính phủ Đức (với dự án khoai tây), sau đây gọi chung là “tổ chức tài trợ vốn”. (*) Cơ chế quản lý đối với nguồn vốn vay: Sau khi hiệp định tài trợ được ký kết thì tổ chức tài trợ vốn sẽ chuyển tiền vào một tài khoản tín dụng tại một ngân hàng quốc tế uy tín đồng thời phía Việt Nam sẽ mở tài khoản tạm ứng (ở đây là ngân hàng Ngoại Thương). Tiền tạm ứng được chuyển dần vào tài khoản này theo tiến độ dự án. Giám đốc BQLDA chè-quả được chủ đầu tư (là Bộ NN&PTNT) ủy quyền làm chủ tài khoản tạm ứng này và toàn quyền rút vốn từ tài khoản tạm ứng để chi cho các hoạt động của dự án. Khi cần bổ sung vốn, BQL phải trình đơn xin rút vốn bổ sung cùng với các báo cáo về tiến độ hoàn thàn dự án cũng như các chi phí hợp lý đã bỏ ra. Ngoài ra BQL còn mở các tài khoản tạm ứng cấp 2 tại các tỉnh để các chi nhánh của Ban quản lý dự tỉnh rút vốn chi tiêu cho dự án. (*) Đối với nguồn vốn đối ứng: BQLDA trung ương phải lập kế hoạch vốn hàng năm để trình Bộ chủ quản (Bộ NN&PTNT), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xin phê duyệt. Trong kế hoạch vốn cần phản ánh rõ phần vốn đối ứng cần thiết cho mỗi hoạt động. Trên cơ sở kế hoạch vốn của dự án, Bộ Kế hoạch đầu tư sẽ bố trí nguồn vốn đối ứng các hạng mục mang tính chất xây dựng cơ bản và Bộ Tài chính sẽ bố trí các nguồn vốn đối ứng mang tính chất hành chính sự nghiệp cho dự án. Bộ NN&PTNT sẽ được thông báo vốn cấp phát hàng năm cho dự án để theo dõi và quản lý thực hiện. Xây dựng cơ chế QLDA Về cơ chế quản lý hành chính, BQLDA đã xây dựng và được Bộ NN&PTNT phê duyệt thông qua quyết định Số 103/2001/QĐ-BNN Ngày 11 tháng 10 năm 2001, theo đó: - Việc mua sắm hàng hóa và dịch vụ thuộc các tiểu dự án sẽ được thực hiện theo hướng dẫn mua sắm của ngân hàng. Tất cả các nhà thầu đã qua sơ tuyển sẽ được lựa chọn theo nguyên tắc đấu thầu cạnh tranh rộng rãi, các hợp đồng cung cấp xe ô tô, vật tư và các trang thiết bị sẽ được thực hiện theo hình thức mua bán quốc tế (trừ những hợp đồng có giá trị thấp hơn 100.000 USD được thực hiện theo cách mua trực tiếp). - Chuyên gia kiểm tra, giám sát của CPMU sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ việc kiểm tra, giám sát tiến độ và các chi tiêu trong dự án với sự giúp đỡ của cán bộ PPMU dựa vào hệ thống thông tin quản lý đơn giản (MIS). Ngoài ra các đơn vị tài chính tham gia dự án phải sử dụng nguồn tiền huy động từ nông dân, thương nhân với giá trị tối thiểu bằng 10% vốn dành cho tiểu dự án, các khoản vay ngắn hạn sẽ do các đơn vị tài chính ứng nguồn tiền riêng của mình. - Về quản lý tài chính hợp phần tín dụng: Liên quan đến đơn vị quản lý hợp phần này thì vào thời điểm bắt đầu dự án, chỉ có VBARD là có đủ khả năng vì các tổ chức khác như quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng người nghèo, ngân hàng cổ phần nông thôn... chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng liên doanh sẽ không có khả năng giải ngân và quản lý vốn vay sản xuất nhỏ một cách có hiệu quả vì chủ yếu do mạng lưới chi nhánh ở thành thị còn ít kinh nghiệm trong cho vay nông nghiệp. Do đó BQLDA trung ương đề nghị trong giai đoạn đầu thì VBARD sẽ là cơ quan chính quản lý hợp phần tín dụng còn trong giai đoạn sau có thể sẽ có thêm quỹ tín dụng nhân dân. Cải cách thể chế - Do phần lớn các viện nghiên cứu nông nghiệp về cây công nghiệp như chè và cao su đều do các Tổng Công ty quốc doanh thành lập nên các hoạt động nghiên cứu chủ yếu được áp dụng cho các nông trường quốc doanh. Sau này, do quá trình tự do hóa, các nông trường bị bãi bỏ nhưng viện nghiên cứu chè vẫn trực thuộc VINATEA và viện nghiên cứu rau quả vẫn thuộc VINATEXCO nên đã gây ra sự giảm chi tiêu cho nghiên cứu, mặt khác không một đơn vị nào có trách nhiệm đối với nghiên cứu và chuyển giao, hậu quả là giảm việc chuyển giao và cải tiến công nghệ. Do vậy cần tổ chức lại hệ thống nghiên cứu, đặc biệt là đối với những nhu cầu đang tăng lên của các nhà sản xuất và chế biến quy mô nhỏ chiếm đa số trong ngành nông nghiệp. Ngoài ra để đảm bảo nguồn vốn của dự án được sử dụng có hiệu quả thì việc thay đổi và cải tổ chính sách và thể chế là cần thiết, một số vấn đề cần phải được thỏa thuận trước khi thực hiện dự án để tạo điều kiện cho Viện Chè và Viện Nghiên cứu rau quả độc lập tài chính, có vốn để tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, thành lập tổ chức phát triển cây ăn quả. BQLDA trung ương sẽ đưa các kiến nghị lên Bộ NN&PTNT để cấp vốn giúp VINATEA và VEGETAXCO trong chương trình cổ phần hóa cho một số công ty và để nghiên cứu về tự do hóa trong buôn bán với Trung Quốc. - Các viện nghiên cứu trực thuộc các tổng công ty nên chuyển về Bộ NN&PTNT và tập trung vào nghiên cứu các vấn đề mà nông dân và những người chế biến đang quan tâm. Mặc dù việc chuyển giao các viện này chỉ là thủ tục hành chính đơn thuần của Bộ nhưng Bộ NN&PTNT vẫn miễn cưỡng vì vấn đề tài chính. Dự án đã có chú ý tới rủi ro này bằng cách tính thêm vào sự hỗ trợ cho các hoạt động vườn ươm thương mại của các viện nghiên cứu để tăng khả năng thu nhập của các viện và giảm bớt sự phụ thuộc vào ngân sách của chính phủ. Giai đoạn thực hiện đầu tư Quản lý giải ngân vốn (+) Cơ chế, thủ tục giải ngân vốn (*) Đối với nguồn vốn vay: Khi vốn ADB có hiệu lực, Chính phủ sẽ mở một tài khoản tạm ứng tại một Ngân hàng thương mại đã được chỉ định cho hợp phần phi tín dụng. Các tài khoản tạm ứng sẽ được thiết lập, quản lý, bổ sung và thanh toán phù hợp với nội dung Sổ tay giải ngân vốn vay của ngân hàng. Lượng vốn ban đầu trong các tài khoản tạm ứng sẽ không vượt quá mức dự toán chi tiêu trong vòng 4 tháng. Ngân hàng sẽ kiểm tra báo cáo chi tiêu ít nhất 2 lần trong suốt thời gian thực hiện dự án. CPMU sẽ cấp trước một khoản tiền từ tài khoản tạm ứng cho PPMU và các viện nghiên cứu để hoạt động trong 4 tháng. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn, các khoản chi thường phải có vốn đối ứng từ phía Việt Nam. Do đó trong mỗi hợp đồng đấu thầu hoặc mua sắm, BQL chịu trách nhiệm tách riêng phần vốn đối ứng và phần vốn vay để có thể làm thủ tục giải ngân. Bên cạnh đó, vốn của dự án không được sử dụng để trả các loại thuế nói chung (thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt...). Do vậy, BQL phải làm thủ tục xin hoàn thuế cho các hạng mục chi có thuế của dự án để chuyển trả phần tiền đã nộp thuế vào tài khoản dự án. Để đảm bảo các khoản chi là đúng mục đích, các hợp đồng đấu thầu đều được trình lên BQL đánh giá, sau đó chuyển cho tổ chức tài trợ vốn xem xét. Nếu không có thư phản đối của tổ chức tài trợ thì BQL sẽ phê duyệt kết quả đấu thầu. Bên cạnh đó, cuối năm, BQL thuê và phối hợp với một công ty kiểm toán độc lập, có uy tín quốc tế để xác minh rằng các khoản chi của dự án là hợp lệ và phù hợp với thiết kế của dự án.Cơ chế này được tóm tắt qua sơ đồ dưới đây: Nguồn: Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án chè-quả Sơ đồ 3: Cơ chế quản lý tài chính với nguồn vốn vay Tổ chức tài trợ vốn Tài khoản của dự án tại Ngân hàng quốc tế Bộ Tài Chính BQLDA trung ương Tài khoản tạm ứng của BQL tại 1 NHTM Kiểm toán độc lập hàng năm Nhà thầu cung cấp thiết bị và dịch vụ cho dự án Dòng chuyển tiền Dòng kế hoạch và lệnh chi tiền Dòng chuyển chứng từ và kiểm soát chi (*) Đối với nguồn vốn đối ứng: Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu vốn thực hiện dự án tại tỉnh do các BQLDA cấp tỉnh trình lên, CPMU sẽ trình Bộ duyệt phân bổ vốn ADB và vốn đối ứng cho tỉnh để thực hiện dự án. Sau khi nhận được thông báo vốn hàng năm của CPMU chuyển về, PPMU sẽ rút tiền từ tài khoản tạm ứng của tỉnh để chi cho các hoạt động của dự án. Sau đó, BQLDA tỉnh sẽ đem các hồ sơ chứng từ có liên quan đến các khoản chi tiêu của mình đến Chi nhánh Kho bạc Nhà nước tại tỉnh để kiểm soát chi. Sau khi đã được Kho bạc kiểm soát chi, các PPMU sẽ sao kê các khoản chi của mình gửi cho CPMU để làm thủ tục hoàn ứng bổ sung tiền vào tài khoản tạm ứng của BQLDA tỉnh để chi cho các hoạt động tiếp theo. Đối với mỗi một hoạt động của dự án, BQL cần phải trình Bộ chủ quản phê duyệt dự toán chi tiết trước khi thực hiện. Sau khi thanh toán các hợp đồng, BQLDA cần tập hợp chứng từ có liên quan đem qua Kho bạc nhà nước để kiểm soát chi (xác nhận khối lượng công việc đủ điều kiện thanh toán). Tất cả các báo cáo chi tiêu của dự án cần phải thông qua Bộ Tài chính trước khi gửi sang tổ chức tài trợ vốn để thanh toán các khoản chi. Hiện tại Bộ Tài chính vẫn duy trì 2 cơ chế: Kiểm soát trước khi chi (trước khi thanh toán một hợp đồng, BQLDA cần phải trình lên Vụ được giao theo dõi dự án để duyệt chi) và Kiểm soát sau khi chi (BQLDA được phép thanh toán các hợp đồng thực hiện dự án trước, sau đó đem ra Kho bạc nhà nước kiểm soát chi rồi mới trình sao kê lên Bộ Tài chính). Nguồn: Dự án khả thi - dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Sơ đồ 4: Cơ chế quản lý phần vốn đối ứng Dòng chuyển tiền Dòng kế hoạch và lệnh chi tiền Dòng chuyển chứng từ và kiểm soát chi Thủ tướng Chính