Tình hình thanh tra, kiểm tra trong thời gian qua & trong giai đoạn hiện nay

Phần I: Lời nói đầu Thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm sát là dạng hạt động thông thể thiếu của quá trình, thục hiện quyền lực nhằm quản lý xã hội, quản lý đất nước. Hoạt động thanh tra, kiểm tra đã góp phần tích cực vào cộng cuộc đẩy lùi các tệ nạn xã hội, chấn an tội phạm, đem lại mộ xã hội tốt đẹp cho đất nước. Góp phần to lơn vào cộng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hệ thống thanh tra, kiểm tra, giám sát ở nước ta thể hiện sự hoà quyện thống nhất giữa tình Đảng, tính Nhà nước và tính nh

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình thanh tra, kiểm tra trong thời gian qua & trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ân dân trong toàn bộ cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát mà mục đích của nó không có gì khác hơn là hướng tới xây dựng một Nhà nước của dân, do dân và vì dân, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhà nước muốn quản lý xã hội một cách hiệu quả thì không thể không sử dụng đến công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát. Ngày nay do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, do khuyết tật của nền kinh tế thị trườn đem lại đó là do chạy theo lợi nhuận mà chúng ta – những con người, những chủ nhân của xã hội đang dần dần huỷ hoại xã hội của mình, phẩm chất đạo đức đã bị tha hoá, tệ nạn xã hội tràn lan, tham ô, tham nhũng đang là những vấn đề hết sức bất cập. Điều đó cho thấy, vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của xã hội là hết sức cần thiết, chúng ta thường nhắc rất nhiều tới thanh tra, kiểm tra, giám sát. Vậy thanh tra, kiểm tra là gì? Nó có vai trò như nào trong quản lý xã hội nói chung và trong quản lý kinh tế nói riêng? Tìm hiểu về hoạt động thanh tra, kiểm tra và vai trò của thanh tra, kiểm tra trong quản lý nền kinh tế quốc dan là nội dung của đề tài này. Chúng ta cùng nhau bàn luận về vấn đề này. Trong quá trình tìm hiểu và hoàn thiện đề tài em đã được sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo, Tiến sỹ Phan Kìm Chiến. Do sự hạn chế về việc thu thập tài liệu nên đề tại của em cũng không tránh khỏi những thiếu sot. Rất mong được sự đóng góp ý kiển xủa các bạn. Và em kính mong thầy giúp đỡ và bỏ qua cho em để em hoàn thiện đề tài của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy! Phần II: phần chung Chương I: thanh tra, kiểm tra là gì? 1. Lịch sử hình thành và phát triển cảu thanh tra Việt Nam. Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, ngày 2/9/1945 tại quản trường Ba Đình – Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á. Tuy nhiên, ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước công hoà dân chủ nhân dân non trẻ đã phải đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Cùng với những khó khăn về mặt kinh tế – xã hội “giặc đói, giặc dốt”, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phải đối phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù cả trong và ngoài nước. Dưới danh nghĩa quân đồng minh vào giải giáp quân đội phát xít Nhật, hai mươi vạn quân Tưởng cung bọn tay sai… kéo vào miền Bắc nước ta với âm mưu tiêu diệt chính quyền cách mạng, ở miền Nam cũng với danh nghĩa đồng minh, quân Anh đã che chở và dọn đượng cho bọn thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Trước tình hình đó, nhiệm vụ quan trọng nhất đặt ra cho Đảng và nhân dân ta lúc này là đoàn kết toàn dân, phát huy mọi nguồn lực của dân tộc để giữ vững chính quyền nhân dân, bảo vệ thành quả của cách mạng. Trong hàng loạt các biên pháp nhàn đoàn kết toàn dân, xây dựng thực lực, đối phó với kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức chú trọng đến công việc xây dựng kỷ cương phép nước, củng cố và xây dựng hệ thống chính quền dân chủ nhân dân “của dân, do dân và vì dân”. Ngày 23/11/1945, Người đã ký sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Theo sắc lệnh này, Ban thanh tra đặc biệt “có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Để thực hiện chức năng này, Ban thanh tra đặc biệt có toàn quyền: - Nhận các đơn khiếu nại của nhân dân. - Điều tra hỏi chứng, xem xét các tài liệu, giấy tờ của các Uỷ ban nhân dân hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát. - Đình chức bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Uỷ ban nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng Chính phủ hay Toà án đặc biết xét xử. - Tịch biên, hoặc niêm phong những tang vật và dùng mọi cách điều tra để lập mộ hồ sơ mang một phạm nhân ra Toà án đặc biệt. Tiếp theo sắc lệnh số 64/SL ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 80/SL cử ông Bùi Bằng Đoàn và ông Cù Huy Cận vào Ban thanh tra đặc biệt. Đến đây, ban thanh tra đặc biệt đã được hình thành về mặt tổ chức với những trọng trách, quyền hạn to lớn của mình. Về sắc lệnh số 64/SL, có thể nói đây là văn bản pháp lý đầu tiên của nhà nước về công tác thanh tra, nó đã đặt viên gạch đầu tiên cho việc xây dựng hệ thống pháp luật về thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng Ban thanh tra đặc biệt được tổ chức theo sắc lệnh này không phải là một thiết chế thanh tra thuần tuý. Nó thực chất là một cơ quan hành chính tư pháp, vừa có các quyền hạn của một cơ quan thanh tra, vừa có quyền hạn của cơ quan điều tra, kiểm sát sau này. Và sự ra đời của Ban thanh tra đặc biệt là để đáp ứng những yêu câu hết sức đặc biệt của Cách mạng Việt Nam trong thời kỳ này. Lúc này, Ban thanh tra đặc biệt với những quyền hạn và trách nhiệm đặc biệt không chỉ là một công cụ thường xuyên của chính quyền nhân dân mà còn có nhiệm vụ to lớn trong việc góp phần an dân, tạp hợp, đoàn kết toàn dân để huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ và giải phóng tổ quốc. Song song với việc thành lập Ban thanh tra đặc biệt, trong những tháng cuối năm 1945, đầu năm 1946, Chính phủ đã hướng dẫn việc thành lập Ban thanh tra ở một số Bộ như Bộ Quốc Phòng, Bộ Nội Vụ, Bộ Tài Chính, Bộ Canh Nông và Ban thanh tra các xứ Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. ở Trung Bộ nhiệm vụ chủ yếu của Ban thanh tra là thanh tra công việc hành chính và việc chấp hành đường lối, chủ trương của Chính phủ, của Uỷ ban nhân dân các cấp. ở Bắc Bộ, ngoài nhiệm vụ thanh tra các Uỷ ban nhân dân các cấp, Ban thanh tra còn làm thêm công việc thu thập và giải quyết các đơn khiếu tổ của nhân dân, thanh tra tại chỗ một số vụ việc do quần chúng nhân dân khiểu nại hoặc phản ánh, tố giác. ở Nam Bộ, do hoàn cảnh kháng chiến diễn ra ngay từ đầu, chiến trường chia cắt, nên đã tổ chức cac Ban thanh tra ở các miền (miền Đông, miền Trung và miền Tây Nam Bộ). Nhiệm vụ của các Ban thanh tra ở Nam Bộ là trực tiếp giải quyết các công việc với các cơ quan chính quyền trong từng miền; giải quyết tại chỗ các vụ khiếu tổ của nhân dân; thanh tra công tác của các cơ quan Nhà nước; xây dựng củng cố bộ máy chính quyền ở những nơi chưa có hoặc còn yếu; thành lập các Toà án nhân dân để trấn áp bọn việt gian phản Cách mạng; thanh tra vấn đề đoàn kết nhân dân, nhất là giữa các đoàn thể cứu quốc và các giáo phái. 2. Thanh tra, kiểm tra là gì? Thanh tra, kiểm tra được xem xét, bàn luận từ nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta hãy cùng nhau xem xét. Giám sát, thanh tra, kiểm tra kiểm kê và kiềm soát là những khái niệm được sử dụng nhiều trong hoạt động quản lý nói chung và quản lý nhà nước nói riêng. Về hình thức đây là những khái niệm khác nhau, nhưng về mặt nội dụng lại có sự giao thoa rất lớn. Vì vậy, tuỳ theo mục đích, tính chất và hoàn cảnh cụ thể mà người ta có thể sử dụng những khái niệm này cho phù hợp, hoặc có thể dùng như một khái niệm kép: thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát, kiểm