Tình hình Sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần may Thăng Long giai đoạn 2000 - 2005

Lời mở đầu Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Với cơ chế này đã tạo ra cho các doanh nghiệp của Việt Nam có quyền tự chủ kinh doanh,phát huy được tính sáng tạo của doanh nghiệp. Tuy nhiên cơ chế này cũng đặt ra cho các doanh nghiệp rất nhiều thách thức mới trong việc đối đầu với cạnh tranh và buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại phải kinh doanh đạt hiệu quả cao trong tất cả các chỉ tiêu

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1200 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình Sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần may Thăng Long giai đoạn 2000 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của mình. Công ty Cổ phần may Thăng Long là công ty được thành lập từ trong những năm kháng chiến (1958) với bề dày hoạt động lâu năm của mình, công ty đang trên đà phát triển mạnh khảng định chỗ đứng của mình trên thị trường, trở thành một trong những cánh chim đầu đàn của ngành công nghiệp may Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động công ty không phải không gặp những khó khăn. Qua quá trình thực tập tại công ty cùng với sự hướng dẫn tận tình của thầy GS.TS. Phạm Ngọc Kiểm đã giúp em lựa chọn đề tài: "Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần may Thăng Long giai đoạn 2000 - 2005" làm chuyên đề thực tập. Bằng những hiểu biết của mình cùng với những kiến thức đã đựơc trang bị trong quá trình học tập em đã cố gắng hoàn thành chuyên đề này một cách tốt nhất. Tuy nhiên với sự giới hạn trong kiến thức, đề tài không tránh khỏi những sai lầm và hạn chế. Vì vậy em mong nhận được sự nhận xét và chỉ bảo của các thầy cô. Ngoài lời mở đầu, đề tài còn bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Chương I: Khái quát về công ty cổ phần may Thăng Long Chương II: Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần may Thăng Long Chương III: Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình sản xuất kinh Chương I Khái quát về công ty cổ phần may Thăng long - Tên công ty: Công ty cổ phần may Thăng Long - Tên giao dịch quốc tế: Thang Long Garment Company (Thaloga) - Loại hình doanh nghiệp: Công ty cổ phần - Cơ quan quản lý cấp trên: Tổng công ty dệt may Việt Nam - Ngành, nghề kinh doanh: may mặc, gia công may mặc -Trụ sở chính: 250 Minh Khai - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. - Số điện thoại: 84.4.8-623372 - Fax: 84.4.268340 - Trung tâm giao dịch và giới thiệu sản phẩm: 39 Ngô Quyền Hà Nội - Chi nhánh Thăng Long tại Hải Phòng: 174 Lê Lai - Ngô Quyền - Hà Nội. - Tel: 84.31.48263 1. Điều kiện và hoàn cảnh ra đời: Sau khi hoàn thành cơ bản công việc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, nhân dân miền Bắc và thủ đô Hà Nội bước vào thời kỳ thực hiện kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá. Nghị quyết bộ chính trị ngày 12/9/1959 khẳng định: "Xây dựng Hà Nội thành một thành phố công nghiệp và một trung tâm kinh tế”. Thực hiện Nghị quyết Bộ chính trị và chủ trương của thành uỷ Hà Nội; các cấp, các ngành Thành phố đã kết hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương để xây dựng mạng lưới công nghiệp quốc doanh. Trung ương đầu tư xây dựng một số nhà máy: Cơ khí Hà Nội, Dệt kim Đông Xuân, Cao su Sao Vàng… Nằm trong điều kiện và bối cảnh lịch sử đó, Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) chủ trương thành lập một cơ sở may mặc xuất khẩu tại Hà Nội. Ngày 15/4/1958, Bộ giao cho Tổng Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm thành lập một nhóm nghiên cứu với nhiệm vụ là liên lạc các Ban thủ công nghiệp, các khu phố, huyện ngoại thành, nắm tình hình số lượng thợ may, số lượng máy may tư nhân để tiến tới thành lập các tổ sản xuất. Tổ chức tham quan, nghiên cứu, kinh nghiệm ở xí nghiệp may của bạn. Sử dụng một số máy may hiện có tại Tổng Công ty, tiến hành may thử một số hàng mẫu áo sơ mi, Pijama, trình bày triển lãm tại khu hội chợ Yết Kiêu nhằm mục đích vừa giới thiệu hàng vừa tham khảo ý kiến khách hàng. Sau gần một tháng chuẩn bị, ngày 08/05/1958 Bộ Ngoại thương đã chính thức ra Quyết định thành lập công ty may mặc xuất khẩu, thuộc Tổng công ty xuất khẩu tạp phẩm.Văn phòng công ty đóng tại số nhà 15 phố Cao Bá Quát - Hà Nội. Tổng số cán bộ, công nhân ngày đầu của công ty là 28 người. Đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của một công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam. Hàng của công ty xuất sang các nước Đông Âu trong phe chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ, báo hiệu một triển vọng và tương lai tươi sáng của ngành may mặc xuất khẩu Việt Nam hiện tại, hướng tới tương lai. 2.Các giai đoạn phát triển của công ty: Trải qua những khó khăn gian khổ nhưng đã đạt được nhiều thành công qua từng chặng đường cùng thủ đô Hà Nội và cả nước Công ty may Thăng Long ngày càng phát triển và trưởng thành. Nhìn chung toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của công ty trải qua các giai đoạn cụ thể, tiêu biểu sau: * Giai đoạn 1958 - 1965: Sau khi được ký Quyết định thành lập, Ban chủ nhiệm công ty đã sớm xác định các nhiệm vụ trọng tâm và ổn định bộ máy tổ chức, phân công cán bộ thành các phòng chuyên môn (tổ chức, hành chính, kế hoạch đầu tư, tài vụ, kỹ thuật, gia công, bó cắt, thu hoá, là, đóng gói, đóng hòm). Số lượng thợ may có được là 2000 người và khoảng 1700 máy. Đến tháng 9/1958 tổng số cán bộ công nhân viên công ty lên tới 550 người. Cuối năm 1958, đầu năm 1959, phong trào thi đua sản xuất: "Nhiều nhanh, tốt, rẻ", cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, hạ giá thành được triển khai ở nhiều xí nghiệp, nhà máy. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng, công ty tiến hành thi đua. Ngày 15/12/1958, công ty hoà thành xuất sắc kế hoạch năm, so với chỉ tiêu đạt 112,8%. Năm 1959: kế hoạch công ty được giao tăng gấp 3 lần, thêm 4 sản phẩm mới: Pijama; áo mưa, áo măng tơ san, măng tô nữ. Đội ngũ công nhân chính thức của công ty tăng nhanh đến con số 1361 người; các cơ sở gia công lên đến 3 524 người. Bộ máy tổ chức của công ty được xây dựng hoàn chỉnh một bước. Kế hoạch sản xuất năm 1959 hoàn thành xuất sắc, đạt 102% so với kế hoạch, trang bị thêm được 400 máy chân đạp và một số công cụ khác để chuyển hướng từ gia công sang tự tổ chức sản xuất đảm nhiệm 50% kế hoạch sản xuất, và có đủ điều kiện nghiên cứu dây chuyền công nghệ hợp lý hoá nâng cao năng suất. Năm 1960: Công ty tổ chức triển lãm, giới thiệu các phương thức tổ chức sản xuất ban đầu; các công đoạn sản xuất khép kín, đặc biệt là khâu cải tiến kỹ thuật, nâng cao sản xuất và chất lượng sản phẩm. Năm 1961: Bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất Một số chỉ tiêu từ năm 1958 - 1965 Năm Kế hoạch (sản phẩm) Thực hiện (sản phẩm) TH/KH (%) Giá trị TSL (đồng) 1958 346700 391120 128,81 840822 1959 1139500 1164322 102,18 1156340 1960 1308900 1520419 116,16 3331968 1961 2664500 2763086 103,70 5526172 1962 3620000 3747920 103,53 70493840 1963 3800000 3990754 105,02 7981778 1964 460000 4080500 102,01 8033778 1965 3632000 3754581 103,40 7509162 * Giai đoạn từ 1965 - 1975: Từ năm 1966 đến năm 1968, do Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Công ty bị đánh phá, các đơn vị sản xuất phân tán, số giờ ngừng việc nhiều hơn số giờ làm việc. Tuy nhiên, công nhân viên của công ty vẫn cố gắng thường xuyên bám máy, bám xưởng, khi có điện, hoặc ngay khi dứt tiếng bom đạn lại bắt tay ngay vào sản xuất. Tuy khi đạt chỉ tiêu kế hoạch, nhưng 2 năm sản xuất 1967 - 1968 minh chứng cho truyền thống đấu tranh cách mạng, ngời sáng phẩm chất người công nhân may. Năm 1969 - 1972: Thực hiện phương châm gắn sản xuất với tiêu thụ, đi đôi với kinh doanh có lãi, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Năm 1973 - 1975: Tình hình sản xuất có rất nhiều tiến bộ rõ rệt, tổng sản lượng tăng, hoàn thành vượt mức kế hoạch; năm 1973 đạt 100,77%; năm 1974 đạt 102,28%; năm 1975 đạt 102,27%. Chất lượng sản phẩm ngày một tốt hơn. Toàn bộ lô hàng xuất năm 1975 qua kiểm tra của khách hàng đạt 98,3%. * Giai đoạn 1976 - 1988: Số lượng sản phẩm sản xuất từ năm 1976 - 1980 Năm Kế hoạch (sản phẩm) Thực hiện (sản phẩm) TH/KH (%) 1976 5248000 5476928 144,36 1977 5526000 5767260 104,37 1978 6802000 6826069 100,36 1979 6800000 9690000 102,79 1980 4752000 4890000 102,90 1981 1982 1983 1984 1985 1986 Năm 1976 - 1980: Xí nghiệp trang bị thêm 84 máy may bằng và 36 máy 2 kim 5 chỉ. Nghiên cứu chế tạo 500 chi tiết gá lắp lãm cữ gá cho hàng sơmi, đại tu máy phát điện 100 kw. Nghiên cứu cải tiến dây chuyền áo sơ mi, nghiên cứu 17 mặt hàng mới, được đưa vào sản xuất 10 loại. - Năm 1979: xí nghiệp được Bộ quyết định đổi tên mới: xí nghiệp may Thăng Long. - Năm 1982 - 1986: Đầu tư chiều sâu, đẩy mạnh sản xuất gia công hàng xuất khẩu. - 12/1986: Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra ba mục tiêu kinh tế: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Công ty may Thăng Long gặp nhiều khó khăn về biến động giá cả, thiếu thốn nguyên liệu… khắc phục khó khăn trên, xí nghiệp chủ động sáng tạo nguồn nguyên liệu qua con đường liên kết với UNIMEX, nhà máy dệt 8-3 và nhiều đơn vị khác. Khi thiếu nguyên liệu làm hàng xuất khẩu, xí nghiệp nhanh chóng chuyển sang làm hàng nội địa. Năm 1987, tổng sản phẩm giao nộp đạt 108,87%, hàng xuất khẩu đạt 101,77%. Chặng đường 30 năm đi qua là chặng đường đầy khó khăn thử thách: hai lần đối chọi với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, 4 lần thay đổi địa điểm, 5 lần thay đổi cơ quan chủ quản, 9 lần thay đổi lãnh đạo chủ chốt. Nguyên vật liệu, sản xuất luôn trong tình trạng thiếu thốn, nhưng xí nghiệp vẫn vững bước tiến lên. * Giai đoạn 1988 - 2003: Theo định hướng chiến lược của xí nghiệp, ngay từ năm 1990 xí nghiệp đã chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường mới. Tháng 6/1992: xí nghiệp đổi tên thành "Công ty may Thăng Long" Trong 2 năm 1993 - 1994: Công ty chú trọng mở rộng sản xuất, mở rộng kinh doanh, đầu tư chiều sâu, tăng cường kinh doanh liên kết với các bạn hàng trong và ngoài nước. Năm 1995, Công ty đã mở thêm được nhiều thị trường mới và quan hệ hợp tác với nhiều Công ty nước ngoài. Năm 1995 so với 1994 giá trị tổng sản lượng tăng 12%; doanh thu tăng 18% , nộp ngân sách tăng 25,2% thu nhập bình quân tăng 14,4%. - Năm 1996, công ty đầu tư 6 tỷ đồng để cải tạo nhà xưởng, mua sắm thiết bị mới, thành lập xí nghiệp máy Nam Hải tại thành phố Nam Định. Sau khi Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận với Việt Nam, công ty là đơn vị đầu tiên của ngành may mặc Việt Nam đã xuất khẩu được 20.000 áo sơmi bò sang thị trường Mỹ. - Năm 2001, công ty tiếp tục đầu tư xây dựng công trình nhà máy may Hà Nam. - Năm 2001, công ty có nhiều sản phẩm, mặt hàng mới thâm nhập thị trường. Lần đầu tiên công ty xuất sang thị trường Mỹ gần 20.000 sản phẩm vets nữ được khách hàng ưa chuộng. - Đến nay, mạng lưới tiêu thụ hàng nội địa của công ty lên tới 80 đại lý. Năm 2004, Công ty đã tiến hành cổ phần hoá theo Quyết định số 1469/QĐ-TCCB ngày 26/6/2003 của Bộ công nghiệp về việc cổ phần hoá công ty may Thăng Long trực thuộc tổng Công ty dệt may Việt Nam.Như vậy, Công ty may Thăng Long chính thức hoạt động theo hình thức Công ty cổ phần kể từ ngày 1/1/2004. - Như vậy, chặng đường dài 47 năm xây dựng và phát triển của công ty may Thăng Long có thể nói là một chặng đường đầy gian khó thử thách và phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Vinh dự là một đơn vị đầu tiên làm mặt hàng may xuất khẩu đã hun đúc lòng tự hào, nghị lực và ý chí phi thường của tập thể cán bộ công nhân viên công ty may Thăng Long; xứng đáng với niềm tin yêu tin tưởng mà Đảng và Nhà nước giao phó. Thành tích đó được ghi nhận qua những tấm huân, huy chương cao quý. 1 Huân chương độc lập hạng Nhì (năm 2002) 1 Huân chương độc lập hạng Ba (năm 1997) 1 Huân chương lao động hạng Nhất (năm 1988) 1 Huân chương lao động hạng Nhì (năm 1983) 1 Huân chương lao động hạng Ba (năm 1978, 1986, 2000, 2002) 1 Huân chương chiến công hạng Nhất (năm 2000) 1 Huân chương chiến công hạng Nhì (năm 1992) 1 Huân chương chiến công hạng Ba (năm 1996) Ngoài những phần thưởng cao quý trên công ty còn nhận được nhiều bằng khen và giấy khen của: Bộ Công nghiệp; UBND thành phố Hà Nội, Tổng Công ty Dệt - May Việt Nam; UBND Quận Hai Bà Trưng. - Trên 45 năm hình thành và phát triển, cán bộ công nhân viên của Công ty đã có được nhiều kinh nghiệm và những bài học thiết thực trong quản lý kinh doanh. Với niềm tự hào là công ty may mặc xuất khẩu đầu tiên của đất nước với bề dày 47 năm, cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên giàu năng lực, tâm huyết với công ty và với đà phát triển trong những năm qua, chắc chắn công ty sẽ gặt hái được nhiều thành công và có vị thế lớn trong thương trường trong nước cũng như quốc tế. 3. Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của công ty 3.1.Nhiệm vụ: Công ty có nhiệm vụ chính sau: -Xây dựng và thực hiện chính sách về tài chính, tín dụng,giá cả và đầu tư phát triển nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng hàng xuất khẩu. -Nghiên cứu luật pháp quốc tế, các thông lệ kinh doanh cần nắm vững nhu cầu thị hiếu, giá cả các loại sản phẩm may mặc, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, phục vụ sản xuất kinh doanh may mặc thời trang. -Nghiên cứu các đối tượng cạnh tranh để đưa ra các phương án xuất nhập khẩu giữ vững các thị trường có lợi nhất. -Thực hiện tốt các chính sách cán bộ, chế độ quản lí tài sản, tài chính,lao động, tiền lương,quản lí và thực hiện phân phối theo lao động, không ngừng đào tạo bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, trình độ văn hóa tay nghề cho các cán bộ công nhân viên của công ty. 3.2 Chức năng: Công ty cổ phần may Thăng Long có những chức năng cơ bản sau: - Tiến hành việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm may mặc phục vụ tiêu dùng trong và ngoài nước -Tiến hành kinh doanh xuất khẩu trực tiếp, gia công sản phẩm may mặc có chất lượng cao. - Đảm bảo công ăn việc làm ổn định, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên. - Bảo vệ doanh nghiệp, môi trường, giữ gìn an toàn xã hội. Tuân thủ các quy định của pháp luật, chính sách Nhà nước. 3.3 Quyền hạn: Công ty may Thăng Long là một tổ chức kinh tế có tưT cách pháp nhân nên có những quyền hạn sau: Quản lí và sử dụng có hiệu quả tài sản, vốn, lao động hiện có, không ngừng tăng thêm giá trị tài sản và làm đầu đủ nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. Tiến hành hoạt động liên doanh liên kết khác nhau phù hợp với luật công ty và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chịu trách nhiệm về thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội tron toàn công tu trước tổng công ty. Tiếp xúc đàm phán và kí kết hợp đồng với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, được cử người đi tham quan, khảo sát, tham gia hội chợ, triển lãm ở nước ngoài và được mời các chuyên gia, cố vấn nước ngoài vào tham gia trong lĩnh vực sản xuất của công ty. Được huy động vốn trong và ngoài nước để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty khi đã được phép của cấp trên.Vì đã tiến hành cổ phần hóa từ năm 2004 cho nên công ty có quyền huy động vốn cổ phần tư nhân và tập thể đóng góp vào các quá trình sản xuất kinh doanh cuả công ty. Công ty có quyền được phép lựa chọn ngân hàng thuận lợi cho việc giao dịch cuả mình, được quyền mở các chi nhánh, cơ quan đại diện,hệ thống cửa hàng phân phối sản phẩm, các đại lí trong phạm vi toàn quốc cũng như quốc tế. Tham gia các hội chợ, triển lãm, quảng cáo các mặt hàng sản xuất kinh doanh của mình. Xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, chính sách trong lĩnh vực sản xuất hàng may mặc thời trang. 3.4 Phạm vi hoạt động: Mặt hàng sản xuất chủ yếu của công ty cổ phần may Thăng Long đó là các sản phẩm may như:quần áo bò, áo jacket,áo dệt kim các loai, áo sơmi…Công ty đã xác định được mặt hàng chủ lực ở từng thị trường khác nhau. Công ty đã xây dựng được cho mình hệ thống sản xuất nhà xưởng… chủ yếu nằm ở Hà Nội và một vài tỉnh phía Bắc. Ngoài ra công ty cũng đã xây dựng cho mình một hệ thống các cửa hàng phân phối và giới thiệu sản phẩm trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam để ngày một phát triển các sản phẩm của công ty. Ngoài việc tiêu thụ sản phẩm ở thị trừơng trong nước, công ty còn tiến hành các họat động xuất khẩu của mình ra các thị trường nước ngoài như:Mỹ, EU, Canada,Nhật... Công ty cũng tiễn hành họat động nhập khẩu các loại máy móc, trang thiết bị , nguyên vât liệu phục vụ cho sản xuất kinh doanh của mình. Công ty tiến hành các quan hệ giao dịch trực tiếp hoặc qua trung gian với các tổ chức trong và ngoài nước để kí kết các hợp đồng kinh tế, chuyển giao công nghệ, liên doanh liên kết, đầu tư phát triển. Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, công ty luôn cố gắng phấn đấu để có thể liên tục mở rộng phạm vi hoạt động của mình không chỉ với thị trừơng nội địa mà còn cả trên các thị trừơng quốc tế. Sản phẩm của công ty sản xuất ra bây giờ không chỉ phục vụ cho một loại đối tượng nào đó mà phục vụ chung cho mọi tầng lớp xã hội, phù hợp với từng thu nhập khác nhau của những thành phần kinh tế khác nhau. Chương 2 Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần may Thăng Long I. Các đặc điểm của Công ty có ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh 1. Đặc điểm cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý Tuy đã được cổ phần hóa năm 2004 nhưng Công ty may Thăng Long vẫn thuộc Tổng Công ty may Việt Nam. Vì vậy, bộ máy tổ chức quản lý vẫn được giữ theo phương thức cũ tức là theo phương pháp quản lý trực tuyến với sự chỉ đạo từ trên xuống, bao gồm các phòng ban tham mưu với ban giám đốc theo từng chức năng, nhiệm vụ của mình giúp ban giám đốc điều hành ra những quyết định đúng đắn có lợi cho công ty. Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty được tổ chức gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả cao, cung cấp kịp thời mọi thông tin kinh doanh nói chung và của công ty may Thăng Long nói riêng. Sự cồng kềnh, chồng chéo hay đơn giản hóa quá mức bộ máy tổ chức quản lý đều không ít nhiều mang đến những ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình sản xuất kinh doanh của bản thân công ty. Vì vậy, trong toàn bộ quá trình dài hình thành và phát triển của mình, Công ty may Thăng Long luôn cố gắng hoàn thiện tốt bộ máy tổ chức quản lý của mình nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh tối ưu. Bộ máy quản lý của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau: Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Tổng Giám đốc Phó tổng Giám đốc điều hành kỹ thuật Phó Tổng Giám đốc điều hành sản xuất Phó tổng Giám đốc điều hành nội chính Phòng kỹ thuật Phòng KCS Phòng thiết kế Phòng kế hoạch Phòng thị trường Phòng kho Phòng CBSX Cửa hàng thời trang XN dịch vụ đời sống Văn phòng Phòng kinh doanh nội địa Phòng nhân sự Xí nghiệp phụ trợ Phòng kế toán Trung tâm thương mại giới thiệu sp Xí nghiệp 1 -> 6 XN may Hà Nam XN may Hải Phòng XN may Nam Hải 2. Đặc điểm về đội ngũ lao động Kể từ khi thành lập, tổng số cán bộ công nhân viên của công ty là 28 người, đến nay số lượng lao động của công ty tăng lên đáng kể. Bảng1: Tình hình biến động chung lao động của công ty giai đoạn 2000-2005 Chỉ tiêu Năm Tổng số LĐ (người) Lượng tăng tuyệt đối (người) Tốc độ phát triển (%) Tốc độ tăng (%) Liên hoàn Định gốc Liên hoàn Định gốc Liên hoàn Định gốc 2000 2166 - -- 100,00 100,00 - - 2001 2300 134 134 106,19 106,19 6,19 6,19 2002 2717 217 351 109,43 116,20 9,43 16,20 2003 3166 649 1000 125,78 146,17 25,78 46,17 2004 2787 -379 621 88,03 128,67 -11,97 28,67 2005 3217 108 1051 103,47 147,52 3,47 48,52 Theo số liệu từ bảng tên ta thấy trong thời kỳ 2000-2005, tổng số lao động của công ty tăng liên tục tuy nhiên tốc độ tăng không ổn định. Nếu như từ năm 2000-2003, lượng lao động luôn tăng đều từ 6,19% của năm 2001/2000; 9,43% của năm 2002/2001; đặc biệt là 25,78% của năm 2003/2002. Điều này chỉ ra rằng công ty đang mở rộng hoạt động sản xuất thu hút được một lượng lao động. Đây là một tín hiệu đáng mừng bởi nó không chỉ đơn thuần mang biểu hiện của hoạt động sản xuất kinh doanh tốt mà nó còn là yếu tố tích cực về mặt xã hội là giải quyết công ăn việc làm cho hàng loạt lao động. Tuy nhiên, năm 2004 số lượng công nhân lại có hiện tượng giảm sút, lượng lao động giảm 11,97% tương ứng với 379 lao động. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau để xảy ra hiện tượng này nhưng một trong những nguyên nhân chính đó chính là việc năm 2004, công ty tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp. Qua đó tạo điều kiện cho công ty tổ chức lại sản xuất, bố trí, sắp xếp lại lao động, giảm bớt số lao động không đáp ứng được yêu cầu sản xuất, không có nhu cầu sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Số lao động rời khỏi doanh nghiệp do các nguyên nhân chính là về hưu sớm và tự nguyện chuyển sang môi trường mới, không có người lao động nào bị sa thải hoặc buộc phải nghỉ việc. Việc không ngừng gia tăng về số lượng lao động là một chỉ tiêu tốt tuy nhiên nó chưa phản ánh hết được đặc điểm của đội ngũ lao động ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh, mà còn phải xem xét về mặt chất lượng của người lao động. Bảng 2: Tình hình chất lượng lao động của công ty giai đoạn 2000-2005 Đơn vị: người Năm Tổng số lao động Lao động gián tiếp Công nhân trực tiếp Trình độ Đại học Cao đẳng Trung cấp LĐ khác 2000 2.166 600 1.566 50 68 158 1890 2001 2.300 573 1.727 70 69 132 2029 2002 2.517 550 1.967 77 68 105 22 2003 3.166 519 2.647 105 77 103 2.881 2004 2.787 410 2.377 110 83 90 245 2005 3.217 380 2.837 153 94 97 286 So với năm 2000, số lượng lao động có trình độ đại học tăng lên gần 3 lần và cao đẳng tăng lên xấp xỉ 1,3 lần. Lượng lao động gián tiếp giảm 1,578 lần từ 600 lao động năm 2000 xuống còn 380 lao động năm 2005. Đối với mỗi doanh nghiệp nói chung, việc giảm dần lượng lao động mà vẫn đem lại hiệu quả kinh doanh tốt là một điều cần thiết. Điều này nhằm giúp bộ máy quản lý không quá cồng kềnh, chồng chéo, hạn chế được các chi phí quản lý lãng phí. Cũng trong giai đoạn này, lực lượng công nhân trực tiếp tăng lên khoảng 2 lần, cho thấy công ty ngày càng mở rộng được sản xuất, thu hút được một lượng lao động đông đảo. Khi mới thành lập đội ngũ lao động trực tiếp của công ty hầu như chưa có kinh nghiệm để có thể tiếp cận với công nghệ cao. Đến nay đội ngũ lao động này đã được đào tạo qua các trường đại học, cao đẳng, trung cấp dạy nghề, một số công nhân đứng đầu dây chuyền đã được gửi đi đào tạo ở nước ngoài. Họ có thể sửa chữa hỏng hóc máy móc mà không cần thuê chuyên gia nước ngoài. Đội ngũ công nhân may, thêu, là… có kinh nghiệm và có tay nghề đã được thực nghiệm qua các hoạt động của công ty trong thời gian qua. Đội ngũ lao động gián tiếp của công ty được đào tạo phần đông tại các trường đại học và cao đẳng như: Kinh tế quốc dân, Ngoại thương, Tài chính Kế