Tình hình quản lý nhà nước về chất lượng - Thực trạng và một số giải pháp

Lời nói đầu Chất lượng hàng hoá là mối quan tâm hàng đầu của mọi người , là một trong những mục tiêu quan trọng của toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, trở về với đúng vị trí quan trọng của nó, chất lượng không những được người tiêu dùng coi trọng, nó là nhân tố cơ bản quyết định sự thắng bại trong cạnh tranh , quyết định sự tồn tại , hưng vong của từng doanh nghiệp nói riêng cũng như sự thành công hay tụt hậu của một đất nước nói chung.Do đó, để đảm bảo sự phát triển, nâng cao chất lượ

doc39 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình quản lý nhà nước về chất lượng - Thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng hàng hoá, dịch vụ trong nước, sự lành mạnh, bền vững và công bằng và tiến bộ xã hội, chỉ có quản lý nhà nước mới có thể thực hiện được điều này thông qua các cơ chế chính sách.Qua đó, nó tác động trực hay gián tiếp đến việc nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vu, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, liên tục đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại, hướng dẫn áp dụng phong cách quản lý mới, thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra phát hiện những sai phạm về chất lượng,tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ của mình, tránh ô nhiễm môi trường. Nhờ vậy, bảo vệ an toàn cho người tiêu dùng, cho người sản xuất và môi trường trong sạch, văn minh trong xã hội. Trong bài viết này, em muốn viết về tình hình quản lý nhà nước về chất lượng hiện nay và một số giải pháp trong quản lý nhà nước về chất lượng trong và ngoài nước Tuy nhiên, do trình độ còn hạn hẹp, không thể tránh nổi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của thày, cô giáo và các bạn. Xin chân thành cảm ơn. I- Lý luận chung quản lý Nhà nước về chất lượng Sản xuất và cung cấp dịch vụ có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng là mục tiêu và nhiệm vụ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên với tư cách là người đại diện cho tư nhân, đảm bảo cho lợi ích xã hội, nhà nước không đứng ngoài để mặc cho các doanh nghiệp tự xoay sở, đo lường. Do đó để đảm bảo trật tự và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, nhà nước cần phải thực hiện chức năng quản lý về mặt chất lượng. Quản lý chát lượng là việc ấn định đúng đắn các mục tiêu phát triển bền vững của hệ thống, đề ra nhiệm vụ, làm cho hệ thống trong từng thời kỳ và tìm ra con đường đạt đến mục tiêu một cách có hiệu quả nhất. Khi mới hình thành nền kinh tế thị trường thì có một số quan điểm cho rằng quan hệ trên thị trường là do người mua, người bán tự quyết định điều tiết, do đó không cần có sự quản lý của nhà nước về chất lượng. Đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Theo lý luận và thực tiễn đã khẳng định nhà nước có vai trò quản lý kinh tế nói chung. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết, nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến vấn đề lợi nhuận mà bỏ qua vấn đề chất lượng và thoả mãn lợi ích của khách hàng. Do đó, họ không tuân thủ những qui định của pháp luật, gây ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng và nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của chất lượng trong sự phát triển kinh tế, xã hội, chính vì vậy mà nhà nước phải đứng ra tiến hành quản lý chặt chẽ về mặt chất lượng để khống chế những hành vi mang lại hậu quả xấu cho xã hội, đảm bảo sự phát triển lành mạnh và bền vững. Chỉ có quản lý nhà nước về chất lượng thì người sản xuất mới thấy được sự đầy đủ trách nhiệm của mình đối với sản phẩm mà họ tạo ra cho xã hội. Nhà nước thông qua các công cụ quản lý của mình như ban hành các văn bản, các thể lệ, chính sách, các qui định, tiêu chuẩn về chất lượng, tổ chức thực hiện giám sát và thi hành các quyết định của nhà nước về chất lượng qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện những sai phạm về chất lượng để có tác dụng sử lý, ngăn chặn