phủ Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bộ Tài chính Bộ NN&PTNT BQLDA trung ương Kho bạc Nhà nước Nhà thầu cung cấp thiết bị và dịch vụ Vốn vay ADB (+) Thực tế giải ngân vốn (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả: Khoản vay của ADB có hiệu lực vào tháng 11/2000 và Chính phủ đã mở các tài khoản tạm ứng riêng cho hợp phần tín dụng và phi tín dụng được quản lý lần lượt bởi Bộ Tài chính và Bộ NN&PTNT tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đối với hợp phần phi tín dụng và VBARD đối với hợp phần tín dụng. Tháng 1/2003, Bộ NN&PTNT đã đề nghị ADB tăng mức trần tài khoản tạm ứng cho các hoạt động phi tín dụng từ 0,5 triệu USD lên 1 triệu USD vì các nguồn vốn tạm ứng không đủ để chia sẻ cho 13 Ban quản lý dự án tỉnh tham gia dự án và 05 Viện nghiên cứu khi mà các tài khoản tạm ứng cấp 2 được mở. Trên thực tế tiến độ giải ngân khác nhiều so với dự tính ban đầu, chi tiết như bảng dưới đây: Bảng 1.3: Kế hoạch và thực tế giải ngân dự án chè-quả qua các năm Đơn vị:triệu USD Danh mục 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng cộng Kế hoạch tín dụng 0,3 0,9 2,9 8,7 15,5 23,2 0.0 0,0 51,5 Tín dụng thực tế 0,0 0,0 7,2 10,5 10,9 7,4 9,4 9,5 54,9 Dự tính công nợ 1,0 2,2 0,6 0,8 0,7 0,8 0,0 0.0 6,1 Công nợ thực tế 0,0 0,0 0.8 0.3 2,2 0.8 1,4 1,0 6,4 Tổng dự tính 1,3 3,1 3,5 9,5 16,2 24,0 0.0 0.0 57,6 Tổng thực tế 0,0 0,0 8,0 10,7 13,0 8,2 10,9 10,5 61,4 Nguồn: ._.Báo cáo hoàn thành dự án chè-quả, tháng 12/2008 Từ bảng trên ta nhận thấy tiến độ giải ngân tín dụng thì khả quan hơn trong khi hợp phần phi tín dụng thì chậm hơn. Ngoài ra, dự án này đã sử dụng vốn ODA tương đối có hiệu quả khi tỷ lệ chi phí cho tư vấn, ô tô ở mức thấp còn các khoản chi cho thiết bị và đào tạo chiếm một tỷ lệ đáng kể. Tính đến ngày 30/10/2007, luỹ kế trao thầu hợp đồng và giải ngân ở mức 38,86 – 43,30 triệu đôla tương đương 87% và 97% tổng vốn vay so với thời gian trôi qua. Chi tiết của các khoản giải ngân hợp phần phi tín dụng (do BQLDA chè-quả phụ trách) được thể hiện qua bảng dưới đây: Bảng 1.4: Chi tiết giải ngân các hợp phần dự án chè-quả Đơn vị: Nghìn USD Từng hợp phần của DA Tổng chi theo phê duyệt Tổng chi thực tế A.Tín dụng 48.916 54.026 B.Phi tín dụng 5.816 6.367 B1.Thông tin thị trường 2.366 1.307 B2.Tăng cường nghiên cứu 1.520 1.133 B3. QLDA 1.417 2.555 B4. Đào tạo 515 1.372 C. Chi phí dịch vụ 685 788 D. Cấp bù thay đổi giá 2.210 2.210 Tổng cộng 57.629 61.360 Nguồn: Báo cáo tiến độ dự án, ADB và Chính phủ tháng 12/2008 Từ các bảng trên có thể thấy dự án đã bị trì hoãn hơn 1 năm (2000-2001) và kế hoạch giải ngân đã phải thay đổi so với dự kiến ban đầu. Tuy vậy với sự nỗ lực của BQLDA chè-quả, trong các năm tiếp theo tiến độ đã được cải thiện đáng kể. Trong hợp phần phi tín dụng mà BQLDA chè-quả phụ trách thì chi phí dành cho QLDA là khá lớn, chiếm 25% tổng chi cho hợp phần này. Trong đó chủ yếu là chi cho tư vấn quản lý quốc tế do ADB chỉ định. Trong khi đó chi phí đào tạo lại khá khiêm tốn so với nhu cầu thực tế. Trong khi đội ngũ nhân sự của Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng QLDA nếu có các đợt tập huấn nhưng thực tế thì vẫn phải sử dụng tư vấn quản lý nước ngoài do đơn vị tài trợ yêu cầu. Một điểm đáng chú ý khác là khoản cấp bù thay đổi giá là khá lớn chiếm 4% tổng chi theo thiết kế của dự án. Tuy vậy trên thực tế khoản cấp bù này được giải ngân rất chậm. Do tình hình trượt giá nên các nhà thầu có yêu cấp bù giá của chương trình. Tuy đã thống nhất là sẽ có bù giá nhưng để thống nhất sẽ bù bao nhiêu lại mất rất nhiều thời gian dẫn đến việc nhà thầu đình hoãn thi công vừa do không có vốn, vừa để nghe ngóng chính sách trợ cấp. Một số tỉnh đã phải dùng ngân sách địa phương để ứng trước cho các nhà thầu. Trong hợp phần này, tỷ lệ vốn dành cho việc cung cấp thông tin thị trường là khá đáng kể, chiếm 41% tông vốn hợp phần. Đây là một điểm tích cực của dự án khi đã quan tâm thỏa đáng đến đầu ra của sản phẩm, có đầu tư cho công tác quảng bá thương hiệu và nghiên cứu nhu cầu thị trường. Nhiều dự án khác chỉ thực hiện nghiên cứu thị trường trong khâu lập dự án nhưng ở dự án phát triển sản xuất chè và cây ăn quả thì công tác này được tiến hành định kỳ, không những thế còn hỗ trợ nông dân tiêu thụ sản phẩm. Điều này vừa làm cho công tác lập kế hoạch dự án sát với thực tế, vừa giúp việc triển khai dự án thuận lợi, góp phần không nhỏ vào tỷ lệ thu hồi vốn của quỹ quay vòng (quy cho vay ưu đãi trong hợp phần tín dụng). (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: Bảng 1.5: Tiến độ giải ngân vốn dự án phát triển sản xuất khoai tây Đơn vị: Euro Khoản mục 6 tháng đầu 2008 6 tháng cuối 2008 Dự kiến 2009 Tổng Tư vấn của GTZ 20.987,45 38.480 127000 186.467,45 Thuê chuyên gia 36.988,69 16.489 - 53.477,69 Mua trang thiết bị 44.302,21 39.975 100.000 184.277,21 Đào tạo - 31.550 105.000 136.550 Đóng góp tài chính - - 155.000 155.000 Chi phí khác 36.773,94 27.400 20.000 84.173,94 Tổng 139.052,29 152.834 507.000 799.886,29 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động giai đoạn 1 – BQLDA trung ương Số liệu ở bảng trên cho thấy dự án đã sử dụng nguồn vốn ODA tương đối hiệu quả do tỷ lệ chi phí cho nhân sự của GTZ bao gồm cả cán bộ GTZ địa phương chỉ chiếm 23,31% trong khi các chi phí cho những hoạt động hữu hiệu của dự án như chi phí cho mua sắm trang thiết bị là 23,03%, cho đào tạo và tập huấn là 17,07%. Tuy vậy chi phí cho tư vấn của GTZ vẫn là khoản chi chiếm tỷ trọng cao nhất, điều này cho thấy thực tế là không phải toàn bộ vốn ODA thực sự đến tay người dân và chính phủ Việt Nam. Một vấn đề khác là tiến độ giải ngân trong nửa cuối 2008 chậm hơn nửa đầu và chậm hơn so với kế hoạch do tình hình lạm phát tăng cao đỉnh điểm vào cuối 2008 và lúc đó chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm các đơn vị khó vay vốn ngân hàng trong khi khoản tạm ứng lại không đủ. Cũng giống như dự án trước, thời gian ra quyết định và thực hiện cấp bù giá là rất chậm vì có nhiều chủ thể cùng tham gia quyết định, BQLDA trung ương và PPMU không thể tự quyết vấn đề này được. Phối hợp với các cơ quan quản lý khác (*) Với dự án chè-quả: Cơ chế hành chính của dự án đã được xác lập ngay trước khi dự án có hiệu lực thông qua quyết định số 103/2001 QĐ-BNN-TCCB ngày 29/10/2001 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc ban hành quy chế tổ chức và thực hiện dự án theo đó, chức năng của từng đơn vị tham gia dự án như sau: - Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm lập dự án, thẩm định dự án, điều hành hợp phần phi tín dụng và điều phối chung toàn dự án. BQLDA trung ương có trách nhiệm thực hiện các chủ trương, định hướng, mục tiêu mà Bộ đã đề ra trong hồ sơ dự án; báo cáo về tiến độ thực hiện dự án, đưa ra các đề xuất thay đổi mục tiêu, cơ chế QLDA. Ngoài ra, với các khoản chi không thuộc thiết kế ban đầu của dự án, BQL sẽ phải có giải trình và được Bộ NN&PTNT cùng với Bộ Tài Chính chấp thuận trước khi thực hiện. - Bộ Tài chính chịu trách nhiệm điều hành hợp phần tín dụng; soạn thảo và ký hiệp định vay phụ; thông qua các đơn vị rút vốn và nhận lại các khoản hoàn trả. BQLDA chè-quả cần lập dự toán, tập hợp các chứng từ mà các đơn vị thực hiện dự án nộp lên sau đó gửi lên Bộ Tài Chính để được phê duyệt, thanh quyết toán vốn. - ADB: điều chỉnh phạm vi thực hiện dự án nhằm đảm bảo tính toàn diện cho việc mở rộng dự án (bao gồm việc hỗ trợ của Chính phủ thay đổi các hoạt động đầu tư thông qua việc nhấn mạnh phổ biến phân bổ cho vay mới được phát triển và mở rộng với sự tham gia của các thành viên dự án). ADB cũng thường xuyên kiểm soát hoạt động hành chính nói chung, cung cấp đào tạo về các thủ tục thu mua và chi dụng của ADB. - Ban chỉ đạo Dự án Trung ương gồm có: Thứ trưởng Bộ NN&PTNT là Trưởng Ban, Giám đốc CPMU và đại diện một số cơ quan trung ương khác là thành viên. Cơ quan này sẽ: a/ Chỉ đạo, điều phối và thúc đẩy việc thực hiện dự án, hướng dẫn thông qua Ban Quản lý dự án Trung ương trong các vấn đề chính sách, chế độ của dự án b/ Phê duyệt các kế hoạch vốn, kế hoạch hoạt động và mua sắm của dự án c/ Chỉ đạo xây dựng các văn bản liên quan đến dự án d/ đề ra chủ trương, tạo sự nhất trí giữa các Bộ, Ngành địa phương, chỉ đạo, hướng dẫn BQLDA trung ương về các vấn đề chung. - BQLDA tỉnh do UBND tỉnh ra quyết định thành lập. Trưởng BQL là giám đốc hoặc phó giám đốc Sở NN&PTNT. Đây là đơn vị trực tiếp thực hiện và điều hành dự án tại tỉnh dưới sự điều hành và hướng dẫn của Ban chỉ đạo dự án tỉnh và BQLDA trung ương. Các chứng từ sẽ được chuyển trực tiếp từ PPMU lên CPMU trong khi các báo cáo tiến độ, các khoản dự chi... sẽ được chuyển qua Ban chỉ đạo xem xét, phê duyệt trước khi chuyển lên BQLDA chè-quả. Ngoài ra, PPMU còn phối hợp với các Viện Nghiên cứu liên quan thiết lập hệ thống cấp giấy chứng nhận vườn ươm, thiết lập hệ thống thông tin thị trường, lập các báo cáo, kế hoạch, tiến độ và kế toán ở cấp tỉnh để trình lên CPMU. - BQLDA