toán, Cao đẳng công nghiệp… Nhiều người đã qua đào tạo chuyên ngành. Đội ngũ lao động gián tiếp này đã đáp ứng đủ các kỹ năng cần thiết về trình độ chuyên môn, năng động, sáng tạo, am hiểu thị trường thời trang trong nước cũng như quốc tế. Đội ngũ lãnh đạo của công ty là những cán bộ dày dạn kinh nghiệm, có người đã gắn bó với công ty hàng chục năm, đồng thời công ty còn sử dụng cán bộ trẻ có năng lực làm lực lượng kế cận trong tương lai gần. Đặc điểm, tính chất của công việc đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế, cần cù… vì vậy tỷ lệ lao động nữ trong công ty chiếm phần lớn. Có thể nói lao động là yếu tố cơ bản, là cốt lõi của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Các sản phẩm được tạo ra có ảnh hưởng rất lớn của lao động. Lao động không chỉ đơn thuần tạo ra số lượng sản phẩm mà nó còn có tính quyết định đến chất lượng của sản phẩm đó. Qua bảng số liệu trên cho thấy trong những năm gần đây, công ty không chỉ chú trọng đến việc mở rộng quy mô về lao động mà còn chú ý nâng cao trình độ chuyên môn, sắp xếp cơ cấu lao động hợp lý. Đây là các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tình hình sản xuất của công ty. Để có được những thành quả này, công ty dã phải có những biện pháp thỏa đáng để phát huy mạnh mẽ những tiềm năng của người lao động. Một trong những biện pháp đó để được thể hiện qua việc trả lương cho đãngười lao động. Bảng 3: Thu nhập bình quân của lao động giai đoạn 2000-2005 Đơn vị: đồng/tháng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Thu nhập bình quân 1.000.000 1.100.000 1.150.000 1.200.000 1.300.000 1.400.000 Trong các năm qua, thu nhập bình quân của người lao động có sự tăng lên, nhìn chung ở khoảng mức 1.300.000 đồng. Nếu so sánh với mức lương bình quân của một số công ty khác cùng ngành thì mức lương này là tương đối tốt, có khả năng tạo thu hút với cán bộ công nhân viên, giúp họ yên tâm gắn bó lâu dài với công ty, mang lại những ảnh hưởng tốt đến việc sản xuất kinh doanh và tăng lợi nhuận của công ty. Đối với vấn đề trả lương, công ty cố gắng xây dựng một thang lương hợp lý, công bằng phù hợp với trình độ tay nghề của từng công nhân kết hợp với lương thưởng để khuyến khích người lao động chuyên tâm vào công việc nhằm đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, công ty còn tiến hành mua bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… cho người lao động. Những việc làm trên đã giúp người lao động nhiệt tình hơn với công việc, không ngừng cải thiện năng suất lao động. Ngoài đội ngũ công nhân thì việc sử dụng cán bộ chuyên viên đúng với chức năng, chuyên môn, trình độ quản lý đã giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 3. Đặc điểm sản phẩm của công ty Do đặc thù của lĩnh vực công nghiệp thời trang, phục vụ cho nhu cầu phát triển ngày càng cao của xã hội. Con người luôn có nhu cầu ăn mặc đẹp hơn (tất nhiên cái đẹp còn phụ thuộc vào yếu tố văn hóa của từng dân tộc, từng lứa tuổi, từng giai đoạn thay đổi phát triển xã hội…) nhưng nhìn chung đều hướng tới sự hài hòa giữa giản dị với trang trọng, tao nhã mà lịch sự, sản phẩm đẹp nhưng giá trị sử dụng phải cao… Công ty may Thăng Long hiện nay sản xuất hơn 20 mặt hàng xuất khẩu, nhìn chung là các sản phẩm thông thường, phổ biến như: áo Jacket, áo sơ mi, quần âu, quần bò, áo dệt kim và các loại quần áo khác… rất thích hợp với đại đa số thị trường xuất khẩu cũng như thị trường trong nước. Tuy nhiên, do yêu cầu về tính thời trang ở một số loại mặt hàng chưa đạt được nên việc xâm nhập vào thị trường của một số nước khó tính là vấn đề cần được khắc phục trong thời gian tới. Những mặt hàng luôn tiêu thụ được với khối lượng lớn là: áo dệt kim, áo sơ mi và quần âu cần được có những phương hướng phát triển sản xuất tốt để phát huy thêm những thành quả đã đạt được. 4. Đặc điểm về quy trình sản xuất sản phẩm Công ty may Thăng Long sản xuất, gia công hàng may mặc theo công nghệ khép kín với các loại máy móc chuyên dụng. Mỗi một công đoạn của quá trình sản xuất đều có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của sản phẩm. Công ty đã tiến hành chuyên môn hóa ở từng công đoạn. Ngày nay, có rất nhiều sản phẩm may mặc khác nhau thâm nhập vào thị trường thời trang. Các công đoạn chi tiết để chế biến từng loại sản phẩm tuy có khác nhau nhưng đều phải tuân thủ theo các giai đoạn sau: Sơ đồ 2: Qui trình công nghệ sản xuất sản phẩm Nguyên vật liệu Cắt trải vải đ đặt mẫu đ dắt sơ đồ đ cắt May: may bộ phận phụ đ ghép thành phẩm Là Đóng gói Nhập kho Giặt, mài, tẩy Thêu + Công đoạn cắt: Nguyên liệu được đưa lên xưởng. Sau khi trải vải, công nhân tiến hành giát sơ đồ sao cho tiết kiệm được nguyên liệu nhưng phải đảm bảo chất lượng sản phẩm. Tùy theo thiết kế mà sau khi cắt xong, sản phẩm cắt có thể được đem đi thêu hay không. + Công đoạn may: Các sản phẩm cắt ở bộ phận phụ trợ được đưa lên tổ may để ghép các sản phẩm cắt thành sản phẩm hoàn chỉnh. Sau đó các sản phẩm này được đưa tới các phân xưởng mài, giặt, tẩy trắng đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và chất lượng. + Công đoạn là: Các thành phẩm đã được làm sạch, làm trắng được đưa xuống bộ phận là để chuẩn bị đóng gói. + Công đoạn gói: Tổ hoàn thiện thực hiện nốt giai đoạn cuối là đóng gói thành phẩm. + Công đoạn nhập kho: Bộ phận bảo quản tiếp nhận những sản phẩm hoàn thiện đã được đóng gói, lưu trữ và xuất kho tiêu thụ trên thị trường. Nhìn chung; ở từng giai đoạn công ty đều sử dụng công nghệ mới có thể sản xuất những mặt hàng đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao; hao phí nguyên vật liệu thấp. Vì vậy, có thể giảm giá thành tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của công ty. 5. Đặc điểm nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty may Thăng Long Nguyên vật liệu là yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh. Nó là yếu tố cấu thành nên thực thể của sản phẩm và chiếm một tỷ lệ lớn trong giá thành. Tuy nhiên, đối với công ty may, nhiều đơn đặt hàng chỉ đơn thuần là gia công thì công ty không phải bỏ vốn ra để mua nguyên vật liệu, điều này sẽ được khách hàng lo cung ứng, toàn bộ vật liệu. Đối với các hợp đồng không đi kèm vật liệu thì công ty sẽ tìm kiếm ở thị trường trong nước cũng như nước ngoài, vừa phải đảm bảo chất lượng đồng thời phù hợp giá thành. Thông thường, công ty tận dụng tối đa mua nguyên vật liệu được sản xuất trong nước như các sản phẩm của các công ty: Dệt 19/5; Công ty dệt kim Hà Nội… Những đặc điểm trên đã tạo điều kiện cho công ty ổn định sản xuất, mở rộng quy mô, đảm bảo tạo ra các sản phẩm có chất lượng; hợp thị hiếu, giảm cước phí vận chuyển. Những yếu tố trên đã tạo thuận lợi cho công ty tăng doanh thu, giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đó cũng là những yếu tố làm tăng lợi nhuận và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm: hiện nay công ty đã có mạng lưới tiêu thụ khá tốt trong nước. Trong quá trình sản xuất, công ty nhận thấy rằng, nhu cầu tiềm năng sản xuất hàng nội địa là rất lớn, nên đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất; đưa chỉ tiêu sản xuất hàng nội địa thành tiêu chí phấn đấu thực hiện lớn trong các năm và trên thực tế, giá trị tăng trưởng của công ty có phần đóng góp to lớn từ hàng hóa nội địa. Các sản phẩm của công ty đã bắt đầu quen thuộc với phần lớn người tiêu dùng Việt Nam, đặc biệt là trên thị trường miền Bắc. Đối với thị trường nước ngoài: chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước đã cho phép công ty có điều kiện chủ động tìm tòi, khảo sát, tiến tới đạt quan hẹ hợp tác với các đối tác phương Tây và nhiều quốc gia ở châu lục khác. Chiến lược mở rộng thị trường, đa dạng hóa mặt hàng sản phẩm phù hợp quan hệ với thị hiếu của từng khu vực, từng quốc gia làm tăng sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay công ty đã có quan hệ với trên 40 nước trên thế giới, trong đó có những thị trường mạnh, đầy tiềm năng như: EU, Đông Âu, Nhật Bản, Mỹ… Sản phẩm của công ty đã tạo được uy tín với các nhà nhập khẩu. Giá xuất khẩu sản phẩm của công ty nhìn chung tương đối rẻ. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, mức sống của nhân dân cũng được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm may mặc cùng ngày càng được mở rộng. Nhiều mẫu mã, kiểu dáng, mầu sắc sản phẩm mà khách hàng nước ngoài ưa thích mà công ty chưa đáp ứng được. Qua một số nét khái quát về tình hình tiêu thụ sản phẩm của công ty nói trên có thể thấy. Nhu cầu của thị trường đối với các mặt hàng sản phẩm của công ty ngày càng được mở rộng không chỉ thị trường nội địa mà còn ở c._.ả nước ngoài. Cùng với sự phát triển chung của đất nước chắc chắn nhu cầu này còn được mở rộng hơn nữa. Điều này đồng nghĩa với việc tạo cho công ty một thị trường vô cùng rộng lớn, làm tăng doanh thu cũng như lợi nhuận. Tuy nhiên, nhiều mặt hàng sản phẩm của công ty chưa đáp ứng được về mẫu mã, thiết kế đối với các thị trường khó tính. Đó là nguyên nhân gây ra những hợp đồng bị hủy bỏ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, công ty còn phải cạnh tranh sản xuất với các công ty khác cùng ngành không chỉ trong nước mà cả các đối thủ nước ngoài có truyền thống may mặc. Điều này đặt ra cho công ty những thử thách lớn lao trong việc cạnh tranh, giành giật từng thị trường. Dây là một khó khăn để duy trì kết quả sản xuất tốt và không ngừng phải tăng trưởng trong tương lai. 6. Đặc điểm về nguồn vốn của công ty Vốn là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp cần phải nắm giữ một lượng vốn cố định được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn kinh doanh là cơ sở để doanh nghiệp dựa vào đó để hoạch định chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Cũng qua đó, có thể phần nào đánh giá được quy mô của từng doanh nghiệp. Vốn là một trong những tiềm năng quan trọng để doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có và tương lai. Với những ý nghĩa trên vốn chính là điều kiện quan trọng cho sự ra đời, tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong những năm đầu thành lập, công ty chỉ sở hữu một lượng vốn nhỏ, nhưng qua quá trình phát triển, bằng nỗ lực phấn đấu của toàn bộ cán bộ công nhân viên, quy mô của công ty đã được mở rộng và đến nay công ty đã huy động được một nguồn vốn lớn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và trở thành một trong những công ty có nguồn vốn lớn trong ngành may mặc thời trang. Bảng 4: Cơ cấu nguồn vốn của công ty trong giai đoạn 2000-2005 Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng nguồn vốn (Tr.đ) 53.301 60.732 73.807 90.966 86.688 100.019 Tốc độ phát triển (%) 113,94 121,53 123,25 95,30 115,38 Vốn cố định (Tr.đ) 34.313 38.563 47.101 57.674 54.632 63.054 Tỷ trọng (%) 64,38 63,50 63,82 63,40 63,02 63,04 Tốc độ phát triển (%) 112,39 122,14 122,45 94,73 115,42 Vốn lưu động (Tr.đ) 18.988 21.913 26.706 33.292 32.056 36.965 Tỷ trọng (%) 35,62 36,5 36,18 36,6 36,98 36,96 Tốc độ phát triển (%) 115,40 121,87 124,66 96,29 115,31 Trong đó: Vốn vay dài hạn (Tr.đ) 11.320 13.456 17.676 22.538 20.463 24.185 Tỷ trọng (%) 21,24 22,16 23,95 24,78 23,61 24,18 Tốc độ phát triển (%) 118,87 131,36 127,51 90,79 118,19 Vốn vay ngắn hạn (Tr.đ) 36.141 41.144 49.278 60.790 59.01 67.795 Tỷ trọng (%) 67,81 67,75 66,77 66,83 68,07 67,78 Tốc độ phát triển (%) 113,84 119,77 123,34 97,07 114,89 Vốn chủ sở hữu (Tr.