Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông nghiệp Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI là một trong cách tạo vốn có hiệu quả đối với các nước đang phát triển. FDI được coi như là một trong các “cú hích” quan trọng đặc biệt khi các nước này gặp phải những khó khăn trong quá trình phát triển về vốn, công nghệ, các kinh nghiệm và những kiến thức trong quản lý. Chính vì vậy, trong các chính sách phát triển của mình, các nước đang phát triển đều tạo ra môi trường thu hút thuận lợi. Việt Nam cũng là một trong những nước như thế. Tr

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong những năm vừa qua chúng ta đã lien tục ban hành những chính sách nhằm thu hút FDI và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong thời gian qua, FDI mới chỉ tập trung chủ yếu đối với một số ngành công nghiệp, dịch vụ, còn đối với nông nghiệp, vốn FDI có tăng trong những năm gần đây nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng  số vốn FDI vào nền kinh tế, chưa xứng với tiềm năng phát triển của ngành trong nền kinh tế. Trong khi đó, GDP do nông nghiệp tạo ra vẫn giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu là nông sản, 80% dân số sống ở nông thôn, nguồn sống chính dựa vào nông nghiệp. Vậy thực trạng của tình hình thu hút FDI vào ngành nông nghiệp Việt Nam trong thời gian qua như thế nào? Nguyên nhân chính của vấn đề này là gì? Và chúng ta cần làm thế nào để thu hút một cách có hiệu quả vốn FDI trong Nông nghiệp? Điều này đã và đang trở thành một vấn đề hết sức quan trọng và đang được rất nhiều người quan tâm. Xuất phát từ thực trạng của FDI trong nông nghiệp và tính cấp thiết của vấn đề này, trong bài viết này em xin trình bày những hiểu biết của mình về em “Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông nghiệp Việt Nam”. Do sự hiểu biết còn hạn chế nên bài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô để bài nghiên cứu của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin trân trọng cảm ơn! Chương I : Những vấn đề đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Nông nghiệp Việt Nam. . Đầu tư trực tiếp nước ngòai (FDI) Khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư nước ngoài. Theo hiệp hội luật quốc tế (1996) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó xí nghiệp kinh doanh và dịch vụ”. Cũng có quan điểm cho rằng : “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hang hóa tiêu dùng của nước này mà để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành năm 1987 và đựơc bổ sung hoàn thiện sau 4 lần sửa đổi (1989, 1992, 1996, 2000) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập doanh nghiệp liên doanh hay doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài”, còn theo Luật đầu tư 2005 thì “FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. 1.1.2. Đặc điểm của FDI Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau: - FDI là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định 3đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này không có những ràng buộc về chính trị cũng như không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế của nước tiếp nhận vốn FDI. Mặt khác, quyền lợi của các nhà đầu tư nước ngoài đi liền với dự án đầu tư, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Do đó, nhà đầu tư phải tìm hiểu các điều kiện môi trường và dự kiến lỗ lãi trước khi tiến hành đầu tư, chỉ khi chắc chắn hoạt động kinh doanh tại nước nhận đầu tư sẽ cho kết quả tốt nhà đầu tư nước ngoài mới thực hiện đầu tư. Vì vậy, FDI thường mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, tính khả thi và hiệu quả kinh tế nghiêng về bên nào hơn, nhà đầu tư hay nước nhận đầu tư, phụ thuộc vào lĩnh vực đầu tư. - Tùy vào hình thức chủ thể được thành lập theo giấy phép đầu tư, nhà đầu tư phía nước ngoài có thể trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành các hoạt động của doanh nghiệp FDI tùy theo tỷ lệ góp vốn trong doanh nghiệp liên doanh. Quy định về tỷ lệ góp vốn ở mỗi nước là khác nhau. (Tại Việt Nam, khi liên doanh, số vốn góp của bên nước ngoài phải lớn hơn hoặc bằng 30% vốn pháp định). - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, bí quyết kinh doanh, trình độ quản lý, học hỏi được kinh nghiệm từ những nhà đầu tư nước ngoài,… là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác khó có thể giải quyết được. Đây chính là yếu tố thúc đẩy kinh tế quốc gia tăng trưởng trong thời đại khoa học công nghệ không ngừng phát triển như hiện nay. Đây cũng là vấn đề mà các nước tiếp nhận vốn đầu tư, đặc biệt là các nước đang và kém phát triển, rất quan tâm. - Nhà đầu tư nước ngoài có quyền kiểm soát hoạt động đầu tư. Nó thể hiện quyền sở hữu đối tượng đầu tư và quyền ra các quyết định quan trọng. Cho nên, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi các khoản đóng góp theo quy định của nước chủ nhà, nhà đầu tư nước ngoài nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định. 1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.2.1 Hợp đồng hợp tác kinh doanh Là văn bản ký kết giữa hai bên hay nhiều bên (gọi tắt là các bên hợp doanh) quy định trách nhiệm và kết quả kinh doanh cho mỗi bên (nước ngoài và nước sở tại) để tiến hành kinh doanh ở nước chủ nhà (sở tại) mà không thành lập pháp nhân. Đặc trưng của hình thức này: - Cùng hợp tác kinh doanh trên cơ sở phân chia quyền lợi và nghĩa vụ. - Không thành lập pháp nhân mới. Mỗi bên thực hiện nghĩa vụ với nước chủ nhà theo quy định riêng. 1.1.2.2 Xí nghiệp liên doanh Là hình thức xí nghiệp được thành lập ở nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa bên hoặc các bên nước chủ nhà với bên hoặc các bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà. Đặc trưng của hình thức này : - Là dạng công ty TNHH - Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà - Mỗi bên thường chịu trách nhiệm với bên kia hoặc với liên doanh theo tỷ lệ góp vốn 1.1.2.3 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do người nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Hình thức này có các đặc trưng như : - Là dạng công ty TNHH. - Có tư cách pháp nhân theo luật nước chủ nhà. - Sở hữu hoàn tòan nước ngoài. - Chủ đầu tư nước ngoài tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. 1.1.2.4 BOT ( xây dựng – vận hành – chuyển giao) Là văn bản ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan có thẩm quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng, nâng cấp, khai thác công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (thu hồi vốn và có lợi nhuận hợp lý) sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà. Đặc trưng của hình thức này : - Cơ sở pháp lý là hợp đồng. - Vốn đầu tư của nước ngoài. - Họat động theo dạng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc theo liên doanh. - Đối tượng hợp đồng thường là các công trình cơ sở hạ tầng. 1.1.2.5. Đầu tư mới, mua lại và sát nhập Đầu tư mới: là việc các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở nước ngoài thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư của các nước phát triển đầu tư vào các nước đang phát triển. Mua lại và sát nhập: là hình thức khi các chủ đầu tư thông qua việc mua lại và sát nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh này chủ yếu ở các nước phát triển NICs (các nước công nghiệp mới). 