kịp thời sản phẩm kém chất lượng, kém phẩm chất, hết hạn sử dụng được bán ra trên thị trường. Điều đó, một mặt giúp người tiêu dùng an tâm sử dụng các sản phẩm hàng hoá trong nước do đã được bảo hành về mặt chất lượng, tránh những hậu quả nghiêm trọng mang lại cho sức khoẻ, thiệt hại vật chất tinh thần khi sử dụng vào những sản phẩm kém chất lượng.Mặt khác, nhà nước còn tạo điều kiện môi trường thuận lợi thúc đẩy, khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao chất lượng bằng các chính sách ưu tiên hợp lý,các hình thức hỗ trợ phù hợp, giúp các doanh nghiệp có thể đẩy mạnh, nhanh được quá trình hoàn thiện, đổi mới, cải tiến và nâng cao chất lượng. Nhờ đó các doanh nghiệp có thêm cơ hội đầu tư liên tục tăng cường, đổi mới áp dụng công nghệ mới, khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại nhằm đưa ra thị trường những sản phẩm ngày càng tốt hơn, cung cấp phục vụ khách hàng một cách tốt nhất, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường sản phẩm, đó là điều kiện tiên quyết cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Việc nghiên cứu, đưa ra các hệ thống tiêu chuẩn hợp lý khoa học, hiệu quả cao góp phần giúp doanh nghiệp sử dụng, tiết kiệm, có hiệu quả nguồn tài nguyên khan hiếm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại. Chất lượng là yếu tố cạnh tranh quan trọng nhất giúp cho doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, chiếm lợi thế so sánh với các đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh và đứng vững trên thị trường. Sản xuất và cung cấp sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng là mục tiêu và nhiệm vụ của mọi doanh nghiệp. Nhà nước có trách nhiệm quản lý giám sát hợp lý không làm giảm đi tính năng động sáng tạo vốn có của các doanh nghiệp mà còn tạo cơ hội tốt cho doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thị trường. Điều đó càng khẳng định vai trò của quản lý nhà nước về chất lượng là hết sức cần thiết trong việc điều hành nền kinh tế trong nước phát triển công bằng, vững mạnh, cụ thể đó là:Qua các chính sách hợp lí, thúc đẩy quá trình tiêu dùng, tăng khối lượng hàng hoá có chất lượng lưu thông trên thị trường. Nhà nước còn định hướng về chất lượng cho các doanh nghiệp hay các tổ chức để các doanh ngiệp hay các tổ chức này sản xuất ra những sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đạt chất lượng ngày các tốt hơn cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo mục tiêu phát triển cho doanh nghiệp và đất nước bằng việc đưa ra những chính sách kinh tế xã hội, khoa học kỹ thuật hợp lý làm cơ sở cho các doanh nghiệp phát huy được thế mạnh của mình. Mặt khác, đưa ra các hoạt động tác động và cách điều chỉnh quá trình sản xuất, cung cấp và tiêu dùng cho xã hội, tạo ra sự công bằng cho người sản xuất và người tiêu dùng. Tránh xa tình trạng lãng phí, kém hiệu quả. 1. Một số quan điểm về chất lượng. Hiện đang còn tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng, mỗi quan điểm lại có những căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau. Đối với các sản phẩm thông thường, các quan điểm thường gặp lại. + Theo tính chất công nghệ sản xuất: Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính bên trong của sản phẩm có thể đo được hoặc so sánh được, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó đáp ứng cho những yêu cầu cho trước trong những điều kiện xác định về kinh tế xã hội. + Theo hướng phục vụ khách hàng: Chất lượng sản phẩm chính là mức độ thoã mãn nhu cầu hay là sự phù hợp với những đòi hỏi của người tiêu dùng. + Theo quan niệm hướng theo các cam kết của người sản xuất: Chất lượng là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc tính của sản phẩm thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. + Theo quan niệm thị trường: Chất lượng là sự kết hợp giữa các đặc tính của sản phẩm thoả mãn được nhu cầu của khách hàng trong giới hạn chi phí nhất định. + Theo TCVN ISO 8402: Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể, đối tượng tạo cho thực thể, đối tượng đó có khả năng thoả mãn được những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn. Từ những điểm hội tụ chung của các cách hiểu không giống nhau, có thể đưa ra định nghĩa sau về chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là các thuộc tính có giá trị của sản phẩm mà nhờ đó sản phẩm được yêu thích, đắt giá và ngược lại. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ yêu cầu cơ bản quản lý nhà nước về chất lượng: 2.1. Mục tiêu. Nhà nước với chức năng quản lý kinh tế chung, hoạt động nhằm mục tiêu chính đưa đất nước ngày càng phát triển lành mạnh, công bằng, văn minh. Vì vậy,ngoài những mục tiêu là nâng cao chất lượng của sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp hay các tổ chức thì quản lý nhà nước về chất lượng còn nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội khác như: Bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, giảm tối thiểu mức độ ô nhiễm khi khai thác, sử dụng các sản phẩm Đảm bảo an toàn vệ sinh, chống tác động ảnh hưởng không tốt đến môi trường kinh tế- xã hội. Giúp các doanh nghiệp sử dụng, tiết kiệm, có hiệu quả nguồn lực có hạn, tránh tình trạng gây lãng phí làm tổn hại đến nền kinh tế. 2.2. Nhiệm vụ. Nhiệm vụ của quản lý chất lượng là phải xây dựng được hệ thống theo hướng bảo đảm chất lượng trong mỗi phân hệ. + Thứ nhất là cần xác định cho được yêu cầu chất lượng phải đạt tới ở từng giai đoạn nhất định của hệ thống. Tức là phải xác định được sự thống nhất giữa mức thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng sản phẩm do hệ thống tạo ra trong điều kiện môi trường hoạt động cụ thể của hệ thống với chi phí tối ưu. + Thứ hai là duy trì chất lượng hoạt động bền vững của hệ thống bao gồm toàn bộ những biện pháp, phương pháp nhằm đảm bảo những tiêu chuẩn đã được qui định trong hệ thống (theo thiết kế, theo tiêu chuẩn, theo cam kết hoặc mong muốn đã định). + Thứ ba là cải thiện chất lượng. Nhiệm vụ này bao gồm quá trình tìm kiếm phát hiện đưa ra tiêu chuẩn mới cao hơn hoặc đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi của sự phát triển mà hệ thống có thể xử lý trên cơ sở của việc liên tục cải tiến những quy định, theo tiêu chuẩn cũ. Quản lý chất lượng phải được thực hiện ở mọi cấp, mọi khâu, mọi quá trình diễn ra trong hệ thống. Nó vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa mang tính tác nghiệp. ở cấp cao nhất của hệ thống, ở tầm chiến lược của hệ thống, còn các phân hệ và các bộ phận thực hiện quản lý chất lượng ở tầm tác nghiệp cho tới mỗi người, mỗi việc của hệ thống. Tất cả các phân hệ, các bộ phận đều có trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và lợi ích trong việc quản lý chất lượng của hệ thống. 2.3. Yêu cầu cơ bản. Chính sách biện pháp đưa ra phải phù hợp với điều kiện thực tế, với pháp luật.Một mặt phải bảo vệ kỉ cương, phục vụ lợi ích cho xã hội, tuân thủ giá trị đạo đức, văn hoá, xã hội, mặt khác không gây ra những khó khăn, trở ngại, mang lại hậu quả không tốt đến sự chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc phấn đấu nâng cao chất lượng, cải tiến, đổi mới các mặt hàng. Với tư cách là người đại diện toàn dân nhà nước tham gia quản lý chất lượng mang lại lợi ích cho cộng đồng xã hội, mọi đối tượng tham gia kinh doanh trên thị trường. Do đó nhà nước quản lý về mặt chất lượng phải tạo ra được một môi trường ổn định, công bằng. Đảm bảo cho mọi tổ chức, mọi doanh nghiệp đều có cơ hộinhư nhau trong việc cải tiến và nâng cao chất lượng để góp phần thực hiện những mục tiêu, chương trình kinh tế xã hội chung. Quản lý nhà nước về chất lượng phải đảm bảo khai thác được mọi tiềm năng, nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ, phải định hướng được cho các doanh nghiệp, phải khuyến khích được cho các doanh nghiệp phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Nhà nước phải giúp đỡ các doanh nghiệp tìm kiếm thi trường, tìm kiếm nguồn thông tin về công nghệ để các tổ chưc sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp học hỏi, tiếp cận đầu tư đổi mới. Cạnh đó nhà nước cần có các cơ chế, chính sách thích hợp, giúp các doanh nghiệp tập trung tìm kiếm thế mạnh, tạo chỗ đứng trong cạnh tranh trên thị trường. Từ đó cung cấp các thông tin của đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới, cung cấp những xu hướng biến độngvề môi trường cạnh tranh để các doanh nghiệp có thể đón trước được những khó khăn và thuận lợi trong tình hình đổi mới. Nhà nước phải khuyến khích phải phát triển các hàng hoá cất lượng cao, đáp ứng nhu cầu xã hội với giá có khả năng cạnh tranh. Vì vậy việc nâng cao chất lượng trên cơ sở giảm chi phí. Đây chính là mục tiêu nhà nước phải giúp các tổ chức sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thấu hiểu nhở việc truyền bá những nhận thức, quan niệm mới về chất lượng, các hệ thống tiêu chuẩn mới, động viên các tổ chức các doanh nghiệp áp dụng. Các cơ chế, thủ tục có ảnh hưởng rất lớn, có thể dẫn đến làm giảm chi phí, giảm thời gian, làm giảm các nguồn lực của các tổ chức, các doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhà nước phải tạo điều kiện hỗ trợ, thông qua cung cấp thông tin, giảm thủ tục phiền hà, tránh lãng phí không cần thiết và các lãng phí cho hoạt động bên ngoài, nhờ đó giúp các doanh nghiệp giảm giá thành nhưng vẫn nâng cao được chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách các kế hoạch, văn bản về chất lượng hàng hoá theo định hướng về quản lý chất lượng của nhà nước. Tổ chức quản lý các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng một cách chặt chẽ và thường xuyên của các cấp. Xây dựng, công bố và ban hành các tiêu chuẩn để định hướng cho các doanh nghiệp hoặc các tổ chức có thể tổ chức hoặc tham khảo Quản lý các hoạt động chứng nhận chất lượng hàng hoá, chứng nhận hệ thống chất lượng, đây là một trong nhiều hình thức quản lý nhà nước về chất lượng. Tổ chức nghiên cứu khoa học, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chất lượng, đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kỹ thuật về chất lượng, bên cạnh đó còn tổ chức tuyên truyền thông tin, phổ biến kiến thức về chất lượng cho mọi đối tượng trong xã hội. Đây là một hoạt động không thể thiếu được trong công tác quản lý chất lượng của nhà nước, hoạt động này giúp cho nhà nước biết được sự tuân thủ các yêu cầu về chất lượng của doanh nghiệp, đáp ứng đầy đủ hay không đầy đủ, có những biểu hiện tích cực hay tiêu cực để từ đó ra các quyết định sử lý kịp thời. 3. Một số khái niệm và nội dung cơ bản của quản lý Nhà nước về chất lượng. Đáp ứng trên góc độ quản lý nhà nước về chất lượng ở Việt Nam, công tác quản lý nhà nước về chất lượng bao gồm những nội dung cụ thể sau: 3.1. Hoạt động đăng ký chất lượng hàng hoá của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong nước Đây là một nội dung quan trọng mang tính đặc thù của Việt Nam, nó có ý nghĩa to lớn trong hoạt động quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, với mục đích cơ bản đó là: Xác nhận tính hợp pháp của hàng hoá về chất lượng, để nhà nước bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng. Qua hoạt động đăng kí chất lượng sản phẩm hàng hoá, người tiêu dùng có thể yên tâm hơn trong việc sử dụng và khai thác sản phẩm, do các sản phẩm đã đăng kí chất lượng đã được kiểm tra, công nhận là sản phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc gia và được phép lưu thông hợp pháp trên thị trường, tránh tình trạng tổn thất về tinh thần và chi phí cho việc sử dụng vào hàng kém chất lượng, kém phẩm chất hoặc đã hết hạn sử dụng. Cũng nhờ đó, các nhà sản xuất kinh doanh cũng được nhà nước bảo hộ, xác nhận là sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn, qua đó làm tăng sự tin tưởng của khách hàng trong tiêu dùng và là cơ sở cho khách hàng đăng kí và lựa chọn sản phẩm. Chính vì vậy đăng kí chất lượng vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của người sản xuất. Nhờ có đăng kí chất lượng hàng hoá mà nhà nước có thể quản lý được lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường trên thị trường một cách chặt chẽ hơn, từ đó chống những hành vi lừa đảo xã hội, làm hàng giả, hàng kém chất lượng, doanh nghiệp buộc phải trung thực và có trách nhiệm hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh kinh doanh và sản phẩm của mình bán ra trên thị trường. Mặt khác,đăng kí chất lượng sản phẩm, hàng hoá sẽ khuyến khích các doanh nhiệp đầu tư cải tiến nâng cao chất lượng, làm tăng khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường. Vì vậy, họ đòi hỏi phải có sự bảo hộ rất lớn của nhà nước đối với những sản phẩm đã được đăng kí. Bản đăng kí chất lượng sản phẩm hàng hoá chính là cơ sở pháp qui về kỹ thuật để doanh nghiệp thực hiện quá trình sản xuất, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra giải quyết những khiếu nại tranh cãi về chất lượng. Thủ tục đăng kí chất lượng sản phẩm hàng hoá Trước hết, doanh nghiệp phải lập hồ sơ xin đăng kí chất lượng hàng hoá bao gồm những văn bản sau: - Bản đăng kí chất lượng sản phẩm hàng hoá theo mẫu do cơ quan quản lý phát hành. Các tiêu chuẩn hoặc qui định về chất lượng đối với loại sản phẩm xin được đăng kí chất lượng, các chỉ tiêu, thường là: + Tên các chỉ tiêu chất lượng, VD: Chỉ tiêu an toàn, vệ sinh môi trường, chỉ tiêu kỹ thuật. + Đơn vị tính các chỉ tiêu. (Mức chất lượng xin đăng kí không được thấp hơn mức chất lượng tối thiểu theo qui định của nhà nưóc). + Phương pháp thử và hình thức kiểm tra. + Mẫu nhãn hiệu sản phẩm:Trên sản phẩm cần được ghi đầy đủ các yêu cầu của cơ quan cấp đăng kí, bao gồm: Tên sản phẩm, tên cơ sở sản xuất, địa chỉ cơ sở sản xuất, các đặc tính của hàng hoá, thời hạn bảo hành, ngày xuất xưởng và thời hạn sử dụng, số đăng kí chất lượng. + Bảng hướng dẫn sử dụng và giấy bảo hành sản phẩm đối với các sản phẩm đòi hỏi các chỉ tiêu chất lượng, an toàn cao. Các sản phẩmđòi hỏi tiêu chuẩn vệ sinh môi trường cao cần phải có phiếu thử nghiệm chất lượng hợp pháp. - Tập hợp đầy đủ hồ sơ và gửi lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, nghiên cứu, thử nghiệm và xét duyệt. Sau khi xem xét, nếu thấy không vi phạm thì cơ quan đăng kí cấp đăng kí vào sổ đăng kí . Chỉ khi đã được cấp giấy đăng kí chất lượng, doanh nghiệp mới được ghi số đăng kí trên hàng hoá của mình và những sản phẩm đó mới được phép lưu thông trên thị trường.Ngoài ra, các doanh nghiệp, tổ chức phải sản xuất sản phẩm với những chỉ tiêu chất lượng đã đăng kí. 3.2. Hoạt động chứng nhận và công nhận của cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng. Đây là một nội dung cũng hết sức quan trọng, có vai trò to lớn trong việc ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ở trong nước, thúc đẩy tiến trình hợp tác toàn diện, liên doanh, liên kết, hội nhập giữa các tổ chức, các quốc gia trên thế giới. Hoạt động còn có ý nghĩa trong việc làm cho sản phẩm hàng hoá hợp pháp về mặt chất lượng. Từ đó tạo lợi thế cho đấu thầu và kí kết hợp đồng sản xuất kinh doanh, mang lại lợi thế kinh doanh cho các doanh nghiệp , tổ chức thành viên tham gia vào hoạt động. Chứng nhận Hoạt động chứng nhận chất lượng bao gồm việc chứng nhận sản phẩm hàng hoá dịch vụ và hệ thống quản lí chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam hoặc tiêu chuẩn quốc tế đang được áp dụng. Đối tượng của hoạt động chứng nhận này bao gồm rất nhiều loại: - Chứng nhận và giám định sản phẩm hàng hoá dịch vụ phù hợp với các tiêu chuẩn đã được ban hành và đang được sử dụng. - Chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của quốc gia và quốc tế. - Tổ chức giám định chứng nhận và hiệu chuẩn đối với các thiết bị đo đạc chuyên dùng trong các tổ chức. -Tổ chức kiểm tra chứng nhận và thừa nhận các chuyên gia đánh giá chất lượng gồm cả các chuyên gia đánh giá chất lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và hệ thống chuyên gia quản lý chất lượng. Mục đích của hoạt động chứng nhận: Được chia ra thành mục đích của các đơn vị được chứng nhận: Chứng nhận của quốc gia và chứng nhận của quốc tế. Mục đích của hoạt động chứng nhận đối với các tổ chức được chứng nhận: Các tổ chức sau khi được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, xem xét và được cấp chứng nhận là phù hợp với tiêu chuẩn, trước hết sẽ tạo nên được lòng tin đối với khách hàng không chỉ đối với khách hàng trong nước mà cả với những khách hàng nước ngoài khi sử dụng sản phẩm, hàng hoá của tổ chức đó làm ra. Cũng nhờ đó, các doanh nghiệp hay các tổ chức sản xuất kinh doanh này biết được khả năng cạnh tranh của tổ chức mình đang ở mức độ như thế nào với các đối thủ cạnh tranh của mình sau khi được so sánh với các tiêu chuẩn qui định, từ đó giúp họ đưa ra được những giải pháp tốt nhất trong hoạch định chiến lược hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tạo ra được nhiều cơ hội kinh doanh cho các tổ chức hay doanh nghiệp nhờ vào việc cải tiến, đổi mới liên tục nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá của mình sao cho phù hợp với tiêu chuẩn để có thể tạo nên lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ngày càng chiếm thị phần lớn do chiếm được lòng tin của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Thông qua đó thị trường ngày càng được mở rộng. Tạo ra sự hợp tác và trao đổi một cách toàn diện trong lĩnh vực chất lượng giữa các doanh nghiệp, các tổ chức và các nước thông qua việc đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Mục đích của hoạt động này đối với khách hàng: Có được sự lựa chọn thích hợp đối với các loại sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và các tổ chức, các doanh nghiệp sản xuất, cung cấp một cách uy tín mà không sợ bị thiệt. Khách hàng có được thông tin cần thiểt trước khi quyết định lựa chọn mua một sản phẩm, hàng hoá dịch vụ nào đó nhờ vào theo dõi các kết quả thử nghiệm, giám định, làm hiệu chuẩn. Giảm được chi phí thử nghiệm nhiều lần khi mua sắm và sử dụng,tiêu dùng một sản phẩm hàng hoá dịch vụ nào. Tránh tình trạng bị thiệt hại về về sức khoẻ, tinh thần và vật chất khi tiêu dùng sản phẩm kém chất lượng, kém phẩm chất hoặc hết hạn sử dụng. Đối với quốc gia và quốc tế: Có cơ sở để tiến hành quản lý chất lượng một cách chính xác đảm bảo được sự công bằng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo quyền lợi cho các tổ chức, các doanh nghiệp, cho người tiêu dùng. Tạo ra sự thống nhất cao, mở rộng đầu tư và phát triển thương mại giữa các nước khi tiến hành liên doanh, liên kết trong sản xuất và gia công. Đối với các tổ chức sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp: Lợi ích của chứng nhận đó là tạo điều kiện cho các tổ chức tự nghiên cứu, xây dựng và áp dụng cho mình một hệ thống quản lý chất lượng hiện đại. Tạo điều kiện để liên tục cải tiến chất lượng, đáp ứng yêu cầu của khách hàng, nhờ vào đó các doanh nghiệp hay các tổ chức sản xuất kinh doanh, luôn luôn đứng vững và mở rộng trên thị trường. Là cơ sở để nâng cao uy tín và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hay các tổ chức kinh doanh đứng vững trên thị trườngvà có khả năng phát triển trong tương lai. Chứng nhận là cơ sở có nhà nước bảo hộ các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức sản xuất kinh doanh, từ đó tạo ra một sự công bằng cho các tổ chức đó. Công nhận: Công nhận là hoạt động của một cơ quan có thẩm quyền, chứng minh nhằm thừa nhận chính thức một tổ chức, một doanh nghiệp hay một cá nhân có đủ năng lực để tiến hành nhiệm vụ theo qui định. Đối tượng của hoạt động công nhận này đó là: - Các tổ chức xin công nhận cho các sản phẩm, hàng hoá dịch vụ của mình phù hợp với các tiêu chuẩn đã qui định. - Các tổ chức xin công nhận hệ thống quản lý chất lượng. - Các tổ chức xin giám định chất lượng cho các sản phẩm hàng hoá dịch vụ (kể cả hàng hoá xuất nhập khẩu) - Các tổ chức xin công nhận các chuyên gia đánh giá chất lượng đã được đào tạo theo tiêu chuẩn, được qui định sẵn của cả quốc gia và quốc tế. Hoạt động này mang lại rất nhiều lợi ích cho các tổ chức đã được công nhận Qua hoạt động công nhận này: Trước