đ) 5.840 6.132 6.853 7.638 7.214 8.039 Tỷ trọng (%) 10,95 10,09 9,28 8,39 8,32 8,04 Tốc độ phát triển (%) 105,0 111,76 111,45 94,45 111,44 Qua các số liệu về tình hình nguồn vốn của công ty cho thấy: tổng nguồn vốn của công ty tương đối lớn. Xét về cơ cấu có thể thấy: đây là một doanh nghiệp sản xuất nên phần vốn cố định chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh (>60%). Vì vậy khi dưa ra các chính sách như: đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc, đầu tư dài hạn, góp vốn liên doanh, liên kết… là vấn đề vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của toàn bộ công ty. Bên cạnh đó, cơ cấu vốn vay (vay ngắn hạn và dài hạn) chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn. Phần vốn vay này, công ty phải tiến hành trích lợi nhuận hàng năm ra để tiến hành trả tiền lãi. Vì vậy, việc cần thiết là làm sao giảm tỷ trọng của nguồn vốn vay lại là tốt nhất. Điều này thể hiện sự tự chủ về tài chính của công ty còn chưa mạnh. Việc phải trả một khoản lãi vay lớn sẽ gây rất nhiều khó khăn trong công ty, ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối ngược lại với phần vốn vay đó là nguồn vốn chủ sở hữu. Nguồn vốn này chiếm một tỷ trọng còn tương đối thấp (<10%). Trong giai đoạn vừa qua (2000-2002), công ty đã làm tăng thêm nguồn vốn này nhưng tốc độ tăng của nó còn thấp hơn tốc độ tăng của nguồn vốn vay vì vậy làm cho tỷ trọng đóng góp của nguồn vốn này trong tổng nguồn vốn liên tục giảm từ 10,95% năm 2000 xuống còn 8,04% năm 2004. Vì vậy, trong những năm tới công ty cần có nhiều cách cải tiến trong hoạt động của mình nhằm đẩy mạnh tỷ trọng đóng góp của phần vốn này lên. Đến khi đó công ty mới thực sự làm chủ được mọi hoạt động tài chính của mình, không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Điều này sẽ giúp cho công ty hoạt động sản xuất có hiệu quả lớn hơn; doanh thu và lợi nhuận cao. II. Phân tích một sô chỉ tiêu đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của công ty may Thăng Long giai đoạn 2000 - 2005: 1. Tình hình chung về sản xuất kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2000 - 2005 Bảng 5: Một số chỉ tiêu chủ yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giai đoạn 2000 - 2005 Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. GTTSL (giá CĐ 1994) Tr. đ 47.560 55.683 71.530 90.743 86.095 95.000 2. Doanh thu Tr. đ 112.170 130.378 160.239 203.085 198.750 236.575 3. Chi phí sản xuất Tr. đ 103.680 121.324 147.019 185.328 180.061 210.695 4. Nộp ngân sách Tr. đ 3.370 3.470 3.118 2.308 2.313 2.883 5. Lợi nhuận (sau thuế) Tr. đ 5.120 5.584 10.102 15.449 16.376 23.000 6. Kim ngạch xuất khẩu 1000 USD 4.539 7.730 9.155 13.500 6.700 8.040 Theo số liệu từ bảng trên cho ta thấy trong thời kỳ 2000 - 2005, một số chỉ tiêu chủ yếu của công ty luôn có chiều hướng tăng lên do thực hiện tốt các công tác trên thị trường: đầu tư nhiều trang thiết bị máy móc nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất; khâu kiểm tra kỹ thuật được tiến hành chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm; thực hiện quảng cáo để đưa thương hiệu của công ty đến từng khách hàng trong và ngoài nước; đa dạng hóa các sản phẩm, mẫu mã, chất lượng đảm bảo, giao hàng đúng thời hạn… Công ty đã ký được nhiều hợp đồng dài hạn với các đối tác nước ngoài. Nhiều khách hàng tin tưởng vào uy tín của công ty đã cho phép công ty nhập khẩu máy móc, thiết bị nguyên vật liệu theo hình thức trả góp. Tuy nhiên, vào thời điểm năm 2004, có thể nhận thấy hầu như các chỉ tiêu chủ yếu của công ty có sự suy giảm mạnh như: giá trị tổng sản lượng giảm từ 90.743 triệu đồng năm 2003 xuống còn 86.095 triệu đồng vào năm 2004; doanh thu cũng giảm từ 203.085 triệu đồng xuống còn 198.750 triệu đồng;chi phí sản xuất giảm từ 185.328 triệu đồng xuống còn 180.061 triệu đồng... Một câu hỏi đặt ra là nguyên nhân nào làm cho các chỉ tiêu của công ty lại giảm sút như vậy? Phải chăng công ty đang làm ăn thua lỗ; không tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường. Thực tế, câu trả lời cho nguyên nhân lớn nhất đó là vào năm 2004, thực hiện Nghị quyết ban chấp hành Trung ương lần thứ 9 Đảng khóa IX, công ty đã tiến hành cổ phần hóa, tạo ra loại hình doanh nghiệp đa sở hữu, có cơ chế quản lý kinh doanh năng động, hiệu quả thích nghi với nền kinh tế thị trường. Với phương thức này, doanh nghiệp đã bố trí, sắp xếp lại lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất. Công ty đã tiến hành ngừng hoạt động sản xuất của xí nghiệp may Hà Nam do hoạt động không hiệu quả. Lượng lao động ở đây được kiểm tra lại tay nghề, những lao động không đáp ứng được đầy đủ yêu cầu kỹ thuật sẽ tự nguyện chuyển sang môi trường mới; còn mặt bằng sản xuất kinh doanh ở đây được công ty chuyển sang hình thức cho các doanh nghiệp khác thuê lại. Ngoài nguyên nhân kể trên còn phải nói đến những nguyên nhân khách quan, những tác động từ bên ngoài đối với việc sản xuất của công ty. Thời điểm năm 2004, thị trường may mặc Việt Nam nói chung bị ảnh hưởng rất lớn từ việc quy định hạn ngạch xuất khẩu của các thị trường châu Âu, Mỹ… áp đặt ngày một xiết chặt đối với ngành may mặc của nước ta. Phải thừa nhận rằng, chúng ta càng ngày càng phải cạnh tranh khốc liệt hơn với các thị trường may mặc lâu đời mà có phần nào vượt trội hơn hẳn chúng ta về mọi mặt như: Trung Quốc, ấn Độ,Thái Lan, Hồng Kông…Bên cạnh đó đất nước ta đang trong quá trình gia nhập AFTA, WTO… phải tiến hành giảm; xóa bỏ hàng rào thuế quan rất nhiều mặt hàng trong đó có hàng may mặc. Với những nguyên nhân nêu trên có thể rút ra rằng việc giảm sút các chỉ tiêu chủ yếu của công ty may Thăng Long trong năm 2004 là một điều tất yếu, nó không đưa đến kết luận tình hình hoạt động sản xuất của công ty bị suy giảm. Đây chỉ có thể được coi là một cuộc cải tổ lại bộ máy công ty để sau khi cổ phần hóa, điều chỉnh lại nhân sự; lao động sẽ giúp công ty làm ăn có hiệu quả hơn, đem lại lợi nhuận lớn. Điều này đã chứng minh qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vào năm kế tiếp. Năm 2005, giá trị tổng sản lượng đạt 95.000 triệu đồng với doanh thu là 236.575 triệu đồng tăng 12% so với năm 2004. Để đạt được những thành tựu như vậy là sự phấn đấu của công ty trên tất cả các lĩnh vực. Như vậy, nhìn chung trong 6 năm (2000-2005) tình hình sản xuất của công ty may Thăng Long phát triển tương đối thuận lợi.Hoạt động sản xuất kinh doanh này đạt được những kết quả như thế nào được thể hiện qua rất nhiều các chỉ tiêu nhưng do giới hạn của đề tài cũng như mức độ tiêu biểu của từng chỉ tiêu mà chuyên đề này xin đi sâu vào phân tích 2 chỉ tiêu cơ bản đó là: doanh thu và lợi nhuận. 2.Tình hình chung về doanh thu của công ty giai đoan 2000-2005: Doanh thu là một trong những chỉ tiêu quan trọng của các doanh nghiệp nói chung cũng như với công ty may Thăng Long nói riêng.Doanh thu không chỉ đơn thuần chỉ ra kết quả họat động sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp qua từng năm mà còn giúp ta đánh giá được quy mô sản xuất của doanh nghiệp đó là lớn hay nhỏ.Trong qúa trình họat động của mình, mọi biện pháp của doanh nghiệp đề ra đều nhằm mục đích cải thiện doanh thu của mình năm sau luôn cao hơn năm trước, doanh thu càng lớn càng thể hiện được hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Bảng 6:Tình hình chung về doanh thu giai đoạn 2000-2005: Chỉ tiêu Năm Tổng số doanh thu (tr.đ) Lượng tăng tuyệt đối (tr.đ) Tốc độ phát triển (%) Tốc độ tăng (%) Liên hoàn Định gốc Liên hoàn Định gốc Liên hoàn Định gốc 2000 112.170 - - 100,00 100,00 - - 2001 130.378 18.208 18.208 116,23 116,23 16,23 16,23 2002 160.239 29.861 48.069 122,90 142,85 22,9 42,85 2003 203.085 42.846 90.915 126,74 181,05 26,74 81,05 2004 198.750 -4.335 8.658 97,87 177,18 -2,13 77,18 2005 236.575 37.825 124.405 119,03 210,90 19,03 110,9 Bảng số liệu trên cho ta thấy tình hình doanh thu nói chung của công ty trong giai đoạn 2000-2005 phát triển tương đối tốt, trừ năm 2004 ra thì các doanh thu các năm sau luôn cao hơn các năm trứơc tuy nhiên tốc độ tăng này lại không đều.Cao nhất là doanh thu của năm 2003 đạt 203.085 triệu đồng tăng 26,74% so với năm 2002.Ngay sau đó, năm 2004 doanh thu của công ty chỉ đạt 198.750 triệu đồng giảm 2,13% tức là giảm 4.335 triệu đồng so với năm 2003. Điều này là phù hợp với thực tế của công ty khi năm 2004 tiến hành thu nhỏ quy mô sản xuất.Đến năm 2005, một năm sau khi tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty lại có những bước phát triển vượt bậc thể hiện qua doanh thu năm đạt 236.575 triệu đồng, tăng 19,03% tức là tăng 8.658 triệu đồng so với năm 2004. Để đạt được những thành tựu như vậy là sự phấn đấu của công ty trong việc tăng số lượng sản phẩm sản xuất ra cũng như tìm những phương hướng nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm trong nước cũng như ngoài nước. Bảng số liệu sau sẽ chỉ ra cho ta thấy rõ điều này: Bảng 7: Cơ cấu doanh thu của công ty giai đoạn 2000 - 2005 Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. Tổng doanh thu (tr.d) 112.170 130.378 160.239 203.085 198.750 236.578 2. Doanh thu nội địa (tr.đ) 21.325 21.524 21.403 26.401 15.625 15.998 Tỷ trọng (%) 19,01 16,51 13,89 12,99 12,50 9,38 Trong đó: Miền Bắc (tr.đ) 18.721 16.567 12,8589 12.793,5 9.128,9 8.320,5 Miền Trung (tr.đ) 581,75 641,4 762,8 927,8 425,3 526,3 Miền Nam (tr.đ) 2.022,25 4.315,6 7.781,3 12.679,7 6.070,8 7.151,2 3. Doanh thu xuất khẩu (tr.đ) 90.720 108.699 138.656 176.487 173,747 211.193 Tỷ trọng (%) 80,88 83,37 86,53 86,90 87,42 89,27 4. Doanh thu từ hoạt động sản xuất khác (tr.đ) 125 125 180 197 98 102 Tỷ trọng (%) 0,11 0,12 -0,42 0,11 0,08 1,35 Từ bảng trên ta thấy doanh thu nội địa tăng lên theo từng năm nhưng tỷ trọng trong tổng doanh thu lại có xu hướng giảm đi. Dân số nước ta hơn 85 triệu người vì vậy đây chính là một thị trường đầy tiềm năng, khả năng tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa nói chung cũng như hàng may mặc nói riêng vô cùng lớn. Điều này là một thuận lợi cho công ty may Thăng Long nếu tìm đúng được sở thích thị hiếu sẽ đem lại doanh thu lớn. Tuy nhiên, công ty cũng vấp phải nhiều khó khăn khác bởi trên thị trường đồng thời xuất hiện rất nhiều mẫu mã, sản phẩm đa dạng phong phú, chất lượng khá, giá thành tương đối rẻ từ hàng nhập nước ngoài như: Trung Quốc, Thái Lan, Hồng Kông…cho đến sự cạnh tranh khốc liệt với các công ty may có uy tín trong nước như: công ty may 10-10, công ty may Việt Tiến; Nhà Bè, Đức Giang.. chưa kể đến hiện nay có sự xuất hiện của rất nhiều công ty may tư nhân cũng thu hút được một lượng lớn khách hàng bởi các sản phẩm may đo hợp thời trang, giá cả phải chăng… Để thu hút được lượng khách hàng trong nước, công ty đã tiến hành sản xuất nhiều loạt mặt hàng phù hợp với mọi tầng lớp khách hàng trong xã hội. Tuy nhiên, do thu nhập của người dân còn thấp, kiểu dáng của sản phẩm chưa thật sự đáp ứng nhu cầu thời trang và nhiều người còn mang tư tưởng đối ngoại tốt hơn đồ nội nên dẫn đến doanh thu nội địa của công ty chưa cao mà còn có biểu hiện giảm xuống trong những năm về sau. Đối với thị trường nội địa thì mức tiêu thụ sản phẩm ở các khu vực cũng khác nhau. Với việc tập trung các trụ sở chính cùng các cơ sở sản xuất phụ cùng với hệ thống đại lý lớn ở miền Bắc dẫn đến doanh thu miền Bắc chiếm tỷ trọng lớn hơn cả, sau đó là doanh thu khu vực miền Nam và xếp cuối cùng là doanh thu khu vực miền Trung. Tuy nhiên, có sự thay đổi đôi chút vào càng những năm gần đây, công ty đẩy mạnh mạng lưới quảng cáo, giới thiệu sản phẩm rộng khắp cả nước khiến cho lượng sản phẩm tiêu thụ ở miền Nam và miền Trung không ngừng tăng lên. Nhưng công ty không giữ vững được mạng lưới bán hàng miền Bắc; cùng với việc ngày càng nhiều công ty may miền Nam đưa sản phẩm của mình ra thị trường miền Bắc khiến