chè-quả: Trong trường hợp cần thiết, CPMU có thể xin ý kiến Ban Chỉ đạo và đề nghị Vụ Tổ chức Cán bộ trình lãnh đạo Bộ NN&PTNT xem xét quyết định sửa đổi một số điều khoản cho phù hợp với tình hình thực tế. Sơ đồ cơ cấu các đơn vị tham gia quản lý và thực hiện dự án phát triển chè và cây ăn quả được thể hiện ở sở đồ sau: Nguồn: Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án chè-quả - CPMU Sơ đồ 5: Cơ cấu quản lý thực hiện dự án Phát triển chè và cây ăn quả Điều phối Quản lý Cố vấn, phản hồi, phối hợp Bộ NN&PTNT Ban chỉ đạo dự án TW CPO nông nghiệp Ban chỉ đạo dự án tỉnh VBARD BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Đơn vị thực hiện dự án của VBARD BQLDA tỉnh Các hợp phần phi tín dụng Tiểu hợp phần: - Công nghệ, t.tin thị trường -Nghiên cứu - QLDA - Đào tạo Đơn vị thực thi dự án tỉnh Các tiểu dự án Người hưởng lợi VBARD tỉnh VBARD huyện (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: Nguồn: Tài liệu thẩm định dự án phát triển sản xuất khoai tây – Bộ NN&PTNT Sơ đồ 6: Cơ cấu tổ chức thực hiện dự án Phát triển sản xuất khoai tây Quản lý Cố vấn, phản hồi, phối hợp Bộ NN&PTNT Cục khuyến nông Các cơ quan hỗ trợ: - Vụ hợp tác quốc tế -Vụ tài chính - Vụ khoa học Các cơ quan thực hiện: -TT kiểm nghiệm quốc gia -TT kiểm nghiệm tỉnh -TT khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương -Cục bảo vệ thực vật BQLDA trung ương Văn phòng dự án Nông dân trồng khoai tây giống Nông dân trồng khoai tây thương phẩm Doanh nghiệp sản xuất và chế biến Người tiêu dùng CPO nông nghiệp - Văn phòng dự án: cùng với sự tham vấn của cố vấn trưởng do GTZ cử sang, sẽ thực hiện các hợp đồng, các hoạt động với các tổ chức, cơ quan, công ty hoặc với các nhà tư vấn, duy trì quan hệ trực tiếp với các tổ chực thực hiện dự án và thường xuyên thăm các nhóm mục tiêu, nông dân trồng khoai tây ở 9 tỉnh vùng dự án. Các đơn vị thực thi dự án chịu sự giám sát, điều phối trực tiếp từ văn phòng dự án thay vì BQLDA tỉnh như với dự án trước. Quản lý thực hiện các tiểu hợp phần (+) Tuyển dụng tư vấn (*) Với dự án chè-quả: Trong khuôn khổ thiết kế, dự án được trang bị 23 tháng người tư vấn quốc tế và 26 tháng người tư vấn trong nước. Một số gói thầu tư vấn quốc tế: “Tư vấn quản lý nghiên cứu và kinh tế/thị trường – Landell Mills Co.LTD”; “Tư vấn QLDA”; “kiểm toán – Deloitte LLP”. Ban đầu các gói thầu tư vấn trong nước không có trong thiết kế dự án nhưng BQLDA chè-quả đã đề nghị ABD bổ sung gói tư vấn “điều tra cơ bản kinh tế xã hội – Công ty Tư vấn đào tạo và phát triển cộng đồng RCTCD”. BQLDA chè-quả đã rất quan tâm đến đội ngũ nhân sự tham gia các gói thầu tư vấn. Các chuyên gia tư vấn Quốc tế đều có kinh nghiệm lâu năm trong các lĩnh vực: Kinh tế xã hội, nhà quản lý nghiên cứu chè Quốc tế, chuyên gia trồng chè Quốc tế, Quản lý nghiên cứu quả Quốc tế, chuyên gia khuyến nông chè Quốc tế… còn các tư vấn địa phương chuyên về các lĩnh vực: Chuyên gia kinh tế chè, chuyên gia đánh giá giám sát chè xanh, chuyên gia thị trường quả, chuyên gia quản lý dự án, chuyên gia nghiên cứu quản lý, chuyên gia M&E Quốc gia... Tất cả vị trí tư vấn này được tuyển dụng dựa vào hệ thống bỏ thầu. Việc tuyển dụng dựa vào quá trình đấu thầu giữa nhà tuyển dụng của tổ chức tài trợ vốn và luật Việt Nam. Quá trình tuyển dụng được thực hiện nhanh chóng và theo nguyên tắc của hai bên và không có sự trì hoãn. Những vị trí tư vấn phải thoả mãn với những yêu cầu được bổ nhiệm của mình. Nội dung chủ yếu của dịch vụ tư vấn trong giai đoạn này là tư vấn chuẩn bị dự án, nghiên cứu điều tra cơ bản, đánh giá giữa kỳ. Ngoài ra ADB cũng có những hỗ trợ nhất định về kỹ thuật, tư vấn QLDA. ADB đã tài trợ một gói hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị dự án (PPTA) và đã phân tích ngành, các Viện trường tham gia và đã xây dựng thiết kế Dự án phù hợp và nhất quán với chiến lược phát triển ngành nông nghiệp của Chính phủ và ADB. Ngoài ra trong quá trình thực hiện dự án cũng có các chuyên gia quốc tế tham gia tư vấn, số liệu cụ thể trong bảng sau: Bảng 1.6: Nhân sự tham gia công tác tư vấn quốc tế Công việc Ngày Số người Số ngày-người Điều tra cơ bản 5-23 Apr 1999 6 114 Thẩm định 14 Jun-2 Jul 1999 4 76 Chuẩn bị 23 Jan-5 Feb 2002 4 56 Tư vấn chuẩn bị hợp đồng 19-24 Jan 2003 1 6 Đánh giá lần 1 22 May-5 Jun 2003 2 30 Giám sát cấp vốn vay 8-10 Dec 2003 1 3 Đánh giá giữa kỳ 12-22 Apr 2005 2 22 Đánh giá lần 2 20 Feb-2 Mar 2006 3 33 Đánh giá lần 3 19-27 Sep 2006 4 36 Đánh giá toàn dự án 29 Nov-8 Dec 2006 1 10 Đánh giá lần 4 6-14 Mar 2007 2 18 Đánh giá kết thúc dự án 25 Nov-10 Dec 2008 4 47 Nguồn: Báo cáo hoàn thành dự án phát triển chè và cây ăn quả - tháng 12/2008 Như vậy các tư vấn quốc tế chủ yếu tập trung vào công tác đánh giá thực hiện dự án với rất nhiều đoàn đánh giá đã sang Việt Nam. Điều này cũng là dễ hiểu khi đây là một dự án có quy mô lớn và được thực hiện tại nhiều địa phương. Hầu hết các đợt đánh giá đều là ngắn ngày và có sự tham gia hỗ trợ của CPMU khi đi thực tế tại các tỉnh. CPMU đã phối hợp tốt với các chuyên gia tư vấn của ADB trong công tác đánh giá giữa kỳ. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây, đối tác bên Đức (GTZ) cung cấp một số chuyên gia, cố vấn kỹ thuật và chuyên gia đánh giá dự án, trong đó các chuyên gia dài hạn lên tới 48 tháng người, các cán bộ hỗ trợ-các chuyên gia quốc tế ngắn hạn lên tới 11 tháng người và các chuyên gia ngắn hạn là 25 tháng người. Đồng thời do có sự hỗ trợ, phối hợp tốt với các cơ quan chuyên môn nên BQL không cần tuyển thêm tư vấn quốc tế như dự án trước. Công tác điều tra nghiên cứu cơ bản đều do tư vấn từ viện kinh tế nông nghiệp. Tuy vậy trong giai đoạn 2 của dự án sẽ không có chuyên gia dài hạn quản lý dự án của GTZ mà chỉ có cán bộ kiêm nhiệm phụ trách dự án với sự điều phối của một cán bộ địa phương. Nét mới này thể hiện 2 điểm mạnh: 1/ Tiết kiệm được một khoản kinh phí lớn từ việc chi trả cho chuyên gia dài hạn sang cho các hoạt động trực tiếp của dự án; 2/ Năng lực của cán bộ địa phương được nâng cao, đủ sức để đảm đương việc điều hành và quản lý dự án trong trường hợp không có chuyên gia dài hạn. (+) Cung cấp thông tin thị trường (*) Với dự án chè-quả: Dự án đã xây dựng các hệ thống thông tin thị trường tại tất cả các tỉnh nhằm phổ biến các thông tin về các chủ đề đồng sở thích của bà con nông dân. Công tác này được tiến hành kết hợp với đài phát thanh và truyền hình địa phương. Các hình thức phổ biến thông tin khác bao gồm các bản tin, tờ rơi, tập san. Có tổng cộng 29.700 tạp chí và 84.800 cuốn sách nhỏ đã được phân phát cho nông dân trồng chè và cây ăn quả. Khoảng 40.000 bản tin đã được phát thanh trên các trạm phát thanh địa phương và các phương tiện phát thanh cấp thôn bản. Dự án đã hỗ trợ hình thành một hệ thống thông tin sơ bộ và 287 khoá đào tạo về thông tin thị trường đã được tổ chức cho gần 15.000 người nhằm cải thiện kiến thức cho họ về thị trường. Có khoảng 576 bài báo đã được đăng tải trên trang web nhằm phổ biến các biện pháp cách tác tốt và hỗ trợ nông dân trong khâu tiếp thị các sản phẩm chè và cây ăn quả. Chi tiết về chi phi cho tiểu họp phần “chuyển giao công nghệ và cung cấp thông tin thị trường”: Bảng 1.7: Chi phí cho tiểu hợp phần kỹ thuật-thông tin thị trường Đơn vị: Nghìn Đôla Nội dung Tổng chi dự kiến Tổng chi thực tế Chuẩn bị sổ tay kỹ thuật 428 171 Chứng nhận vườn ươm 527 136 Phân loại vùng 107 186 Thông tin thị trường 365 193 Đảm bảo chất lượng 939 621 Tổng cộng 2,366 1,307 Nguồn: Phụ lục Báo cáo hoàn thành dự án phát triển chè và cây ăn quả Như vậy chi phí thực tế cho tiểu hợp phần này đã giảm đi đáng kể so với thiết kế ban đầu, một phần là do giới hạn về vốn vay trong khi các tiểu hợp phần khác đều chi vượt mức ban đầu. Kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện dự án (*) Với dự án chè-quả: - BQL đã tổ chức đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ giai đoạn 2001-2004 và lập báo cáo tổng kết trình lên Bộ NN&PTNT vào tháng 4/2005. Các kết quả của báo cáo này đã chỉ ra một số yếu kém cần khắc phục trong quá trình thực hiện dự án và đưa ra được một số kiến nghị như: 1/ Đề xuất một số biện pháp cải cách thủ tục hành chính, hài hòa hóa các quy định quản lý tài chính giữa Việt Nam và ADB để từ đó giải quyết các thủ tục phê duyệt, tạo điều kiện để dự án đẩy nhanh tiến độ. 2/ Đề nghị ADB và các Bộ, Ngành liên quan bổ sung vốn để xúc tiến xây dựng các trung tâm thương mại cho chè và cây ăn quả tiến tới xây dựng sàn giao dịch và trung tâm đấu giá chè và cây ăn quả. 3/ Đề xuất tiếp tục thực hiện giai đoạn 2 với mục tiêu khác với giai đoạn 1, cụ thể là sau khi đã tạo lập được vùng trồng và chế biến chè thì ở giai đoạn 2 cần tập trung cho công tác đảm bảo chất lượng, chế biến và phát triển thị trường tiêu thụ. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: Trong giai đoạn 1, dự án đã tổ chức nghiên cứu thị trường và đánh giá tác động của dự án và đưa ra một số kết luận: 1/ Các phương pháp nhân giống TPS và RMT áp dụng cho dự án là thích hợp để nhân rộng ra các địa phương khác. 2 phương pháp này có hiệu quả về kinh tế tuy nhiên mức độ sẽ được kiểm chứng vào cuối giai đoạn một. 2/ Cần có giai đoạn 2 vì: nhu cầu tiêu dùng đang tăng lên do dân số ở thành thị đang tăng nhanh và sự thay đổi tập quán tiêu dùng của người dân; khoai tây nhập khẩu từ Trung Quốc khá lớn (ước tính 100.000 tấn/năm) cho thấy tiềm năng thị trường trong nước; nhu cầu về vật liệu trồng chất lượng cao là rất lớn. 3/ Như vậy 2 điều kiện cần để thực hiện tiếp dự án đã hội đủ cho dù các thông tin chi tiếp về hiệu quả kinh tế của sản xuất khoai tây giống cũng như khoai thương phẩm cần phải được thu thập thêm. Giai đoạn kết thúc dự án Đánh giá kết thúc dự án (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả, sau khi dự án kết thúc, BQL đã tham gia lập báo cáo đánh giá cuối kỳ cùng với các chuyên gia của ADB từ 25 đến 10/12/2008. Đoàn đã thăm thực địa tại 43 trong số 13 tỉnh tham gia dự án, họp và thảo luận về những phát hiện, các vấn đề liên quan, kiến nghị và các hoạt động đề xuất cho giai đoạn tiếp theo. Báo cáo đánh giá cuối kỳ đã hoàn thành vào tháng 12/2008. Một số kết luận mà báo cáo này đưa ra là: 1/ Khi kết thúc dự án, mức lãi suất nội bộ kinh tế ước tính khoảng 19%, trong khi lãi suất ước tính theo đánh giá ban đầu là 23%. Tổng quan thì dự án vẫn được đánh giá là sinh lợi. 2/ Dự án này đã đạt được kết quả tốt về mặt xã hội: Nông dân được đào tạo về các phương pháp làm nông nghiệp kiểu mới, một khối lượng lớn công ăn việc làm được tạo ra và hiểu biết của nông dân về tiếp thị được phát triển. 3/ Tiến trình phủ xanh đất trống đồi trọc đạt được nhiều thành quả lớn với 5.000 hecta đất trống đồi trọc được sử dụng để trồng chè. 4/ Ảnh hưởng xã hội của các đối tượng vay là rất rõ ràng, ý thức về các nhân tố môi trường được nâng cao... Tóm lại, dự án được đánh giá là có hiệu quả. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây, công việc này do phòng kỹ thuật-kiểm soát-đánh giá của BQLDA trung ương cũng như các đơn vị tham gia thực hiện dự án. Hệ thống giám sát được thực hiện trên phần mềm được xây dựng sẵn và gồm các mô-đun liên quan đến các kết quả quan trọng của dự án. Số liệu phục vụ cho hệ thống giám sát chủ yếu do các đơn vị hợp phần cung cấp theo biểu đã lập sẵn và theo thời gian quy định. Để đánh giá kết thúc giai đoạn 1, các chuyên gia của Đức đã phối hợp với BQLDA trung ương và tiến hành hoạt động đánh giá theo nhiều bước từ 5/10 đến 15/11/2008. Kết quả đánh giá được trình bày và thảo luận với khoảng 25 đại biểu từ các cơ quan đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT, các đơn vị hợp phần và các đơn vị sản xuất giống tư nhân tại Hội thảo lập kế hoạch tổ chức tại Hà Nội ngày 12 và 13/11/2008. Hiện nay, BQLDA trung ương đã hoàn thiện báo cáo đánh giá giai đoạn 1 dự án phát triển sản xuất khoai tây vào tháng 1 – 2009. Vào thời điểm kết thúc dự án BQL cũng sẽ tổ chức đánh giá cuối kỳ và rút kinh nghiệm cho các dự án tiếp sau. Kiểm toán và quyết toán vốn (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả: Theo kiểm toán của dự án phát hiện một số khoản vay không thực hiện đúng với thời hạn vay theo thoả thuận như trồng cây cam, mua sắm xe cộ, mua đất cày ruộng, nuôi súc vật, xây nhà (ii). Thời hạn vay dưới 5 năm và cung cấp cho các nhà vay phụ trên 50.000 đôla không theo chấp nhận trước của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). Thời gian thực hiện cuả dự án đã được gia hạn đến ngày 31/12/2007 chủ yếu là để có thêm thời gian phục vụ cho công tác thanh quyết toán tất cả các tài khoản tạm ứng và các tài khoản tạm ứng cấp 2 cho cả hợp phần tín dụng và phi tín dụng; hoàn thành tất cả các hoạt động mua sắm và trao thầu hợp đồng, thực hiện tuân thủ kiến nghị của kiểm toán nêu trong báo cáo kiểm toán năm 2006 và các năm trước đó; trình đơn xin rút vốn cuối cùng và đảm bảo việc chuẩn bị báo cáo hoàn thành dự án. Đến nay, tất cả các khoản giải ngân đã được thanh toán đầy đủ. Quản lý dự án theo lĩnh vực chủ yếu Quản lý phạm vi (*) Với dự án chè-quả: - Xác định phạm vi dự án: Bộ NN&PTNT đã lập dự án và qua đó xác định phạm vi của dự án là “cấp tín dụng dài hạn để phát triển cây ăn quả và chè đồng thời đưa ra các hỗ trợ về công nghệ. Chè và các loại cây ăn quả lâu năm như vải, nhãn, xoài, chôm chôm, hồng, dứa sẽ được cấp tín dụng„. Mục tiêu của dự án là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản từ việc phát triển cây chè và cây ăn quả, tăng cường bảo vệ môi trường thông qua việc trồng chè, trồng cây ăn quả trên những vùng đất phù hợp đặc biệt là đất đồi, đất đã bị mất rừng. Dự án có 2 hợp phần là tín dụng (do VBARD quản lý) và phi tín dụng (do BQLDA chè-quả quản lý). Hợp phần phi tín dụng có các đầu ra sau: (i) Xây dựng và phổ biến gói công nghệ và thông tin thị trường gồm các hoạt động: cung cấp sổ tay kỹ thuật; chứng nhận vườn ươm; phân loại vùng trồng chè và cây ăn quả; dịch vụ thông tin thị trường; đảm bảo về chất lượng. (ii) Tăng cường nghiên cứu gồm các hoạt động: Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu chè và Viện Nghiên cứu rau quả để đạt được sự bền vững về tài chính và hình thành cơ cấu quản lý hiệu quả. (iii) QLDA gồm: Mua sắm ô tô, trang thiết bị văn phòng dự án; giám sát các hoạt động của hợp phần phi tín dụng. (iv) Đào tạo gồm: Tăng cường năng lực cho các cán bộ của CPMU, PPMU, các cán bộ khuyến nông, các cán bộ kỹ thuật của các Sở NN&PTNT. (v) Dịch vụ tư vấn gồm: trợ giúp về kỹ thuật và kinh doanh, QLDA, tăng cường năng lực nghiên cứu của các Viện, Trung tâm nghiên cứu... Các chỉ số chính của từng sản phẩm đầu ra của dự án như sau: Tăng năng suất búp chè tươi từ 3 tấn lên 8-12 tấn/ha, đạt từ 5-8.5 tấn quả/ha, nâng cao thu nhập lên 213 USD và 525 USD/năm cho người làm chè và quả tương ứng; tăng sản lượng lên 20.000 tấn/năm đối với chè và 325.000/ tấn/năm đối với quả; tạo ra 26.000 việc làm. Dự án đã nêu cụ thể các mục tiêu mang tính định lượng và định tính trong khung theo dõi và thiết kế. - Quản lý thay đổi phạm vi: Để có thể xác định đối tượng tác động một cách có hiệu quả, BQLDA chè-quả đã thực hiện việc phân loại vùng trồng chè và phân loại đối tượng thụ hưởng. Trong đó, BQL đã chỉ đạo xây dựng gần 1.000 bản đồ (29 bản đồ cấp tỉnh, 210 bản đồ cấp huyện và 718 bản đồ cấp xã) tại các địa bàn có tiềm năng cao về trồng chè và cây ăn quả giúp xác định được các vùng mà người vay vốn cư trú. Các bản đồ này được cập nhật hàng năm và hỗ trợ tỉnh xác định được sự phù hợp của các vùng đất canh tác do người vay vốn tiềm năng sở hữu. Đối với cây chè căn cứ vào việc điều tra đất đai, dự án đã đưa ra các khuyến nghị về loại dòng phù hợp nhất cho từng khu vực, đồng thời cũng hỗ trợ cho các nhà lập kế hoạch sử dụng đất đai xác định được khu vực nào cần có các biện pháp xử lý bảo vệ môi trường. Về công tác đào tạo nhân lực: BQLDA đã kiến nghị tăng cường phạm vi đào tạo bằng việc tăng thêm các chuyến tập huấn nước ngoài. Ngoài ra nội dung đào tạo cũng cần bao gồm cả các nội dung về môi trường như sử dụng thuốc trừ sâu, tưới tiêu, chống xói mòn đất trong các vườn quả. Về dịch vụ tư vấn: Trong khuôn khổ thiết kế dự án phát triển chè và cây ăn quả của Bộ NN&PTNT không có dự trù về điều tra cơ bản về kinh tế xã hội mặc dù đây là một nội dung hết sức quan trọng. Vì thế BQLDA chè-quả đã có đề nghị và được ADB chấp thuận bổ sung vào dòng chi để thuê 1 công ty tư vấn trong nước lập báo cáo điều tra kinh tế xã hội. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Phạm vi dự án trong giai đoạn I: Với dự án này, Bộ NN&PTNT cũng thực hiện công tác lập dự án qua đó xác định địa bàn dự án gồm có 9 tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, trung du và miền núi phía Bắc. Mục tiêu dự án bao gồm mục tiêu tổng thể là “các hộ nông dân nhỏ tăng thu nhập từ sản xuất khoai tây„ (thu nhập từ sản xuất khoai tây của nông hộ tăng từ 20% tổng thu nhập lên 35% và số hộ tăng số nông hộ từ 7000 hộ lên 10.000 hộ). Các mục tiêu cụ thể gồm có: (i) Sản xuất giống và vật liệu trồng từ những giống thích hợp (sản xuất ít nhất 6000 tấn giống đến trước tháng 6/2008; Giống xác nhận được trồng trên diện tích ít nhất là 3000 ha). (ii) Kỹ thuật nhân giống phù hợp cho việc sản xuất và nhân rộng giống khoai tây bền vững tại địa phương được hoàn thiện và áp dụng. (iii) Nâng cấp các phòng thí nghiệm kiểm tra chất lượng giống, ban hành các quy định cho chứng nhận chất lượng giống, cấp chứng nhận giống. - Quản lý thay đổi mục tiêu: Trong giai đoạn II của dự án, các mục tiêu cần đạt được là: (i) hỗ trợ việc sản xuất giống bền vững; (ii) tăng cường việc tự công bố của các hợp tác xã sản xuất giống cũng như thanh tra và kiểm soát chất lượng giống; (iii) thiêt lập hệ thống sản xuất khoai tây thương phẩm từ việc sử dụng giống đã xác nhận; (iv) thành lập hiệp hội, nhóm những người sản xuất khoai tây. Lập kế hoạch tổng quan - Việc lập kế hoạch hoạt động hàng năm thường được lập vào cuối