hết, tạo ra sự tin tưởng trong nội bộ tổ chức, trước hết là của lãnh đạo đối với các thành viên trong các tổ chức, các doanh nghiệp trước những công việc mà họ được giao. Tạo lòng tin cho khách hàng đối với các kết quả thử nghiệm hoặc công bố do đã được một cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tổ chức đó có đủ năng lực để hoàn thành tốt các công việc của họ một cách tốt nhất. Thúc đẩy sự cải tiến và thực hiện các phương pháp nâng cao chất lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các trong các biện pháp nghiên cứu, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các công nghệ mới trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Các kết quả thử nghiệm và hiệu chuẩn sử dụng trong công tác quản lý chất lượng có giá trị pháp lý cao trong toàn quốc và được nhiều tổ chức khác công nhận.Tạo điều kiện hợp tác giữa các tổ chức trong nước cũng như vấn đề quốc tế về vấn đề chất lượng, sau khi đã được công nhận sẽ giảm được lãng phí về thời gian, tránh được tình trạng chồng chéo do nhiều cơ quan chức năng tiến hành. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động công nhận : Một mặt, do sự mở rộng và phát triển của quan hệ quốc tế cùng sự ra đời của các tổ chức thương mại thế giới tác động mang lại, sự hình thành và phát triển của các khu vực kinh tế trên thế giới, sự ra đời của các thoả ước quốc tế đặc biệt là sự ra đời của các thoả ước về kỹ thuật và công nghệ ngày càng nâng cao, vì vậy nhu cầu về hoạt động công nhận của các quốc gia phải ra đời là hết sức cần thiết nhằm tạo dựng một lòng tin phía đối tác khi giao lưu, hợp tác, liên kết giữa các tổ chức ngoài quốc gia với nhau. Mặt khác các hoạt động hợp tác, liên kết giữa các tổ chức trong nước cũng đang trên đà phát triển. Hoạt động công nhận phải ra đời thúc đẩy cạnh tranh hợp tác toàn diện của các cơ quan, các đơn vị tổ chức trong quốc gia và giữa các quốc gia. Tuy nhiên để hai hoạt động trên hoạt động có hiệu quả, thì chúng phải được dựa trên cơ sở khoa học rõ ràng, đó là một bộ tiêu chuẩn qui định và áp dụng cho mọi thành viên tham gia vào hoạt động công nhận và chứng nhận này. Bởi vậy, quản lý nhà nước về chất lượng phải có một hoạt động nữa đó là: Ban hành và áp dụng tiêu chuẩn. Tiêu chuẩn là văn bản qui định qui cách, chỉ tiêu kỹ thuật, yêu cầu bao gói, ghi nhãn vận chuyển và phương pháp thừa hưởng. Hoạt động ban hành và áp dụng hệ tiêu chuẩn cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc ổn định và nâng cao chất lượng trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong và ngoài nước. Cơ quan thực hiện hoạt động này tại Việt Nam là Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TCTCĐLCL) + Căn cứ vào mục đích sử dụng, tiêu chuẩn được chia làm hai loại: Tiêu chuẩn sử dụng để thống nhất hoá Tiêu chuẩn dùng để hướng dẫn + Căn cứ vào tính ép buộc, có hai loại tiêu chuẩn: Tiêu chuẩn Việt Nam bắt buộc. Tiêu chuẩn Việt Nam tự nguyện. Chứng nhận hợp chuẩn là chứng nhận phù hợp với các tiêu chuẩn. Đây là nội dung mới được áp dụng vào Việt Nam năm 1986 và chức năng hợp chuẩn thuộc TCTCĐLCL. Do có hai loại tiêu chuẩn nên việc hợp chuẩn cũng tiến hành theo hai hướng. Chứng nhận hợp chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm hàng hoá nằm trong diện bắt buộc đối với tiêu chuẩn Việt Nam. Chứng nhận hợp chuẩn tự nghuyện đối với các sản phẩm trong diện áp dụng các tiêu chuẩn tự nguyện. Việc chứng nhận hợp chuẩn là hết sức có ý nghĩa: Làm cho sản phẩm hàng hoá hợp pháp về chất lượng và pháp lý đem lại sự tin tưởng cho khách hàng và người tiêu dùng. Từ đó, tạo ra lợi thế cho đấu thầu và trong kí kết hợp đồng sản xuất kinh doanh, đó đồng thời tạo cho doanh nghiệp lợi thế so sánh đối với các đối thủ cạnh tranh khác. 3.3. Hoạt động kiểm tra, thanh tra chất lượng hàng hoá của cơ quan quản lý nhà nước. Đây là một nội dung quan trọng không thể thiếu được của quản lý nhà nước về chất lượng hàng hoá, đảm bảo cho sự thực hiện pháp lệnh một cách đầy đủ và nghiêm túc, tăng cường hiệu lực