cho doanh thu miền Bắc của công ty giảm dần. Trong cơ cấu doanh thu của công ty dễ dàng nhận thấy doanh thu hoạt động xuất khẩu chiếm một tỷ trọng tương đối lớn và năm sau lại cao hơn năm trước, năm 2000 chiếm 80,88%, năm 2002 chiếm 86,53%, năm 2004 là năm doanh thu giảm nhưng tỷ trọng của doanh thu của xuất khẩu vẫn tăng chiếm 87,42% , năm 2005 đạt 89,27%. Điều này giúp ta khẳng định hoạt động xuất khẩu là hoạt động chính tạo ra doanh thu cho công ty may Thăng Long. Đây có thể coi là hoạt động trọng yếu và mang tính chiến lược trong quá trình phát triển của công ty. Ngoài ra, doanh thu hàng năm của công ty còn có sự đóng góp từ doanh thu của các hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Tuy nhiên, tỷ trọng của doanh thu này còn rất thấp hầu như chưa chiếm được đến 1%, có năm còn âm. Nguyên nhân là do công ty chưa chú trọng nhiều đến các hoạt động như: cho thuê mặt bằng, máy móc; phải trả lãi cho tiền đi vay… Đây cũng là tình trạng chung của tất cả nhiều công ty may nói chung không riêng chỉ với công ty may Thăng Long. Đối với công ty may Thăng Long, việc doanh thu luôn tăng lên theo từng năm càng khẳng định hướng đi đúng đắn của công ty trong việc định hướng sản xuất. Đặc biệt là sau thời điểm cổ phần hóa năm 2004, công ty còn đang được hưởng nhiều chính sách ưu đãi đặc biệt là chính sách miễn giảm thuế thu nhập…. Đây sẽ được coi là tiền đề tốt cho những chặng đường phát triển lâu dài của công ty. Như vây, nhìn chung hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty may Thăng Long giai đoan 2000-2005 được biểu hiện qua chỉ tiêu doanh thu là tương đối tốt. Để có được những thành tựu như trên có sự đóng góp của rất nhiều các nhân tố khác nhau như:do tình hình sử dụng lao động, sử dụng nguồn vốn kinh doanh có hiệu quả, các chính sách tiền lương hợp lí,đầu tư tốt vào trang thiết bị sản xuất…Mỗi một nhân tố có mức độ ảnh hưởng khác nhau tới kết quả doanh thu. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về sự tác động của từng nhân tố này dưới đây xin đi sâu vào phân tích cụ thể 2.1. Tình hình sử dụng lao động ảnh hưởng đến biến động của doanh thu: Việc sử dụng nguồn nhân lực như thế nào trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sao cho hợp lý, khai thác được tối đa năng lực của người lao động luôn là một bài toán khó đối với mọi doanh nghiệp nói chung cũng như đối với công ty may Thăng Long nói riêng. Như đã nêu ở trên,doanh thu là một trong những chỉ tiêu chính của công ty. Để có được doanh thu lớn, doanh nghiệp cần phải tăng lượng sản phẩm sản xuất ra và đặc biệt là giảm thiểu tối đa chi phí sản xuất của mình; giảm giá thành sản phẩm. Để làm được điều này không thể không giảm chi phí nhân công. Đây là một trong những yếu tố cấu tạo nên giá thành sản phẩm. Hơn nữa, qua việc đánh giá tình hình sử dụng lao động giúp ta hiểu rõ hơn nguyên nhân tăng doanh thu của công ty trong giai đoạn 2000 - 2002 là do đâu. Phải chăng do số lượng công nhân tuyển thêm ngày một nhiều hay do năng suất lao động của từng người tăng lên.Để khái quát vấn đề này ta có thể sử dụng được mô hình phân tích sau: Mô hình Ipq = D pq(ST) = (ST1 - ST0). D pq() = (1 - ) ST1. Trong đó: 1; : năng suất lao động bình quân kỳ báo caó và kỳ gốc ST1 ; ST0: tổng số lao động kỳ báo caó và kỳ gốc Bảng 8: Biến động của tổng doanh thu do tác động của nhân tố:năng suất lao động BQ và tổng số người lao động Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng doanh thu (pq) (tr.đ) 112.170 130.378 160.239 203.085 198.750 236.578 Năng suất lao động BQ (Trđ/ng) 51,79 56,69 63,66 64,15 71,31 73,54 Tổng số lao động (người) 2.166 2.300 2.517 3.166 2.787 3.217 DIpq (%) - 16,23 22,9 26,74 -2,13 19,03 DIpq ( (%) - 9,46 12,29 0,77 11,16 3,18 DIpq (ST) (%) - 6,18 9,43 25,78 -11,97 15,43 Dpq (Tr.đ) - 18.208 29.861 42.846 -43.35 37.828 Dpq ( (Tr.đ) - 11.270 17.543,49 1.551,31 19.954,92 7.173,91 Dpq (ST) (Tr.đ) - 6.938 12.317,51 41.294,66 -15.619,92 30.654,09 Qua những tính toán ở trên ta nhận thấy: trong giai đoạn(2000 - 2005) thì có tới 3 giai đoạn 2001/2000; 2002/2001; 2004/2003 sự tăng lên trong tổng doanh thu do sự đóng góp chủ yếu của việc gia tăng năng suất lao động, còn sự đóng góp của việc tăng lên trong số lượng lao động chiếm tỷ trọng nhỏ. Đây là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, trong 2 giai đoạn 2003/2002 và năm 2005/2004 thì tăng trưởng của doanh thu lại sự đóng góp chủ yếu của yếu tố tăng lượng lao động.Nguyên do đó là việc năng suất lao động tăng, nhưng tốc độ tăng này nhỏ hơn nhiều so với tốc độ tăng của lượng lao động. Cũng qua bảng số liệu trên chỉ ra, năng suất lao động của công ty trong 6 năm (2000 - 2005) đều có xu hướng tăng lên. Có thể nói năng suất lao động của công ty tương đối cao. Nếu như năm 2000, năng suất lao động đạt 51,79 triệu đồng/người; điều này có nghĩa là năm 2000 hiệu quả của lao động là lớn nhất mỗi lao động tạo ra được 51,79 triệu đồng doanh thu. Tiếp đó đến năm 2002 mỗi lao động tạo được 63,66 triệu đồng tăng 1,23 lần; năm 2005 mỗi lao động đạt 73,54 triệu đồng tăng gấp 1,42 lần so với năm 2000.Nhưng nhìn chung có thể thấy việc tăng trưởng của công ty cũng có phần nào theo chiều hướng phát triển theo chiều sâu. Một nền kinh tế nói chung hay cụ thể là công ty may Thăng Long muốn phát triển mạnh thì phải dựa vào sự đóng góp của các nhân tố chiều sâu mà thể hiện ở đây chính là năng suất lao động bình quân. Điều này cũng khẳng định lại một lần nữa, sự phát triển của công ty tuy còn mang một chút ảnh hưởng của yếu tố phát triển về số lượng nhưng cũng đã phần nào chú trọng đi sâu vào chất lượng. Đây chính là cơ sở, là tiền đề để cho sự phát triển bền vững. Như vậy, qua phần phân tích trên giúp ta thấy được tầm quan trọng của nhân tố năng suất lao động đối với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Đóng vai trò là một nhân tố chiều sâu trong quá trình phát triển, việc không ngừng cải thiện năng suất lao động là một mục tiêu quan trọng mà công ty luôn hướng tới.Cũng như chỉ tiêu doanh thu, chỉ tiêu năng suất lao động được tăng lên do ảnh hưởng của rất nhiều các nhân tố khác nhau, đâu là những nhân tố chính để dựa vào đó công ty có thể đưa ra các chính sách nhằm thúc đẩy năng suất lao động cao hơn.Để hiểu thêm vấn đề này, chuyên đề xin đi vào phân tích các yếu tố cấu tạo nên năng suất lao động bình quân qua mô hình phân tích sau: Trong đó: W: năng suất lao động năm Wh1; Who: năng suất lao động giờ kỳ nghiên cứu và kỳ gốc h1,ho: số giờ bình quân ngày kỳ nghiên cứu và kỳ gốc n1;n0: số ngày làm việc trong năm của một lao động kỳ nghiên cứu và kỳ gốc Bảng 9: Một số chỉ tiêu về tình hình sử dụng lao động của công ty giai đoạn 2000-2005: Chỉ tiêu Đơn vị tính 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1. Tổng doanh thu Tr. đ 112.170 130.378 160.239 203.085 198.750 236.578 2. Số lao động bình quân Người 2.166 2.300 2.517 3.166 2.787 3.217 3. Tổng số ngày-người làm việc Ngày 604.314 648.600 719.862 905.476 802.656 920.062 4. Số ngày làm việc BQ 1 lao động Ngày 279 282 286 286 288 286 5. Tổng số người - giờ làm việc Giờ 4.532.355 5.046.600 5.866.875,3 7424.903 6.822.576 8.004.539,4 6. Số giờ BQ ngày Giờ 7,5 7,78 8,15 8,2 8,5 8,7 7. Năng suất lao động năm Tr.đ 51,79 56,69 63,66 64,15 71,31 73,54 8. Năng suất lao động ngày Tr.đ 0,186 0,201 0,223 0,224 0,248 0,257 9. Năng suất lao động giờ Tr.đ 0,025 0,026 0,027 0,0273 0,029 0,03 Bảng 10: Kết quả tính toán Chỉ tiêu 2001/2000 2002/2001 2003/2002 2004/2002 2005/2004 IW(Wh) 2,3263 3,438 0,092 4,340 1,072 IW(h) 1,955 2,734 0,391 2,363 1,666 IW(n) 0,5571 0,8041 0,000 0,4485 -0,495 Qua bảng số liệu trên cho ta thấy, sự tăng trưởng của năng suất lao động năm là do tác động chủ yếu của yếu tố năng suất lao động theo giờ, đây là yếu tố theo chiều sâu, còn ảnh hửơng của nhân tố chiều rộng là số giờ làm việc bình quân 1 ngày của 1 lao động và tổng số ngày làm việc trong năm của lao động là tương đối nhỏ.Đây là một điều đáng mừng bởi như vậy công ty đã phần nào hướng sự phát triển của mình theo phương hướng chiều sâu, đây là tiền đề cho sự phát triển lâu dài và bền vững của công ty bởi số ngày lao động trong 1 năm là có giới hạn, điều này tương tự với số giờ làm việc của lao động trong 1 ngày vì vây để năng suất năm tăng lên phải phụ thuộc vào năng suất lao động theo giờ mà ở đây chính là yếu tố người lao động tạo lên, không phụ thuộc vào ảnh hưởng của các yếu tố bên ngòai. 2.2. Tình hình sử dụng nguồn vốn kinh doanh tác động đến biến động của doanh thu: 2.2.1. Tình hình sử dụng nguồn vốn cố định ảnh hưởng đến biến động của doanh thu: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là giá trị của nó chuyển dần vào giá trị của sản phẩm và nó tham gia vào sản xuất theo mức độ hao mòn khác nhau; dưới hình thức khấu hao và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định đó hết thời hạn sử dụng. Vốn cố định là một bộ phận quan trọng cấu tạo nên nguồn vốn kinh doanh. Quy mô của vốn cố định cũng như trình độ quản lý, sử dụng vốn cố định có vai trò hết sức lớn, tác động trực tiếp lên trình độ trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. Để có thể hiểu rõ ý nghĩa quan trọng của vốn cố định với hoạt động của doanh nghiệp ta có thể nghiên cứu qua chỉ tiêu sau: . Chỉ tiêu sức sản xuất kinh doanh của vốn cố định. Sức sản xuất của vốn cố định = Chỉ tiêu này giúp ta nhận thấy với một đồng vốn cố định đầu tư vào sản xuất kinh doanh giúp ta đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Bảng 11: Sức sản xuất của vốn cố định của công ty (2000 - 2005) Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Doanh thu (Tr.đồng) 112.170 130.378 160.239 203.085 198.750 236.578 Vốn cố định (Tr.đ) 34.313 38.563 47.101 57.674 54.632 63.054 Sức sản xuất của vốn cố định 3,269 3,381 3,402 3,521 3,638 3,752 Qua các số liệu trên ta thấy sức sản xuất vốn cố định của công ty luôn tăng hàng năm. Nếu như năm 2000, 1 đồng vốn cố định tạo ra được 3,269 đồng doanh thu thì trong những năm sau đó nó tạo ra được lần lượt là 3,381 đồng năm 2001) 3,402 đồng năm 2002; 3,521 đồng năm 2003; 3,638 đồng năm 2004 và cuối cùng là 3,752 đồng năm 2005.Việc tăng lên của chỉ tiêu sức sản xuất của 1 đồng vốn cố định là một tín hiều đáng mừng nhưng nó chưa thể hiện được rõ hết những ảnh hưởng của việc sử dụng nguồn vốn cố định tới sự biến động của doanh thu.Bởi cùng với việc nguồn vốn cố định không ngừng tăng lên qua các năm thì việc sử dụng nguồn vốn đó như thế nào, đã đạt hiệu suất cao nhất chưa…những vấn đề này sẽ được thể hiện rõ qua mô hình sau : Mô hình Ipq = Trong đó: H1, Ho: hiệu suất sử dụng vốn cố định kỳ báo cáo và kỳ gốc : mức trang bị vốn cố định cho một lao động kỳ báo cáo và kỳ gốc : tổng số lao động kỳ báo cáo và kỳ gốc Bảng 12: Biến động của doanh thu do tác động của 3 nhân tố: H, ; ST Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng doanh thu (tr.đ) 112.170 130.378 160.239 203.085 198.750 236.578 H (%) 3,37 3,48 3,48 3,57 3,70 3,82 (Trđ/ng) 15,38 16,30 18,28 17,98 19,26 19,27 ST (người) 2.166 2.300 2.517 3.166 2.787 3.217 D Ipq (%) - 16,23 22,9 26,74 -2.13 19,03 Dpq(H) (%) - 3,26 0 2,59 3,64 3,24 Dpq (%) - 5,98 11,12 -4,46 7,12 0,05 Dpq ( ST) (Tr.đ) 6,18 9,43 25,78 -11,97 15,43 Dpq (Tr.đ) - 18.208 29.861 42.846 -4.335 37.282 Dpq(H) (Tr.đ) - 4.036,7 0 4.987,11 7.120,9 7.209,12 Dpq (Tr.đ) - 7.130,62 17.343,13 -3.305,3 12.735,47 119,03 Dpq ( ST) (Tr.