tra, kiểm sát. Trong tác phẩm “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết” Lênin cho rằng một nhiệm vụ mới của chính quyền Xô Viết còn trọng đại hơn cả nhiệm vụ chính trị đó là nhiệm vụ quản lý kinh tế. Nhiệm vụ tổ chức lại nền kinh tế được quy thành hai nhiệm vụ chính: 1. Kiểm kê và kiểm soát việc sản xuất và phân phối sản phẩm; 2. Nâng cao năng suất lao động. Trong đó, quan niệm về kiểm kê, kiểm soát và nhiệm vụ của nhà nước vô sản về kiểm kê; kiểm soat là rất rộng, nó bao gồm cả giám sát, thanh tra, kiểm kê và kiểm soát toàn bộ các hoạt động của đất nước nói chung và của nền kinh tế nói riêng. Mục đích của kiểm kê, kiếm soát là nhằm phục vụ cho quản lý nhà nước, đặc biệt là quản lý kinh tế. Nhà nước vô sản tổ chức việc thực hiện việc kiểm kê, kiểm soát là nhằm kiểm soát, điều tiết nền kinh tế có hiệu quả, “là phân phối một cách hợp lý nhân công trong sản xuất, trong phân phối sản phẩm, bảo vệ sức lực của nhân dân, xoá bỏ tình trạng lãng phí sức lực đó, tiết kiệm sức lực đó” . Lênin chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội chính là sự kiểm kê. Nếu các đồng chí muốn kiểm kê từng miếng sắt, từng mảnh vải, như thế là sẽ có chủ nghĩa xã hội” . Quyền kiểm kê, kiểm soát là thuộc về nhà nước vô sản, mà lúc đầu là sự kiếm soát của công nhân, sau đó sẽ do toàn thể dân cư tiến hành. Lênin khẳng dịnh: “Từ nay cho đến khi giai đoạn “cao” cảu chủ nghĩa cộng sản xuất hiện, những người xã hội chủ nghĩa yêu cầu xã hội và nhà nước kiểm soát thật nghiêm ngặt mức độ lao động và mức độ tiêu dùng… và sự kiểm soát này không phải do nhà nước của bọn quan lại thi hành, mà do nhà nước cảu công dân vũ trang thi hành” . Quyền kiểm kê, kiểm soát của nhà nước được giao cho Bộ dân uỷ thanh tra công nông đảm nhiệm. Trong quyết định của Ban chấp hành Trung Ương các Xô Viết toàn Ngã đã ghi rõ: “Giao trách nhiệm cho Bộ dân uỷ thanh tra công nông kiểm soát và giám sát hoạt động cảu tất cả mọi xí nghiệp, cơ quan và tổ chức nào, xét về mặt thực hiện những nghĩa vụ mà họ đảm nhiệm trước các cơ quan nhà nước” . Đối tượng chịu kiểm kê, kiểm soát trước hết “phải bắt đầu bằng việc tước đoạt bọn tư bản, bằng việc công nhân kiểm soát bọn tư bản” , tiếp đó là bọn ăn cắp, bọn ăn bám, bọn lưu manh”, bọn đầu cơ, làm ăn gian dối, nhận hối lộ và các biểu hiện của tính tự phát vô chính phủ và “tất cả mọi xí nghiệp, cơ quan và tổ chức xã hội và tư nhân, không loại trừ một xí nghiệp, cơ quan và tổ chức nào”. Nội dung của kiểm kê, kiểm soát chủ yếu là tập trung vào kiểm tra kiểm soát việc sản xuất và phân phối những sản phẩm chủ yếu cảu nền kinh tế; các hoạt động tiền tệ và tài chính của “bọn nhà giàu”, của “giai cấp hữu sản”; việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, và kỷ luật lao động của nhà nước; của các công chức nhà nước. Về phương pháp tổ chức kiểm kê, kiểm soát phải hết sức linh hoạt và phong phú. Việc kiểm soát chỉ có thể do nhân dân tiến hành và phải để cho công nhân chiếm đa số trong tất cả các cơ quan có chức năng kiểm kê, kiểm soát. Phải dựa vào tính áng tạo của quần chúng, phải phối hợp kiểm tra từ dưới lên và từ trên xuống. Kiểm tra phải thực sự, công khai; xử lý phải nghiêm minh và kiên quyết thì mới có hiệu quả. Ngày nay, trên thế giới hầu hết các quốc gia đều tổ chức ra các cơ quan để thực hiện chức năng giám sat, thanh tra, kiểm tra, và kiểm soát toàn bộ các hoạt động của đất nước. Tuy nhiên, do những điều kiện về lịch sử, chính trị, kinh tề, xã hội, văn hoá và truyền thống pháp lý khác nhau, nên mỗi quốc gia có một mô hinh tổ chức và phương thức hoạt động riêng. Căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tính chất hoạt động của các cơ quan này có thể chia thành ba loại hình cơ bản sau: - Thanh tra Quốc hội: Là mô hình phổ biển ở các nước Bắc âu và Châu Mỹ như: Thuỵ Điển, Đan Mạch, Canada. - Thanh tra giám sát hành chính: Là loại hình tổ chức nhiều ở các nước Châu á, và Châu Phi, như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ai Cập. - Thanh tra chuyên ngành: Đây là một loại hình được thiết lập ở hầu hết ở các nước và ở nhiều nước nó tồn tại song song với các loại hình trên. Qua việc nghiên cứu các mô hình tổ chức, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, và giám sát của một số nước, có thể rút ra một số vấn đề chủ yếu sau: - Thanh tra, kiểm tra và giám sát là phục vụ cho quản lý và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. - Mục đích của thanh tra, kiểm tra, giám sát là phục vụ cho quản lý và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước. - Chủ thể cảu thanh tra, kiểm tra và giám sát là thuộc về nhà nước, việc tổ chức tiến hành các hoạt động này thường do các tổ chức chuyên trách thực hiện. - Nội dung thanh tra, kiểm tra và giám sát chủ yếu là việc chấp hành chính sách, pháp luật; việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của công chức nhà nước. Ngoài ra, các tổ chức thanh tra, kiểm tra và giám sát tuy có chung một mục đích và cung thực hiện một chức năng của quản lý nhà nước, nhưng mỗi nước có những đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội và truyền thống pháp lý khác nhau, nên việc thiết kế mô hình tổ chức và sắp đặt vị trí của các cơ quan này cũng có sự khác nhau. - Về đối tượng, do vị trí của các cơ quan thanh tra, kiểm tra và giám sát khác nhau cho nên đối tượng của nó cũng có sự khác nhau. Thanh tra Quốc hội giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước bao gồm: cơ quan hành pháp và toá án. Thanh tra, giám sát hành chính giám sát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và công chức nhà nước, còn thanh tra chuyên ngành thì kiểm tra, thanh tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý nhà nước của bộ ngành. -Về phương thức thanh tra, kiểm tra và giám sát. Do vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này khác nhau, cho nên phương thức hoạt động của nó cũng khác nhau. Mặt khác, ngay trong một loại hình thanh tra, nhưng do pháp luật của mỗi nước quy định khác nhau, nên phương thức hoạt động cũng có những nét đặc thù riêng. Tuy có sự khác nhau như vậy, song phương thức hoạt động của các tổ chức này cũng có những net chung như: coi trong phòng ngừa là chính, chú trong thanh tra, kiểm tra tài chính và ngày này các nước có xu hướng “vượt lên cách thức kiểm tra cụ thể, trực tiếp và có sự quan sát, đánh giá toàn diện các mặt về quản lý, để đưa ra các kết luận, kiến nghị điều chỉnh có tính chất vĩ mô”. ở nước ta, ngay sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 23 tháng 11 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 64/SL thàh lập Ban thanh tra đặc biệt với nhiệm vụ “giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của các Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Về sau này, khi nói đến thuật ngữ “thanh tra” thường chỉ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức thanh tra Nhà nước, “giám sát” chỉ chức năng của Quốc hội hay nhiệm vụ của Ban thanh tra nhân dân, “kiểm tra” chỉ chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra Đảng… Khi nói đến phương pháp hay cách thức làm việc thì tuỳ theo từng công việc cụ thể có thể dùng như: kiểm tra toàn bộ sổ sách, giấy tờ; kiểm tra quỹ hay kiểm kê kho; kiểm soát các hoạt động Ngân hàng, giám sát tất cả các công việc của Uỷ ban nhân dân. Về công tác thanh tra được quan niệm như sau: - Về mục đích thanh tra: Theo pháp lệnh thanh tra năm 1990 là “nhằm phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cương pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân”. - Về chủ thể thanh tra: “Thanh tra là một công tác rất quan trọng”, một công việc thường xuyên của chính quyền nhân dân, là một hoạt động quản lý của nhà nước, “là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước”. - Về đối tượng thanh tra: Theo pháp lệnh thanh tra năm 1990, các tổ chức thanh tra nhà nước có chức năng, nhiệm vụ “thanh tra việc thực hiện chính sác, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân, trừ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, kiểm sát của cơ quan Điều tra, Kiểm sát, Toà án, và việc giải quyết tranh chấp hợp động kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế của cơ quan trọng tài kinh tế”. - Về nội dung thanh tra: chính là “việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ kế hoạc nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân” (Điều 1 pháp lệnh thanh tra). - Về phương thức thanh tra: Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết là thanh tra “phải đi tận nơi, xem tận chỗ”. Muốn thanh tra, kiểm soát có kết quả tốt, việc thanh tra, kiểm soát phải có hệ thống và làm thường xuyên. Phương pháp thanh tra, kiểm soát từ trên xuống với từ dưới lên. Ngươi nói:”Kiểm soát có hai cách, một cách là từ trên xuống. Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình. Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và các bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cải cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”. Thanh tra không chỉ kiểm tra, xem xét việc làm đó đúng hay sai, tốt hay chưa tốt mà phải chỉ cho cấp dưới, giúp cho cấp dưới biết cách sửa chữa để làm tốt hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Thanh tra cũng không phải chỉ điều tra, nghiên cứu việc chấp hành nghị quyết, chị thị đã được đến đâu mà còn phải theo dõi cho đến khi công việc đó làm xong, làm tốt thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của người dưới”. Muốn thanh tra, kiểm soát có kết quả tốt, người cán bộ thanh tra phải là những người có uy tín, có đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn mà công việc đòi hỏi, Người nói: ” Thái độ của cán bộ thanh tra là phải cẩn thận: Nghe không được thiên lệch, nghe một bên, nên nghe người này, nghe người kia. Phải khách quan ở địa phương nào đấy phải đến tận nơi, nghe nghóng, tìm hỏi, chịu khó. Quan liêu sẽ không làm được nhiệm vụ. Phải cẩn thận khách quan, điều tra kỹ lưỡng, chịu khó “. Có thể lấy quan điểm của Đảng, nhà nước, và chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thanh tra là hết sức sâu sắc và toàn diện, bao gồm nhiều nội dung khác nhau như: “ mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương thức thanh tra. Những tư tưởng và quan điểm này là cơ sở để hiểu rõ, hiểu sâu hơn khái niệm thanh tra và hoạt động thanh tra trong quản lý nhà nước. Ngày nay, các khái niệm giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, và kiểm soát được sử dụng phổ biến trong hoạt động quản lý nói chung và trong quản lý nhà nước nói riêng. Vậy thanh tra, kiểm tra là gì? Thanh tra (tiến anh là Inspect) xuất phát từ gốc la tinh( inspectare) có nghĩa là “nhìn vào bên trong ”, chỉ sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một đối tượng nhất định. Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, nghĩa thứ nhất thanh tra là điều tra, xem xét để làm rõ vụ việc; nghĩa thứ hai là chỉ người làm nhiệm vụ thanh tra. Nhìn từ góc độ quản lý kinh tế thì: Thanh tra là một chức năng của quyền hành pháp. Cơ quan thanh tra thuộc cơ cấu các cơ quan của Chính phủ, của bộ trung ương và các cơ quan hành chính ở địa phương. Theo nghĩa chung, thanh tra là hoạt động của cơ quan hành pháp, cơ quan hành chính nhà nước, có chức năng duy trì các hoạt động của cơ quan và của công chức hành chính phù hợp với pháp luật của nhà nước, bằng các hoạt động xem xét, thẩm định lại những hành vi của công chức, những hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước trên cơ sở những quy định pháp lý về quyền hạn, nhiệm vụ của các cá nhân công chức, cán bộ và các nhân viên khác trong cơ quan hành chính và tổ chức. Trong quá trình hoàn thiện các thể chế dân chủ và pháp quyền, hoạt động thanh tra ngày càng được khẳng định theo xu hướng. - Từ chỗ nằm trong cơ cấu hỗn hợp của hoạt động quản lý, chưa phân định rõ đến chỗ ngày càng hoàn thiện về cơ cấu, tổ chức và nội dung hoạt động. - Sự phân định về tổ chức, dẫn đến sự phân định rõ về chức năng vai trò trong tổng thể hoạt động quản lý hành chính. - Hoạt động thanh tra ngày càng có điều kiện phát triển theo hướng có chuyên ngành sâu, được đào tạo nguồn nhân lực chuyên môn, được trang bị những phương tiện kỹ thuật phục vụ cho các hoạt đọng thảm đinh, giám định. Đặc trưng của hoạt động thanh tra: Thứ nhất: Thanh tra là một hoạt động thuộc chức năng của quyền hành pháp. Mục đích chung nhất của hoạt động thanh tra là hoạt động tự điều chỉnh trong nội bộ cơ quan hành chính nhà nước. Trung quản lý nhà nước đương nhiên có hoạt động đúp pháp luật. Đồng thời, trong quản lý không thể có sai phạm, thiếu sót. Quản lý là một hoạt động vừa có tính khoa học, vừa có tính sáng tạo. Cùng một tình huống quản lý, có thể có nhiều, thậm chí rất nhièu giải pháp thực hiện. Nó tuỳ thuộc vào các yếu tố kách quan, chủ quan, vào điều kiện kinh tế, xã hội hay trình độ dân trí. Đặc biệt quản lý còn chịu ảnh hưởng của các yéu tố thuộc bản thân người điều hành: năng lực, trình độ, tuổi tác, tính cách và phẩm chất của họ. Mặt khác, trong hoạt động nhà nước, không phải cací gì cũng đưa ra toà án để xem xét. Nhà nước pháp quyền đx có sự phân chia chức năng. Theo đó, mỗi cơ quan có chức năng khác nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Các nhà khoa học quản lý phải xem xet, tính chất, mức độ của những lỗi lầm để xem xét cần dùng biện pháp nào để điều chỉnh. Thứ hai, ngoài hệ thống thanh tra nhà nước, còn có hệ thống thanh tra chuyên ngành như thanh tra giáo dục, thanh tra giao thông, thanh tra y tế. Thanh tra chuyên ngành là một nhánh của hoạt động thanh tra gắn liền với một ngành, một lĩnh vực nhất định, xuất phát từ tính chất phức tạp về chuyên môn nghiệp vụ của các ngành, các lĩnh vực khác nhau trong hệ thống quản lý nhà nước. Còn kiểm tra (control) chỉ một hoạt động nhằm thẩm định, xác định một hành vi của cá nhân hay một tổ chức . Kiểm tra bao giờ cũng đưa lại những kết luận đối với những hành vi (đã nêu) hoặc các biện pháp sử lý khi hành vi vượt quá những giới hạn đã được quy định trước. Kiểm tra có thể được hiểu theo hai nghĩa : Theo nghĩa rộng; để chỉ hoạt động của các tổ chức xã hội, các đoàn thể và của công dân . Kiểm tra hoạt động bộ máy Nhà nước. Theo nghĩa này tính quyền lực Nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế vì các chủ thể thực hiện kiểm tra không có quyền áp dụng trực tiếp những biện pháp cưỡng chế nhà nước . Theo nghĩa hẹp hơn, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét , xác minh một việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay không phù hợp với trạng thái định trước (kiểm tra mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ quan kiểm tra phương diện giao thông ). Theo nghĩa này, chủ thể kiểm tra có thể áp dụng một chế tài pháp lý nhất định, như áp dụng các hình thức kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc buộc phải thực hiện một số biện pháp ngăn chặn hành chính. ở nghĩa này, khái niệm kiểm tra nằm trong khái niệm thanh tra”tổ chức thanh tra là công cụ đắc lực của Đảng, của chính quyền trong việc kiểm tra sự chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật, kế hoạch của Nhà Nước” . Pháp lệnh thanh tra 1990 cũng quy định: “ Thanh tra Bộ, Uỷ ban Nhà Nước hướng dẫn , kiểm tra tư tưởng các cơ quan, đơn vị thuộc quyền quản lý.”