về quản lý nhà nước, góp phần bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng, người sản xuất kinh doanh cho người chân chính. Hoạt động kiểm tra. Đối tượng phải kiểm tra nhà nước hàng hoá về chất lượng: Để đảm bảo lợi ích chung cho nền kinh tế nhà nước áp dụng các biện pháp kiểm tra bắt buộc đối với một số sản phẩm hàng hoá kể cả các hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu. Hằng năm bộ thương mại qui định danh mục những mặt hàng cần phải được kiểm tra nhà nước về mặt chất lượng. Nó bao gồm: - Những hàng hoá nhập thuộc diện TCVN bắt buộc áp dụng. - Hàng hoá nhập khẩu là những NVL, máy móc thiết bị quan trọng. - Hàng hoá xuất khẩu theo hoạch định giữa các chính phủ. - Hàng hoá xuất khẩu có thông tin ổn định, có truyền thống lâu đời. Mọi hàng hoá thuộc danh mục phải kiểm tra nhà nước về mặt chất lượng phải có xác nhận của chính quyền nhà nước có thẩm quyền mới được phép lưu thông trên thị trường và mới được hải quan làm thủ tục xuất nhập khẩu. Các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng có quyền: - Yêu cầu các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu các sản phẩm hàng hoá cung cấp đầy đủ các loại tài liệu có liên quan đến chất lượng để làm căn cứ cho kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm. - Tiến hành kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu, căn cứ vào tiêu chuẩn và hợp đồng mua bán giữa các đối tác. - Cấp hoặc không cấp giấy xác nhận chất lượng đối với các lô hàng đã kiểm tra nhưng thấy có vấn đề về chất lượng. - Thu phí kiểm tra theo qui định của nhà nước đối với các đối tượng được tiến hành kiểm tra. Tuy nhiên các cơ quan quản lý nhà nước về chất lượng cũng phải có trách nhiệm như sau: - Thực hiện việc kiểm tra nhà nước trong phạm vi quyền hạn được giao. - Phải hoàn thành nhiệm vụ kiểm tra và xác nhận chất lượng của sản phẩm hàng hoá trong thời gian đã thoả thuận. - Thực hiện việc kiểm định và hiệu chuẩn các trang thiết bị đo lường theo qui định để đảm bảo tính chính xác trung thực, khách quan khi tiến hành thử nghiệm các lô hàng. - Chịu trách nhiệm bồi thường vật chất cho doanh nghiệp về những sai phạm của mình gây ra trong việc tiến hành quá trình kiểm tra, đánh giá chất lượng. Mức bình thường ở đây có thể là hoàn trả lạimột phần lệ phí kiểm tra hoặc toàn bộ số lệ phí đã thu. - Lưu trữ hồ sơ kiểm tra và những sổ sách có liên quan trong thời gian là 3 năm và xuất trình khi cơ quan có trách nhiệm yêu cầu. Nội dung và phương pháp kiểm tra: Nội dung tiến hành kiểm tra: - Tiến hành kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng và các điều kiện bao gói, ghi nhãn,vận chuyển, bảo quản, liên quan đến chất lượng sản phẩm hàng hoá. Việc kiểm tra này bao gồm từ việc lấy mẫu thực nghiệm và ra quyết định. - Căn cứ để kiểm tra là các hợp đồng và các tiêu chuẩn đã được qui định trong pháp lệnh hàng hoá. - Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thì có thể tiến hành kiểm tra chất lượng tại nơi sản xuất hoặc tại kho bảo quản trước khi xuất khẩu. - Hàng xuất nhập khẩu có chất lượng đạt yêu cầu, có nghĩa là đã được cấp giấy chứng nhận của một tổ chức thứ 3 thì được miễn kiểm tra. - Giấy chứng nhận chất lượng do các tổ chức cấp chỉ có giá trị hiệu lực trong điều kiện vận chuyển baỏ quản, nhưng không làm thay đổi chất lượng của sản phẩm hàng hoá Kiểm tra chất lượng hàng hoá bằng các phương pháp sau: Phương pháp kiểm tra chất lượng bằng cảm quan: Đây là phương pháp kiểm tra mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của các nhân viên kiểm tra, chính vì vậy tính chính xác và khách quan không cao. Nhưng có ưu điểm là rất ít tốn kém. Phương pháp kiểm tra bằng thực nghiệm: Đây là phương pháp kiểm tra hoàn toàn dựa trên cơ sở phân tích một cách chi tiết, đầy đủ các chi tiết, thành phần của sản phẩm hàng hoá, do đó nó có tính chính xác cao nhưng đòi hỏi cơ bản là rất tốn kém và phải có nhân viên có trình độ. Có hai hình ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35186.doc
Tài liệu liên quan