đ) - 7.040,68 12.517,87 41.164,19 15.521,37 30.499,85 Qua bảng số liệu tính toán trên cho thấy: tốc độ tăng doanh thu chủ yếu mới chỉ tập trung vào 2 nhân tố: tăng số lượng lao động và tăng đầu tư trang thiết bị máy móc; còn yếu tố hiệu suất sử dụng đầu tư tài sản cố định chưa được chú trọng đến nhiều. Như vậy có nghĩa là nhân tố chiều sâu đóng góp vào việc phát triển bền vững còn chưa tập trung chú trọng; một đồng vốn do đầu tư trang bị máy móc thu được bao nhiêu đồng doanh thu còn nhỏ. Tuy nhiên, ta cũng nhận thấy công ty cũng đã có nhiều nỗ lực để cải thiện con số này. Bằng chứng được thể hiện qua sự đóng góp của việc tăng trưởng hiệu suất sử dụng vốn cố định vào sự tăng chung của doanh thu để có những thay đổi theo chiều hướng tích cực. Như vậy, trong thời gian sắp tới công ty cần tăng cường nhiều hơn các biện pháp nhằm tăng hiệu suất sử dụng vốn cố định của mình để đạt hiệu quả lớn hơn. 2.2. 2.Tình hình sử dụng nguồn vốn lưu động ảnh hưởng đến biến động của doanh thu: Nguồn vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh vốn lưu động luôn vận động không ngừng, thường xuyên trải qua các giai đoạn của quá trình tái sản xuất (dự trữ - sản xuất - tiêu thụ). Đẩy mạnh hiệu quả sử dụng vốn lưu động bằng việc tăng nhanh tốc độ lưu chuyển của nó sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh nói chung. Để đánh giá được trong giai đoạn 2000 - 2005 vừa qua, hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn lưu động như thế nào đối với công ty, ta xem xét qua bảng số liệu sau: Bảng 13: Hiệu quả việc sử dụng nguồn vốn lưu động Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Doanh thu (Tr.đồng) 112.170 130.378 160.239 203.085 198.750 236.578 Vốn lưu động (Tr.đồng0 18.988 21.913 26.706 33.292 32.056 36.965 Sức sản xuất của vốn lưu động 5,907 5,949 6,000 6,100 6,200 6,400 Sức sản xuất của vốn lưu động = Qua bảng số liệu tính toán cho thấy, sức sản xuất của vốn lưu động đều tăng qua từng năm. Với một đồng vốn lưu động bỏ vào đầu tư cho sản xuất thì càng ngày càng thu được nhiều doanh thu hơn cho doanh nghiệp.Như vậy tình hình sử dụng vốn lưu động của công ty có thể được đánh giá là đem lại hiệu quả cao. Để có được những kết quả khả quan như trên đã đòi hỏi công ty phải thực hiện nhiều biện pháp dựa trên cơ cấu nên nguồn vốn cố định như hạn chế, giảm đến mức tối đa lượng nguyên vật liệu; công cụ, thành phẩm; hàng hóa tồn kho; nhanh chóng thu hồi doanh thu từ lượng hàng đem gửi bán; giảm dần các chi phí sản xuất kinh doanh dở dang; tối đa các tài sản lưu động; giảm dần chi phí sự nghiệp; tăng nhanh lượng tiền của công ty bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi ngân hàng… Tóm lại, qua các chỉ tiêu đã tính toán ở trên cho thấy, công ty may Thăng Long đã sử dụng rất hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh của mình trong giai đoạn 2000 -2005. Từ việc tăng hiệu quả sử dụng trong từng nguồn vốn cố định, nguồn vốn lưu động đã làm cho tổng nguồn vốn kinh doanh của công ty không ngừng tăng lên qua từng năm. Tốc độ tăng tổng nguồn vốn là phù hợp với những kết quả khả quan mà việc đầu tư đem lại. 2.3.Chính sách tiền lương ảnh hưởng đến biến động của doanh thu: Tiền lương là một phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất sự tác động của tiền lương đến kết quả hoạt động kinh doanh là tương đối lớn. Một mặt, tiền lương là động lực mạnh mẽ tác động trực tiếp lên người lao động, thúc đẩy họ tăng năng suất từ đó thúc đẩy sản xuất nói chung phát triển, ngược lại tiền lương không hợp lý sẽ có tác động xấu, làm kìm hãm sự phát triển, kìm hãm sức sản xuất. Mặt khác, trong vấn đề quản lý của doanh nghiệp, nội dung quản lý phức tạp và khó khăn nhất chính là quản lý con người mà nguyên nhân sâu xa của sự khó khăn đó chính là việc phân phối sao cho công bằng. Điều này đặt ra một vấn đề hết sức quan trọng là làm sao để có được một chế độ ._.ợi giải phápnhuận trước hết cần phải cải thiện tình hình sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất của mình , thực hiện tái đầu tư sản xuất; tăng cường nguồn vốn kinh doanh; thu hút thêm lực lượng lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động.Giải quyết tốt những vấn đề mang tính kinh tế cũng như những vấn đề mang tính xã hội. Vì vậy, cải thiện tình hình sản xuất sao cho tốt hơn, nâng cao được hiệu quả kinh doanh là mục tiêu phấn đấu, phương hướng đề ra cần đạt được của tất cả các doanh nghiệp nói chung mà công ty may Thăng Long cũng không thể nằm ngoài mục tiêu đó. Dựa trên việc tiến hành phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ở trên dựa trên một vài chỉ tiêu cơ bản và tiêu biểu nhất trong thời gian vừa qua (2000 - 2005) em xin có một số đề xuất giải pháp góp phần cải thiện tích cực hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần may Thăng Long. * Biện pháp thứ nhất: Sử dụng tốt nhất nguồn nhân lực lao động hiện có Mọi sự thành công hay thất bại đều phụ thuộc phần lớn vào con người. Hiện nay, công ty đã có đội ngũ CBCNV khá năng động cùng với nhiều ưu điểm khác, nhưng để sử dụng có hiệu quả hơn lực lượng lao động này công ty cần phải thực hiện. 1. Thực hiện tốt ngay từ khâu tiến hành công tác tuyển dụng Như đã đề cập ở phần phân tích, lao động là một trong ba yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh; ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến hiệu quả mang lại của sản xuất. Vì vậy, một điều tất yếu , nếu sở hữu được một lực lượng lao động có chất lượng chuyên môn tốt (cả lao động trực tiếp cũng như công nhân gián tiếp) sẽ giúp công ty gặp rất nhiều thuận lợi trong quá trình hoạt động của mình. Nhưng để có được điều này đòi hỏi ngay từ đầu công ty cần phải chú trọng đến công tác tuyển dụng lao động. Do đó công tác này đóng 1 vai trò rất quan trọng. Việc trước tiên mà công tác tuyển dụng đem lại cho công ty đó là sẽ giúp công ty giải quyết nhu cầu về lực lượng làm việc. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty có rất nhiều giai đoạn, công đoạn khác nhau đòi hỏi lượng lao động ở đa lĩnh vực, vì vậy cần phải tuyển dụng từng đối tượng lao động phù hợp với từng công việc đặt ra, tránh việc tuyển dụng những nhân viên không đủ năng lực, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động chung của cả một tập thể. Nó có thể dẫn đến rất nhiều hậu quả xấu như: gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ; gây xáo trộn trong đơn vị; giảm tiến độ hoàn thành công việc theo thời hạn yêu cầu. Công tác tuyển chọn đòi hỏi những người đứng lên xây dựng phản ánh tuyển dụng cần phải bao quát được rất nhiều nội dung cơ bản sau: + Với lao động trực tiếp: phải trải qua kiểm tra trình độ chuyên môn, tay nghề ở mức độ nào để có sự phân công vào từng công đoạn sản xuất cho hợp lý. Với những lao động chưa có tay nghề thì cần phải tiến hành đào tạo nghề bằng cách mở các lớp bồi dưỡng, hướng dẫn. + Với lao động gián tiếp: kiểm tra bằng cấp, năng lực của từng lao động. Với đối tượng này quá trình kiểm tra trình độ làm việc phải qua một thời gian thử việc, thông thường kéo dài từ 1 - 3 tháng. Khi tuyển chọn cần sử dụng nhiều các phương pháp khác nhau như: phỏng vấn trực tiếp, trắc nghiệm.. Yêu cầu tiếp theo với việc tuyển lao động đó là lao động cần phải có đầy đủ các yêu cầu về sức khỏe, tâm lý. Bởi đây là mọt doanh nghiệp sản xuất vì vậy áp lực công việc là rất lớn. Đôi khi do yêu cầu của khách hàng mà đòi hỏi phải tăng ca, tăng giờ làm việc, sản xuất vì vậy người lao động ngoài kiến thức phục vụ trực tiếp cho sản xuất cần phải trang bị cho mình một sức khỏe tốt. Thêm vào đó đối tượng lao động cần phải có lòng hăng say,nhiệt tình với công việc được giao mới đem lại hiệu quả hoạt động lớn. Trong quá trình tuyển dụng lao động yêu cầu phải khách quan trung thực, không tiến hành theo cảm tình riêng, theo những động cơ không chân chính bên ngoài. Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản cần được thực hiện đúng và đầy đủ khi tổ chức tuyển dụng lao động 2. Đào tạo, phát triển nâng cao trình độ chuyên môn của lao động Sau quá trình tuyển dụng lao động vào làm việc, ngoài những yêu cầu ban đầu đã đáp ứng được thì trong quá trình sản xuất kinh doanh để nảy sinh ra rất nhiều các vấn đề mới đòi hỏi người lao động phải không ngừng tự hoàn thiện mình tốt hơn để có thể bắt nhịp với công việc như: việc thay đổi máy móc, trang thiết bị sản xuất; áp dụng những công nghệ mới nhất; phương thức làm việc cũng như thay đổi nhằm đạt được mục tiêu hiệu quả nhất. Chính vì vậy mà những lao động này không tự mình học hỏi, phấn đấu vươn lên sẽ tự đào thải mình ra khỏi guồng máy hoạt động của công ty. Dựa trên tình hình thực tế của công ty hiện nay, công tác đào tạo, nâng cao chuyên môn chủ yếu tập trung vào : + Đội ngũ cán bộ quản lý: Đây là đội ngũ cán bộ quan trọng, nắm trong tay vận mệnh của cả công ty hiện tại cũng như trong tương lai. Việc đào tạo lại cán bộ quản lý phải luôn đổi mới phù hợp với trình độ và sự phát triển của công ty. Cán bộ quản lý không chỉ đơn thuần có kinh nghiệm sâu sắc về vấn đề chuyên môn mà còn đòi hỏi phải có trình độ hiểu biết về công ty tổ chức giao tiếp tâm lý cá nhân. + Đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng; Đội ngũ này hiện nay khá đông đảo. Việc sản phẩm của công ty được đưa đến tay người tiêu dùng như thế nào phụ thuộc rất lớn vào vai trò của đội ngũ này. Họ cần phải luôn nắm những được các ưu, nhược điểm của từng loại mặt hàng để có thể giới thiệu với từng khách hàng.Tư vấn cho khách hàng biết dựa vào đặc điểm nào của mình mà có các lựa chọn sản phẩm khác nhau cho phù hợp. + Cán bộ kỹ thuật với đặc tính của ngành nghề kinh doanh sản phẩm may mặc ngoài yêu cầu về chất lượng còn đòi hỏi rất lớn vào kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm. ấn tượng đầu tiên của một khách hàng đi mua sản phẩm may mặc đó là kiểu dáng, màu sắc của mặt hàng đó. Vì vậy cần phải nâng cao trình độ của đội ngũ thiết kế thời trang luôn nắm bắt được nhu cầu của thị trường luôn biến động không ngừng theo thời gian. + Nâng cao trình độ tay nghề của công nhân: đây là yếu tố quan trọng có tính sống còn để tạo nên chất lượng sản phẩm. Với những người thợ trình độ cao, các sản phẩm được sản xuất ra sẽ được đảm bảo đầy đủ về chất lượng cùng tiến bộ của công việc. 3. Thực hiện tốt công tác phân công và hiệp tác lao động Với những lao động được đào tạo và tuyển dụng có tay nghề cũng như trình độ chuyên môn rất khác nhau vì vậy việc phân công họ vào những công việc cụ thể nào cho đạt hiệu quả cao nhất là một bài toán khó với các doanh nghiệp. Nếu đúng công việc phù hợp với chuyên môn, họ sẽ phát huy được hết các năng lực vốn có đem lại hiệu quả lao động tối đa, nếu phân công không hợp lý sẽ gây ra lãng phí lao động. Ngoài ra chuyên môn hóa lao động và công cụ lao động cho phép người lao động có thể thực hiện được một loạt các bước công việc. Do giới hạn của phạm vi hoạt động của công nhân, công nhân có thể nhanh chóng nắm bắt được kỹ thuật, kỹ năng; kỹ xảo làm việc, giảm giờ làm; tăng năng suất ; tận dụng được tối đa tiềm lực của mỗi lao động. Quá trình sản xuất sản phẩm của công ty may Thăng Long trải qua rất nhiều quy trình, công đoạn khác nhau từ thiết kế, lên vải, cắt, may, thêu… với hàng trăm các loại mẫu mã sản phẩm khác nhau vì vậy vấn đề phân công lao động vào công đoạn nào, mức độ phức tạp ra sao là yêu cầu quan trọng đối với các nhà quản lý lao động. Ngoài ra, để bắt nhịp được sự cân đối giữa các khâu, các bộ phận trong quá trình sản xuất công ty cần phải lên những phương án nhằm liên kết các hoạt động của từng cá nhân người lao động cũng như các bộ phận của công ty nhằm phục vụ một mục tiêu quan trọng nhất là tăng doanh thu, tối đa hoá lợi nhuận. 