(Điều 14). Tóm lại, kiểm tra là quá trình xem xét các hoạt động nhằm mục đích làm cho các hoạt động đạt kết quả tốt hơn. Đồng thời giúp phát hiện những sai sót lệch lác để có biện pháp khắc phục bảo đảm cho thực hiện đúng hướng. Kiểm tra có các đặc điểm quan trọng như: - Kiểm tra là một quá trình liên tục về thời gian và không gian. - Có mục đích và mục tiêu rõ ràng. - Tạo cơ sở để hoàn thiện các hoạt động và cải tiến hệ thống, tạo môi trường hoạt động lâu dài cho hệ thống. - Phát hiện ra những sai sót của hệ thống, trên cơ sở đó phát hiện những cái hay loại bỏ những cái xấu. Nâng cao năng lực của nhà quản lý, tạo niềm tin cho những người quan tâm đến hoạt động được kiểm tra. - Kiểm tra không phải là giai đoạn cuối cùng. Như vậy chúng ta đều biết, thanh tra, kiểm tra là chức năng chung của quản lý Nhà nước, là hoạt động mang tính phản hồi (rà soát, nhiều khi là phản ứng lại) đối với chu trình quản lý nhằm phân tích, đánh giá, theo dõi những mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đã đề ra. Với tư cách là một chức năng quản lý, là một giai đoạn của chu trình quản lý, khái niệm thanh tra và kiểm tra có những net tương đồng như đã nêu, cho nên trong hoạt động giống nhau về bản chất, đều có mục đích, yêu cầu chung là xem xét, đánh giá một quá trình, sự vật, hiện tượng (là đối tượng của kiểm tra và thanh tra) từ đó rút ra kết luận đúng, sai để có biện pháp phát huy hoặc uốn nắn, chấn chỉnh. Song, chúng có những điểm không trùng hợp nhau. Vậy chúng khác nhau ở điểm nào. 3. Phân biệt hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra và với hoạt động kểm soát, kiểm sát và giám sát. 3.1. Phân biệt hoạt động thanh tra với hoạt động kiểm tra. - Thanh tra là hoạt động xem xét, kiểm tra của cơ quan Nhà nước cấp trên hoặc theo sự uỷ quyền của cơ quan Nhà nước cấp trên đối với cơ quan Nhà nước cấp dưới (mang tình trực thuộc) và là một bộ phận của hoạt động hành pháp. Còn kiểm tra là hoạt động của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (bao gồm cả kiểm tra nội bộ, tự kiểm tra) đối với mục đích, nhiệm vụ đã đặt ra. Việc phân biệt chỉ mang tính ước lệ, xét quá trình và bản chất của hoạt động thanh tra và kiểm tra thì hầu như không có sự phân biệt hai khái niệm này. V.I.Lênin nhiều lần nhấn mạnh trong các tác phẩm của Người cũng như trong thực tiễn hoạt động của Đảng cộng sản Bôn-sê-vích rằng, mục đích của kiểm tra và thanh tra là nhằm xây dựng “khả năng biết làm, biết thành thạo trong quản lý”. Khi bàn đến sự thống nhất của hai hoạt động, V.I.Lênin nói: “phải cải tổ bộ dân uỷ thanh tra công nông… để táng cường sự kiểm tra từ phía quần chúng nhằm tiêu diệt cái thứ cỏ dại – chủ nghĩa quan liêu”. Như vậy, xét theo tính chất, mục đích của quản lý Nhà nước, với tư cách là chức năng không thể thiếu được của người quản lý, thanh tra và kiểm tra có thể thiếu trong mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”. Trong một chừng mực nhất định, hai thuật ngữ kiểm tra (control) và thanh tra (inspect) có sự phân biệt về mặt lịch sử. Trong quá trình phát triển của xã hội từ khi chưa có Nhà nước đến khi xuất hiện Nhà nước thì tác động của chúng đối với xã hội có khác nhau về mức độ thực hiện quyền năng “thanh tra và kiểm tra là những chức năng, những mặt của quản lý nói chung, chúng liên hệ tác động lẫn nhau theo mức độ quyền năng và trong mối tương quan với quản lý Nhà nước thì thanh tra giữ vai trò trực tiếp, bởi chính trong quá trình thanh tra, ưu thế về tính quyền lực Nhà nước được thể thiện rõ hơn so với kiểm tra”. Còn về mặt lịch sử, thuật ngữ kiểm tra tồn tại trước thanh tra, khi con người biết lao động tức là tham gia quá trình sản xuất, phân phối của cải vật chất xã hội đòi hỏi phải quản lý, nghĩa là đòi hỏi họ phải xem xét, đánh giá kết quả hoạt động cảu mình. Chính trong hoạt động sản xuất, phân phối của cải vật chất xã hội quyết định sự cần thiết phải có kiểm tra. Mặt khác như ăng-ghen đã nói “mỗi hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người đều chứ đựng trong nó những yếu tố của kiểm tra” và “đối với con người tự nhiên, mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm tra (theo nghĩa đơn sơ của từ – NHâN DâN) được xem xét như là phương thức hành động để thực hiện mục đích. Sự ra đời của Nhà nước – tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt của giai cấp thống trị đòi hỏi phải có những công cụ mang tính quyền lực để bảo vệ quyền lợi cảu giai cấp thống trị. Từ đó, quản lý mang tính quyền lực Nhà nước xuất hiệnv à là một trong những đặc trưng phân biệt Nhà nước xuất hiện và là một trong những đặc trưng phân biệt Nhà nước với các bộ lạc, thị tộc xưa kia và các tổ chức xã hội hiện nay. Để thực hiện quản lý Nhà nước, giai cấp thống trị sử dụng các chức năng khác nhau, trong đó có chức năng thanh tra nhằm tác động tới khách thể quản lý, lập lại trật tự và nâng cao hiệu quả của quản lý. Như vậy, xét về mặt lịch sử, kiểm tra tồn tại xa xưa, khi chưa có Nhà nước, còn thanh tra xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Đương nhiên, cùng với sự xuất hiện, tồn tại, tiêu vong của Nhà nước, chức năng thanh tra cũng như NHà NưÍC sẽ được xếp bên cạnh “chiếc sa kéo sợi và chiếc rìu đồng cổ”, nhưng kiểm tra (mang tính xã hội) vẫn tồn tại cùng với “chức năng quản lý đơn thuần chăm lo đến lợi ích cảu xã hội” như P.ăng-ghen đã chỉ ra. Thanh tra và kiểm tra giống nhau về bản chất, nhưng theo cách hiểu khác nhau thì chúgn khác nhau về phạm vi. Thanh tra bao hàm kiểm tra nếu theo nghĩa hẹp, nhưng ngược lại, kiểm tra lại bao hàm thanh tra nếu theo nghĩa rộng. Nhưng thanh tra luôn mang tính Nhà nước, còn kiểm tra có thể mang tính Nhà nước hoặc phi Nhà nước. Việc tìm hiểu sâu sắc khái niệm thanh tra còn đòi hỏi phải điểm lại một số quan điểm trong thực tiễn pháp lý hiện hành, cũng như trong lịch sử nước ta thông qua mô hình tổ chức các cơ quan Nhà nước và các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong sách báo pháp lý của ngành Thanh tra thì “Thanh tra được hiểu là sự xem xét, kiểm soát, kiểm tra thường xuyên, định kỳ nhằm rút ra những nhận xét, kết luận cần thiết để kiến nghị với các cơ quan Nhà nước khắc phục những nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước”. Thời kỳ phong kiến (các triều đại Lý, Trần, Lê) có cơ quan gọi là “Ngự sử đài” có nhiệm vụ giúp vua trong việc xem xét, trình tầu những công việc hệ trọng, có quyền can gián vua và đối với những nghĩa sĩ trung thực, dám nói thẳng, nói thật mới được phong hàm “Gián nghị đại phu”. Từ hiến pháp 1946 với khái niệm “Ban kiểm soát” của Ban thường vụ Nghị viện để kiểm soát, phê bình Chính phủ đến sắc lệnh số 64/SL thành lập “Ban thanh tra đặc biệt” của chính phủ; việc ghi nhận trong Hiến pháp 1959 (điều 76), Hiến pháp 1980 (điều 107, 110), Hiến pháp 1992 (các điều 112, 115, 116, 124) và pháp lệnh THANH TRA 1990 là quá trình đúc kết kinh nghiệm và hoàn chỉnh khái niệm thanh tra. Hoạt động thanh tra và hoạt động kiểm tra nhìn từ góc độ công tác tư pháp cũng có những điểm khác nhau. Thanh tra và kiểm tra đều phục vụ công tác quản lý nhà nước. Qua thanh tra, kiểm tra, tìm ra những quy định của pháp luật đã không còn phù hợp với thực tế để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung kịp thời; phát hiện ra những thiếu sót, sai phạm của đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó có biện pháp kịp thời chấn chỉnh, xử lý. Tuy nhiên, thanh tra và kiểm tra cũng có khác nhau sau: Thứ nhất: Về cơ sở pháp lý: Nừu như có sở pháp lý của hoạt động kiểm tra về một lĩnh vực nào đó thì chủ yếu là các văn bản pháp luật mang tính nghiệp vụ, chuyên môn; các văn bản quy định về công tác tổ chức và các văn bản liên quan., thì trong hoạt đông thanh tra ngoài cơ sở pháp lý đó, còn chủ yếu dựa vào Luật khiếu nại, tố cáo; Pháp lệnh thanh tra; Quy chế đoàn thanh tra và nhiều văn bản pháp luật khác điều chỉnh riêng về lĩnh vực thanh tra. Thứ hai, về mục đích thực hiện: Đối với các hoạt động thanh tra theo chuyên đề, kế hoạch, mục đích của cuộc thanh tra bao giờ cũng rộng hơn, sâu hơn đối với các