1.1.2.5. Theo quy định của luật pháp Việt Nam Tại Việt Nam, FDI chủ yếu vẫn được thực hiện dưới các hình thức đầu tư mới. Luật Đầu tư được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã công nhận hình thức mua lại và sáp nhập là một hình thức FDI mới, là một điểm bổ sung cho Luật Đầu tư năm 1996. Cụ thể, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài được quy định tại Việt Nam như sau: Thứ nhất là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp được đầu tư bằng 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài, thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do họ thành lập tại nước nhận đầu tư và họ tự quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Xu hướng thành lập doanh nghiệp FDI 100% vốn nước ngoài cũng như chuyển đổi từ hình thức khác sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đang ngày càng gia tăng. Thứ hai là doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh là hình thức FDI khá phổ biến ở Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với nhà đầu tư trong nước để thành lập nên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên, công ty cổ phần, công ty hợp danh có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Các cá nhân, pháp nhân nước ngoài cùng góp vốn với cá nhân, pháp nhân nước sở tại, cùng quản lý, cùng kinh doanh và cùng phân phối lợi nhuận, dựa vào kết quả kinh doanh nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của doanh nghiệp liên doanh phù hợp với khuôn khổ pháp luật của nước sở tại. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp, chia lợi nhuận và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định. Đối với những cơ sở sản xuất quan trọng do Chính phủ quyết định, các bên có thể thoả thuận về tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong liên doanh. Thứ ba là hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT. Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) được áp dụng phổ biến trong lĩnh vực khai thác, thăm dò tài nguyên thiên nhiên như dầu khí, than đá, khoáng sản,… Hợp đồng BCC được ký giữa hai hay nhiều nhà đầu tư để cùng nhau tiến hành hợp tác sản xuất kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm, trong đó các bên thỏa thuận quy định về đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi bên, quan hệ hợp tác và tổ chức quản lý giữa các bên. Hình thức BCC không thành lập nên các pháp nhân. Trong quá trình đầu tư, các bên hợp doanh có thể thoả thuận lập ban điều hành để thực hiện hợp đồng. Hợp đồng Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của nước nhận đầu tư với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để xây dựng, khai thác kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định. Hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, khi xây dựng xong sẽ chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Sau đó nhà đầu tư sẽ được Chính phủ Việt Nam dành cho quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn và lợi nhuận. Đối với hình thức hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao (BT), sau khi xây dựng và chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài sẽ được thanh toán theo thoả thuận trong hợp đồng hoặc được tạo điều kiện thực hiện dự án đầu tư khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. Thứ tư là các hình thức đầu tư trực tiếp khác. Cho đến nay, các hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và đầu tư theo hợp đồng như hợp đồng BCC, BOT vẫn là những hình thức phổ biển, được các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ưa chuộng. Ngoài ra, theo Luật đầu tư của Việt Nam năm 2005 cũng quy định một số hình thức đầu tư trực tiếp khác. Đầu tư phát triển kinh doanh: Những nhà đầu tư nước ngoài đang thực hiện đầu tư tại Việt Nam được phép đầu tư để phát triển hoạt động kinh doanh đó như mở rộng quy mô, nâng cao năng suất, năng lực kinh doanh hoặc đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và giảm ô nhiễm môi trường. Góp vốn mua cổ phẩn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư: Nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có quyền góp vốn, mua cổ phần của các công ty chi nhánh tại Việt Nam. Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư được Chính phủ Việt Nam quy định cụ thể đối với một số ngành và lĩnh vực. Khi đó, nhà đầu tư sẽ có quyền tham gia quản lý hoạt động của công ty mà mình góp vốn và mua cổ phần, đồng thời phải thực hiện đúng những nghĩa vụ quy định về tỷ lệ vốn góp, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường của các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Mua lại và sáp nhập (M&A): Tại Việt Nam, hình thức mua lại và sáp nhập mới được công nhận và quy định trong Luật đầu tư 2005. Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài phải tuân thủ các quy định của Luật doanh nghiệp, điều kiện tập trung kinh tế và pháp luật về cạnh tranh. Đây là một điểm mới trong nỗ lực cải thiện môi trường luật pháp để thu hút tối đa dòng vốn FDI từ các công ty đa quốc gia, đồng thời có thể nắm bắt được xu hướng tất yếu của dòng đầu tư quốc tế. 1.1.3 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của cá nước đặc biệt là các nước là các nước đang phát triển. Ảnh hưởng của FDI đã tác động trên cả ba mặt : kinh tế, chính trị , xã hội. 1.1.3.1. ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế. FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn – ngoại tệ của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Hầu hết các nước đang phát triển đều rơi vào “ vòng luẩn quẩn” đó là : thu nhập thập dẫn đến tiết kiệm thấp, vì đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt xích của “vòng luẩn quẩn”này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động…Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn trong nước thì hậy quả khó tránh khỏi tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó, vốn nước ngoài sẽ là một “ cú hích” để góp phần phá vỡ vòng luẩn quẩn đó. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa, FDI còn là một nguồn quan trọng không chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì FDI góp phần nhằm tăng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngọai tệ từ các họat động dịch vụ phục vụ cho FDI. 1.1.3.2 ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ. FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Chuyển giao công nghệ thông qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các TNCs, dưới hình thức: chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một TNCs và chuyển giao giữa các chi nhánh TNCs. Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nước ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing. Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thông qua FDI các TNCs còn góp phần tích cực đối với tăng trưởng năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các họat động nghiên cứu và phát triển của các chi nhánh TNCs ở nước ngoài là cải biến công nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vậy, các họat động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp ĐTNN đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển công nghệ địa phương. Mặt khác, trong quá trình sử dụng công nghệ nước ngòai, các nàh đầu tư và phát triển công nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo…. công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của mình. Nhờ có những tác động tích cực trên, khả năng thành công của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy được tăng trưởng. 1.1.3.3 ĐTNN góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới. Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh : xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất, nhập khẩu bổ sung các hàng hóa, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng, xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức marketing cho các doanh nghiệp nội địa và lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới bởi vì, hầu hết các họat động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng đúng hẹn…. 1.1.3.4 ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN FDI mở rộng các nguồn thu thuế ở nước chủ nhà và đóng góp cho nguồn thu của chính phủ. Thậm chí trong trường hợp nếu các nhà đầu tư nước ngoài được miễn thuế thông qua các chính sách ưu đãi đầu tư thì chính phủ vẫn có được nguồn thu gia tăng từ việc trả thuế thu nhập cá nhân bởi vì FDI tạo ra các việc làm mới, ngoài ra, nếu FDI định hướng xuất khẩu tạo ra khoản thu ngoại tệ. 1.1.3.5 ĐTNN góp phần phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động. Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các họat động sản xuất, các vấn dề xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các lĩnh vực : sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng trưởng. FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra những cơ hội việc làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nứơc ngoài mua hàng hóa dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, họăc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế biến. Thông qua khoản trợ giúp tài chính họăc mở các lớp đào tạo dạy nghề, FDI còn góp phần quan trọng đối với phát triển giáo dục của nước chủ nhà trong các lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp một số thiết bị giảng dạy cho các cơ sở giáo dục của nước chủ nhà, tổ chức các chương trình phổ cập kiến thức cơ bản cho người lao động bản địa làm việc trong dự án (trong đó có nhiều lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài ). Đây là các tác động kép của FDI đối với nền kinh tế : tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó. 1.1.4 . Những nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI Môi trường đầu tư nước ngoài là một trong yếu tố đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp tới việc thu hút FDI, nó là tổng hòa các yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài ở nước nhận đầu tư. Nó bao gồm các yếu tố về tình hình chính trị, chính sách – pháp luật, vị trí địa lý- điều kiện tự nhiên, trình độ phát triển kinh tế, đặc điểm văn hóa – xã hội. 1.1.4.1 Tình hình chính trị Tình hình ổn định chính trị của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng hàng đầu để thực hiện các cam kết bảo đảm an toàn sở hữu tài sản và các khuyến khích đầu tư cho các nhà đâu tư nước ngoài. Mặt khác, sự ổn định về chính trị còn là tiền đề cần thiết để ổn định tình hình kinh tế xã hội, nhờ đó giảm rủi ro cho các nhà đầu tư. Một nước không thể thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài nếu tình hình chính trị luôn luôn mất ổn định. 1.1.4.2. Chính sách, pháp luật Các nhà đầu tư nước ngoài rất cần một môi trường pháp lý hợp lý và ổn định của nước chủ nhà. Môi trường này gồm những chính sách, quy định đối với đầu tư nước ngoài và tính hiệu lực của chúng trong thực hiện. Một môi trường pháp lý hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài nếu có các chính sách, quy định hợp lý và tính hiệu lực cao trong thực hiện. Đây là những căn cứ pháp lý quan trọng không chỉ để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn chính các nhà đàu tư trong nước khi tính đến làm ăn lâu dài. 1.1.4.3 Trình độ phát triển kinh tế. Trình độ phát triển của nền kinh tế là các mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, chất lượng cung cấp dịch vụ cho các họat động kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài và mức độ cạnh tranh của thị trường nước chủ nhà. Những nước có trình độ quản lý vĩ mô kém thường dẫn đến tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngòai lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, các thủ tục hành chính rườm rà, nạn tham nhũng… Cơ sở hạ tầng cứng bao gồm các yếu tố như sân bay, cảng biển, giao thông, điện lực, viễn thông, còn cơ sở hạ tầng mềm bao gồm chất lựơng lao động, dịch vụ công nghệ, hệ thống tài chính. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và dịch vụ sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và giảm chi phí phát sinh cho các họat động đầu tư. 1.1.4.5 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ giảm các chi phí vận chuyển, đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư, cung cấp được nguồn nguyên liệu đầu vào phong phú với giá rẻ và tiềm năng tiêu thụ lớn. Những yếu tố này không những làm giảm được giá thành sản phẩm mà còn thu hút được các nhà đầu tư tìm kiếm nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ. 1.1.4.6 Đặc điểm văn hóa, xã hội Đặc điểm văn hóa, xã hội của nước chủ nhà được coi là hấp dẫn đầu tư nước ngoài nếu có trình độ giáo dục cao và nhiều sự tương đồng về ngôn ngữ, tôn giáo, các phong tục tập quán với các nhà đầu tư nước ngoài. Các đặc điểm này không chỉ giảm được chi phí đào tạo nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho họ hòa nhập vào cộng đồng nước ngoài. 