4. Tạo động lực trong lực lượng lao động Kết quả sản xuất kinh doanh muốn được không ngừng tăng lên phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố lao động. Như đã đánh giá, đây là yếu tố tiềm năng lớn, nếu biết cách khai thác tốt sẽ tận dụng được hết khả năng của yếu tố này. Với yêu cầu sản xuất của mình đòi hỏi nhiều lúc phải làm việc với cường độ rất lớn dễ gây thái độ chán nản với người lao động. Vì vậy công ty cần phải tạo ra các động lực hữu ích để kích ứng nguồn lực này. Để làm được vấn đề này trước mắt, lãnh đạo công ty cần phải nắm rõ được các yếu tố tạo nên động lực cho lao động: bao gồm cả yếu tố thuộc về con người cũng như yếu tố thuộc về môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó xây dựng nên những nội dung cần thiết của công việc. + Xác định được rõ chức năng, nhiệm vụ của từng lao động cũng như mục tiêu hoạt động tổ chức; hướng dẫn rõ cho người lao động biết mục tiêu này. +Với những công việc được giao cụ thể cho từng lao động sau khi hoàn thành cần có sự đánh giá mức độ cả ở mặt: chất lượng cùng số lượng sản phẩm được hoàn thành. + Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất, để lao động đạt được hiệu quả lớn nhất yêu cầu các doanh nghiệp phải tạo mọi điều kiện để giúp người lao động: phân công lao động hợp lý vào đúng từng vị trí, công đoạn sản xuất kinh doanh mức độ khó khăn của các công việc phải phù hợp với trình độ chuyên môn của lao động phải cung cấp đầy đủ các điều kiện làm việc cho người lao động, đảm bảo an toàn trong toàn bộ quá trình lao động thông qua việc mua BHXH, BHYT,…. loại trừ những trở ngại cho việc thực hiện công việc, không gây áp lực tâm lý… +Tiến hành các biện pháp kích thích lao động qua các yếu tố vật chất cũng như tinh thần thể hiện rõ qua chế độ lương, thưởng, phạt… ã Có thể nói trong các biện pháp thì việc xây dựng một bảng lương hợp lý là điều kích thích đến người lao động nhiều nhất. Mục tiêu của người lao động là thu nhập, có cải thiện được thu nhập mới giúp họ hăng say làm việc hơn, hết sức mình phục vụ vì công ty xây dựng một chính sách và chế độ lương phù hợp với đặc điểm sản xuất của công ty. Trong lĩnh vực này, cần phải xác định rõ mức lương tối thiểu, hệ thống thang bảng lương áp dụng cho từng công việc. ã Bên cạnh đó còn phải có chế độ tiền thưởng,phạt. Tiền thưởng là một trong những biện pháp khuyến khích vật chất với người lao động nhằm thu thu sự quan tâm cua họ với kết quả sản xuất và công tác. Tiền phạt là hình thức đánh vào từng cá nhân khi mắc phải lỗi chất lượng. Cụ thể công ty thực hiện mức thưởng, phạt như sau: Thương giảm tỉ lệ hàng loại 2,3, phế phẩm thưởng do nâng cao chất lượng sản phẩm loại A; tăng năng suất, hoàn thành công việc được giao đúng và trước tiến độ. Đối với hình thức phạt công ty tiến hành kiểm tra số lượng và chất lượng của từng dây chuyền sản xuất. Dây chuyền sau ngoại việc hoàn thiện nốt phần công việc của mình, còn phải kiểm tra lỗi kỹ thuật của dây chuyền trước, nếu không phát hiện ra thì bản thân phải chịu trách nhiệm đối với lỗi đó. ã Bên cạnh đó công ty còn tiến hành nhiều biện pháp khen thưởng về mặt tinh thần cho người lao động: như đảm bảo điều kiện sản xuất tốt hơn, kiểm tra sức khỏe định kỳ cho người lao động, đánh giá đúng khả năng, thực lực của từng lao động để có sự kịp thời như: Tuyên dương trước công ty gửi thư khen… phát hiện ra những lao động có năng lực lớn để sớm có những chính sách đào tạo, bồi dưỡng họ để họ phát huy hết mọi khả năng của mình. Biện pháp 2: Thu sử dụng tốt nguồn vốn kinh doanh Vốn là yếu tố quyết định đến quy mô của doanh nghiệp. Nguồn vốn kinh doanh càng dồi dào khả năng phát triển của công ty càng được nâng cao. Vì vậy biện pháp thu hút tăng cường đầu tư vốn vào công ty, quản lý và sử dụng nó như thế nào cho đạt hiệu quả lớn nhất là một vấn đề vô cùng quan trọng. 1. Huy động nguồn vốn - Trước tiên doanh nghiệp cần xác định được rõ nhu cầu vốn tối thiểu là bao nhiêu cho hoạt động sản xuất kinh doanh cần bao nhiêu vốn để đần tư vào trang thiết bị máy móc, cần bao nhiêu vốn cho mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, cần bao nhiêu vốn để trả người lao động… từ đó có biện pháp kịp thời nhằm tránh tình trạng thiếu vốn ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất hay thừa vốn, để vốn "chết" gây lãng phí trong khi nguồn vốn của công ty còn dựa chủ yếu vào đi vay. - Dựa vào nhu cầu vốn đã xác định ở trên tiến hành hoạt động huy động vốn từ các đối tượng kinh tế khác nhau: + Phát huy ưu thế nội lực công ty đứng ra vay vốn từ đội ngũ CBCNV của mình. Tuy nhiên, cũng cần xác định rõ đây là nguồn vốn vay ngắn hạn, số lượng vốn không lớn lắm vì vậy chưa thể đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu vay ngắn hạn, số lượng vốn không lớn lắm vì vậy chưa thể đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu về vốn của công ty. Do vậy, công ty cần xây dựng các biện pháp huy động vốn khác. + Công ty có thể dựa vào uy tín lâu năm của mình trên thương trường có thể vay vốn từ các ngân hàng và ngoài nước với lãi suất ưu đãi. Tiến hành liên doanh liên kết để thu hút vốn đầu tư từ các doanh nghiệp khác, chủ yếu là các doanh nghiệp của nước ngoài. + Từ khi tiến hành cổ phần hóa từ năm 2004, đây sẽ là điều kiện tốt để doanh nghiệp tiến hành huy động vốn qua phương thức tài chính phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Đây chính là cơ hội để công ty có thể huy động vón lớn và dài hạn đáp ứng các nhu cầu đối với nguồn vốn sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu đều có những mặt lợi và mặt hại riêng. Công ty không thể tùy tiện phát hành với số lượng bao nhiêu cũng được còn có những đánh giá phân tích cụ thể với hoạt động này, phải phù hợp với trình độ phát triển thị trường chứng khoán của nước ta đang ngày một sôi động lên Ngoài các phương thức đã nêu ở trên, còn có một cách huy động vốn khác đó là thuê tài chính hay còn gọi là thuê vốn. Tuy nhiên, phương thức này còn được ít sử dụng ở Việt Nam nói chung cũng như ở công ty may Thăng Long nói riêng. Nhưng đây sẽ là biện pháp tương đối quan trọng để công ty sử dụng trong thời gian sắp tới để đảm bảo cho việc mở rộng quy mô sản xuất đảm bỏa nguồn trung và dài hạn. 2. Sử dụng vốn - Trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động được công ty đứng trước bài toán làm sao để sử dụng được nguồn vốn này có hiệu quả nhất.Việc sử dụng này phải đảm bảo được đầy đủ các yêu cầu tối thiểu như: đảm bảo cung ứng đầy đủ vốn cho sản xuất với chi phí sử dụng vốn thấp nhất, hạn chế rủi ro tài chính có thể xảy ra, tạo cho công ty một cơ cấu vón linh hoạt tối ưu. - Công ty cần phải chủ động xây dựng một bản kế hoạch tình hình các dự án định về việc phân phối và sử dụng vốn có được sao cho hiệu quả nhất, cụ thể: đầu tư vào thời điểm nào; đối tượng nào đang cần được đầu tư, đầu tư với tỷ lệ bao nhiêu; đầu tư một đồng vốn đem lại được bao nhiêu đồng doanh thu, có những thời điểm chủ yếu đầu tư vào TSCĐ nhưng có những lúc phải tập trung vào đầu tư nguyên vật liệu…. Vậy yêu cầu bảng kế hoạch phân phối và sử dụng vốn càng chi tiết, càng cụ thể càng đạt hiệu quả tốt. - Trong quá trình thực tế hoạt động, có thể phát sinh những yêu cầu mới trong hoạt động tài chính vì vậy phải có sự chỉnh đổi kịp thời để phù hợp với hiện tại để tránh gây những khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh do nguyên nhân thiếu vốn và thừa vốn, lãng phí vốn gây nên. - Việc sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu quả lớn nhất là mong mỏi của tất cả các doanh nghiệp. Vì vậy để có hiệu quả tối đa đó, công ty cần phải có những tính toán kỹ lưỡng, chặt chẽ, cẩn thận ngay từ đầu khi mới hình thành nên dự định phân phối và sử dụng vốn. 3. Bảo toàn và phát triển nguồn vốn 3.1. Nguồn vốn cố định Nguồn vốn cố định chủ yếu tập trung vào lượng TSCĐ (chiếm > 59%). Đảm bảo cho nguồn vốn cố định suy ra cho cùng chính là đảm bảo cho TSCĐ không bị lạc hậu; tránh những hao mòn lớn, phải tính được mức độ khấu hao nhỏ nhất để TSCĐ đo không bị loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh trước thời hạn dự tính. - Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, phải lên kế hoạch bảo dưỡng, tu sửa định kỳ cho máy móc,nâng cao năng lực hoạt động của máy. Nhưng cũng không thể chỉ vì thời hạn giao hàng gấp mà để máy hoạt động quá công suất gây hỏng hóc . -Tiến hành hoạt động lại giá trị TSCĐ trong kỳ. - Xác định cơ cấu vốn cố định và tỷ trọng của từng loại TSCĐ cho phù hợp với mục tiêu và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. - Tiến hành trích khấu hao TSCĐ theo giá hiện hành chức theo giá bán ban đầu của TSCĐ. TSCĐ được đầu tư từ nguồn vốn nào thì phải được khấu hao theo nguồn vốn đó. - Xác định một tỷ lệ khấu hao hợp lý vừa đảm bảo tiêu thụ hàng hóa có lợi vừa thực hiện tốt quá trình cải tiến kỹ thuật có thể kéo dài thời gian làm việc của TSCĐ qua phương thức bảo dưỡng nhưng cũng phải xác định được cụ thể từng loại TSCĐ nào sẽ phục vụ trong thời gian bao nhiêu lâu tránh việc thời hạn sử dụng đã hết mà vẫn tiến hành sản xuất trên phương tiện máy móc cũ sẽ làm ảnh hưởng lớn tới năng suất lao động. - Hiện nay, qua những tính toán của chương I ta thấy hiệu suất sử dụng TSCĐ của công ty còn rất thấp ( < 50%) gây lãng phí vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải xây dựng phương án sản xuất làm sao đẩy mạnh công suất của hoạt động TSCĐ lên cao hơn.Việc tăng công suất hay làm tăng doanh thu; lợi nhuận thu được do một đồng vốn đầu tư vào TSCĐ, nhờ vậy làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm bằng cách giảm thiểu giá thành, thu hút khách hàng. 3.2. Nguồn vốn lưu động: Việc tiến hành bảo toàn và phát triển nguồn vốn lưu động phải được dựa trên cơ cấu tạo nguồn vốn. Cũng như nguồn vốn kinh doanh nói chung của doanh nghiệp, cần phải xác định được nguồn vốn lưu động cần tối thiểu là bao nhiêu. Nguồn vốn này giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, không bị đứt đoạn nó cần tránh việc thiếu vốn hay sử dụng vốn… - Xác định cơ cấu vốn lưu động hợp lý: lượng tiền cần phải có là bao nhiêu, lượng hàng dành cho dự trữ mức độ thế nào là đủ, tránh tình trạng dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn hoặc dự trữ quá ít khi cần số lượng lớn lại không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ. -Cần phải thúc đẩy nhanh vòng quanh của vốn bằng cách hạn chế các loại hàng hóa kém phẩm chất,kém chất lượng tồn kho, hàng hóa chậm lưu chuyển, vừa gây mất thời gian và tiền của vào việc bảo vệ, bảo quản sản phẩm,vừa gây lãng phí nguồn vốn lưu động. - Hàng tháng, định kỳ kiểm tra, đánh giá, phân tích lại lượng vốn lưu động qua nhiều biện pháp khác nhau như: kiểm kê vật tư, nguyên vật liệu, thành phẩm thừa vốn hiện có, vốn cần phải thu; đối chiếu, so sánh sổ sách với các tháng, các quý, trước đó. - Cần có sự tính toán, cân nhắc, lựa chọn kỹ xem nên đầu tư vốn lưu động vào lúc nào, vào khâu nào, vào đối tượng nào thì có lợi nhất, tiết kiệm nhất, đem lại hiệu quả cao nhất. - Cần phải đề phòng trường hợp trên thị trường có biến động do nền kinh tế gây ra như: lạm phát… vì vậy lúc đó công ty sẽ phải tiến hành trích một phần lợi nhuận của mình do lạm phát gây ra. Biện pháp 3: Giảm chi phí sản xuất nhằm tăng doanh thu, tối đa hóa lợi nhuận Để giảm được chi phí trên một đơn vị sản phẩm tạo ra trước tiên phải nâng cao hiệu quả hoạt động của nguồn nhân lực bằng cách nâng cao năng suất lao động. Đây chính là cốt lõi quan trọng nhất để tiết kiệm chi phí tiền lương, tiền công của công nhân sản xuất như lao động quản lý nhờ đó giảm giá thành sản phẩm, thu được lợi nhuận lớn. Đối với công tác này yêu cầu phải xây dựng