hoạt động kiểm tra. Ví dụ: một trong những nhiệm vụ trọng tâm công tác thanh tra của ngành Tư pháp là tập trung vào lĩnh vực thi hành án dân sự; thì mục đích không chỉ dừng lặinh ở việc kiểm tra mang tính hành chính của cấp trên đối với cấp dưới mà qua đó còn để đánh giá đúng tình hình thực hiện pháp lệnh thi hành án dân sự; phát hiện những sơ hở, yếu kém vi phạm trong công tác thi hành án dân sự; đẩy nhanh việc giải quyết các kh._.iếu nại trong công tác thi hành án. Trên cơ sở đó có biện pháp khắc phục khuyết điểm, xử ly các trường hợp vi phạm, kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách và nghiệp vụ, nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, góp phần tích cực vào việc cải cách tư pháp và cải cách hành chính. Đặc biệt, đối với các cuộc thanh tra để giải quyết khiếu nại, tố cáo thì sự khác biệt về mục đích, ý nghĩa giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra càng rõ hơn nhiều bởi: thông thường khiếu nại, tố cáo phản ánh sự bức xúc của công dân trước những việc mà họ cho là cán bộ, công chức làm chưa đúng, làm sai hoặc có vi phạm pháp luật, cho nên giải quyết tốt các khiếu nại, tố cáo sẽ bảo vệ được các quyền, lợi ích chính đáng của công dân. Thứ ba, về phương pháp tiến hành: Với mục đích rõ ràng hơn, rộng hơn, khi tiến hành thanh tra, các đoàn thanh tra cũng áp dụng những biện pháp nghiệp vụ sâu hơn, đi vào thực chất đến tận cùng của vấn đề như: thu thập chứng cứ, đối thoại, chất vấn… Đặc biệt quá trình thanh tra, các đoan thanh tra còn có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để phục vụ thanh tra theo quy định tại Điều 9 của pháp lệnh thanh tra bao gồm các quyền như: yêu cầu cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan cung cấp những thông tin cần thiết phục vụ cho việc thanh tra; yêu cầu cơ quan, đơn vị hữu quan cử người tham gia hoạt động thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp tài liệu, kê biên tài sản, khi có căn cứ để nhận định có vi phạm pháp luật; ra quyết định yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép được cấp hoặc sử dụng trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý; đình chỉ việc làm xét thấy đang hoặc sẽ gây tác hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân; tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ luật, thuyên chuyển công tác người đang công tác với tổ chức thanh tra hoặc đang là đối tượng thanh tra, nếu xét thấy việc thi hành quyết định gây trở ngại cho việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị hoặc quyết định việc xử lý theo quy định của pháp luật; chuyển hồ sơ về việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra hình sự có thẩm quyền giải quyết, nếu xét thấy có dấu hiện cấu thành tội phạm. Thứ tư, về cách thức xử lý vi phạm: từ kết quả kiểm tra, người kiểm tra hoặc các đoàn, kiểm tra thông thường chỉ tiến hành rút kinh nghiệm trong phạm vi đơn vị được kiểm tra và yêu cầu làm đúng theo quy định và hướng dẫn của cấp trên. Trong khi đó, căn cứ vào kết quả thanh tra, các đoàn thanh tra không chỉ rút kinh nghiệm với phạm vi rộng hơn, mức độ sâu sắc hơn mà còn có thể kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành các hình thức kỷ luật thích đáng, một ví dụ rất đáng chú ý là: Từ kết luận thanh tra tại phòng thi hành án Hà Nội, đoàn thanh tra của Bộ tư pháp đã kiến nghị các cấp có thẩm quyền tiến hành cách chức Trưởng phòng, phó phòng và miễn nhiệm năm chấp hành viên của Phòng thi hành án. Ngoài ra, nếu qua thanh tra phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự thì còn có thể chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xem xét khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can như trường hợp bản kết luận thanh tra số 110/KL-TTr ngày 6/11/2002 của đoàn thanh tra liên ngành Bộ Tư pháp, Bộ công an, Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em đã kiến nghị Bộ công an giao cơ quan điều tra tiếp nhận hồ sơ do đoàn thanh tra chuyển giao để xem xét khởi tố vụ án hình sự và tiếp tục làm rõ hành vi phạm pháp của một số cá nhân có liên quan. 3.2. Phân biệt hoạt động thanh tra, kiểm tra với hoạt động kiểm sát, kiểm soát và giám sát. 3.2.1. Với hoạt động kiểm sát. Kiểm sát là một hoạt động đặc trưng của quyền tư pháp. Kiểm sát là một hoạt động nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật, duy trì pháp chế, duy trì trật tự kỷ cương xã hội. Thông qua hoạt động của mình, kiểm sát xem xét, làm sáng tỏ bản chất của hành vi công dân, công chức, trả lại quyền và lợi ích cho họ. Đồng thời, đưa những vụ việc nghiêm trọng ra truy tố trước pháp luật (truy tố trước toà án nhân dân). Đặc trưng của hoạt động kiểm sát là: - Phán quyết sau kiểm tra có tính chất chính trị – xã hội. - Phán quyết sau thanh tra có tính chất chính trị – quản lý. - Phán quyết sau kiểm sát có tính chất chính trị – tư pháp. Hậu quả của phán quyết sau kiểm tra dẫn đến những đánh giá về phẩm chất hành vị của cá nhân và tổ chức. Hậu quả cuả phán quyết sau thanh tra dẫn đến những đánh giá về trách nhiệm gắn liền với cương vị xã hội trong hệ thống công vụ. Hậu quả cảu phán quuyết sau kiểm sát dẫn đến những đánh giá về tình trạng của cá nhân liên quan đến tính chất của hành vi phạm tội trong hệ thống pháp luật nhà nước. Kiểm sát là khái niệm được sử dụng trong thực tiễn tổ chức bộ máy Nhà nước và khoa học pháp lý (investigate) để chỉ hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung), thực hành quyền công tố (bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân) của Viên kiểm sát nhân dân các cấp nhằm bảo đảm pháp chế XHCN. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật là nhằm đảm bảo tính hợp pháp của các quyết định quản lý Nhà nước từ cấp Bộ trưởng xuống (điều 137 Hiến pháp 1992 và các điều 2, 3, và 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân). Trong quá trình kiểm sát công tác điều tra, Viện kiểm sát có quyền: “phê bình chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật, quyết định áp dung, thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra” và “quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra”. Việc kiểm sát chung không tự làm đình chỉ các quyết định quản lý của các cơ quan Nhà nước trái pháp luật. Chỉ có một trường hợp duy nhất là Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền ra quyết định đình chỉ và buộc phải sửa chữa những hành vi vi phạm pháp luật có thể gây hậu quả nghiêm trọng (khoản 2 điều 10 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân). Viện kiểm sát không có quyền áp dụng các biện pháp kỷ luật. Khi cần thiết Viện kiểm sát chỉ có quyền yêu cầu các cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp kỷ luật hoặc gửi kiến nghị, ra quyết định khởi tố. Mặt khác, tính chất thường xuyên trong hoạt động kiểm tra cũng bị hạn chế, chỉ “kiểm sát việc chấp hành pháp luật khi phát hiện có vi phạm pháp luật…” (điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát) hoặc khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát “trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc khi các yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân… không được thực hiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu…”. So với các hoạt động khác như thanh tra, kiểm sát thì kiểm sát có phạm vi hẹp hơn (chỉ kiểm sát tính hợp pháp của quyết định quản lý hoặc khi có vi phạm pháp luật). Bản chất cảu hoạt động kiểm sát là: Kiểm sát là một hoạt động gắn liền với các quá trình của quyền xét xử (quyền tư pháp). Trong đó, chức năng công tố là một bộ phận gắn liền với hoạt động xét xử, nhưng không phải là do toà án, mà do viện kiểm sát thực hiện (vì thế Viện kiểm sát còn gọi là viện công tố). Không có công tố thì không có xét xử, chứ không phải là bản thân là xét xử. Cơ quan Viện kiểm sát có quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan và các cá nhân liên quan trực tiếp đến quản lý nhà nước. Hoạt động khác là kiểm sát toàn bộ các hoạt động tuân thủ pháp luật của công dân. 3.2.2. Với hoạt động giám sát và kiểm sát. Ta thấy giám sát, tiếng Anh là Supervision hoặc overseer để chỉ một hoạt động xem xét có tính bao quát của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống khác tức là giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ thống trực thuộc nhau theo chiều dọc. Trong bộ máy Nhà nước ta, giám sát thường thể hiện chức năng của các cơ quan quyền lực Nhà nước đối với hoạt động của bộ máy Nhà nước hoặc của Toà án nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động quản lý nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật, kỷ luật trong quản lý Nhà nước. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất ở nước CHXHCN Việt Nam “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước… thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội” (điều 83 và 84 Hiến pháp 1992). Nế xét tính quyền lực cao nhất của Quốc hội thì ngoài việc lập hiến, lập pháp, bầu Chính phủ, thành lập các cơ quan tối cao của đất nước, chức năng giám sát cũng thể hiện tính hơn trội, tính bao quát từ phía quyền lập pháp đến việc giám sát các hoạt động của các cơ quan do Quốc hội thành lập. Xem xét các quy định của pháp luật hiện hành thì hoạt động giám sát của Quốc hội bao gồm: một là, giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động Nhà nước, tức là các hoạt động hành pháp, tư pháp của các cơ quan do Quốc hội thành lập đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Chẳng hạn việc Chủ tịch nước, Chình phủ, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo trước Quốc hội; chịu sự chất vấn của các đại biệt Quốc hội. Hai là, tất cả các hoạt động tuân theo Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Vấn đề này, có thể được hiểu chỉ có những hoạt động trái Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội của các cơ quan Nhà nước do Quốc hội thành lập mới bị Quốc hội bãi bỏ hoặc bị áp dụng quyền giám sát này. Ví dụ: “Quốc hội bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội” (khoản 9 điều 84 Hiến pháp năm 1992). Quốc hội là cơ quan do nhân dân cả nước bầu ra thực hiện quyền lực tối cao của nhân dân. Do đó, không phải lĩnh vực nào, hoạt động trái pháp luật nào của các cơ quan do Quốc hội bầu ra, Quốc hội cũng “thực hiện quyền giám sát tối cao” của mình. Chẳng hạn, tại khoản 8 điều 84 quy định Quốc hội có quyền “quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ của Chính phủ”, nhưng không phải vì vậy mà Quốc hội bãi các văn bản của Bộ trưởng như khoản 9 quy định. Như vậy, mặc dù có quyền giám sát tối cao, pháp luật nước ta vẫn trao cho Quốc hội giám sát theo từng phạm vị và đối tượng cụ thể (mặc dù quyền đó là rất rộng). Mặt khác, giám sát của Quốc hội còn được thực hiện thông qua cơ quan thường trực của nó là Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội. Tuy nhiên, hoạt động giám sát cảu Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chỉ là giúp Quốc hội thực hiện giám sát pháp luật trong từng lĩnh vực theo quy định của pháp luật chứ không phải là “giám sát tối cao” hoặc tất cả các lĩnh vực như bản thân Quốc hội. Nếu xem lại Hiến pháp 1946 thì Quốc hội chỉ có quyền “kiểm sát và phê bình Chính phủ (điểm c, điều thứ 36). Đến Hiến pháp 1959 thì Quốc hội có quyền “giám sát việc thi hành hiến pháp” (điều 3 khoản 50) và “giám sát công tác của Hội đồng Chính phủ, của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao” (Khoản 6 điều 53). Hiến pháp 1980 cũng quy định: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” (điều 82) và “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3 điều 83). Cùng với sự nhận thức về cơ quan quyền lực tối cao, quyền giám sát theo hiến pháp năm 1992 cũng được mở ra (tuy nhiên về cơ chế giám sát thì hầu như chưa được cụ thể hoá). Toà án nhân dân các cấp với nhiệm vụ bảo đảm pháp chế XHCN, giám sát các hoạt động quản lý Nhà nước thông qua hoạt động xét xử nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước, tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Hoạt động giám sát của Toà án đối với hoạt động quản lý Nhà nước khác với loại hình giám sát khác và của thanh tra ở chỗ: sự giám sát của Toà án chỉ tiến hành thông qua hoạt động xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hành chính, kinh tế… Trong quá trình xét xử hình sự, bên cạnh việc xác định tội phạm, toà án nhân dân còn kiểm tra tính hợp pháp trong hành vi quản lý (bao gồm cả quyết định quản lý) của các cơ quan, người có chức vụ. Quyết định, bản án của Toà án có thể được gửi cho thủ trưởng cơ quan, tổ chức hữu quan. ở nước ta còn có một loại hình giám sát nữa là giám sát của các tổ chức xã hội. Với tư cách là một thành tố của hệ thống chính trị, hoạt động giám sát của các tổ chức xã hội là một bộ phận không thể thiếu được nhằm củng cố kỷ luật, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước (các điều 9, 10 Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, hoạt động này không mang tính quyền lực Nhà nước, các chủ thể giám sát không có quyền áp dụng trực tiếp các biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Kết quả giám sát của các tổ chức xã hội chỉ dừng lại ở mức “kiến nghị, đề nghị”, tức là áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã hội vào hoạt động của đối tượng bị giám sát (sự lên án, phê bình từ xã hội), từ đó đối tượng bị giám sát tự chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong quá trình hoạt động của mình. Hoạt động kiểm soát: Kiểm soát kinh tế quốc dân là tổng thể những hoạt động của nhà nước trong việc phát hiện, xử lý những sai lệch, ách tắc, đổ vỡ những khó khăn vướng mắc cũng như nguy cơ và cơ hội trong quá trình vận hành kinh tế nhằm đảm bảo cho nền kinh tế vận hành theo định hướng kế hoạch và có hiệu quả. Như vậy, chủ thể kiểm soát kinh tế quốc dân là Nhà nước với các cơ quan trong bộ máy của nó. Đối tượng của kiểm soát kinh tế quốc dân bao gồm cả đầu ra, đầu vào và quá trình của nền kinh tế quốc dân. Đầu ra, trước hết, đó là mục tiêu quản lý đã được định tính hoặc định lượng trong kế hoạch. Chẳng hạn, tốc độ tăng GNP hoặc GNP bình quân đâu người đối với mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế… Đầu vào của nền kinh tế cần được kiểm soát có thể là vốn đầu từ cho nền kinh tế, các loại thị trường, thể chế Nhà nước, các nguồn lực cho nền kinh tế, cũng là đối tượng kiểm soát của kiểm soát kinh tế quốc dân. Đó chính là kiểm soát quá trình hoạt động của cả nền kinh tế bao gồm cả hệ thống sản xuất, phân phối trao đổi và tiêu dung, cả hệ thống bị quản lý và hệ thống quản lý. Tiêu chuẩn kiểm soát kinh tế quốc dân là những giới hạn kinh tế quốc dân hay những chỉ tiêu kế hoạch, những mục đích và mục tiêu cũng có thể là quy phạm pháp luật hoặc những giới hạn (hạn mức) đầu vào như lãi suâts, giá cả, tỷ giá hối đoái. Nội dung kiểm soát kinh tế quốc dân bao gồm nhiều hoạt động khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu hoặc mục đích của kiểm soát kinh tế quốc dân. Về tổng thể, để đạt được mục tiêu kiểm soát kinh tế quốc dân, Nhà nước cần thực hiện các chức năng: giám sát kinh tế vĩ mô, dự báo và cảnh báo kinh tế quốc dân, không chế và điều chỉnh kinh tế quốc dân. Mục đích của kiểm soát kinh tế quốc dân không phải là phát hiện những sai lệch kinh tế quốc dân mà là xoá bỏ những sai lệch đó. Nếu trong quá trình vận hành kinh tế quốc dân mọi thống số được diễn ra thoe đúng kế hoạch đó là điều lý tưởng. Không cần sự can thiệp bổ sung nào từ phía Nhà nước mà nền kinh tế vẫn vận hành theo định hướng đã định không có nghĩa Nhà nước không thực hiện chức năng kiểm soát, mà Nhà nước đã thực hiện chức năng kiểm soát một cách có hiệu quả. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp kiểm soát. Bất kỳ một sự vượt quá giới hạn cho phép về các biến lượng kinh tế quốc dân đều là sự biểu hiện không đạt được mục tiêu kiểm soát, dù rằng các hoạt động kiểm soát có được thực hiện hay không. Không nắm được tình hình thì khó có khả năng kiểm soát được. Như vậy, để kiểm soát được, Nhà nước không chỉ nắm được tình hình mà còn có những giải pháp để xoá bỏ sai lệch (đối tượng vận động theo đúng hướng mục tiêu). ở nước ta hiện nay, Nhà nước chưcong hoa xa hoi chu nghia viet nam kiểm soát được nạn tham nhũng trong bộ máy Nhà nước làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế đất nước. Như vậy vai trò của thanh tra, kiểm tra là gì? đối với hoạt động quản lý xã hội nói chung, với nền kinh tế nói riêng. 4. Vai trò hoạt động thanh tra kiểm tra. 4.1. Vai trò của hoạt động thanh tra. Thanh tra trong quản lý không có mục đích nào khác là mục đích phục vụ cho quản lý tốt hơn. Hoạt động thanh tra không mang mục đích tự thân mà là hoạt động gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước. Và không nằm ngoài mục đích của công tác quản lý nhà nước. Bởi thế, ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó cần phải có kiểm tra, thanh tra quản lý nhà nước về lĩnh vực gì thì cần có thanh tra, kiểm tra về lĩnh vực đó. Quản lý đa dạng, phức tạp đến đâu thì thanh tra phải kiểm tra đa dạng, phong phú đến đó. Tiến hành hoạt động thanh tra có nghĩa là để nghiên cứu, thu thập số liệu, đánh giá hoạt động quản lý và mục đích cuối cùng là tìm hiểu kết quả tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Căn cứ vào chủ trương, chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao, so sánh với những nguyên tắc của hoạt động chấp hành và điều hành, tìm nguyên nhân dẫn tới và những ưu điểm, sai sót, đồng thời xác định biện pháp khắc phục những trở ngại hiện ảnh hưởng tới hiệu quả của hệ thống quản lý. 4.1.1. Góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Hoạt động của thanh tra chủ yếu hướng vào giám sát các hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính và của viên chức trong việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhằm tăng cường pháp chế XHCN. “Giám sát tất cả công việc và nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của chính phủ”; và thanh tra là “xem xét sự thi hành chính sách, chủ trương của Chính phủ; thanh tra các Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hanh chính và viên chức về phương diện liêm khiết”. “.. .Là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền dân chủ XHCN”. V.I.Lênin khẳng định vai trò to lớn đối với bộ máy nhà nước của thanh tra: “là công cụ để hoàn thiện bộ máy nhà nước”. Hồ Chủ Tịch cũng chỉ rõ nhiệm vụ của thanh tra là “để theo dõi xem xét các kế hoạch, chỉ thị, chính sách của trung ương Đảng, của chính phủ được thực hiện ra sao, các địa phương đã thực hiện như thế nào... thanh tra giúp trên hiểu biết tình hình địa phương cấp dưới, đồng thời cũng giúp cho các địa phương kịp thời sửa chữa uốn nắn nếu sai hoặc làm chậm”.... 4.1.2. Góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý. Cơ chế quản lý kinh tế – xã hội vừa mang tính thực tiễn, vừa mang tính lịch sử, nó luôn luôn được bổ sung, hoàn thiện trong quá trình tổ chức thực hiện theo sự phát triển kinh tế, xã hội và sự phát triển của nhận thức. Trong nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường thì hoạt động kiểm tra, thanh tra cũng càng không thể tách rời nhiệm vụ quản lý nhà nước. Tổ chức tốt công tác thanh tra, kiểm tra thì dễ lơ là ý thức thường trực trong việc tránh sai lầm và khi đó, các sai lầm trong quản lý sẽ càng trầm trọng hơn khi đã mắc phải. Cơ chế thị trường và vai trò quản lý của Nhà nước là hai yếu tố cần thiết không thể tách rời nhau. Các nước đã qua thời kỳ đầu của phát triển nèn kinh tế thị trường cũng nhận thức được rằng, sự can thiệp bằng pháp luật, bằng sự kiểm tra của Nhà nước là phương tiện quan trọng để hạn chế đến mức thấp nhất các mặt trái do cơ chế thị trường tạo ra như khủng hoảng, mối sinh, môi trường, thất nghiệp. Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, cho nên trong quá trinh xây dựng, hoàn chỉnh thể chế kinh tế mới, thì yêu cầu nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, thiết lập một trật tự, kỷ cương xã hội, kỷ luạt trong bộ máy nhà nước cũng là yêu cầu bức xúc và cực kỳ quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Hoạt động thanh tra là nhằm đảm bảo sự kiểm soát từ phái Nhà nước đối với cách quan hệ trong lĩnh vực kinh tế đang tồn tại và sẽ phát sinh. Hoạt động quản lý luôn luôn có xua hướng biến đổi theo đối tượng và môi trường quản lý. Trong khi đó, sự biến đổi của môi trường và đối tượng quản lý luôn có xu hướng xa dần mục tiêu ban đầu, và làm cho hoạt động quản lý bị quan liêu hoá, đi đến lệch hướng. Để khắc phục xu hướng đó trước hết phải có hoạt động kiểm tra, thanh tra. 4.1.3. Góp phần bảo đảm quyền nhân dân trực tiếp tham gia quản lý nhà nước và thực hiện khiếu nại, tố cáo. V.I.Lênin nhấn mạnh sức mạnh to lớn của quần chúng tham gia giám sát, kiểm tra: “Quần chúng công nhân và nông dân, những người có bổn phận xây dựng toàn bộ Nhà nước của chúng ta hiện nay phải xây dựng công tác kiểm tra của Nhà nước”. Người chỉ rõ: Cần làm sao cho công dân thâm nhập vào tất cả các cơ quan Nhà nước, kiểm soát được tất cả bộ máy nhà nước cần phải làm sao cho đông đảo quần chúng không đảng phái kiểm tra được mọi công việc của Nhà nước và học tập quản lý lấy nhà nước. “Đồng bào có oan ức mới khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyên lợi của họ. Do đó, mối quan hệ giữa nhà nước với Đảng và Chính phủ ngày càng được củng cố tốt hơn”. Từ khi ra đời (tháng 11/1945) thanh tra được thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Pháp lệnh thanh tra (1990), pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân (1991), luật khiếu nại, tố cáo (1998), cũng như các văn bản pháp luật khác đều xác định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân và vai trò của các tố chức thanh tra là một cơ quan Nhà nước chủ yếu bảo đảm cho công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo. Đến nay, vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn đang là những vấn đề bức xúc mà các tổ chức thanh tra có trách nhiệm tham mưu giúp thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền hoặc trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo khi được uỷ quyền. 4.1.4. Góp phân đấu tranh chống tham nhũng, bảo vệ lợi ích của nhà nước, bảo về và xây dựng bộ máy của Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh. Cùng với các cơ quan chức năng kiểm tra, kiểm sát, điều tra theo quy định của pháp luật, các tổ chức Thanh tra Nhà nước có nhiệm vụ trực tiếp tham gia đấu tranh chống tham nhũng. V.I.Lênin đã nói: ở đâu có nạn hối lộ và tham nhũng hoành hành thì ở đó phép nước, kỷ cương xã hội, pháp chế và thanh tra trở thành vô hiệu. Bác Hồ chỉ rõ: Lãng phí, tham ô là két quả mà nguyên nhân là bệnh quan liêu, mệnh lệnh ; “muốn chống bệnh quan liêu, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không chỉ có một cách là khéo kiểm soát”. Vì vậy, các Ban thanh tra phải chống lãng phí, tham ô, quan liêu, mệnh lệnh, bảo vệ tài sản nhà nước, góp phần củng cố bộ máy nhà nước. Ngoài vai trò đảm bảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân chấp hành đúng đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thì thanh tra phải luôn gắn với nhiệm vụ chống tham nhũng, buôn lậu, chống lãng phí trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội an ninh – quốc phòng; trách nhiệm của thanh tra là phát hiện, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, xâm hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. 