năm tại Hội thảo Lập kế hoạch và được chia thành 2 cấp: Ở cấp trung ương có sự tham gia của BQLDA trung ương và tất cả các cơ quan kể trên; kế hoạch cấp địa phương có sự tham gia của: nông dân trồng khoai tây, các thương gia, chế biến, cơ quan quản lý và hoạch định chính sách địa phương cũng như các đơn vị tham gia thực hiện dự án. Các kế hoạch cấp trung ương được lập trước sau đó Ban chỉ đạo dự án trung ương sẽ truyền đạt, cụ thể hóa ở từng địa phương mình thông qua Hội thảo Lập kế hoạch cấp địa phương, sau khi được sự thống nhất của giám đốc BQLDA trung ương và cán bộ phụ trách dự án sẽ trở thành văn bản pháp lý để các đơn vị thành viên thực hiện. (*) Với dự án phát triển chè và cây ăn quả: - Kế hoạch thực hiện hợp phần công nghệ: Quá trình biên soạn, phổ biến sổ tay kỹ thuật sẽ theo các bước sau: 1/ Các viện thành lập tổ biên soạn sổ tay kỹ thuật, các thành viên của tổ bao gồm các chuyên gia với các chuyên môn khác nhau; 2/ Hội đồngkhoa học-kỹ thuật của viện tổ chức hội thảo lần thứ nhất để thống nhất nội dung; 3/ tổ biên soạn sẽ chỉnh sửa, hoàn chỉnh nội dung theo ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học-viện; 4/ hội thảo lần 2 với sự chủ trì của ban lãnh đạo Vụ khoa học và công nghệ; 5/ tổ kỹ thuật kiểm soát và đánh giá của BQLDA trung ương kiểm tra, chỉnh sửa theo góp ý của các giáo sư; 6/ BQDLA trung ương trình Vụ khoa học và công nghệ thẩm định; 7/ phổ biến tài liệu qua nhiều hình thức như tọa đàm, hội thảo, tập huấn, khóa đào tạo... - Kế hoạch thực hiện hợp phần chứng nhận chất lượng: Sau khi biên soạn và phổ biến các cuốn sổ tay kỹ thuật và tiêu chuẩn chứng nhận vườn ươm tới các hộ dân, hàng năm tại các tỉnh tham gia dự án đều tổ chức hội đồng hoặc đoàn kiểm tra, đánh giá, xếp loại vườm ươm. Tại các vườn ươm, đoàn sẽ đánh giá về số lượng, chất lượng cây giống, số lượng cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn, địa chỉ nguồn giồng gốc, khả năng tiêu thụ của chủ hộ v.v... sau nhiều lần kiểm tra, đoàn sẽ đánh giá, xếp loại các vườn ươm. - Kế hoạch thực hiện hợp phần thông tin thị trường: Sau khi triển khai, dự án sẽ xây dựng trang web riêng nhằm cập nhật kịp thời tình hình biến động về giá cả các sản phẩm chè và cây ăn quả tại từng địa phương, sau đó sẽ tổ chức các cuộc hội thảo và các lớp tập huấn nhằm giúp các PPMU tham gia xây dựng nội dung trang web, các biện pháp và thủ tục thẩm định nội dung trước khi đăng tải. Ngoài hình thức truyền thông này, dự án sẽ tổ chức các lớp tập huấn, cấp phát tạp chí, tuyên truyền trên tivi, báo, đài về thông tin thị trường cho các cán bộ PPMU, các đơn vị tham gia dự án và đặc biệt là trực tiếp với người dân tham gia vay vốn. (*)Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: BQLDA đã lập“tài liệu lập kế hoạch dự án„ gồm “ma trận dự án„ và “kế hoạch hoạt động hàng năm„. Nhìn chung các tài liệu này có chất lượng tốt và đáp ứng chuẩn của GTZ. Việc lập ma trận dự án tuân theo mẫu giới thiệu trong hướng dẫn “Lập kế hoạch theo hướng mục tiêu dự án của GTZ„ theo đó BQL không xác định chỉ tiêu cho các mục tiêu chung trong ma trận dự án và cũng không xác định chỉ tiêu cho các giả định. Trong ma trận dự án này không cụ thể hóa phần tăng diện tích đất trồng khoai tây, năng suất tăng thêm hay thu nhập/ha mà các chỉ tiêu này được chi tiết hóa trong kế hoạch hoạt động hàng năm. Trong giai đoạn 1 thì công tác lập kế hoạch được thực hiện theo hướng sản xuất (tập trung vào khối lượng khoai tây giống sản xuất được, tăng diện tích, năng suất...) nhưng trong giai đoạn 2, BQLDA đề xuất tập trung vào các chỉ tiêu lợi ích của người hưởng lợi cuối cùng (tăng thu nhập, tăng tỷ trọng thu nhập từ sản xuất khoai tây). Nhìn chung, quan điểm của dự án là rõ ràng và phản ánh đặc thù của khu vực sản xuất khoai tây ở Việt Nam. Khu vực can thiệp (sản xuất khoai tây giống, phát triển các kỹ thuật nhân giống thích hợp, cải tiến hệ thống xác nhận giống, can thiệp tăng cường hiệu quả sản xuất,...) đều khá phù hợp song chưa bao gồm khía cạnh khuyến nông và hoạt động can thiệp trong lĩnh vực này chưa cân xứng. Quản lý nhân lực (*) Với dự án chè-quả: BQLDA chè-quả phối hợp với BQLDA tỉnh đã tổ chức các chương trình đào tạo cho cán bộ thuộc CPMU và PPMU; cùng với đó là các khóa tập huấn cho các hộ nông dân bao gồm hội thảo tập huấn, toạ đàm và các khoá học được thiết kế nhằm phổ biến các thông tin về tài chính, kỹ thuật, hỗ trợ cho nông dân có đủ điều kiện vay vốn từ VBARD và Quỹ tín dụng nhân dân, sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Chương trình đào tạo bao gồm các lĩnh vực về canh tác, đảm bảo chất lượng, hình thành vườn ươm, thông tin thị trường, quản lý dịch hại tổng hợp… đã được triển khai tại tất cả các tỉnh tham gia dự án. Các khoá đào tạo đã tận dụng các nguồn lực có sẵn của các Viện nghiên cứu như các cơ sở vật chất giảng dạy và nơi cư trú. Dự án đã tổ chức 287 khoá đào tạo về thông tin thị trường cho gần 15.000 người; đăng tải 576 bài báo trên trang web nhằm phổ biến các biện pháp cách tác và tiếp thị. CPMU đã tổ chức được 7 khóa tham quan học tập nước ngoài, giúp cho 118 cán bộ nâng ca._.n trọng là nuôi cấy mô nên cần tăng cường cung cấp trang thiết bị cho các phòng nuôi cấy mô, cung cấp nhà lưới, kho lạnh và lưới. - Nhằm hỗ trợ nông dân ổn định về giá, trong dự án phát triển chè và cây ăn quả thì một số tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi bằng cách tổ chức cho các thương nhân và bà con nông dân gặp mặt trước vụ mùa để ký kết các hợp đồng mua bán chè (tỉnh Thái Nguyên) và quả (tỉnh Bắc Giang). Mục đích này là nhằm làm ổn định về giá trong suốt thời gian vụ mùa. Đây cũng là một gợi ý có thể áp dụng được cho dự án phát triển sản xuất khoai tây giai đoạn 2 vì hiện nay giá cả khoai thương phẩm vẫn phụ thuộc nhiều vào giá khoai nhập từ Trung Quốc nên không ổn định. Nếu có thể thành lập một vùng chuyên canh về khoai tây thì các hộ nông dân có thể hỗ trợ nhau bình ổn giá cả. - Cần tổ chức điều tra nghiên cứu thị trường bổ sung vì lần điều tra trước không đạt yêu cầu của các chuyên gia. Lần điều tra này cần tập trung xác định hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của 2 phương pháp nhân giống so với các giống khoai tây nhập khẩu từ Trung Quốc để từ đó quyết định xem có nên tiếp tục áp dụng 2 phương pháp này trong giai đoạn 2 hay không. Ngoài ra việc xác định nhu cầu thị trường trong 10 năm tới cũng là một yêu cầu của GTZ và cần phải được triển khai trước khi thực hiện giai đoạn 2. Để tránh lạp lại các sai sót như trong lần điều tra thị trường lần trước và mở rộng phạm vi nghiên cứu, đảm bảo tính tin cậy và tính dự báo thì cần chú trọng hơn nữa vào tính tin cậy của nguồn thông tin và phương pháp thu thập số liệu, cần có thêm các ý kiến tham khảo của các chuyên gia trong ngành ngay từ khi thu thập thông tin. Ngoài ra có thể thuê dịch vụ tư vấn nghiên cứu thị trường để đảm bảo tính trách nhiệm và chính xác trong nghiên cứu. Công tác này cần được tiến hành càng sớm càng tốt để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch và xác định phạm vi dự án cho giai đoạn 2. - Ngoài điều tra thị trường thì dự án cũng cần có điều tra kinh tế xã hội để có thể phân loại vùng dự án, xác định đối tượng thụ hưởng để từ đó có thể tập trung vào một số vùng sản xuất trọng điểm, có thể thu hẹp vùng dự án và tập trung vào địa phương có tiềm năng phát triển sản xuất hoặc nhu cầu tiêu thụ thuận lợi để mở rộng sản xuất. Giám sát, đánh giá dự án - Cần cụ thể nguồn và phương pháp thu thập dữ liệu giám sát với từng mục tiêu cụ thể ví dụ như: (*) Với mục tiêu “đưa thâm canh khoai tây vào hệ thống canh tác“ cần áp dụng các phương pháp: Điều tra mẫu chuẩn hóa, ngẫu nhiên đối với nông dân trồng và không trồng khoai tây trong vùng dự án; Thăm dò ý kiến một cách chuẩn hóa từ những người có vị trí như Chủ nhiệm hợp tác xã, trưởng thôn...; Phỏng vấn theo cơ cấu khuyến nông viên (cả nhà nước và tư nhân). (*) Với mục tiêu “Triển khai phương thức nhân giống“ cần áp dụng các phương pháp: In sẵn các bảng dữ liệu điều tra để các hợp tác xã và các đơn vị có hợp đồng điền vào; kiểm tra chéo. (*) Với mục tiêu “Tăng cường quy trình xác nhận khoai tây giống“ cần áp dụng các phương pháp: Cho các nhân viên liên quan điền vào bảng biểu; Kiểm tra chéo giữa các nhân viên dự án và khách hàng được chọn. - Không nên đánh giá hiệu quả của hợp phần đào tạo và cung cấp thông tin thị trường chỉ bằng chỉ tiêu số lượng người được tham gia đào tạo, số hội nghị-hội thảo được tổ chức mà cần kết hợp với chỉ tiêu chất lượng thông tin được cung cấp, mức độ phù hợp và tính ứng dụng với điều kiện địa phương, mức độ cập nhật của thông tin cũng như chi phí cho hợp phần này. Từ các cơ sở đánh giá trên sẽ có thể giảm bớt các chi phí cho hội nghị, hội thảo, tập huấn quá lớn như hiện nay và các tỉnh cũng sẽ cân nhắc cẩn thận hơn khi đưa ra các kiến nghị về tăng cường đào tạo, hội thảo tại địa phương mình. - Khi đánh giá dự án thì các mục tiêu về bảo vệ môi trường, chống xói mòn đất, thường ít được chú ý đến mặc dù trong thiết kế ban đầu luôn nói rõ các chỉ tiêu, mục tiêu cụ thể. Rõ ràng đây lại là chỉ tiêu quan trọng phản ánh tính bền vững của dự án, do đó trong các đợt đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ cần chú ý hơn nữa tới các tiêu chuẩn này và phản ánh trong các báo cáo đánh giá gửi cho tổ chức tài trợ. Ngoài ra, các ảnh hưởng của dự án tới phát triển cộng đồng như quyền bình đẳng giới, nhận thức của người dân về môi trường và phát triển bền vững, cải cách thể chế… cũng cần được chú trọng hơn và có các chỉ tiêu đánh giá cụ thể hơn nữa vì đây cũng là một trong các mối quan tâm của các tổ chức tài trợ, đặc biệt là tài trợ ODA. - Cần cụ thể hóa hơn nữa các chỉ tiêu đánh giá dự án trong ma trận dự án và kế hoạch hoạt động hàng năm để có thể giám sát tốt hơn tiến độ dự án và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ sau này. Ví dụ như chỉ tiêu thị phần của khoai tây sản xuất trong nước, của khoai tây cung cấp bởi dự án, so với khoai nhập khẩu vẫn chưa có số liệu cụ thể. Ngoài ra có một số chỉ tiêu không thật cần thiết hoặc khó xác định chính xác thì cũng nên bỏ qua ví dụ như chỉ tiêu tỷ trọng thu nhập từ khoai tây trong tổng thu nhập của các hộ dân là một chỉ tiêu không có nhiều ý nghĩa. Ngoài ra cũng cần xác định các chỉ tiêu quan trọng cần phải đạt được ví dụ như tỷ lệ nhiễm bệnh của khoai tây thương phẩm, lượng khoai tây giống sản xuất được… để từ đó có thể đánh giá chính xác mức độ hoàn thành cũng như tiến độ của dự án. - Cần tạo điều kiện cho các hộ dân và các đơn vị thực hiện dự án có thể tự giám sát chất lượng và tiến độ dự án vì các hợp phần đều có liên quan tới nhau, ví dụ như người nông dân trồng khoai thương phầm có thể giám sát chất lượng giống được cung cấp bởi đơn vị nhân giống. Do đó cần cung cấp thông tin đầy đủ về các hợp phần có liên quan và các tiêu chuẩn chất lượng cho các hộ dân và BQLDA có thể thường xuyên đi lấy ý kiến các hộ dân thay vì chỉ có 1-2 đợt đánh giá định kỳ theo yêu cầu của đơn vị tài trợ như hiện nay. Cách thức thu thập ý kiến đánh giá của các đơn vị thực hiện dự án cũng cần được xác định rõ để có thể tạo ra một hệ thống tự giám sát liên tục, khách quan và có hiệu quả. Tuy nhiên việc tổ chức các đoàn đánh giá đi các tỉnh thường là tốn kém và khó được chấp nhận nếu không có trong thiết kế của dự án. Do đó BQLDA trung ương và đơn vị tài trợ cần thảo luận và cân nhắc về việc tăng số lần tự đánh giá của phía Việt Nam. - Tiêu chuẩn hóa các tiêu chuẩn, quy trình đăng ký - kiểm tra – giám sát chất lượng. Ví dụ như với mục tiêu “Đẩy mạnh quy trình đăng ký giống khoai tây“ cần áp dụng các chuẩn quốc tế như DUS, VCU và các quy định của WTO, TRIPS. Để làm được điều này cần đầu tư hơn nữa cho các trung tâm, viện nghiên cứu và kiểm định chất lượng để các đơn vị này có đủ các trang thiết bị cần thiết để tiến hành đánh giá theo các tiêu chuẩn kể trên. QLDA theo lĩnh vực chủ yếu Quản lý phạm vi - Cần có kiến nghị giới hạn lĩnh vực can thiệp vào các nội dung: Nhân giống, xác nhận, đăng ký, kiểm dịch, chính sách giống và kinh tế nông nghiệp. Không nên chú trọng vào các hoạt động khuyến nông chung mà cần tập trung đặc biệt vào hoạt động nhân giống. Về việc này cần chú ý tới các quy định của WTO. Để có thể tuân thủ tốt cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vật - SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures Agreement) cần hoàn thiện các tiêu chuẩn kiểm định giống và chất lượng trong nước cho đạt các tiêu chuẩn quốc tế do đó sẽ tránh được các khó khăn về xuất khẩu sau này. Thêm vào đó,trong xu thế hội nhập như hiện nay, việc hài hòa các biện pháp kiểm dịch thực vật nhằm phát triển thương mại Việt Nam chưa làm được nhiều nên rất cần hỗ trợ về kỹ thuật của các nước tiên tiến. Vì thế BQLDA trung ương cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương và các đơn vị thưc hiện dự án để quán triệt các tiêu chuẩn kiểm định vào sản phẩm. - Dự án cần tập trung nguồn lực hạn chế của mình vào quy trình nhân giống được lựa chọn và hứa hẹn nhất chứ không thể và không nên cố gắng cung cấp hoặc thu xếp để cung cấp khoai tây giống cho toàn bộ diện tích trồng khoai theo kế hoạch của Bộ. Phương thức nhân giống hiện tại cũng cần được tiếp tục ví dụ như nhân giống trên cơ sở hợp đồng hợp tác với nông dân (hợp tác xã, nông dân ký hợp đồng, công ty giống cây trồng trung ương I). - Trong giai đoạn tới cần tiếp tục hoạt động dựa trên cơ sở hình mẫu hoặc thí điểm trên tất cả các cấp độ của dòng giống, tập trung vào nhân giống đã được chọn lọc và hứa hẹn có khả năng phát triển. Phương thức tiếp cận nhân giống trên cơ sở hợp đồng với nông dân cần được tiếp tục nhưng các hoạt động cần tập trung vào các hợp tác xã / xã được lựa chọn như trong khung thiết kế ban đầu. Các hoạt động khuyến nông cần tập trung vào nhân giống nhưng cần có đầy đủ các thông tin và tài liệu cụ thể hóa cho các đơn vị khuyến nông nhà nước và tư nhân. 2 kỹ thuật nhân nhanh RMT và nhân bằng hạt TPS cần được tiếp tục thực hiện song song. - BQLDA trung ương nên tập trung vào công tác quản lý chung như quản lý tiến độ, các báo cáo, giải ngân... thay vì can thiệp sâu vào chuyên môn của các đơn vị thực hiện. Khi cần thì có thể thuê các tư vấn kỹ thuật hoặc phối hợp với các đơn vị như trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương hay cục bảo vệ thực vật để được tư vấn. - Khi xác định các mục tiêu của dự án cũng như các chỉ tiêu đánh giá thì cần xem xét cả tới các mục tiêu dài hạn của ngành sản xuất khoai tây Việt Nam sau khi dự án kết thúc. Khi đó không còn vốn hỗ trợ của nước ngoài nữa thì liệu rằng các cơ sở nhân giống và các hộ sản xuất khoai thương phẩm có thể đáp ứng nhu cầu trong nước và cạnh tranh với khoai tây nhập khẩu hay không, liệu có cần có thể các chương trình hỗ trợ của nhà nước sau khi dự án kết thúc hay không... Điều này liên quan đến tính bền vững của dự án – một mục tiêu mà các nhà tài trợ luôn rất quan tâm khi thiết kế dự án. Tuy nhiên do tình hình thực tế không đạt được các mục tiêu như đã đề ra nên cần thay đổi lại các mục tiêu này cho phù hợp với giai đoạn 2. Ví dụ như có thể giảm quy mô số tỉnh tham gia dự án, tập trung tự chủ bằng nguồn giống sản xuất trong nước thay vì tăng diện tích trồng khoai thương phẩm... - Mặc dù việc tăng diện tích trồng khoai thương phầm, đưa sản xuất vào quy mô lớn, đại trà là một cách để làm hạ giá thành sản phẩm, tạo chỗ đứng trên thị trường và làm tăng tính bền vững của dự án nhưng trước mắt vẫn cần tập trung vào nâng cao chất lượng sản phẩm, dựa vào các hỗ trợ của nhà nước để duy trì giá thành ở mức chấp nhận được so với khoai tây nhập khẩu. Do đó cần tập trung vào một số vùng sản xuất trọng điểm để tiêu chuẩn hóa về chất lượng và phương pháp canh tác; ngoài ra cũng cần có các kiến nghị với chính phủ tiếp tục nâng cao các biện pháp hỗ trợ sản xuất trong nước như các biện pháp đánh thuế, kiểm dịch với sản phẩm nhập khẩu; hỗ trợ giá trong sản xuất khoai tây giống... - Dự án cần có thêm các nội dung về hỗ trợ nông dân tiếp thị và xây dựng hình ảnh, thương hiệu khoai tây sản xuất trong nước. Mặc dù ý tưởng về hiệp hội sản xuất khoai tây Việt Nam đang được thực hiện và hứa hẹn nhiều triển vọng song cũng không nên dựa hoàn toàn vào tổ chức này (vẫn đang chuẩn bị thành lập) và cần có các biện pháp hỗ trợ khác trong giai đoạn hiện nay như những gì mà dự án phát triển chè và cây ăn quả đã làm rất tốt. Trong dự án trước đã có riêng một hợp phần về thông tin thị trường và tổ chức các hoạt động tuyên truyền trên truyền hình, qua các hội thi, qua các trang web, tạp chí, lồng ghép vào các chương trình nông nghiệp khác với nội dung do các đơn vị thực hiện dự án đóng góp... đều là các gợi ý tốt cho dự án này. - Phối hợp với Bộ NN&PTNT xây dựng định hướng phát triển ngành sản xuất khoai tây để có thể có một định hướng dài hạn cho dự án cũng như cho cả ngành sản xuất khoai tây sau khi dự án kết thúc. Ngoài ra, đây cũng là một cách để Bộ NN&PTNT quan tâm hơn đến dự án; có các biện pháp, chủ trương cụ thể hỗ trợ ngành này và góp phần xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với các chương trình khác như chiến lược nâng cao thể trạng của người Việt Nam hay chiến lược chuyển dịch cơ cấu cây nông nghiệp. Đối với dự án, việc biết được định hướng của Bộ sẽ giúp dự tính được các nguồn lực phân bổ cho ngành cũng như các chính sách có liên quan từ đó sẽ lập được các kế hoạch dài hạn với sự phối hợp của các đơn vị khác. Điều này là cần thiết đặc biệt trong bối cảnh dự án không còn kéo dài lâu nữa và chưa biết có được gia hạn tiếp hay không sau khi sử dụng hết nguồn vốn hỗ trợ từ phía Đức. Nếu chính phủ có dự định tiếp tục tài trợ cho dự án hoặc xây dựng một dự án mới hỗ trợ ngành này trong tương lai thì đây là thời điểm thích hợp để nghiên cứu và đưa ra quyết định. BQLDA trung ương cần phối hợp với Cục trồng trọt trước khi đưa ra đề xuất với Bộ NN&PTNT. - Theo