cơ cấu lao động tối ưu nhất, tổ chức lao động khoa học, phù hợp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh. Tiến hành xây dựng khi bảng kế hoạch về công việc, thời gian làm việc, số lượng công việc hợp lý. Bố trí lại cơ cấu tổ chức lao động như việc ngừng hoạt động sản xuất hoạt động của công ty tại Hà Nam do hoạt động không hiệu quả là một phương án chính xác nhằm đem lại hiệu quả sản xuất kinh doanh lớn nhất cho công ty. - Tiếp theo của việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm đó là việc giảm chi phí khi sử dụng nguyên vật liệu chính phụ trong quá trình sản xuất kinh doanh; tiết kiệm năng lượng, cải tiến quy trình sản xuất. Không chỉ bằng thu mua nguồn nguyên liệu rẻ do trong nước sản xuất mà trong quá trình sử dụng cần có những tính toán cụ thể sao cho tiết kiệm tối đa nhất nguồn nguyên vật liệu mà vẫn đảm bảo chất lượng của sản phẩm như: cải tiến kết cấu sản phẩm, cải tiến phương pháp, công nghệ cắt vải, sử dụng các nguyên liệu thay thế nguyên vật liệu nhập khẩu đắt tiền, triệt để tập trung vào việc tăng cường sử dụng vật liệu thay thế, tận dụng các phế liệu phế phẩm. Bên cạnh đó, trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình công ty cũng có những nguyên vật liệu tự sản xuất được mà không cần thu mua ở bên ngoài. - Trong thời gian vừa qua, công ty phải tiến hành đi vay vốn với khối lượng lớn vì vậy mà hàng năm công ty phải trích một phần lợi nhuận ra để trả lãi của mình. Tất cả tiền lãi này đều đánh vào giá thành sản phẩm sản xuất ra vì vậy làm giá thành sản phẩm lớn lên rất nhiều, gây khó cạnh tranh. Vì vậy trong thời gian sắp tới công ty cần phải có nhiều hoạt động làm giảm đến mức tối đa nguồn vốn vay và tăng cường nguồn vốn sở hữu. Biện pháp 4: Xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường: a.Mở rộng ảnh hưởng của công ty trên thị trường trong và ngoài nước Việc xây dựng cho mình một thương hiệu hay hình ảnh riêng là một vấn đề khá quan trọng, nó tạo ra sự quen thuộc cho khách hàng đối với các sản phẩm của công ty. Thực tế đã chỉ ra rằng những công ty có tiếng trên thế giới rất coi trọng vấn đề này.Hàng năm những công ty này phải bỏ ra hàng trăm triệu USD cho việc quảng cáo và giới thiệu sản phẩm của mình đến với công chúng.Điều này khiến khách hàng có thể tin tưởng vào bất kỳ các cửa hàng hày đại lí nào.Đối với Việt nam chúng ta các doanh nghiệp còn coi nhẹ vấn đề này. Công ty may Thăng Long cũng nằm trong số đó.Thực chất sản phẩm của công ty có tiếng trên thị trường là do đây là một trong những công ty được thành lập lâu đời của ngành may mặc còn những loại sản phẩm nào của công ty sản xuất ra, mẫu mã ra sao, giá thành thế nào thì nhiều người còn chưa được biết đến.Vì vậy, thiết nghĩ trong thời gian tới công ty nên chú trọng hơn đến việc nâng cao uy tín của mình bằng phương thức xây dựng cho mình một hình ảnh riêng. Để làm được như vậy đòi hỏi trứơc hết công ty phải tăng cường quảng cáo sản phẩm của mình trên các thông tin đại chúng, tham gia các buổi tọa đàm giới thiệu sản phẩm, các hội chợ triển lãm hàng tiêu dùng trong nước có chất lượng cao. Và đặc biệt hơn cả là công ty phải xây dựng được cho mình một mạng lưới cung cấp dịch vụ rộng lớn. Hiện nay mạng lưới tiêu thụ này của công ty còn gặp nhiều khó khăn.Công ty tiến hành phân phối sản phẩm thông qua kho,cửa hàng và đại lí được công ty quản lí trực tiêp bởi bộ phận kế toán tiêu thụ sản phẩm nội địa và bộ phận quản lí thị trường của phòng kinh doanh.Với số đại lí và cửa hàng chưa nhiều thì công việc quản lí còn khá đơn giản nhưng trong thời gian tới khi hệ thống này được mở rộng thì cách quản lí trực tiếp như thế sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cao cho công ty.Trong thời gian tới công ty cần thay đổi nhiều kênh phân phối, sử dụng những kênh phân phối thích hợp. Có thể học hỏi mạng lưới phân phối giao dịch này từ những nước tiên tiến trên thế giới thì có thể nhận ra rằng các công ty này đều tiến hành phân cấp đại lí thành các đại lí cấp 1 và cấp 2 trong mạng lưới tiêu thụ của mình nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.Công ty cổ phần may Thăng Long là một công ty lớn trong ngành may mặc của Việt Nam, thiết nghĩ trong thời gian tới công ty nên tiến hành xây dựng các kênh phân phối thông quacác trung gian như các đại lí ,bán buôn, bán lẻ đặc biệt là các đại lí cấp1 và cấp 2 để họat động tiêu thụ của mình có nhiều thuận lợi hơn. Bằng phương thức này không những công ty có thể xâm nhập được vào thị trường trong nước trên khắp mọi miền mà còn xâm nhập được vào nhiều thị trừong mới trên thế giới. Thực hiện các hoạt động quảng cáo,xúc tiến bán hàng.Quảng cáo có vai trò to lớn trong họat động kinh doanh thương mại, là hình thức thông tin cho khách hàng để đánh thức nhu cầu của họ,tăng giá trị sản phẩm bằng cách tạo ra hình ảnh đáng chú í, giúp khách hàng phân biệt được sản phẩm của công ty với các sản phẩm của những công ty khác.Hiện nay công tác tiếp thị của công ty còn yếu chủ yếu là do đội ngũ cán bộ bán hàng còn thiếu kinh nghiệm.Vì vậy trong những năm tiếp theo công ty cần xây dựng các chiến lược mới cho phù hợp.Thực hiện các biện pháp như phát tờ rơi, quảng cáo trên phương tiện thôn gtin đại chúng…Tuy nhiên khi tiến hành công việc này cần phải xác định quy mô rõ ràng , chi phí cho hoạt động này sẽ là bao nhiêu để tránh tình trạng tốn kém không cần thiết. Trong việc tiêu thụ sản phẩm thì giá cả là yếu tố rất quan trọng, cần giới thiệu cho ngừơi mua thấy rõ được lợi thế về gía cả của công ty so với những công ty khác. Như vậy trong quá trình bán hàng cũng nên sử dụng những kỹ thuật bán hàng cơ bản như:tổ chức khuyến mại, các hình thức gửi quà biếu… Rõ ràng giá cả sản phẩm luôn là một yếu tố hấp dẫn đánh vào người tiêu dùng, vì vậy việc sử dụng đòn bẩy này như thế nào để đem lại hiệu quả lớn là thách thức đối với nhiều doanh nghiêp. Đặc biệt điều này dễ nhận thấy đối với các đối tác người nứớc ngoài là những đối tác nhạy cảm về giá cả. Họ tìm thấy ở thị trường châu A nói chung là lực lượng nhân công rất rẻ , nguyên vật liệu dồi dào, giá cả thấp, gây hấp dẫn cho người mua.Vì vậy công ty luôn phải xây dựng phương hướng sản xuất đặt giá thành thấp hơn những đối thủ cạnh tranh nhằm theo đuổi mục tiêu nhanh chóng giành được tỷ phần thị trường lớn. Những áp dụng của chiến lược này có tác dụng kéo dài tuổi thọ của sản phẩm.Khi tỷ phần thị trường tăng lênnhanh chóng có thể khai thác”hiệu quả theo quy mô”.Khi chi phí giảm có thể tiếp tục giảm mà vẫn có thể thu được lợi nhuận.Chiến lược này đảm bảo thu hút được lượng khách hàng lớn, tăng quy mô sản xuất, giá hạ mà không thu hút thêm được đối thủ cạnh tranh hiện có và tiềm ẩn.Còn đối với thành phần khách hàng trong nước thì công ty cần phải tiến hành nghiên cứu rõ nhu cầu thị trường bởi khách hàng trong nước còn nhiều người có tư tưởng thích hàng ngọai hơn hàng nội địa do mặt hàng của công ty còn chất lượng thấp và mẫu mã chưa phù hợp.Do đó trong thời gian tới công ty cần chú trọng hơn đến kiểu dáng và chất lượng sản phẩm.Để làm được điều này công ty cần mở rộng cac hoạt động dịch vụ như một phương tiện cạnh tranh hữu hiêu.Trên cơ sở phân chia khách hàng ra thành từng nhóm khác nhau, thông qua việc phân đọan thị trường nhằm hướng mọi hoạt động của công ty vào việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.Việc phân loại khách hàng cũng giúp cho công ty hiểu rõ hơn các sản phẩm nào sẽ phuc vụ tốt cho thị trừong nào, cho thành phần kinh tế xã hội nào. Chẳng hạn như đối với giới trẻ, đây là một trong những lượng khách hang quan trọng có lượng tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất, họ có những nhu cầu kiểu loại quần áo trẻ trung, thuận tiên, thời trang, gọn nhẹ…Với khách hàng là người hoạt động công sở thì yêu cầu lịch sự mà trang trọng lại được đặt lên hàng đâu, hay như tầng lớp trung niên thì yêu cầu sản phẩm giản dị nhưng phải có độ bền cao…Những đặc điểm như trên tưởng chừng như đơn giản nhưng để đạt được sản xuất ra các sản phẩm có đầy đủ những tính chất như vậy đòi hỏi nhà sản xuất phải nghiên cứu rất kỹ thị hiếu người tiêu dùng thì mới đạt được kết quả lớn theo đúngphương châm”Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. IV. Một số kiến nghị với nhà nước: Để hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần may Thăng Long sẽ có nhiều thuận lợi và phát triển vững mạnh trong thời gian tới thì Nhà nước đóng một vai trò rất quan trọng. Nhà nước nên bằng những chính sách ban hành của mình để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa và đảm bảo sự cạnh tranh công bằng trên thị trùờng tiêu thụ hàng may mặc. Nhà nước nên thông tin thường xuyên về sự thay đổi đường lối chính sách của mình, những biến động về kinh tế,xu hướng phát triển trong tương lai… để doanh nghiệp có đủ thời gian để điều chỉnh các chiến lược và kế hoạch phát triển của mình. Hiện nay trong biểu thuế xuất nhập khẩu của Nhà nước còn nhiều bất cập đến nay qua nhiều năm vẫn chưa đựơc sửa đổi gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp nhất là đối với những mặt hàng trang thiết bị đầu tư máy móc hay nguyên vật liệu ngoại nhập Việc phân bổ hạn ngạch may của Nhà nước còn nhiều bất hợp lí gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiêp.Nhà nước nên xúc tiến trong việc tạo tiếng nói chung cho các doanh nghiệp trong nước, tránh tạo ra những căng thẳng gay gắt giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, có làm đựơc như vâyh thì các công ty may trong nước mới có điều kiện cạnh tranh được với các công ty nước ngoài. Đối với doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn trong công tác vay vốn, tồn tại nhiều thủ tục phiền hà làm ảnh hưởng đến tiến độ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước hiện nay đang áp dụng rất nhiều biện pháp ưu đãi với các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, điều này tác động xấu đến tình hình cạnh tranh bởi đối với mặt hàng nhập khẩu trong khi các doanh nghiệp trong nước phải chịu với mức thuế 20% thì các doanh nghiệp liên doanh lại đựợc hoàn toàn miễn thuế. Việc áp dụng chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp nước ngoài là cần thiết những thiết nghĩ Nhà nước cũng cần có những chính sách ưu đãi hơn với các doanh nghiệp trong nước trong viêc giảm thuế hàng nhập khẩu phục vụ cho hoạt động sản xuất xuất khẩu và những mặt hàng mà Nhà nước khuyến khích đẩy mạnh tiêu dùng nhu cầu trong nước Nhà nước cần đảm bảo việc thi hành pháp luật nghiêm minh, làm tốt công tác chống trốn thuế và buôn lậu, gian lận thương mại để đảm bảo họat động cạnh tranh là công bằng, trung thực.Hiện nay có một số doanh nghiệp dệt may hoạt động có hiệu quả do tự cung ứng được đầu vào nên có lợi thế hơn các doanh nghiệp chuyên may khác. Kết luận Trong điều kiện mở rộng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp của Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc để khẳng định chính mình. Những thuận lợi cũng như những khó khăn mà họ gặp phải trên con đường phát triển như thế nào. Đâu là những thách thức trong thời gian tới họ cần phải vượt qua, đâu là những cơ hội mà họ cần biết nắm bắt, tất cả đã được phần nào thể hiện qua bài phân tích về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần may Thăng Long giai đoạn 2000 - 2005. Dựa vào những hiểu biết của mình em đã tiến hành phân tích hoạt động của công ty dựa vào các kiến thức đã học và mạnh dạn đưa ra một số đề xuất nhằm giúp hoạt động sản xuất của công ty ngày một phát triển hơn. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0446.doc
Tài liệu liên quan