1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam 1.2.1 Nông nghiệp Nông nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nông nghiệp. Theo nghĩa hẹp nông nghiệp gồm có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ trong nông nghiệp – các hoạt động liên quan đến việc trồng cấy và đầu tư canh tác trên đất nhằm mục đích sản xuất ra sản lượng lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu của con người. Như vậy đối tượng chính của của nông nghiệp theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm loại cây trồng được thuần hóa canh tác trên đất. Còn hiểu theo nghĩa rộng nông nghiệp bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngành thủy sản. Vì thế đối tượng của nông nghiệp được mở rộng sang cả các loại vật nuôi trên cạn và dưới nước. Các đối tượng này là những sinh vật sống, tiến hóa trong lịch sử đa phần được con người chọn lọc và cải tạo theo mục đích mà con người mong muốn. Khác với ngành sản xuất khác, các đối tượng của ngành nông nghiệp cần phải được cấy và phát triển trên đất trong điều kiện sinh trưởng phát triển của các quy luật tự nhiên. Vì thế mà nông nghiệp luôn gắn chặt với điều kiện về đất đai và khí hậu thời tiết ở mỗi vùng, địa phương cụ thể. Các họat động nông nghiệp được thực hiện chủ yếu bởi các hoạt động canh tác và chăn nuôi, những người nông dân, một lực lượng lao động chủ yếu ở nông thôn và những kiến thức, kỹ năng canh tác của họ để làm ra các sản phẩm nông sản phục vụ nhu cầu của chính họ và xã hội. Càng ngày, những hiểu biết và kỹ năng canh tác của con người càng phát triển và hoàn thiện. Để nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi nhằm sản xuất ra sản lượng lương thực, thực phẩm ngày càng nhiều phục vụ nhu cầu xã hội, con người đã không ngừng tăng cường đầu tư phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh, cải tiến các quy trình kỹ thuật thâm canh cây trồng vật nuôi. 1.2.2 Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân Sản xuất nông nghiệp không những cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm mà còn sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại tệ. Hiện nay, nông nghiệp ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực của quốc gia. Nông nghiệp có những vai trò sau : 1.2.2.1 Cung cấp lương thực, thực phẩm nuôi sống con người Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản giữ vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, và trong việc đảm bảo an ninh lương thực của các quốc gia. Không chỉ đóng vai trò quan trọng ở các nước đang phát triển, mà ngay cả những nước có nền công nghiệp phát triển cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông sản của các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ cho đời sống của con người những sản phẩm tối cần thiết. Đặc biệt ngày nay khi xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao; nhất là do tác động của các nhân tố gia tăng dân số thì nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại, vì thế yêu cầu phát triển nông nghiệp vẫn đóng vai trò hàng đầu trong quá trình phát triển. 1.2.2.2 Cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành kinh tế khác Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công nghiệp, dịch vụ và khu vực thành thị. Điều đó được thể hiện ở các mặt sau: - Sản phẩm nông nghiệp được sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến thực phẩm, một phần cho công nghiệp da giầy, dệt may, sản xuất một số sản phẩm dùng trong ngành y tế, hàng không,… Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp được tăng lên, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hóa, mở rộng thị trường,… Ở Việt Nam hiện nay, khi mà các ngành công nghiệp chế tạo còn phát triển ở mức độ hạn chế do yêu cầu về vốn, thì ngành công nghiệp chế biến chiếm một tỷ trọng lớn, và vì thế ngành nông nghiệp lại càng có vai trò quan trọng với các ngành công nghiệp này. - Lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt ở các nước đang phát triển, là khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị. Trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, phần lớn dân cư có họat động kinh tế chủ yếu bằng nghề nông và tập trung sống ở khu vực nông thôn. Vì thế, khu vực nông nghiệp, nông thôn thực sự là nguồn dự trữ nhân lực dồi dào cho sự phát triển công nghiệp và đô thị. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, một mặt tạo ra nhu cầu lớn về lao động, mặt khác nhờ đó mà năng suất lao động nông nghiệp không ngừng tăng lên, lực lượng lao động từ nông nghiệp được giải phóng ngày càng nhiều, số lao động này dịch chuyển, bổ sung cho phát triển công nghiệp và đô thị. Đó là xu hướng có tính chất quy luật của mọi quốc gia trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4.3. Nông nghiệp và nông thôn là thị truờng tiêu thụ lớn của công nghiệp và dịch vụ Hầu hết ở các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng được tiêu thụ chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ nông nghiệp, nâng cao thu nhập cho dân cư nông nghiệp, làm tăng sức mua khu vực nông thôn sẽ làm cho cầu về sản phẩm công nghiệp tăng, thúc đẩy công nghiệp phát triển, từng bước nâng cao chất lượng để có thể cạnh tranh với thị trường thế giới. 4.4. Nông nghiệp góp phần tăng thu ngoại tệ nhờ xuất khẩu nông sản Đối với các nước đang phát triển, nông nghiệp được coi là ngành đem lại nguồn thu nhập ngoại tệ lớn. Các loại nông, lâm, thủy sản dễ dàng gia nhập thị trường quốc tế hơn so với các hàng hóa công nghiệp. Vì thế, ở các nước đang phát triển, nguồn xuất khẩu để có ngoại tệ chủ yếu là dựa vào các loại nông – lâm – thủy sản. Xu hướng chung ở các nước trong quá trình công nghiệp hóa, trong giai đoạn đầu giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và tỷ trọng đó sẽ giảm dần cùng với sự phát triển cao của nền kinh tế. Là một nước nông nghiệp, kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó có nhiều sản phẩm chiếm giữ mức kim._. ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD như gạo, cà phê, cao su… Dó đó, nông nghiệp vẫn là ngành xuất khẩu quan trọng để tăng thu ngoại tệ về cho đất nước. Trong những năm trở lại đây kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam ngày càng tăng nhanh trong đó kim ngạch xuất khẩu năm 2004 là 26003 nghìn USD, năm 2006 là 39605 nghìn USD, năm 2007 là 48387 nghìn USD. 4.5. Góp phần bảo vệ môi trường sinh thái Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn tới môi trường sinh thái, và là cơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường. Phát triển nông nghiệp đúng hướng, nông nghiệp sạch, sử dụng đất có hiệu quả gắn với chống lãng phí tài nguyên đất, đồng thời phát triển các nông – lâm trường theo hướng kinh doanh trang trại sẽ góp phần cải thiện môi trường sống, ngăn ngừa thiên tai, và hướng tới phát triển bền vững. 1.2.3 Đặc điểm của ngành nông nghiệp Ngành nông nghiệp là một ngành có lịch sử lâu đời nhất trong lịch sử phát triển của loài người, gắn với quá trình phát triển của loài người tư xưa đến nay. Đây cũng là ngành có những nét đặc biết so với các ngành kinh tế khác, những đặc điểm đó được thể hiện: 1.2.3.1 Sản xuất của ngành nông nghiệp phụ thuộc vào yếu tố tự nhiên Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Ở đâu có đất và lao động thì có thể tiến hành sản xuất nông nghiệp ở đó. Thế nhưng, ở mỗi vùng, mỗi quốc gia có điều kiện đất đai và thời tiết, khí hậu rất khác nhau. Lịch sử hình thành các loại đất, quá trình khai phá và sử dụng các loại đất ở các địa bàn có địa hình khác nhau, ở đó diễn ra các hoạt động nông nghiệp cũng không giống nhau. Điều kiện thời tiết khí hậu với lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng,… trên từng địa bàn gắn rất chặt chẽ với điều kiện hình thành và sử dụng đất. Điều kiện đất đai, khí hậu không giống nhau giữa các vùng đã làm cho nông nghiệp mang tính khu vực rất rõ nét. Vì vậy khi tiến hành sản xuất nông nghiệp cần phải chú ý các vấn đề kinh tế - kỹ thuật như tìm hiểu vùng quy hoạch bố trí sản xuất cây trồng phù hợp, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, các hệ thống chính sách kinh tế phù hợp với điều kiện từng vùng, từng khu vực nhất định. 2.2. Sản xuất nông nghiệp gắn liền với ruộng đất Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng mỗi ngành nó có một vai trò khác nhau. Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Điều này có nghĩa là không có đất đai thì không có sản xuất nông nghiệp; nhờ có đất mới phát huy được hiệu quả của các yếu tố đầu vào khác. Tuy nhiên, hiện nay do quá trình đô thị hóa,và khai thác của con người, không ngừng tăng lên nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình, ruộng đất càng ngày bị giới hạn về mặt diện tích. Chính vì thế trong quá trình sử dụng phải biết quý trọng ruộng đất, sử dụng tiết kiệm, hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp sang xây dựng cơ bản, tìm mọi biện pháp để cải tạo và bồi dưỡng đất làm cho ruộng đất ngày càng màu mỡ hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm trên mỗi đơn vị diện tích với chi phí thấp nhất trên đơn vị sản phẩm. 2.3. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng và vật nuôi Các loại cây trồng và vật nuôi phát sinh, phát triển theo quy luật sinh học (sinh trưởng, phát triển và diệt vong). Do là cơ thể sống nên chúng rất nhạy cảm với yếu tố ngoại cảnh. Mọi sự thay đổi về điều kiện thời tiết, khí hậu đều tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, đến kết quả thu hoạch sản phẩm cuối cùng. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất cho chu trình sản xuất sau. Vì vậy để chất lượng giống cây trồng và vật nuôi tốt hơn, đòi hỏi phải thường xuyên chọn lọc, bồi dục các giống hiện có, nhập nội những giống cây tốt, tiến hành lai tạo để tạo ra những giống cây mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thích hợp với điều kiện từng vùng và từng địa phương. 2.4. Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao Đây là đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp. Nguyên nhân của tính thời vụ trong nông nhiệp là xuất phát từ chính quá trình sản xuất của nông nghiệp. Do quy luật phát triển sinh học, điều kiện thời tiết, khí hậu, nhiệt độ, ánh sang, lượng mưa, độ ẩm của mỗi loại cây trồng là khác nhau, vì thế cần có sự chăm sóc khác nhau vào từng giai đoạn phát triển. Hơn nữa, chu kỳ sản xuất trong ngành nông nghiệp là kéo dài; không như các ngành khác có chu kỳ sản xuất ngắn, chu kỳ của ngành nông nghiệp thường là 3 - 4 tháng, 1 năm hoặc thậm chí là 5 năm hay lâu hơn nữa ( cà phê, tiêu, điều, các loại cây ăn quả lâu năm…). Vì thế để họat động nông nghiệp diễn ra một cách thuận lợi cần phải có giải pháp tổ chức lao động hợp lý, cung ứng vật tư – kỹ thuật kịp thời, trang bị công cụ, máy móc thích hợp, đồng thời phải coi trọng việc bố trí cây trồng hợp lý, phát triển ngành nghề dịch vụ, tạo thêm việc làm ở những thời điểm nông nhàn. 2.5 Khả năng sinh lợi trong ngành nông nghiệp là không cao. Yếu tố này được quyết định bởi tính chất của hoạt động sản xuất nông nghiệp. Chu kỳ sản xuất dài, giá trị sản phẩm nông nghiệp không cao, sản phẩm chủ yếu là hàng thứ cấp, giá cả không ổn định; lại phụ thuộc vào tự nhiên nên không thể lường trước được kết quả sản xuất kinh doanh. Nếu được mùa, giá cả nông sản sẽ giảm theo quy luật cung cầu, nếu mất mùa, giá tăng nhưng tính ra nông dân cũng không được lợi do sản lượng thấp. Nếu muốn tăng giá trị cho nông sản thì phải kéo dài chuỗi giá trị của nó, tức là gắn liền với công nghiệp chế biến. Bên cạnh đó, nền nông nghiệp Việt Nam cũng có những đặc điểm riêng. Hơn nữa một trong các yếu tố làm khả năng sinh lời trong ngành nông nghiệp sinh lời thấp là do sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, không tập trung, mang tính tự cung tự cấp do thói quen canh tác lâu đời, năng suất thấp do chủ yếu là lao động chân tay. Ruộng đất canh tác thì đang giảm đi nhanh chóng do nhiều nguyên nhân trong đó có sự phát triển nhanh của quá trình đô thị hóa, cũng một phần do công tác quy hoạch chưa cao. Khí hậu tự nhiên của Việt Nam lại rất khắc nghiệt do nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, gây ảnh hưởng và tổn thất không nhỏ cho sản xuất nông nghiệp. Mục đích của các nhà đầu tư luôn là lợi nhuận cao, thu hồi vốn nhanh. Nhưng do đặc điểm của ngành nông nghiệp mà việc thu hút đầu tư vào ngành vẫn còn gặp nhiều hạn chế, vốn đầu tư thu hút vào nông nghiệp có tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với các ngành khác. 1.2.4. Đặc điểm của đầu tư phát triển ngành nông nghiệp Việt Nam Đầu tư phát triển nông nghiệp thường có thời gian thu hồi vốn dài hơn đầu tư vào các ngành kinh tế khác và nguyên nhân chủ yếu để gây ra hiện tượng này đó là thời gian thu hồi vốn trong nông nghiệp kéo dài hơn các ngành khác. Cụ thể là Tính sinh lời của sản xuất kinh doanh nông nghiệp trong điều kiện hiện nay thường thấp hơn các ngành khác Chu kỳ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp thường dài, năng suất lao động nông nghiệp lại thấp. Thời gian khấu hao của TSCĐ trong nông nghiệp thường kéo dài hơn so với các ngành kinh tế khác. + Do đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi,….. ngoài các yếu tố con người, máy móc thiết bị còn phụ thuộc vào rất nhiều vào yếu tố tự nhiên nên độ rủi ro cao hơn các ngành khác. + Tính rủi ro và kém ổn định của sản xuất kinh doanh nông nghiệp, một mặt ảnh hưởng tới thời gian thu hồi vốn đầu tư trong nông nghiệp, mặt khác ảnh hưởng tới thời gian thu hồi vốn đầu tư của ngành kinh tế nông thôn có sử dụng nguyên liệu nông nghiệp hoặc liên quan tới nông nghiệp. + Họat động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhất là trong nông nghiệp thường diễn ra trên phạm vi rộng lớn. Phần lớn các họat động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có phạm vi không gian rộng lớn hơn trong các lĩnh vực khác. Chính vì điều này lại làm tăng tính phức tạp của việc quản lý điều hành các công việc của thời kỳ đầu tư xây dựng các công trình cũng như thời kỳ khai thác các công trình đầu tư. 1.2.5 Sự cần thiết của việc thu hút FDI vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam Cũng như đối với nền kinh tế nói chung, vài trò của nguồn vốn FDI đối với ngành nông nghiệp cũng rất quan trọng, thể hiện: 1.2.5.1 Bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp. FDI là nguồn bổ sung vốn cho quá trình phát triển khi mà nguồn trong nước không đủ đáp ứng nhu cầu, đối với ngành nông nghiệp nó lại có vai trò quan trọng hơn khi do đặc điểm của ngành nông nghiệp mà nguồn vốn vào ngành này lại càng trở nên ít ỏi. Trong 5 năm từ năm 2002 đến 2007, tổng vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn khoảng 113.116 tỷ đổng, chỉ đáp ứng được 17% nhu cầu, và chiếm một con số khiêm tốn trong tổng đầu tư cả nước (8.7%), chưa kể số vốn sử dụng chưa hiệu quả. Như vậy, nhu cầu vốn cho phát