kế hoạch, dự án phát triển sản xuất khoai tây sẽ kết thúc vào đầu năm 2010 nhưng các báo cáo giữa kỳ đã cho thấy đây là một dự án mang lại hiệu quả rõ rệt, làm tăng thu nhập cho các hộ nông dân trồng khoai tây thương phẩm nên cần tiếp tục kéo dài và mở rộng dự án, nghĩa là nên có thêm giai đoạn 3 vào năm 2010 với mục tiêu là phổ biến công nghệ mới (phương pháp nhân giống nhanh RMT và nhân giống bằng hạt lai TPS) cho các tỉnh khác ở miền Bắc. - Ngoài ra, với dự án phát triển chè và cây ăn quả, ADB nên xem xét tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong thị trường chè quả cũng như sản xuất các nguyên liệu trồng trọt hướng tới khách hàng đối với thị trường trong và ngòai nước. Những nghiên cứu thị trường nên tập trung hỗ trợ cho các dự án tương tự tiếp theo. Những nghiên cứu thị trường sẽ một vai trò quan trọng cho các họat động dự án các khu vực phát triển chè và cây ăn quả, xác định nguyên liệu canh tác phù hợp, các công nghệ chế biến và xử lý sau thu hoạch cũng như các họat động phi tín dụng khác, từ đó tiếp tục phát triển hơn nữa ngành sản xuất này ở Việt Nam. Lập kế hoạch - Do trong giai đoạn 2, dự án đã chuyển mục tiêu từ việc tập trung vào các chỉ tiêu sản xuất (khối lượng khoai tây giống sản xuất được, tăng diện tích, năng suất...) sang các tiêu chí hướng về người hưởng lợi cuối cùng (tăng thu nhập, tăng tỷ trọng thu nhập từ sản xuất khoai tây) nên lĩnh vực can thiệp của dự án cũng cần thay đổi. Cụ thể là cần can thiệp vào khía cạnh khuyến nông với các hoạt động như các chương trình hỗ trợ chuyển đổi giống cây trồng; phổ biến các phương pháp chống xói mòn đất, chống bạc màu, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững; thành lập các tổ, hợp tác xã, hội nông dân trồng khoai tây và đặc biệt là chú trọng tới thị trường tiêu thụ sản phẩm. Để có thể làm được việc này thì cần nhanh chóng phối hợp với các cơ quan kiểm dịch để ban hành quy định chi tiết về chất lượng khoai tây thương phẩm cũng như thắt chặt kiểm dịch tại cửa khẩu nhằm ngăn chặn khoai nhập từ Trung Quốc. Ngoài ra, do trọng tâm không phải là nghiên cứu và phát triển giống trong nước nên cần xem xét và cân nhắc khả năng tiếp tục nhập những giống mới từ nước ngoài. Giải pháp này tuy làm sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguồn giống nhập ngoại nhưng có thể giúp nhanh chóng phát triển thị phần khoai tây trong nước, tạo thói quen tiêu dùng trong bối cảnh sản xuất giống trong nước thiếu hụt xa so với nhu cầu sản xuất khoai thương phẩm. Ngoài ra trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thì việc lệ thuộc giữa các nền kinh tế là tất yếu, nếu có thể đa dạng hóa nguồn cung cấp thì rủi ro sẽ có thể được giảm bớt. - Cần đẩy sớm thời gian lập kế hoạch để có thể hoàn thành sớm bản kế hoạch hoạt động cho năm sau và gửi cho bộ Tài Chính, tổ chức tài trợ vốn từ đó có thể sớm được phê duyệt và cấp vốn hoạt động cho các tháng đầu năm. Điều này có thể hạn chế được tình trạng chờ vốn trong những tháng đầu năm tài chính như hiện nay và tạo điều kiện cho các nhà thầu tiếp tục thi công. Để có thể đẩy nhanh quá trình này thì trước hết cần có sự phối hợp của các đơn vị cấp tỉnh mà chủ yếu là các BQLDA tỉnh. Các sơ thảo kế hoạch hoạt động cho năm sau cần được CPMU soạn trước dựa trên nguồn lực dự kiến phân bổ cho các tỉnh, sau đó gửi cho các tỉnh từ sớm để có thể kịp thời bổ sung và chỉnh sửa trước khi gửi lại cho CPMU điều phối lại cho phù hợp với tổng nguồn lực của dự án. - Để thực hiện tốt công tác cung cấp thông tin thị trường cũng như các kỹ thuật canh tác cho các nông hộ cần công khai các tiêu chuẩn chất lượng của khoai tây giống, phối hợp với các cơ quan khác thì cần có kế hoạch xây dựng trang thông tin điện tử riêng với các thông tin cập nhật không chỉ về dự án mà còn về dự báo thị trường, các quy định pháp luật về chất lượng khoai thương phẩm. Đây là hình thức thông tin ít được chú ý, đặc biệt là trong các dự án nông nghiệp do khả năng tiếp cận của nông dân còn hạn chế. Tuy nhiên xét về lâu dài thì đây là hình thức có hiệu quả và tiết kiệm nhất do đó cần giao cho một cơ quan trung ương có đủ thông tin bao quát, chuyên trách về việc xây dựng và cập nhật thông tin cho trang web. Chức năng này có thể giao cho hiệp hội sản xuất khoai tây. Theo kế hoạch dự án thì hiệp hội này lẽ ra đã được thành lập từ đầu 2009 nhưng do nhiều lý do nên đã bị trì hoãn. Tuy nhiên sự hiện diện của hiệp hội là cần thiết do đó BQL cần xúc tiến việc thành lập (dự kiến là cuối 2009) và có kế hoạch cụ thể về nhiệm vụ của hội cũng như các biện pháp hỗ trợ cho hoạt động của hội trong giai đoạn đầu thành lập. - Giảm thiểu tác động tới môi trường: Ảnh hưởng của dự án về quản lý nguồn nước và đa dạng sinh học sẽ phải giảm thiểu bằng cách hạn chế việc mở rộng vườn cây ăn quả đến các vùng đất trống. Để khẳng định rằng việc quy hoạch các vườn quả mới sẽ không gây ra ảnh hưởng xấu tới môi trường, công cuộc kế hoạch môi trường và sử dụng đất cần phải được tổ chức cho những cơ quan quy hoạch đất các tỉnh và các khoản tín dụng sẽ không cấp vốn cho các dự án sử dụng đất rừng để trồng cây ăn quả. Quản lý chất lượng - Về quản lý chất lượng khoai tây giống: Cần áp dụng các tiêu chuẩn WTO vào quy trình đăng ký, kiểm định chất lượng giống. Để làm được việc này cần có sự phối hợp với các cơ quan đăng kiểm và cấp chứng nhận cũng như các Bộ có liên quan. Các quy định cần chi tiết hóa bằng việc ban hành các nghị định hướng dẫn thực hiện và áp dụng thống nhất trên toàn quốc. Các quy định và tiêu chuẩn này cần được công bố rộng rãi và phải có hỗ trợ để các đơn vị nhân giống cũng có thể tự kiểm tra, kiểm định chất lượng giống mà mình sản xuất ra chứ không phải chỉ có các trung tâm khảo-kiểm nghiệm giống cây trồng mới có trang bị và nhân lực để làm công tác này như hiện nay. Điều này có nghĩa là cần phải có các đợt tập huấn về lấy mẫu, xét nghiệm, cung cấp thiết bị thí nghiệm cho các đơn vị nhân giống. Có như vậy thì mới có thể hướng tới sự phát triển bền vững sau khi dự án kết thúc. - Vì sản xuất khoai tây là một ngành còn tương đối mới nên các tiêu chuẩn chất lượng, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống giấy chứng nhận chất lượng nhình chung còn cần được bổ sung nhiều thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu phân loại sản phẩm chất lượng cao, an toàn với các sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Do đó BQLDA trung ương cần yêu cầu các viện nghiên cứu, trung tâm khảo kiểm nghiệm nhanh chóng hoàn thiện các định mức cần thiết và đề nghị lên Cục tiêu chuẩn đo lường Việt Nam ban hành các văn bản pháp quy quy định rõ tiêu chuẩn chất lượng và giấy chứng nhận chất lượng cho khoai thương phẩm và khoai tây giống. Đây là điều kiện quan trọng để có thể xây dựng thương hiệu và quảng bá hình ảnh khoai tây sản xuất trong nước. - Dựa trên các tiêu chuẩn đó cần tăng cường việc kiểm dịch ở biên giới nhằm hạn chế khoai tây giống và vật liệu trồng chất lượng thấp nhập khẩu từ Trung Quốc, hỗ trợ cho việc sản xuất giống trong nước. Tuy nhiên cần chú ý đơn giản hóa các thủ tục kiểm dịch để có thể rút ngắn thời gian lưu lại ở biên giới, tránh tình trạng chất lượng giống bị giảm sút, tỷ lệ thối hỏng cao do bị lưu lại kiểm dịch vì trong vài năm tới sản xuất trong nước vẫn phải dựa vào việc nhập khẩu khoai tây giống từ nước ngoài mà chủ yếu là từ Trung Quốc. - Để phổ biến kỹ thuật canh tác một cách hiệu quả hơn thì ngoài việc tập trung vào các khóa tập huấn kỹ thuật cho nông dân thì còn cần chú trọng biên soạn lại và phổ biến các quyển sổ tay kỹ thuật với sự góp ý của không chỉ các chuyên gia của Đức, các chuyên gia thuộc các viện nghiên cứu, vụ khoa học, các trường đại học mà còn của cục bảo vệ thực vật, các cơ sở khuyến nông tỉnh. Các ý kiến đóng góp của các đơn vị này được đánh giá là sát với thực tế và phù hợp với điều kiện của từng tỉnh do đó rất cần sự tham gia của họ vào việc biên soạn lại các quyển sổ tay này. Trong quá trình biên soạn cần tổ chức nhiều buổi hội thảo với sự góp mặt của các đơn vị kể trên cùng đóng góp ý kiến. Dựa vào các sổ tay này, định kỳ có thể tổ chức đánh giá và xếp loại các cánh đồng/hợp tác xã đồng thời cấp chứng chỉ chất lượng cho các hộ nông dân. - Cần chú trọng hơn nữa vào việc kiểm định và tiêu chuẩn hóa các nguồn cung cấp giống được sản xuất trong nước thay vì tập trung vào nâng cao số lượng giống được sản xuất hàng năm. Mặc dù hiện này sản xuất giống chưa đáp ứng đủ về số lượng cho sản xuất trong nước và vẫn phải nhập khẩu nhưng thực tế cho thấy chất lượng giống sản xuất trong nước chưa đồng đều cộng với kỹ thuật canh tác của các hộ dân còn yếu nên nếu không kịp thời chấn chỉnh chất lượng nguồn giống thì sẽ không thể xây dựng được thương hiệu, không thể nâng giá bán, không tạo ra hiệu quả kinh tế rõ rệt và vì thế không thể cạnh tranh với khoai tây nhập khẩu, không thể nhân rộng mô hình sản xuất ra các tỉnh khác. Như vậy dự án sẽ không có tính bền vững và ngành sản