4.2. Vai trò của kiểm tra. Có rất nhiều nguyên nhân làm cho kiểm tra trở thành chức năng tất yếu của quản lý. Theo H.Fayol: “Trong kinh doanh, kiểm tra là việc kiểm chứng xem mọi việc có được thực hiện theo như kế hoạch đã được vạch ra, theo những chỉ thị, những nguyên tắc đã được ấn định hay không. Nó có nhiệm vụ tìm ra những khuyết điểm và sai lầm để sửa chữa, ngăn ngừa sự vi phạm. Nó đối phó với mọi sự gồm có sự vật, con người và hành động”. Như vậy: - Kiểm tra là nhu cầu cơ bản nhằm hoàn thiện các quyết định trong quản lý. Kiểm tra thẩm định đúng sai của đường lối, chiến lược, kế hoạch, chương trình và dự án; tính tối ưu của cơ cấu tổ chức quản lý; tính phù hợp của các phương pháp mà cán bộ quản lý đã và đang sử dụng để đưa hệ thống tiến tới mục tiêu của mình. - Kiểm tra đảm bảo cho các kế hoạch được thực hiện với kết quả cao. Trong thực tế, những kế hoạch tốt nhất cũng có thể không được thực hiện như ý muốn. Các nhà quản lý cũng như cấp dưới của họ đều có thể mắc sai lầm và kiểm tra cho phép chủ động phát hiện, sửa chữa các sai lầm đó trước khi chúng trở nên nghiêm trọng để mọi hoạt động của hệ thống được tiến hành theo đúng kế hoạch đã đề ra. - Kiểm tra đảm bảo thực thi quyền lực quản lý của những người lãnh đạo hệ thống. Nhờ kiểm tra, các nhà quản lý có thể kiểm soát được những yếu tố sẽ ảnh hưởng đến sự thành công của doanh nghiệp. Điều này rất quan trọng vì mất quyền kiểm soát có nghĩa nhà quản lý đã bị vô hiệu hoá, hệ thống có thể bị lái theo hướng không mong muốn. Kiểm tra cần có “xem các quý vị đang làm gì” nhằm có tác động thích hợp. Ngày nay, với nhu cầu mở rộng dân chủ trong các hệ thống, kiểm tra khuyến khích chế độ uỷ quyền, hợp tác mà không làm giảm khả năng kiểm soát của người lãnh đạo. Trong hệ thống quản lý tập trung trước đây, nhà quản lý xác định cả tiêu chuẩn và phương pháp để đạt được các tiêu chuẩn đó. Trong hệ thống mới, các nhà quản lý thông báo hệ tiêu chuân nhưng họ cho phép nhân viên của mình được vận dung khả năng sáng tạo để quyết định phương pháp giải quyết vấn đề. Quá trình kiểm tra ở đây cho phép nhà quản lý giám sát sự tiến bộ của nhân viên chứ không can thiệp vào công việc và phương hại đến quá trình sáng tạo của họ. - Kiểm tra giúp hệ thống theo sát và đối phó với sự thay đổi của môi trường. Thay đổi thuộc tính tất yếu của môi trường: Các thị trường luôn biến động; các đối thủ cạnh tranh liên tục giới thiệu những sản phẩm và dịch vụ mới để thu hút khách hàng; các vật liệu và công nghệ mới được phát minh; các kế hoạch, chính sách và pháp luật của Nhà nước được ban hành, được điều chỉnh. Chức năng kiểm tra giúp các nhà quản lý luôn nắm được bức tranh toàn cảnh về môi trường và có những phản ứng thích hợp trước các vấn đề và cơ hội thông qua việc phát hiện kịp thời những thay đổi đang và sẽ ảnh hưởng đến sản phẩm và dịch vụ của hệ thống. - Kiểm tra tạo tiền đề cho quá trình hoàn thiện và đổi mới. Với việc đánh giá các hoạt động, kiểm tra khẳng định những giá trị nào sẽ quyết định sự thành công của tổ chức. Những giá trị này sẽ được tiêu chuẩn hoá để trở thành mục đích, mục tiêu, quy tắc, chuẩn mực cho hành vi của các thành viên trong hệ thống. Đồng thời, kiểm tra giúp các nhà quản lý bắt đầu lại chu trình cải tiến mọi hoạt động của hệ thống, thông qua việc xác định những vấn đề và cơ hội cho hệ thống. 4.3. Vai trò của thanh tra, kiểm tra, kiểm sát trong đấu tranh chống tham nhũng. Thực tế cho thấy, thanh tra, kiểm tra là một khâu không thể thiếu của hoạt động quản lý, chỉ đạo và điều hành. Chính vị vậy, tổ chức thanh tra phải là một bộ phận của các cơ quan quản lý chứ không thể đứng ngoài, đứng độc lập như một tổ chức có chức phận riêng lẻ, trọn vẹn được. Hoạt động thanh tra trước hết phải phục vụ yêu cầu, nhiệm vụ của cơ quan quản lý đặt ra (trong nhiều trường hợp đó là yêu cầu của người đứng đầu cơ quan quản lý). Đặc điểm này làm cho hoạt động thanh tra có vai trò, ưu thế mà những cơ quan khác không có. Nhưng cũng từ đặc điểm này mà hoạt động thanh tra bị ràng buôc, bị hạn chế nhất là trong lĩnh vực chống tham nhũng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra giám sát có hiệu quả, tác dụng khi phát hiện các hành vi tham ô, lập quỹ trái phép, vi phạm chế độ quản ly kinh tế – tài chính nhưng các hành vi đó không phải là nhức nhối, khó phát hiện như hành vi nhận hối lộ. Do đó, như đã nói ở trên, cái cốt yếu trong việc đấu tranh ngăn chặn tham nhũng hiện nay là phải ngăn chặn loại trừ bằng được tệ nan hối lộ dưới mọi hình thức. Chương II: tình hình thanh tra, kiểm tra trong thời gian qua và trong giai đoạn hiện nay Một thực tế cho thấy ở nước ta cũng như các nước trên thế giới trong giai đoạn hiện nay là tệ nạn tham nhũng đang tràn lan. Trên bình diện quốc tế hiện nay chưa có một định nghĩa cụ thể về tham nhũng. Có thể định nghĩa như sau: Tham nhũng là hành vi lạm dụng một chức năng trong hành chính. Kinh tế hay chính tri có nguyên cớ do tự bản thân hoặc do người khác gây ra nhằm trục lợi cá nhân, gây nên thiệt hại tài sản hoặc phi tài sản cho toàn bộ cộng đồng hoặc từng doanh nghiệp cụ thể. Do đặc điểm của nền kinh tế thị trường là chạy theo lợi nhuận, nên lợi ích cá nhân đặt lên hàng đầu, do đó mọi người trong xã hội bất chấp mọi thủ đoạn để có thể đạt được mọi lợi ích cho riêng mình. Chính vì vậy, mà có rất nhiều mặt hạn chế: tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường và rất nhiều hậu quả khác nữa. Vì vậy, để khắc phục được khuyết tật của nền kinh tế thị trường nhà nước ta cần phải có một hệ thống các cơ quan thanh tra, kiểm tra chặt chẽ để quản lý xã hội, quản lý Nhà nước. Vậy trong những năm qua, thanh tra, kiểm tra ở nước ta trong giai đoạn hiện nay như thế nào? Để cụ thể chúng ta cùng đi xem xét công tác thanh tra, kiểm tra ở một số nơi, một số ngành. 1. Thanh tra KONTUM góp phần tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước. Đồng chí Võ Văn Đồng – Chánh Thanh tra tỉnh Kontum cho biết: Có thể nói năm 1999 là năm ngành Thanh tra nói chung, Thanh tra tỉnh Kontum nói riêng phải bận rộn với nhiều nội dung công việc như: triển khai Luật khiếu nại, tố cáo, giải quyết các khiếu nại, tố cáo nhằm phục vụ tốt cho công tác bầu cử HĐND các cấp; thực hiện nhiệm vụ thanh tra kinh tế – xã hội theo chương trình kế hoạch đã đề ra, thanh tra diện rông việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. So với lực lượng thanh tra hiện nay, thì khối lượng công việc nói ttrên là không nhỏ. Song được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên và sâu sát của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh cộng với sự lỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra, ngành Thanh tra tỉnh Kontum đã vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Trong năm 1999 toàn ngành đã xem xét, xác minh, kết luận tham mưu để cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giải quyết được 301/318 đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, kết thúc 50/53 cuộc thanh tra kinh tế – xã hội. Qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo đã phát hiện xử lý nhiều sai phạm cũng như chấn chỉnh kịp thời những sơ hở, khiếm khuyết trong cơ chế quản lý, góp phần tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Tuy nhiên điểm nổi bật trong hoạt động thanh tra ở Kontum năm 1999 là ở chỗ đi đôi với công tác thanh tra kinh tế – xã hội đã chú ý đẩy mạnh thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng các cơ quan hành chính Nhà nước; qua các cuộc thanh tra đều có liên hệ giữa thực tiễn khách quan với các chủ trương, chính sách ở tầm vĩ mô, từ đó đóng góp ý kiến trên một số mặt về cơ chế quản lý,._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0200.doc