triển nông nghiệp là rất lớn nhưng nguồn trong nước vẫn chưa đáp ứng được. Đặt ra vấn đề phải tăng cường thu hút vốn từ nước ngoài vào. Hiện nay, tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài vào trong ngành nông nghiệp là chưa cao (chiếm tỷ trọng khoảng 6,7% tỷ trọng vốn đầu tư FDI đăng ký cả nước) nhưng vẫn là nguồn lớn hỗ trợ cho nông nghiệp nước nhà. 1.2.5.2 Góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, đa dạng hóa, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian gần đây. Tuy các dự án đầu tư FDI vào nước ta là không lớn (khoảng hơn 950 dự án nông nghiệp trên cả nước so với tổng 8900 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài cả nước) và số vốn mỗi dự án còn hạn chế nhưng các dự án này đã tạo ra công ăn việc làm, thu nhập ổn định cho khoảng 75 nghìn lao động trực tiếp tham gia cho các nhà máy, các khu chế xuất…, đồng thời còn giúp hàng vạn hộ nông dân tham gia lao động tạo nguồn nguyên liệu thường xuyên cho dự án hoặc theo mùa vụ (trồng mía đường, khoai mì…), góp phần quan trọng thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo. Tính trung bình, ĐTNN vào nông nghiệp nói chung tạo ra tỷ lệ việc làm gián tiếp so với việc làm trực tiếp rất cao 34,5/1. Đặc biệt, ở một số địa phương, dự án ĐTNN tạo việc làm cho khoảng 1/4 dân cư trên địa bàn. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đã góp phần nâng cao năng suất của người lao động, người lao động làm việc có ý thức, kỷ luật cao hơn. 1.2.5.3 Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp tạo điều kiện khám phá thị trường nông sản của nước ta. Nguồn vốn FDI cũng tạo điều kiện cho nông sản nước ta có cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có lợi thế về hệ thống phân phối của họ trên thị trường thế giới. Khi có sự tham gia của họ vào ngành nông nghiệp, mở ra nhiều cơ hội cho nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới, nâng cao chất lượng nông sản, và từ đó lại giúp nước ta khai thác, tận dụng được những lợi thế của mình và tiếp tục phát triển . Đồng thời, với các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài, thì giá trị của nông sản cũng được nâng cao, tăng thêm giá trị xuất khẩu, làm tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. 1.2.5.4 Góp phần nâng cao việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên của ngành nông nghiệp. Việc tăng cường thu hút vốn đầu tư vào ngành nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho ngành sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên đất - rừng - sông, hồ, biển… do có điều kiện đầu tư cho sản xuất, giảm thiểu tình trạng lãng phí tài nguyên đang diễn ra ở nhiều nơi do không có điều kiện đầu tư hoặc sử dụng không đúng cách. Hơn thế nữa, việc tăng cường đầu tư cũng góp phần khai thác thế mạnh của vùng, tạo nên sản phẩm mang tính đặc sản, vừa nâng cao giá trị sản phẩm, vừa sử dụng tối đa nguồn tài nguyên nông nghiệp. Như vậy, ta có thể thấy rằng, là một ngành kinh tế chính của đất nước, nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng đối với cả kinh tế lẫn trong cả đời sống xã hội. Tuy nhiên, do những đặc điểm gắn liền với cách thức sản xuất của ngành mà ngành nông nghiệp vẫn chưa có được sự đầu tư thích đáng cho nhu cầu phát triển. Chính vì vậy, để phát triển nông nghiệp trong thời gian tới, yêu cầu của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thu hút công nghệ khoa học kỹ thuật hiện đại vào phát triển ngành là một trong yêu cầu tất yếu hiện nay. Vì vậy Việt Nam cần đưa ra những chính sách, biện pháp, phương hướng nhằm thúc đẩy, tăng cường thu hút vốn FDI vào ngành nông nghiệp. 1.2.6 Các nhân tố ảnh hưởng thu hút FDI vào ngành nông nghiệp Do những đặc điểm khác biệt của sản xuất nông nghiệp, việc thu hút FDI vào ngành nông nghiệp cũng phải chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau. Các nhân tố này đều có tác động trực tiếp tạo ra những khó khăn và thuận lợi trong việc thu hút FDI vào nông nghiệp, thể hiện : 1.2.6.1 Đất đai Đất đai là cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất để tiến hành trồng trọt, chăn nuôi. Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất có ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, năng suất và sự phân bố cây trồng, vật nuôi. Nguồn tài nguyên đất nông nghiệp trên thế giới rất hạn chế, chỉ chiếm khoảng 12% diện tích đất tự nhiên, trong khi số dân vẫn không ngừng tăng lên. Tuy diện tích đất hoang hóa còn nhiều, nhưng việc khai hoang, mở rộng diện tích đất nông nghiệp rất khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và tiền của. Đó là chưa kể đến việc mất đất do nhiều nguyên nhân như xói mòn, rửa trôi, nhiễm mặn và chuyển đổi mục đích sử dụng. Vì vậy, con người cần phải sử dụng hợp lý diện tích đất nông nghiệp hiện có và bảo vệ độ phì của đất. 1.2.6.2 Dân cư và nguồn lao động Dân cư và nguồn lao động ảnh hưởng tới hoạt động nông nghiệp ở hai mặt: vừa là lực lượng sản xuất trực tiếp vừa là nguồn tiêu thụ các nông sản. Các cây trồng và vật nuôi cần nhiều công chăm sóc đều phải phân bố ở những nơi đông dân, có nhiều lao động; có nhiều loại cây trồng và vật nuôi lại cần hàm lượng kỹ thuật cao. Chính vì vậy, việc phân bố nguồn lao động và lao động có tay nghề cao ảnh hưởng tới sự phân bố và phát triển các loại cây trồng vật nuôi. Truyền thống sản xuất, tập quán ăn uống của các dân tộc ở mỗi vùng miền, mỗi đất nước có sự khác nhau: các nước Hồi giáo không ăn thịt lợn, ấn Độ không ăn thịt bò,... Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nuôi con gì, trồng cây gì để không làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các dân tộc, tôn giáo trong cùng một địa phương, một khu vực, một đất nước. 1.2.6.3. Cơ sở hạ tầng Đây là một nhân tố được các nhà đầu tư đánh giá cao trong khi cân nhắc việc đầu tư vào một thị trường nào đó. Vì kết cấu hạ tầng vật chất tốt đồng nghĩa với việc thuận lợi trong kinh doanh, liên lạc, vận chuyển hàng hóa, và kết quả là giảm chi phí kinh doanh. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống điện, nước, đường xá, hệ thống thủy lợi. Ngoài ra nhà đầu tư còn quan tâm tới các hệ thống dịch vụ như bưu điện,ngân hàng,... các dịch vụ khác.... 1.2.6.4. Thủ tục hành chính Những thủ tục thông thoáng trong quá trình cấp giấy phép, triển khai dự án và quản lý dự án giúp cho các doanh nghiệp có vốn FDI tiết kiệm không nhỏ thời gian và tiền bạc cho nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình thực hiện một dự án, do đó nhanh chóng đưa được dự án đi vào hoạt động. Với việc sớm đi vào hoạt động, các sảm phẩm sẽ sớm ra đời, giúp các nhà đầu tư chiếm lĩnh thị trường, tăng sức cạnh tranh khiến dự án đầu tư trở nên có lãi, là cơ sở quan trọng để các nhà đầu tư nước ngoài xem xét để đầu tư hay không, và cũng là cơ sở đầu tiên đảm bảo cho nước chủ nhà có thể thu được các khoản thuế 1.2.6.5. Thị trường sản phẩm. Thị trường sản phẩm tạo ra đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp đảm bảo cho họat động của các DN diễn ra một cách thuận lợi, quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Một thị trường sản phẩm lớn, hướng ra xuất khẩu, vừa khuyến khích được các nhà đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa nâng cao được thương hiệu của sản phẩm, từ đó lại khuyến khích thu hút đầu tư. Do đặc điểm sản xuất nông nghiệp ở các nước khác nhau là khác nhau nên cây trồng vật nuôi lẫn việc chăm xóc cũng khác nhau, việc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành nông nghiệp Việt Nam cũng rất hạn chế. Không như công nghiệp, để sản xuất ra được một sản phẩm nông nghiệp mới ở một nước cần rất nhiều thời gian. (trồng thử, ít nhất cùng 3 vụ) nếu thành công thì không có vấn đề gì, nhưng không thành công thì nhà đầu tư sẽ mất rất nhiều. Các quốc gia muốn phát triển bền vững họ đều đặt vấn đề an ninh lương thực lên hàng đầu. Muốn phát triển công nghiệp, dịch vụ, xã hội thì cần đảm bảo được lương thực. Các nước công nghiệp phát triển ngoài việc nhập khẩu lương thực thì họ còn có rất nhiều biện pháp hỗ trợ cho ngành nông nghiệp phát triển. Mặt khác tỷ lệ người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp của các nước phát triển là rất thấp (có thể dẫn chứng bằng số liệu). Người lao động ít, tỷ lệ sử dụng đất của người nông dân cao, hưởng những ưu đãi của chính phủ……. Tỷ trọng sản phẩm của họ chiểm tỷ trọng rất nhỏ…. Họ không có khả năng đầu tư ở nước ngoài. Cái này khó diễn đạt quá Chương II : Thực trạng thu hút FDI vào nông nghiệp ở Việt Nam 2.1 Tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong ngành nông nghiệp Việt Nam 2.1.1 Số lượng, quy mô, tốc độ tăng của FDI vào nông nghiệp. Trong những năm vừa qua tình hình thu hút FDI vào nông nghiệp đã tăng lên một cách đáng kể. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn từ năm 1998 đến tháng 8/2008 khu vực nông nghiệp có 966 dự án (831 dự án nông lâm nghiệp; 135 dự án thuỷ sản). Vốn đầu tư khoảng 4.682 triệu USD, tổng vốn điều lệ khoảng 2.236 triệu USD. Trong 831 dự án nông - lâm - nghiệp, vốn đầu tư là 4.222 triệu USD, vốn điều lệ là 1.977 triệu USD. 135 dự án thuỷ sản, vốn đầu tư là 460 triệu USD, vốn điều lệ là 258 triệu USD. Tuy nhiên trong 10 năm qua (từ năm 1998 – 2008), FDI trong nông nghiệp chỉ chiếm 10,7% tổng số dự án FDI cả nước với 966 dự án và số vốn đầu tư đăng ký trong lĩnh vực này khoảng 5,24% vốn đầu tư trong cả nước (từ 1998-12/2007).  Cơ cấu vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ngày càng có xu hướng giảm, nhất là trong 3 năm gần đây. Năm 2006, vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 6% tổng vốn đăng ký đầu tư, năm 2007 là 5,24%, nhưng đến tháng 11.2008 chỉ đạt 3,3%. Bảng số liệu về nguồn vốn của DN FDI vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy hải sản từ năm 2000-2006 và tổng số vốn đầu tư FDI vào tất cả các ngành Đơn vị : tỷ đồng Năm Ngành nông, lâm nghiệp, thủy hải sản. Tổng số vốn FDI vào Việt Nam Tỷ trọng thu hút vốn FDI của ngành nông nghiệp so với tổng số FDI thu hút vào Việt Nam 2000 1486 240235 0.618% 2001 1596 267955 0.595% 2002 1803 308196 0.585% 2003 2066 368788 0.560% 2004 2448 449274 0.545% 2005 2645 527964 0.501% 2006 2679 655456 0.409% ( Nguồn : Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 7 năm đầu thế kỷ XXI) Trong những năm vừa qua, tổng số vốn FDI thu hút vào Việt Nam tăng đều qua các năm như năm 2006 – 2007 tổng số vốn FDI là 32.3 tỷ USD, năm 2008. Tuy nhiên dòng vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp chế biến, và một số ngành dịch vụ trong khi đó những ngành thuộc khu vực sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản chưa thu hút đựơc dự án đầu tư nước ngoài. Bảng số liệu về tỷ trọng lao động, vốn và doanh thu của các DN FDI vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tại Việt Nam (đơn vị tính : %) Trong đó tổng số FDI là 100% Tỷ trọng lao động Tỷ trọng vốn Tỷ trọng doanh thu Năm 2000 2006 2000 2006 2000 2006 Nông, lâm nghiệp 0.7 0.3 0.6 0.3 0.3 0.3 Thủy sản 0.2 0.2 0.1 0.1 0.006 0.032 ( Nguồn : Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 7 năm đầu thế kỷ XXI) 2.1.2. Các quốc gia và lãnh thổ đầu tư trong nông nghiệp Mặc dù cho đến nay, lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đã thu hút được của trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ, các đối tác châu Á (Đài Loan, Nhật bản, Trung Quốc, Thái Lan…) hiện chiếm trên 60% vốn đăng ký, trong đó dẫn đầu là Đài Loan 26%, tiếp đó là Nhật Bản 18%, Hàn Quốc 13%, và chưa có sự xuất hiện của các quốc gia có nền sản xuất nông nghiệp công nghiệp cao như Nga, Mỹ, các nước EU. Theo khảo sát của Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, số vốn FDI của các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh  (Hoa Kỳ, Canada, Australia) vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Nguồn : Báo cáo FDI trong nông nghiệp 1988-2003 và định hướng tới 2010 2.1.3. Phân bố FDI Nông nghiệp vào các vùng miền Hầu hết các dự án FDI tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi như các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc, trong khi đó ở các tỉnh vùng sâu vùng xa hầu như vắng bóng các nhà đầu tư. Thống kê cho thấy, hiện có tới 70% số dự án FDI tập trung ở các khu vực phía Nam, trong đó Bình Dương hiện là tỉnh thu hút vốn đầu tư lớn nhất (trên 1,1 tỷ USD) đồng thời là nơi có dự án nhiều nhất( trên 260 dự án, tiếp theo là các tỉnh đồng nai, lâm đồng, TPHCM, Tây Ninh., các khu vực như miền núi phía Bắc (4%), đồng bằng sông Hồng (5%), Bắc Trung Bộ(5%), Tây Nguyên (4%), và đồng bằng sông Cửu Long (13%). Nguồn : Báo cáo FDI trong nông nghiệp 1988-2003 và định hướng tới 2010 2.1.4 Tình hình đầu tư theo các tiểu ngành nông nghiệp Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2006). Trong số đó các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD. Vốn đăng ký kinh doanh bình quân của một doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp cũng có sự chênh lệch lớn giữa nông thôn và thành thị, các ngành nghề trong đó DN chăn nuôi và sản xuất, chế biến thức ăn chăn nuôi tăng từ 7.99% năm 2003 đến 9.96% năm 2006, DN trồng trọt, chế biến và kinh doanh nông sản tăng từ 3.25% năm 2003 đến 9.9% năm 2006 và DN trồng rừng, sản xuất và chế biến lâm sản chiếm tỷ trọng ít nhất từ 1.4% năm 2003 đến 3.2% năm 2006. 