xuất khoai tây sẽ không phát triển được sau khi dự án kết thúc và không còn hỗ trợ gì từ nước ngoài hay từ phía nhà nước. - Cần có biện pháp giảm chi phí kiểm định và kiểm nghiệm như tăng thêm số cơ sở kiểm định, nhà nước tiếp tục hỗ trợ một phần cho các đơn vị này thay vì buộc các đơn vị nghiên cứu khoa học tự hạch toán độc lập theo lộ trình hiện nay hoặc có thể cân nhắc khả năng cấp phép cho các đơn vị tư nhân được thực hiện công tác này. - Để có thể nâng cao nhận thức của các hộ nông dân về việc sử dụng khoai tây giống sạch bệnh và ý thức sử dụng giống xác nhận cần trình bày thêm về hiệu quả kinh tế của các phương pháp sản xuất mới này với các ví dụ thực tiễn từ các địa phương khác trong các buổi tập huấn về kỹ thuật sản xuất. Tuy vậy về lâu dài vẫn cần tập trung giảm chi phí sản xuất cũng như kiểm nghiệm, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá bán thì mới có thể tạo ra hiệu quả kinh tế rõ rệt từ việc sử dụng giống sạch bệnh và tạo động lực thực sự cho các hộ nông dân. Quản lý nhân lực - Vì việc dự tính, lập kế hoạch tuyển dụng chuyên viên kỹ thuật và tư vấn hỗ trợ cho BQLDA trung ương là khó chính xác, thường thì số lượng, mức lương, phụ cấp của các nhân sự này do nhu cầu thực tế phát sinh nên không khớp với thiết kế ban đầu của dự án dẫn đến phải làm thủ tục xin cấp vốn với rất nhiều bước phức tạp làm chậm tiến độ. Vì thế, để có thể tạo ra sự linh hoạt thì không nên dự tính và cố định ngân sách cho các chuyên vên tạm thời hỗ trợ BQLDA. Có thể tích hợp chi phí này vào khoản chi phí tư vấn hoặc QLDA khi dự tính kế hoạch ngân sách. Đến khi có thực chi thì BQLDA có thể tự điều tiết để cân đối các khoản chi này. - Vì với mỗi dự án có một nhà tài trợ khác nhau nên yêu cầu về quản lý tài chính-giải ngân cũng khác nên BQLDA trung ương cần “đi trước” tìm hiểu các quy định này để có thể quán triệt cho các đơn vị thực hiện, đặc biệt là khi 2 dự án này do 2 đơn vị tài trợ vốn khác nhau với những yêu cầu về quản lý tài chính cũng khác nhau. Đây là việc cần làm ngay từ khi dự án bắt đầu triển khai để có thể có một hệ thống báo cáo tài chính thống nhất và đạt tiêu chuẩn. Do đó nên có các chính sách đào tạo tăng cường năng lực cho các cán bộ dự án bên cạnh các chính sách khuyến khích, động viên, tạo công ăn việc làm ổn định cho các cán bộ dự án trước và sau dự án để ngày càng có nhiều cán bộ đủ năng lực tham gia điều hành các dự án. - Ngoài ra, một phần nguyên nhân của tình trạng chậm giải ngân là do các các bộ ở các cấp trung ương và không trực tiếp quản lý việc thực hiện dự án như Bộ Tài Chính, Bộ NN&PTNT. Các đơn vị này không thường xuyên quản lý dự án nên không nắm rõ về nhu cầu thực tế cũng như các khó khăn mà dự án gặp phải nhưng lại tham gia vào những phần việc rất quan trọng là phê duyệt các khoản chi và thay đổi thiết kế dự án. Trong khi đó các khoản chi và việc thay đổi thiết kế dự án nông nghiệp là rất lắt nhắt, có nhiều phát sinh không lường trước được nên nếu không nắm rõ về dự án thì sẽ rất khó biết được các khoản mục đó có hợp lý hay không. Nếu chỉ dựa vào các báo cáo của các BQLDA gửi lên thì vai trò và ý kiến chủ quan của các đơn vị này là không đáng kể. Hơn nữa, các dự án đều có đặc thù riêng nêu nếu có thể nâng cao hiểu biết của các cán bộ chuyên viên tại các đơn vị này thì sẽ tạo điều kiện rất lớn cho việc rút ngắn thời gian trình duyệt, nhờ đó tăng cường giải ngân của dự án. Do đó việc đào tạo tăng cường năng lực cũng nên được thực hiện đối với các cán bộ tại các cơ quan trung ương làm nhiệm vụ theo dõi và duyệt các dòng chi về tài chính kế toán của dự án (các cán bộ của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Vụ tham gia quản lý tài chính của Bộ chủ quản dự án, ...). Có như vậy thì tình trạng chậm giải ngân phổ biến hiện nay mới có thể được khắc phục. - Mặc dù hiện nay dự án có sự giúp đỡ của các chuyên gia kỹ thuật của Đức nhưng cũng cần có kế hoạch đào tạo chuyên sâu cho một số cán bộ chủ chốt để có thể nắm bắt được các bí quyết kỹ thuật, tiếp tục hỗ trợ cho ngành sản xuất khoai tây sau khi các chuyên gia này về nước hoặc sau khi dự án kết thúc. Đây là một điều kiện quan trọng để dự án có thể đạt được sự phát triển bền vững sau này. - Cần cập nhật và chỉnh sửa các tài liệu kỹ thuật về gieo trồng khoai tây thương phẩm do trong giai đoạn 1 đã sử dụng thêm một số giống mới và dự định sẽ áp dụng thí điểm tại 2 tỉnh miền bắc. Ngoài ra cũng cần điều chỉnh tài liệu cho phù hợp với điều kiện sản xuất từng vùng dựa trên thực tế rút ra từ giai đoạn 1. - Để có thể tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào QLDA thì cần tăng cương đào tạo, tập huấn cho các cán bộ, đặc biệt là các cán bộ tỉnh về kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm, quản lý cơ sở dữ liệu. Đây là các nội dung tương đối khó cho việc đào tạo vì đòi hỏi thời gian tập huấn tương đối dài, nội dung phải cập nhật và có tính ứng dụng cao tại từng địa phương, ngoài ra do trình độ và các hiểu biết cơ sở về tin học của các cán bộ QLDA tỉnh không đồng đều dẫn đến việc áp dụng một giáo trình chuẩn chung là khó đạt được. Tuy vậy lợi ích mà công nghệ thông tin mang lại là rất lớn nên vẫn cần có các nội dung này trong các đợt đào tạo, tập huấn. Vì thế các khóa đào tạo cần tập trung hơn nữa cho nội dung này. - Nội dung của các khóa tập huấn cho nông dân cũng cần đề cập đến các biện pháp canh tác ít ảnh hưởng tới môi trường, chống bạc màu đất, chống xói mòn, sử dụng phân bón hợp lý... vì các mục tiêu về môi trường đươc nhấn mạnh trong thiết kế ban đầu cảu dự án và cũng là một mối quan tâm của tổ chức tài trợ. - Rút kinh nghiệm từ dự án chè-quả, các chương trình đào tạo, chuyến thăm quan học tập nên được thiết kế nhằm hỗ trợ thực hiện dự án. Dựa vào kinh nghiệm của dự án này, tuy phân cấp thực hiện cho tỉnh nhưng Ban quản lý dự án Trung ương cũng nên xây dựng một hệ thống theo dõi và đánh giá, tiến hành các đoàn công tác theo dõi kiểm tra thường xuyên nhằm hỗ trợ cho các cơ quan địa phương. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả của các đợt tập huấn cần tổ chức các khóa đào tạo tập trung, thời gian dài hơn so với hiện tại để có thể truyền tải kiến thức một cách có hệ thống và liên tục đặc biệt là các đợt tập huấn về kỹ năng kế toán-tài chính cho các cán bộ dự án tại tỉnh. - Ngoài ra để có thể nâng cao chất lượng nhân lực tại các BQLDA tỉnh thì cần có chính sách đào tạo, phát triển nhân lực dài hạn. Ở CPMU và các cấp quản lý trung ương khác thường được cấp kinh phí để đào tạo cán bộ một cách bài bản, lấy bằng cấp ở nước ngoài. Điều này không những trực tiếp nâng cao trình độ của các cán bộ đó mà còn tạo ra sức hấp dẫn để thu hút những người trẻ, có năng lực vào làm việc cho các cơ quan này ngay cả khi mức lương chưa thực sự hấp dẫn. Ở cấp tỉnh, mặc dù không thể có ngân sách để cho các bộ đi đào tạo nước ngoài nhưng cũng có thể cấp ngân sách để đào tạo dài hạn, chính quy trong nước. Các cán bộ được đi đào tạo sẽ không nhiều và phải đạt các tiêu chí về năng lực làm việc, kinh nghiệm với dự án... và đó cũng là động lực để họ phấn đấu đóng góp cho dự án và đồng thời cũng sẽ là nguồn nhân lực quý báu cho tỉnh về sau. Kết luận Công tác quản lý các dự án sử dụng vốn ODA, đặc biệt là các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp luôn là một công việc khó khăn. Tuy nhiên BQLDA phát triển chè và cây ăn quả đã có nhiều cố gắng nhằm hoàn thiện quy trình này thông qua việc thực hiện hai dự án “phát triển chè và cây ăn quả„ và “phát triển sản xuất khoai tây„. Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực như thực hiện tốt công tác đánh giá dự án, phối hợp với các đơn vị khác, cải cách thể chế, tổ chức các khóa đào tạo... tuy nhiên vẫn còn nhiều mặt còn hạn chế như tiến độ các dự án và tốc độ giải ngân vốn còn chậm, thủ tục quản lý tài chính chưa được cải thiện nhiều, công tác lập kế hoạch chưa chi tiết... Hy vọng rằng với một số kiến nghị và giải pháp mà bài luận chuyên đề đưa ra có thể góp phần hoàn thiện thêm công tác quản lý dự án tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả. Xin chân thành cảm ơn những góp ý quý báu của các thầy cô giáo và các bạn trong quá trình viết bài luận này. Xin cảm ơn! Tài liệu tham khảo Quyết định số: 103/2001/QĐ-BNN Ngày 11 tháng 10 năm 2001 của bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc ban hành quy chế tổ chức và thực hiện Dự án Phát triển chè và cây ăn quả Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án phát triển chè và cây ăn quả - BQLDA trung ương tháng 12/2004 Báo cáo hoàn thành dự án phát triển chè và cây ăn quả - ADB và Chính phủ tháng 12/2008 Các phụ lục và bảng biểu của báo cáo đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ Tài liệu thẩm định dự án phát triển sản xuất khoai tây – Bộ NN&PTNT Báo cáo kết quả hoạt động giai đoạn 1 dự án phát triển sản xuất khoai tây – BQLDA trung ương tháng 12/2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21626.doc
Tài liệu liên quan