2.1.5 Các hình thức đầu tư trực tiếp trong nông nghiệp tại Việt Nam Các dự án đầu tư vào nông nghiệp nước ta chủ yếu có 3 hình thức cơ bản là doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong đó, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm số lượng lớn nhất, khoảng 75% trong tổng số dự án FDI đầu tư vào nông nghiệp, tiếp theo là doanh nghiệp liên doanh chiếm 24% và hình thức hợp tác kinh doanh chiếm khoảng 1%. Mặc dù thành lập doanh nghiệp liên doanh với đối tác trong nước sẽ giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm đáng kể chi phí kinh doanh, đặc biệt là trong lần đầu tiên thâm nhập thị trường mới. Nhưng tại Việt Nam phần lớn hoạt động trong ngành nông nghiệp nói chung không thuộc danh mục đầu tư có điều kiện, hơn nữa ngành này có tính rủi ro cao, vì vậy hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được coi là phù hợp với yêu cầu điều hành của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc lựa chọn hình thức đầu tư vào ngành nông nghiệp Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài có sự khác nhau đáng kể. Một số quốc gia như Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore là những quốc gia có số dự án 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn. Trong khi các nhà đầu tư Pháp, Hồng Kông và Malaysia có số dự án liên doanh chiếm tới 87%. Biểu đồ các hình thức đầu tư FDI vào ngành Nông nghiệp Việt Nam Nguồn : Vụ kế họach, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2.2 Đánh giá chung tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp tại Việt Nam 2.2.1 Những thành tựu đạt được 2.2.1.1 FDI góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ song vốn FDI hàng năm đã bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển của ngành nông nghiệp, làm giảm bớt gánh nặng của Nhà nước trong việc đầu tư vào phát triển ngành nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, trong năm 2007, vốn đầu tư cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp là hơn 34.000 tỷ đồng, trong đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp là 286,78 triệu USD. Nguồn vốn này tuy không lớn nhưng đã góp phần giảm thiểu bớt chênh lệch cán cân thu chi của ngân sách nhà nước dành cho nông nghiệp so với các ngành khác. Ngoài ra, các doanh nghiệp FDI hoạt động trong ngành nông nghiệp cũng đã tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mặc dù nguồn thu này còn khá khiêm tốn. Tính đến năm 2001, các doanh nghiệp FDI đã nộp vào ngân sách khoảng 150 triệu USD. Năm 2003, đóng góp của các doanh nghiệp này vào ngân sách nhà nước đạt trên 17 triệu USD. Đến năm 2005, trung bình mỗi năm các doanh nghiệp FDI nông nghiệp đóng góp khoảng 30 triệu USD. Mức đóng góp cho ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp FDI nông nghiệp đã tăng dần. Điều này cho thấy hiệu quả của các doanh nghiệp FDI nông nghiệp ngày càng được cải thiện. Bảng số liệu Thuế và các khoản phải nộp đóng góp vào Ngân sách Nhà nước của DNFDI trong lĩnh vực nông nghiệp ( đơn vị : tỷ đồng) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Nông, lâm nghiệp 10.1 18.3 26.6 29.2 24.4 37.4 28.7 Thủy sản 0.9 0.9 1.5 0.9 0.9 1.8 1.5 2.2.1.2 FDI bước đầu đã góp phần thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông, lâm nghiệp theo hướng hiện đại hóa, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp. Các dự án FDI đã thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông, lâm nghiệp, đa dạng hóa sản phẩm vào cả 3 lĩnh vực: đối tượng (các loại cây trồng, vật nuôi), loại sản phẩm và quy mô sản xuất. Xuất phát từ một nền nông nghiệp lạc hậu với trồng trọt và chăn nuôi nhỏ lẻ là chính, đến nay nguồn vốn FDI được thu hút khá đồng đều vào các lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất thức ăn chăn nuôi, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy đã góp phần đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp. Thông qua các dự án FDI, nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi mới đã xuất hiện ở Việt Nam làm phong phú thêm hệ thống cây con trong nông nghiệp. Một số dự án FDI đã mạnh dạn đầu tư vào nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ sinh học, công nghệ gen tạo ra các giống cây mới có tính thích nghi tốt và phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của nước ta. Những dự án này không những góp phần làm chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng gia tăng giá trị đầu tư công nghệ trong sản phẩm mà còn tạo điều liên thuận lợi để ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hoá. Hơn nữa các dự án FDI không chỉ làm gia tăng năng lực chế biến của nước ta mà còn tác động đến cơ cấu loại sản phẩm trong nông nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến, giảm tỷ trọng các loại sản phẩm thô. (Số liệu cụ thể qua các năm và các địa bàn đầu tư) Quy mô sản xuất trong nông nghiệp cũng được cải thiện đáng kể với nhiều khu chuyên canh với quy mô lớn, các nhà máy chế biến nông sản, sản xuất thức ăn gia súc lớn, có trang bị công nghệ hiện đại của các nhà đầu tư nước ngoài. Thông qua việc tiếp xúc với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều nông dân, đặc biệt là cư dân ở những vùng nguyên liệu, đã dần thay đổi được tập quá canh tác của mình. Tập quán canh tác nhỏ lẻ lạc hậu đã dần được thay thế bằng cách sản xuất tập trung, áp dụng khoa học công nghệ, do đó cũng đã phần nào làm biến đổi quy mô sản xuất trong nông nghiệp. 2.2.1.3 FDI góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo việc làm cho ngành Thu hút FDI nhằm tạo thêm việc làm cho xã hội là một trong những mục tiêu của chính sách thu hút FDI của các quốc gia. Tại Việt Nam, một cách trực tiếp và gián tiếp, các doanh nghiệp FDI đã tạo ra nhiều việc làm cho lao động các địa phương. Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, tính đến 01/07/2008 lao động làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tổng cộng 1831,4 nghìn lao động, trong đó ngành nông nghiệp chiếm khoảng 8,2% số lao động. Ngoài ra, sự gắn kết giữa các doanh nghiệp FDI với các vùng nguyên liệu đã tao ra nhiều việc làm gián tiếp cho nông dân ở đây. Người lao động sẽ có cơ hội nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Có thể nói FDI đã góp phần cải thiện đời sống kinh tế – xã hội của nhiều vùng nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ra, các dự án FDI trong nông nghiệp cũng đóng vai trò tích cực trong việc đào tạo đội ngũ lao động cho ngành nông nghiệp nước ta, không chỉ dừng lại ở đội ngũ công nhân làm việc trong các nhà máy mà đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật cũng thường xuyên có cơ hội nâng cao năng lực và trình độ tay nghề, tiếp cận được với những công nghệ hiện đại. 2.2.2 Những hạn chế trong việc thu hút FDI vào nông nghiệp Việt Nam trong thời gian vừa qua. 2.2.2.1 Hiệu quả họat động của các dự án trong ngành nông nghiệp chưa cao. Thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn từ cuối năm 2008 đến nay cho thấy, số lượng dự án và số vốn đăng ký vào lĩnh vực này tăng không đáng kể. Nếu như cuối năm 2008, lĩnh vực nông nghiệp có 954 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 4,6 tỷ USD ( chiếm 10% số dự án và gần 3% số vốn FDI của cả nước), thì chỉ đến hết tháng 8/2009, số dự án chỉ đạt 967, tổng số vốn đăng ký là 5,4 tỷ USD. Khả năng thu hút đã kém, nhưng khả năng giải ngân của các dự án sử dụng nguồn vốn quan trọng này còn đáng quan ngại hơn. Tính đến hết tháng 8/2009, các dự án mới giải ngân được hơn trên 2,2 tỷ USD( bằng 5,37% tổng vốn đăng ký FDI của cả nước). Như vậy là khả năng thu hút FDI của năm 2009 tốt hơn 2008 nhiều chứ vì mới có 8 tháng năm 2009 đã bằng cả năm 2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26829.doc
Tài liệu liên quan